Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013

cửu kinh minh triết 30


PHÁP BẢO MỆNH AN SINH

Thường thì con người sống trên cõi đời này không thể biết trước được là mình sống được bao nhiêu tuổi thì chết. Vì luật vô thường mà con người không làm chủ được thân mệnh của mình. Thì bài học hôm nay là nói về nguyên tắc bảo mệnh và hệ thống pháp bảo mệnh trong một quy trình thuận. Vậy pháp bảo mệnh thuộc về lĩnh vực nào? Và giá trị ấy thuộc về ai? chúng ta sẽ làm rõ chỗ này.
Về mặt lập thể thì chúng ta thấy không có gì là vững chắc cả, như về thân mệnh con người thì cái chết luôn luôn rình rập và khủng bố bởi những căn bệnh nan y và những tai biến, tai nạn bất ngờ có thể dẫn đến cái chết. Vậy bài học này sẽ giúp chúng ta tìm ra cho mình một cuộc sống ổn định tương đối về vấn đề an sinh.
Pháp bảo mệnh an sinh, thì trong chữ bảo ở đây là có chữ hộ, có chữ vệ và có chữ trì. Trong chữ bảo nó cũng có tính chất là quý như ngọc. Còn an sinh là an sinh con người, an sinh gia đình, quốc gia và xã hội.
Ngài hỏi ông Chơn Phát Đạo Quang thế nào là pháp bảo mệnh an sinh?
Ông Chơn Phát Đạo Quang, thưa cha: duy ngã đại thể là có hạt tâm lý tính tính ánh sáng thì phải biết hệ thống lập thể là vô thường, thì phải luôn luôn dùng hệ thống pháp trí đúng với định luật, quy luật và công luật. Tức là sống phải có mục đích hướng thượng đưa hệ thống pháp trí vào đời sống lập thể hàng ngày trong ăn, uống, ngủ, nghỉ, đi, đứng…để ổn định được tâm pháp.
Ngài bảo ông Chơn Quốc Chính Thống nói rõ thêm
Ông Chơn Quốc Chính Thống: thưa cha, tất cả con người ai cũng có chính mệnh và thân mệnh. Vậy chính mệnh là thuộc về hạt tâm lý tính, bảo mệnh cũng là bảo ngọc thì tính ngọc là gốc của tất cả mọi sự lập hình. Nên nếu ai mà trở về được tính ngọc tròn đủ ấy thì tất nhiên sinh mệnh của họ sẽ được bảo toàn tuyệt đối, mặc dù hình lập có nằm trong định luật của thành trụ hoại không. Tuy nhiên nó vẫn có định luật chứ không phải là bất đắc kỳ tử. Vì do không nắm được nguyên tắc này nên thân mệnh con người trở thành bất đắc kỳ tử, thì đó là nỗi thống khổ của nhân loại.
Như vậy nếu trở về tính tròn đủ thì tất nhiên phần hình lập và thân mệnh chúng ta sẽ bảo vệ trên nguyên tắc của tính bình đẳng tuyệt đối đó và chúng ta sẽ trở về với hạt tâm lý tính tròn đủ ấy. Thì chúng ta sử dụng cuộc sống và bảo vệ thân mạng một cách tốt đẹp vững chắc, mặc dù nó nằm trong định luật sinh lão bệnh tử nhưng sinh lão bệnh tử để hóa.
Như vậy chúng ta đi 2 phần, nếu mà chưa trở về tính thì phải bảo vệ bằng hình lập từ bên ngoài đi vào là ứng dụng tất cả các nguyên tắc cân bằng. Cân bằng ở đây là phải lấy trí tuệ để nuôi dưỡng thân này trên nguyên tắc không thái quá, không bất cập, đó là đi từ vòng ngoài vào vòng trong. Nếu chúng ta thực nhập được giá trị vòng trong của hạt tâm lý tính thì tất nhiên việc bảo mệnh lại rất vững chắc không bị sai lệch. Vì thế nên Cha mới dạy rằng: “Hóa tâm tâm pháp linh quang, hóa vật vật dựng kim lầu trang nghiêm”.
Ngài dạy, về biện chứng pháp của mệnh là thân lập hệ thống của nhân bản duy ngã đại thể. Nhưng xác định về biện chứng pháp của thân mệnh là luôn luôn có chủ thể của giá trị hóa và hình thành hệ thống lập thể. Đối với mệnh là hoàn toàn mang tính hệ thống dung thông, thì có mệnh là nguyên lý của hạt tâm lý tính tính ánh sáng là chủ mệnh hóa, thì thân mệnh chúng ta không tách rời chủ mệnh hóa mà có hóa và sự thành lập chủ mệnh hóa để các hóa mệnh ở trong con đường sống.
Những nguyên tắc của các pháp bảo mệnh là gì? Có nghĩa là đi trong hệ thống pháp chính thống và lấy luật ra để bảo hộ. Như về tính khách quan của luật cân bằng là tập hợp tính ánh sáng siêu đức hóa để bảo mệnh. Vì một khi con người không có ánh sáng của tâm đức thì không thể che chắn được mình, mà phải núp trong ánh sáng tâm đức đó để bảo hộ cho giá trị sinh mệnh của mình. Nên Đức là sự dẫn độ và kết tinh cho sự an bình và kiết tường; mà đức là không tách rời trí huệ, cả 2 là một cặp sức mạnh bảo hộ của chính mệnh và pháp mệnh an sinh. Nên Đức Phật nói “kẻ nào phá giới là kẻ ấy không tự bảo hộ mệnh mình” vì phá giới là tự đầu độc tất cả những nạn giữ bất kiết tường trong hệ thống của tâm đức.
Như vậy nguyên tắc của pháp bảo mệnh là lấy tất cả những ánh sáng về tâm đức, kiềm tỏa về giới luật và sống trong hệ thống pháp trí để có một sự sống tất yếu trên quy trình chuyển động mà không bị gãy nhịp của chu trình hóa kiếp. Có nghĩa là tránh được những cái chết của bất đắc kỳ tử.
Vậy siêu đức hóa là tính bảo mệnh cao nhất, đồng thời vận dụng trí huệ vào đời sống của các mục đích hoạt động và tránh tất cả những hiểm họa về các pháp bất tương ưng đó là một trong những giá trị bảo mệnh cao nhất.
Trong hệ thống bảo mệnh là y cứ trên tâm đức hóa tất cả những bệnh nạn, y cứ trên chân tâm hóa tất cả những nạn  dữ và y cứ trên ánh sáng hạt tâm lý tính để hóa giải tất cả các pháp bất tương ưng. Vì khi ta có trí huệ thì ta vận dụng các pháp ngoại biên đi theo quỹ đạo thuận và quỹ đạo tụ, đồng thời biết cách chữa trị bệnh trong hệ thống lập thể của mệnh. Như phát hiện bệnh của mình sớm hơn đó cũng là hệ thống pháp trí để xác định giá trị bảo mệnh về vấn đề y học, bảo mệnh về vấn đề lương thực, thực phẩm. Luôn cân nhắc trong vấn đề ăn uống không thái quá, không bất cập, đó là một trong những sự điều chế về các pháp bảo mệnh đối với vật lý.
Vậy lấy trí huệ điều chế vật lý và điều chế tất cả những phương tiện, công cụ, y cụ, ngọa dược và tất cả những phương tiện cần thiết đối với điều kiện hoạt động có mục đích. Ví dụ người ta muốn đi đâu đó thì họ phải biết đi như thế nào được an toàn ở mức độ trung đạo để tránh được những hiểm họa trong hệ thống lập thể của bảo mệnh. Như vậy bảo mệnh thuộc trong hệ thống pháp trí là thực hiện các pháp chính thống trong hệ thống hóa. Thực hiện trục hệ thống Thống hóa để bảo mệnh trục, khi bảo mệnh trục được thì các mệnh lập thể nhân trục mà được tồn tại và ổn định, là do pháp trục mà ra.
Người có hệ thống pháp bảo mệnh cao thì có thể gọi là đại mệnh. Vì người ấy sống lâu và có đủ mọi âm phúc trong cuộc sống đó. Vì họ đã có một sự an toàn nhất định về giá trị vật lý và hệ thống lập thể của họ rất giàu về kháng sinh và có đầy đủ những năng lực đặc biệt để họ có thể sống lâu. Về giá trị bẩm sinh của hiện kiếp hoặc hiền kiếp thì vẫn kết tinh giá trị sống của họ đối với trục về hệ thống bảo mệnh trong quỹ số đó.
Như vậy người sống trong những nguyên tắc hệ thống về các pháp bảo mệnh họ sẽ được sống tốt, sống khỏe, sống lâu hơn.
Đối với những người bỏ xa những nguyên tắc của các pháp bảo mệnh, thì những người này thường bị gãy nhịp trong đời sống của mọi hóa kiếp. Tức là họ bị biến cố quá nhiều về phần tính cũng như phần thể. Họ sẽ bị tuột ra khỏi quỹ đạo và sẽ rơi vào chỗ sinh diệt bất đắc kỳ tử và không tồn tại cho sự nghiệp hóa.
Vậy người ta căn cứ trên tâm đức và trí huệ để dựng lên một bức ánh sáng song tụ và sức mạnh của các pháp bảo hộ trong hệ thống chính thống. Và người ta an tu trong các giới thiền để thực hiện những công trình bảo an cho giá trị chính mệnh trong các pháp cân bằng ấy. Đó là pháp công bằng về mặt tính được ổn định. Pháp công bằng về mặt lập thể được ổn định. Thì giá trị trung đạo của sự công bằng sẽ bảo hộ chính mệnh và an sinh một cách tốt nhất.
Chúng ta có thể khẳng quyết rằng: Các pháp bảo mệnh an sinh là thuộc về siêu đức hóa và thuộc về trí huệ uyên bác là giá trị cân nhắc trong vạn pháp không để các pháp thái quá và bất cập, để ổn định cuộc sống về hệ thống tâm lý và vật lý.
Chúng ta sẽ thoát ra khỏi những sự nô lệ và nô dịch của thần linh, bảo hộ bằng những thứ bùa ngãi phù phép một cách vô lý và thoát ra những điều hư dối thuộc tà đạo, ngoại đạo, ngoại biên. Chúng ta phải thấy rằng, các pháp ngoại biên không thể bảo hộ cho hạt tâm lý tính, mà trục lõi ánh sáng của siêu đức trung tâm bảo hộ hạt tâm lý tính.
Chúng ta đã thông suốt được nguyên tắc của các pháp bảo mệnh để chúng ta thực hiện những công trình bảo mệnh cho chúng ta. Để làm sao sự bảo hộ về mặt lập thể và thông suốt trong quá trình hóa kiếp của hệ thống lập thể đến sự thông kiếp của chính mệnh, trí huệ mệnh và pháp mệnh mà chúng ta không bị biến đổi trong không gian và thời gian, thì chúng ta sẽ có được một sự bảo hộ cao nhất trong nhân sinh quan và vũ trụ quan.



TRIẾT GIẢNG MƯỜI HIỆU CỦA NHƯ LAI

Mười hiệu Như Lai gồm có: Ứng cúng, chánh biến, tri minh, hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, điều ngự, trượng phu, thiên nhân sư, Phật Thế Tôn

1. Ứng cúng:
Sâu sắc chữ ứng cúng là không thể nào bắt nhân loại cúng cho bất cứ ai cả, mà khi chúng ta chưa cúng cho tất cả nhân loại. Chữ ứng cúng ở đây thuộc về lõi của ba la mật, tức là đức Như Lai đã trãi qua hằng hà sa số kiếp, đem tất cả những giá trị tổng tinh hoa, kể cả kho tàng pháp tạng, kể cả vật thể và thân mạng. Trên là cúng dường cho 10 phương Như Lai, còn dưới là dâng hiến cuộc đời mình cho 10 phương đại thể pháp giới một cách trọn vẹn mà không biến đổi ý thức, tâm niệm về sự cúng dường đó, thì Ngài mới thành tựu ứng cúng.
Ví dụ: Ngài thấy mẹ con con cọp nó sắp chết vì tìm món ăn không có, Ngài dám đem thân mạng mình cho cọp ăn mà không khởi niệm tiếc thân mạng đó. Chữ ứng cúng ở đây hoàn toàn nó liên quan tới ba la mật một cách tuyệt đối. Thứ nhất: trên là cúng dường 10 phương Như Lai không tính đếm số kiếp, cúng không hề có một ý niệm thối lui, tức là không có nhị tâm. Thứ hai: khi hóa thân trong đời sống những thứ gì có lợi cho nhân sinh là Ngài cho hết. Tức là thượng cúng dường 10 phương Như Lai, hạ cúng dường cho pháp giới chúng sinh. Khi Ngài đã thành tựu quả vị Phật rồi thì chính giá trị của sự ứng cúng đó kết tinh thành sức mạnh, tức là quả báo của pháp thân vô thượng đó linh cảm cả toàn thể vũ trụ tam thiên đại thiên thế giới, cho nên ai gặp Như Lai cũng đều phát tâm ứng cúng. Thì đây cũng thuộc về nhân quả tối thượng.
Tóm lại, Ngài đạt được hiệu ứng cúng đó là vì Ngài đã từng theo chư Phật cúng dường cả thân mạng, cả kho tàng và tất cả những gì Ngài có đều dâng lên cúng dường cho 10 phương chư Phật cùng pháp giới chúng sinh, mà không thể tính đếm số kiếp và cuối cùng đã kết tinh được quả vị Như Lai. Vậy ứng cúng ở đây phát nguyên từ cái lõi của sự hy sinh, hiến dâng và gánh hết mọi sự đau khổ trong vô lượng kiếp đã qua. Đến khi thành tựu Như Lai thì Ngài đã có đủ mọi quyền năng để thực hiện công trình đại hóa và được toàn nhân loại tôn vinh và phát tâm ứng cúng.
2. Chánh biến:
Vì thế gian nhiều biến đổi, vì thế gian hay đi lệch theo tà đạo, ngoại đạo, nên Như Lai đến thế gian là đem chính pháp mà biến đổi mọi sự sai lệch đau khổ của nhân loại và đưa nhân loại đi theo con đường chính pháp. Tức Ngài là đấng chuyên môn sửa đời, chuyên môn sửa người; nơi nào có lệch là Ngài sửa mà hoàn toàn không có vụ lợi. Là Ngài đem chính pháp chuyên chữa trị về xã hội, đem chính pháp chế biến các phương pháp, các loại thuốc để trị liệu các loại bệnh của chúng sinh và pháp giới.
3. Tri minh:
Vì chúng sinh bị vô minh làm che khuất nên đức Phật Ngài đem ánh sáng kinh điển đến để soi rọi tất cả mọi nơi, mọi chỗ tối tăm, tùy theo duyên mà Ngài tri minh, chỗ nào tối Ngài đem ánh sáng tới soi chiếu, người nào tối Ngài đem ánh sáng tới soi chiếu, kể cả người chịu nhiều định nghiệp Ngài cũng đem ánh sáng tới soi chiếu.
4. Hạnh túc:
Là tất cả những công hạnh từ hạ tầng đến tối thượng tầng, hoặc những công hạnh từ cực vi đến cực đại thì đối với Như Lai không thiếu. Tức là mọi sự cấu trúc của hệ thống vật chất dù nhỏ cở nào thì quy trình chuyển động của Như Lai hình thành sự nghiệp hóa vẫn có đủ những giá trị cân bằng về giá trị đó, mà Như Lai không bao giờ bỏ hàng lớp thấp nhỏ để đi lo những việc lớn. Hạnh túc có nghĩa là đối với tất cả chúng sinh thì Ngài luôn luôn đưa hạnh bình đẳng ra để tế độ và không bao giờ phân biệt.
5. Thiện thệ:
Khi Như Lai lập hạnh Bồ Tát thì Ngài nguyện rằng độ tận chúng sinh và ngày nào hết chúng sinh thì Ngài mới thành Phật, nhưng khi mà Ngài đã thành Phật rồi thì Ngài cũng không bỏ đi những hạnh nguyện độ tận chúng sinh đó.
6. Thế gian giải:
Vì thế gian luôn luôn hiểu sai lầm về vũ trụ, và hiểu sai lầm về giá trị sống, sai lầm về chết là mất. Tất cả những sự hiểu sai lầm đó thì Như Lai có trách nhiệm giải thông hết, nên gọi là thế gian giải. Về bản nguyện, là Ngài nguyện sẽ giải thông mọi sự sai lầm và nghĩa lý của Chư Phật không bao giờ vơi đi để giải quyết sai lầm đó.
7. Điều ngự:
Lấy từ bản chất thường trụ của chánh đẳng giác, trung tâm bất biến để mà điều ngự. Là điều ngự sức mạnh quyền năng của Thống hóa, điều ngự trung tâm, điều ngự vạn pháp, điều ngự tâm pháp của chúng sinh, điều ngự về thế gian giải, điều ngự về các cấp độ khác biệt mà không thể thay đổi sự điều ngự ấy. Điều ngự là giá trị không thay đổi về tính thường trụ. Điều ngự là dung trãi chứa nhóm cả một nội lực để đem sức mạnh ấy vào đời sống hiện thể và siêu thể. Khi chúng sinh cần thì Ngài dùng ánh sáng quyền năng để điều ngự nó. Tức điều ngự tự tại và vô ngại.
8. Trượng phu: 
Trong thế gian người quân tử, trượng phu là người chịu người thiệt thòi về mình và được thế gian tôn quý, thì Như Lai là vua của tính trượng phu. Trượng phu là gắn kết mọi công năng về lợi ích của chúng sinh, trượng phu là nói cũng như làm không bao giờ thay đổi. Thì Như Lai là vua của các loại trượng phu đó.
9. Thiên nhân sư:
Sư là thầy, mà thầy thì có nhiều loại thầy như: thầy giáo, thầy thuốc, thầy dạy nghề và hàng trăm loại thầy rất đa dạng nhưng đặc biệt là thầy của trời người, thầy của vũ trụ, tức Như Lai là thầy của mọi ông thầy.
10. Phật Thế Tôn:
Là khi mọi giá trị đã có thực như vậy, thì sự nhìn nhận khách quan của thiên nhân, của hoàn vũ tôn kính Ngài là Phật Thế Tôn. Như vậy Phật Thế Tôn là thập phương tôn, thế gian tôn, vũ trụ tôn chứ không phải Ngài tự tôn.



Ngày 27/4 Kỷ Sửu

NGŨ MINH

Con người có ngũ căn và hiển thị của ngũ căn là ngũ minh. Sự tác động của ngũ căn đối với ngũ minh liên quan đến tính và thể, tâm và vật và nhờ bản chất đó để nuôi cửu kinh. Sở dĩ đưa 55 điều trợ luật vào đời sống mục đích để làm nền tảng giá trị bản chất. Nếu chúng ta không vận hành ứng dụng 55 điều luật vào đời sống thì chúng ta không bao giờ nuôi được cửu kinh. Thiên chức của cửu kinh là để nuôi pháp thân, nên Chư Phật đưa ra tinh thần bản chất ngũ minh và bản chất ngũ minh sẽ lột hết tính thực của thánh hiền. Đời sống của duy ngã đại thể cũng là nền tảng của đời sống thánh hiền. Vậy thánh hiền không tách rời đời sống duy ngã đại thể, và duy ngã đại thể cũng không tách rời ngũ minh của thánh hiền. Vậy muốn thực hiện được ngũ minh thì chúng ta phải ứng dụng đầy đủ bản chất 55 điều trợ luật để hoàn chỉnh giá trị ngũ minh.
Vốn dĩ con người có ngũ căn để soi chiếu phù trợ cho giá trị tâm pháp, pháp thân nên Như Lai thuyết ngũ minh. Ở đây ta nên lưu ý khi nói về ngũ minh là nói về bản chất của ngũ minh. Nếu ngược lại là bản chất của chúng sinh, là bản chất của tỷ lệ quặng cấu, ô trọc còn nhiều trong đời sống; vì bản chất ngũ minh là biện chứng của thánh hiền.
Như vậy, đối với hội đồng Công Luật; thuộc đàn con nam nữ đẳng quyền, Chơn – Diệu bất phân trong thất thập nhị hiền của Chuyển Luân Pháp Bảo, của sự nghiệp quyền thừa và thế vì, thì ngũ minh là tối cần thiết.
Ngũ minh gồm có:
1. Trí đức: Trí: là trí huệ; Đức: là nền móng giữ lập và nuôi dưỡng. Vậy trí huệ càng cao thì nền móng của đức phải càng vững chắc để phát huy trí huệ ấy. Trí huệ cao thì tâm đức phải lớn; vì trí huệ cao mà ly khai khỏi tâm đức thì trí huệ ấy sẽ biến thiên, nên trí và đức là một cặp không thể tách rời nhau.
2. Chân hành: trong đời sống hằng ngày dù hành động có lớn, vĩ đại đến đâu mà tách rời chân thật thì hành động ấy sẽ tiêu mất và không còn quỹ đạo tiến hóa. Trong thực tế con người luôn luôn thực hiện một trong hai hành vi: hành vi thứ nhất là tà hành, ngoại hành, thiếu sức mạnh quỹ đạo thuận. Hành vi thứ hai là chân hành, chân ở đây là chân nguyên, chân viên, chân chánh, là nền tảng thực tướng, là hành động giá trị kết tinh tinh hoa.
3. Đại nghĩa: đây là tinh thần, hành vi của sự nghiệp cứu thế, luôn luôn được ứng dụng trong đời sống của xã hội để xã hội ấy được ổn định và phát triển. Đó là cuộc sống cộng đồng hợp tụ hỗ tương. Nếu con người sống không có đại nghĩa, tức là sống riêng cho cá nhân chính mình, thì cuộc sống ấy rất là nhỏ nhoi, hẹp lượng, chẳng có nghĩa lý gì trong đời sống cộng đồng xã hội. Vậy đại nghĩa có nghĩa là sống vì đại cuộc, vì sự bình an cho mọi người.
4. Công năng: Về tính khách quan, thì trời sinh ra con người vốn dĩ không có con người nào mà không có năng lực, nhưng mức độ năng lực là tùy theo sự phát triển và tiến hóa nhất định của nó.
Về tính chất và giá trị năng lực của nhân bản, khi đi rộng vào trong đại thể và đem năng lực đó phụng sự cho đại thể; nếu làm được như vậy thì mới bắt đầu phát sinh ra công năng. Công năng có nghĩa là năng lực của mỗi con người và con người đem năng lực ấy phụng sự cho đại thể.
Như kinh Vinh Danh là vinh danh cho những con người có công năng vì đại thể, vì thế giới và nhân loại như một sự cứu tinh, ở mức độ tùy thuộc vào năng lực của người ấy.
Như vậy muốn có được công năng là phải có quá trình nung kết của tính công phu nhất định trong con người ấy. Từ đó mới chuyển tải và hình thành kết tinh tạo thành sức mạnh để có công năng.
Ví dụ như công năng của nhà bác học, bác tinh vương thì làm ra được rất nhiều lợi ích cho nhân loại hưởng nhờ. Thì công năng này là hình thành những năng lực đặc biệt có tính chất và giá trị sâu sắc rộng lớn, để đem năng lực đó phụng sự cho nhân loại ở bất cứ một góc độ nào, một thời kỳ nào. Như Đức Thích Ca là thuộc về tối thượng công năng. Như vậy, những người hy sinh vì nhân loại thì đó mới gọi là chính mệnh công năng.
Chúng ta phải thấy công phu là để rèn đúc cho năng lực bản thân. Còn công năng thì đã trở thành sản phẩm có ích lợi chung cho đại thể duy ngã.
Công năng cũng có thể chia ra nhiều hạng. Công năng bậc nhất là người ấy biết chia phân năng lực của mình cho gia đình và xã hội.
Như vậy, bản chất công năng là không phân biệt tôn giáo, đảng phái; không phân biệt màu da sắc tộc, mà đem năng lực ấy vào trong đại thể và làm cho đại thể được hạnh phúc.
Công năng: Nghĩa là cái chung hữu giá trị sự sống đối với loài người; giữa ta và loài người, giữa loài người và ta. Vì ta không thể tách loài người ra để ta có công năng được. Như đức Phật Thích Ca hay đức Ki Tô cùng những nhà hiền triết vĩ đại nhất cũng phải hóa thân trong đại thể pháp giới chúng sinh để có công năng .
5. Vạn hạnh: Đối với vạn hạnh thì nghĩa lý rất rộng lớn. Trong vạn hạnh có hiếu hạnh, trung tín hạnh, từ hạnh, thiện hạnh, tế hạnh, nhân hạnh, đức hạnh, công hạnh…
Người có vạn hạnh là người làm tất cả mọi việc lành trong đời sống của chính họ đối với xã hội. Hạnh ấy là sự ban cho, như mưa thấm, rưới trải nhuần nhiệm và làm sống dậy trong những giá trị của các pháp tế. Nơi nào có xã hội, có con người, có sự sống là nơi đó có pháp tế. Vì vậy hạnh là mối chốt của pháp tế; thì công hạnh là những giá trị hạnh lành nhất mà đối với các thánh hiền đã chắt lọc và đem những hạnh cao nhất đó phụng sự cho nhân loại.
Hạnh nguyện đó là hiến dâng, hy sinh; là sẳn sàng nhường cơm xẻ áo cho những người đói khát. Dụ như chỉ có một chén cơm, hoặc một liều thuốc thôi; nhưng khi thấy người khác sắp chết vì đói, vì bệnh thì sẳn sàng nhường cơm, nhường thuốc cho người đó. Chữ hạnh đây là trùm lên tất cả những giá trị hạnh nguyện của Bồ Tát. Và Bồ Tát đại giác tha là hạnh nguyện cao nhất đối với công hạnh của mười phương Như Lai.
Vạn hạnh là quỹ tích tổng hàm số hành hạnh. Có nghĩa hạnh là sự chuyển thể của hành, mà Như Lai đưa lên vị trí giá trị bao gồm mọi giá trị công phu công năng, là kết quả của mọi chân hành tinh hoa. Vậy thực nghĩa của vạn hạnh là hạnh của thánh hiền Bồ Tát, đại Bồ Tát, cũng có thể nói là hạnh của Như Lai, Phật Thế Tôn, Vô Thượng Sĩ. Vạn hạnh là tổng hàm của tất cả mọi tầng lớp thực hiện tùy theo mức độ phát triển của hạnh. Ví dụ người có được vài hạnh, vài chục hạnh, vài trăm hạnh, duy Bồ Tát thì làm tất cả hạnh. Ví dụ đối với chúng sinh thì làm được hạnh bố thí nhưng chưa đạt được hạnh nhẫn nhục. Hoặc từ việc làm xấu chuyển sang việc làm tốt thì ta đạt được hạnh tốt. Như vậy, vạn hạnh là trùm lên tất cả hạnh. Cho nên trong đời sống chúng ta nên lưu ý đến hành hạnh của chính mình. Một trong những hạnh đơn giản cơ bản trong hệ thống quan hệ, giao lưu cộng đồng xã hội là cha mẹ, ông bà, tổ tông, thầy trò… thì phải có lễ độ, thưa trình, phải  có nề nếp định độ; mà trong văn học dân gian đã truyền tụng: “đi thưa về trình” là đạo lý cơ bản muôn đời. Ngược lại, ta phá bỏ nghi thức ấy, đi không thưa về không trình, thì tất nhiên ta đã vi phạm những hạnh tối thiểu đó, thì làm sao có được vạn hạnh.
Đối với học trò Công Luật nhiều khi chỉ vận dụng trí để hiểu biết kinh điển, mà lại không thực hiện được những hạnh lành thì chính mình đã tự lừa dối mình, cuối cùng chính mình chẳng có cửu kinh, vì đó chẳng qua là lý thuyết suông mà thôi, chứ không có một chút tố chất kinh điển trong thực tiễn đời sống của mình. Sự hư dối đó luôn luôn len lõi và tồn tại trong hệ thống Mạch Rồng. Sự phân chia từng cụm, phe phái riêng biệt đã làm xói mòn giá trị kinh điển. Những ai sống bằng những hạnh ấy là hoàn toàn chưa có ngũ minh. Trí đức thì cạn cợt, chân hành lại nhỏ bé, đại nghĩa là số 0, công năng thì lỏng lẻo và vạn hạnh thì chẳng được bao nhiêu. Cho nên đây là vấn đề vẫn còn nhiều sai phạm nghiêm trọng trong sự nghiệp công án Bia Sơn.
Nói đến ngũ minh là nói đến biện chứng của mỗi nhân bản, hay nói đúng hơn là giá trị của chính ta chứ không liên quan đến người khác. Vậy bản chất này được gọi là bản chất ngũ minh của chính ta. Vạn hạnh, công năng, đại nghĩa, chân hành và trí đức là tính chất minh, là bản chất của thánh hiền. Vậy chính chúng ta đang hướng về bản chất của thánh hiền và hóa thân từ bản chất ô tạp nhất, được tinh lọc để trở về bản chất tinh rồng kim tính. Đối với người trên con đường thực hiện Công Luật thì đây là một trong những yếu tố quan trọng không thể thiếu. Vì thiếu yếu tố này thì ta không thể nào giữ nhập được minh triết. Ngũ minh là chất tố để nuôi cửu kinh minh triết và nuôi pháp thân, là chất tố không thể thiếu trong đời sống nhân bản hướng thượng. Nếu con người không có trí đức, chân hành thì dẫu có am hiểu cửu kinh minh triết cũng không làm được việc gì. Hoặc giả có cửu kinh minh triết mà không có công năng, hoặc hạnh lành thì cũng chẳng làm được việc gì. Về đại nghĩa cũng như thế, một nghĩa nhỏ dụ như nghĩa của huynh đệ chi tình cũng không thực hiện được thì liệu ta có thực hiện được cửu kinh minh triết không? Chắc chắn là không.
Tóm lại, nếu một con người thực sự có trí đức, chân hành, đại nghĩa, công năng và vạn hạnh thì có khác. Cụ thể nếu nói vạn hạnh thì quá to lớn, nhưng chẳng lẽ ta lại không thực hiện được mười hạnh hay sao? Cụ thể như hạnh tiết kiệm, hạnh bòn xén công đức, hạnh lễ tế, hạnh hầu thầy, hạnh kính tổ, hạnh yêu Cha, hạnh khiêm tốn, hạnh từ tế, hạnh thưa trình vv…Nếu đem hết những hạnh viết lên giấy thì viết cho đến Núi Bia cũng không hết hạnh trong đời sống thường ngày. Từ Vạn hạnh đã để lại vết son hồng trong lịch sử, chẳng hạn như đại học Vạn hạnh. Nhà sư Lý Vạn Hạnh đã giúp nhà Lý chấn hưng mà trong sử vàng đất Việt còn chói lọi đến ngày hôm nay, nhưng ít ai lưu ý luận bàn.
Vậy hôm nay chính ta phải xác định lại giá trị Ngũ minh trong ta cho thật cụ thể. Trí đức đến mức độ nào, chân hành ra làm sao, đại nghĩa được cái gì, công năng phụng sự cho ai và cuối cùng ta phải xác định quỹ tích vạn hạnh được bao nhiêu. Chính vạn hạnh là cầu nối kết quả của mọi giá trị trí đức, chân hành, đại nghĩa và công năng. Hạnh của trung can, hiếu để, nghĩa khí, ân tình vv…Để cuối cùng đạt được vạn hạnh mỹ mãn, đó là quả hạnh viên mãn của Bồ Tát và Như Lai; của đại nhân và thánh hiền. Đó chính là ngũ minh. Vậy ngũ minh hỗ trợ cho ngũ căn, ngũ lực. Là chất tố giúp cho 5 căn, 5 lực sáng tỏ, cuối cùng đạt được ứng tác sở trí vô biên và thành lập vạn hạnh vô biên trong vũ trụ quan và nhân sinh quan. Vậy ngũ minh rất cần thiết thích đáng trong đời sống, là khế kinh kỳ thủ để bổ trợ cho sự viên mãn của cửu kinh minh triết
Lời phát biểu của ông Chơn Thăng Ấn Chuyển:
Thưa Cha, ngũ minh có thể ví như các loại dinh dưỡng cho đời sống hằng ngày. Trong đời sống nhân bản duy ngã luôn luôn có 2 phần: vật chất và trí tuệ. Ngũ minh là gốc của trí tuệ, là quá trình tiến hóa từ sơ cấp đến đại cấp, từ hạ đến thượng. Nếu mất ngũ minh đồng nghĩa với mất đường hướng phát triển, là giá trị đặc thù mà vũ trụ đã ban cho chúng ta. Vậy ngũ minh là sự hành dụng hằng ngày để hỗ trợ bổ sung tâm đức, chân đức, là tất cả giá trị tinh hoa cao cấp nhất để nuôi dưỡng trí tuệ và thành tựu quả vị. Như vậy giá trị của ngũ minh như Cha đã nói là bản chất của thánh hiền, vĩ nhân, Bồ Tát, Như Lai, đó là hoàn toàn sự thật; hay còn gọi là chân tướng quả vị thành tựu của chúng ta. Nếu mất ngũ minh cũng đồng nghĩa với mất tất cả, kể cả sự sống và sự nghiệp của Công Luật vũ trụ.
Ngài dạy: Như vậy trong ngũ minh đã phân tích thể hiện rất rõ ràng từng mỗi minh trong đời sống. Riêng vạn hạnh là hàm minh trùm lên tất cả 4 minh kia. Nên minh “vạn hạnh” là quỹ tích tổng thể của giá trị hóa trong đời sống Bồ Tát, Thánh hiền, hoặc trong đời sống của những người thăng hoa trên đường tu học, thì vạn hạnh không thể thiếu trong đời sống đó. Ví dụ một hạnh nhỏ như quét sạch một ngôi nhà, ngôi chùa, a lam nhã….thì đó cũng gọi là công hạnh mà Như Lai gọi là tế tế hạnh. Có nghĩa là từ vi tế hạnh đi đến tế tế hạnh, đại tế hạnh. Tức là nhân đôi, nhân đôi các hạnh lên để trở thành sức mạnh ly tâm cuối cùng đạt được pháp thân Như Lai, đó là hàm vạn hạnh thứ 5 trọn đủ.
Minh hạnh túc là vạn hạnh, là hạnh quan trọng trong đời sống của hành giả hóa thân thực hiện công trình đại hóa. Vậy chúng ta rất lo sợ đời sống vô minh trong minh hạnh túc. Vì vô minh trong minh hạnh túc thì không bao giờ phát minh được ánh sáng của cửu kinh minh triết Như Lai; đồng nghĩa với sự tối tăm trong việc ứng dụng cửu kinh minh triết. Có thể có trí tuệ để nghe minh triết nhưng không có minh hạnh túc thì cửu kinh sẽ trả về lại cho Như Lai. Và cũng không giữ lại được một thứ gì hết vì không có minh hạnh túc.
Đối với người Công Luật thì một hạnh nhỏ như đi thưa về trình cũng không thể thiếu được, vì đó là một trong những hạnh lành để làm nền tảng kết tập giá trị minh hạnh túc. Gương xưa để lại đã làm sáng lên ý nghĩa này. Dụ như những học trò như Mạnh Tử, Trang Tử mà vẫn luôn luôn lễ phép đi thưa về trình đối với thầy, để chúng ta soi rọi lại tính chất và giá trị của ngũ minh trên con đường xây dựng công án Bia Sơn, thực hiện Công Luật đại hóa cho chính chúng ta và pháp giới.
Hôm nay về tính khách quan của minh triết đã giải quyết về giá trị chân tướng của ngũ minh. Mà đối với 18 bộ óc đã thể hiện được tính công năng và công hạnh, thì đó là sự vinh danh. Vậy công năng và công hạnh có được là có từ bản chất giá trị thực tướng của tính và thể thiết lập giữa đa năng và siêu năng. Nếu không có mặt bằng của hệ thống đa năng và siêu năng mà vũ trụ đã cho, thì chúng ta không thể nào thực hiện được công năng và công hạnh.

ĐIỀM TRIẾT VỀ TÍNH VÔ NHIỂM

Chúng ta vô chấp trước mọi hành vi, mà lại dùng lý trí để làm chủ tất cả mọi hành vi, thì dù chúng ta có vào chỗ tận cùng của thế gian vẫn có đường ra.
Như người ăn một nghìn lần mà không nhớ một lần thì người ấy sẽ mau chóng ra khỏi tam giới. Còn người ăn dù chỉ một lần mà nhớ nghìn lần thì người ấy đã chấp trước hành vi và ý thức đã bị trói trong các pháp thì không bao giờ có thể ra được cõi dục giới này. Như vậy nhiễm hay không nhiễm là thuộc về ý thức của chủ tính chứ không thuộc  các pháp.
Tính vô nhiễm ví như đã thành tựu kim cương, nên nói rằng: kim tính bất tác hành vi, vì tất cả các hành vi hoạt động dù xấu xa đến đâu cũng không thể thay đổi chân tính.
Như hôm nay chúng ta học Cửu kinh mà không chịu công phu và chưa trở về chân tính, còn bị kẹt trong mọi sự nhiễm trước của ý thức phân biệt và các căn chưa ổn định thì rất khó có thể thành đạt được Cửu kinh. Như vậy, học Cửu kinh là phải công phu nhằm ổn định tâm pháp, làm cho tâm pháp không nhiễm trước các pháp thì chúng ta mới phát được ánh sáng hào quang của tri thức.
Sự nghiệp tu học của chúng ta là nhằm để giải quyết cái ngày chết của hiện thể và ngược lại với giá trị phản chiếu, ánh sáng thì cũng là sự sống của siêu thể.


23/12/Kỷ Sửu

GIẢNG NGHĨA PHỤ NGUYÊN

Ông Chơn Minh Ứng Hội xin hỏi: Thưa Cha, Sau khi Công Luật ra đời Cha được đại thể công chứng, thì Cha có lên ngôi không và ngôi đó là gì?
Ngài dạy: Sau khi Kim Ngưu được công chứng thì danh từ người ta thường gọi đó là Phật Vương. Nghĩa của chữ Vương đây không phải là vua mà là pháp Vương. Vì Cha là người thuyết được Cửu kinh minh triết và đưa minh triết vào đời sống của nhân sinh. Tức là đưa minh triết vào xã hội để hóa và đồng thời chỉ đạo tất cả những hệ thống lãnh đạo cao nhất, quan trọng nhất của một quốc gia. Nhưng bản chất là đi trên nền tảng của Phật Giáo mang tính hiện đại.
Đối với sự nghiệp phá hoang lập nguyên, nếu người nào giúp cho sự nghiệp công vận khách quan của Thống hóa đi đến một thời kỳ khai nguyên, thì nhân loại sẽ tôn vinh là Phụ nguyên. Nghĩa của Phụ nguyên là: trên thì phụ giúp cho sự nghiệp của vũ trụ, hay sự nghiệp của công vận khai nguyên; còn dưới là được sự tôn vinh của nhân loại như một người Cha tinh thần của dân tộc hoặc của tôn giáo; hoặc người Cha tinh thần của sự cứu rỗi, thì nhân loại có thể gọi là Phụ nguyên.
Như vậy chúng ta xác định Phụ nguyên này nếu có Tổng thống thì Ngài cũng là người Cha của Tổng thống đó. Thì hoàn toàn Ngài không phải là vua như những thời kỳ phong kiến trước đây.
Như hiện nay ta thấy còn tồn tại những chế độ như: quân chủ lập hiến, tổng thống lập hiến và đảng trị lập hiến. Nhưng đối với tinh thần Công Luật của chúng ta là Thánh đức lập hiến.
Chúng ta phải hiểu Phụ nguyên là thuộc về biểu tượng của ánh sáng chứ không phải như một ông vua bình thường như thời kỳ phong kiến. Thế thì trong xã hội từ người cao nhất là Tổng thống cho đến người dân thấp nhất đều gọi Ngài là Phụ nguyên; vì Ngài đem kho tàng ánh sáng Cửu kinh minh triết đến cho toàn thể nhân loại này. Như vậy Phụ nguyên là linh hồn đời sống của toàn thể nhân loại. Và đây không phải là một chức danh bình thường, mà đây là một chính vị tất yếu về linh hồn đời sống nên không có sự thay đổi về chức danh đó. Nếu sau này Cha có tịch diệt thì lại có Nhị Thánh tiếp tục đứng ngay vị trí đó.
Đối với Phụ nguyên không phải là vua bình thường mà là vua Pháp, nhưng có sự tham chính đối với cơ quan về sự nghiệp đại hóa và kinh bang.
Như vậy chúng ta xác định về Công Luật là không có sự tái lập lại của những thời kỳ phong kiến, quân chủ lập hiến và dân chủ lập hiến; mà lập theo Thánh đức lập hiến. Tức ở đây chúng ta không dùng chế độ kho tàng mà tất cả các chế độ đều quay về kho tàng và ăn lấy, uống lấy, nắm lấy kho tàng để mà thực hiện những công trình kinh bang.
Tóm lại, nghĩa của Phụ nguyên thứ nhất: là xác định về tính minh triết của người ra đời giúp cho công vận khai nguyên; Thứ hai: là sự tôn vinh của công sức mà Người đã làm ra và đem lại sự hạnh phúc cho nhân loại nên coi đó là từ Phụ.

PHÁP TÂM ĐẮC

Nghĩa của phi Chân Như là vì đức Phật muốn phá chấp về ngôn ngữ của Chân Như nên Ngài nói Chân Như, phi Chân Như để chúng ta có được một Chân Như thực tướng mà không thuộc về chấp.
Về tâm đắc như: có người tâm đắc về Chân Như nhưng vẫn còn bị kẹt ở chỗ kiến chấp về Chân Như. Nhưng lại có người tâm đắc vượt trên kiến chấp của Chân Như này. Thì đức Phật gọi đó là tâm đắc thượng thừa.
Như vậy các pháp tâm đắc gồm có: tâm đắc tiểu thừa, tâm đắc trung thừa, tâm đắc thượng thừa và có tâm đắc tối thượng thừa là cuối cùng cuộc đời của tâm đắc, tức là không còn đắc gì hơn nữa cả. Ví như kim cương đã thành kim cương rồi thì không còn thành cái gì hơn kim cương được nữa.
Khi Như Lai trở về thành tựu Chân Như thì đối với định luật của vũ trụ cứ vẫn thành trụ hoại không, sinh trụ dị diệt và sinh lão bệnh tử mà không hề thay đổi gì cả. Nên Như Lai nói: nếu không có cái già của lập thể thì sẽ không bao giờ có cái già của lý tính. Vậy cái già của lập thể là minh chứng cho cái già của hạt tâm bên trong. Tuy nhiên có những người rất già về lập thể, nhưng già bên trong còn kém; Tuy vậy vẫn có phần già của nó theo tính chất già và tỷ lệ già của sự huân tập và tiến hóa, thì sự kết tinh già bên trong ấy có theo mức độ năng lực. Như vậy định luật sinh lão bệnh tử nhằm để tăng trưởng hệ thống lập thể và đồng thời tăng trưởng hệ thống lập tính. Đó là đi thuận theo Vận luật tuần hoàn. Còn nếu đi nghịch lại Vận luật tuần hoàn thì sao? Thì chính cái già lập thể đó là sự phân hóa của bên ngoài và bên trong của hạt tâm sẽ bị rớt xuống ở những tầng thấp hơn.
Thế thì cái già có 2 chiều tăng và giảm. Như vậy già để tăng là chính, già để giảm là phụ, là thuộc về những sự mê lầm, không thuộc về các pháp chính thống nên đã bị đào thải rớt xuống các tầng thấp hơn. Như vậy các pháp chính thống là thuộc về ở trong và ở trên, còn các pháp bất chính thống là thuộc về ở dưới và ở ngoài.
Như vậy pháp chính thống là chính và pháp bất chính thống là phụ; thì trong đời sống chúng ta có chính- phụ, có nội- ngoại, có thượng- hạ, có trong- ngoài. Nên mới gọi là dung thông vạn pháp.
Nên đức Phật mới nói sự kết tinh tinh hoa kim cương chân tâm để đạt được cứu cánh giải thoát là chính, còn sự tan rã phân hóa và sa đọa là phụ.
Chúng ta có thể nhìn về một người già, như cái già của các vị Hòa thượng, hoặc cái già của các vị Tôn giả; là cái già của sự kết tinh tăng tính hệ thống hạt tâm lý tính đi đến pháp thân. Còn cái già của những con người phàm phu hoàn toàn không chịu huân tập mà lại lo chơi bời lêu lỏng, phóng túng hoang lạc, thì cái già của họ là cái già của sự băng hoại và giảm trừ. Thì cái già đó là cái già của sự sụp đổ vì họ đã đánh mất đi những giá trị tinh hoa cả phần trong và phần ngoài.
Chúng ta phải thấy rằng vũ trụ là có nguồn gốc nên mới có Cửu kinh minh triết ra đời. Nhưng vì con người chưa xác định được nguồn thực đó nên ánh sáng trí huệ còn thấp kém và năng lực của họ còn nhỏ bé. Một khi con người đã xác định được nguồn thực ấy là họ sẽ quay trở về, thì trí huệ và năng lực cũng theo đó mà phát triển cho đến đỉnh cao nhất là được giải thoát.
Như Cha có Âm dương bào tạng do Thống hóa lập thành, thì đây không thuộc về đức tin mà thuộc về tâm đắc của thực tướng đối với sự nghiệp Công Luật và tâm đắc về hệ thống Công Luật vũ trụ. Như vậy chúng ta có quyền tâm đắc với những thứ có thực trong đời sống ấy, để chúng ta có con đường tiếp tục đi tiếp và thành tựu tiếp.
Nói về tâm đắc chân chính nhất, là nhận chân vũ trụ là tổng thể tinh hoa và có trách nhiệm kết tinh tinh hoa. Như vậy về đại thể của sự nghiệp hóa thì mặt bằng Duy ngã đại thể phải có một tâm đắc chung là kết tinh tinh hoa để thống nhất sức mạnh của tinh hoa ấy mới có sự sống đời đời. Thì trách nhiệm của chúng ta là phải thấy được, biết được một cách tuyệt đối về vũ trụ là tổng thể tinh hoa, và chúng ta phải có trách nhiệm kết tinh tinh hoa; đó là tâm đắc cao nhất của mọi sự thấy, biết và nhìn nhận mà không cần có một sự phân biệt nào khác hơn, mà hãy tập hợp sự kết tinh ấy để có một sự thực toàn diện trong đời sống này. Như vậy Cửu kinh minh triết là công án, là công thức, là phương thức, là phương pháp, là tất cả những hệ thống kiện toàn, là sức mạnh của sự kết tinh, mà chỉ có Cửu kinh minh triết mới có công suất kết tinh mạnh nhất trong đời sống ấy.
Như vậy chúng ta có quyền phân định giá trị các hệ thống tâm đắc, về các loại kinh điển cấp cao và các cấp cơ bản của giá trị sự sống đối với hệ thống tâm đắc và thành lập được tổng thể tinh hoa tâm đắc, để thực hiện những công trình thực tướng đối với vũ trụ, để chúng ta có một sự thống nhất về tâm đắc đối với sự nghiệp chân lý nhân sinh quan và vũ trụ quan.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!