Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013

cửu kinh minh triết 44


CÁC PHÁP CHẾ BIẾN TRONG QUY TRÌNH NGHỊCH HÓA
Các pháp chế biến trong quy trình nghịch hóa thì tính nguyên tắc là bị phản ứng đối với các thể đại của tổng hóa. Thì đây là thuộc về mặt bằng của nhân cầu. Mà khi đi vào mặt bằng của nhân cầu thì ta thấy trục nhân cầu và trục cầu đối với các pháp chế biến trong quy trình nghịch hóa thì dần dần sẽ đi đến sự triệt tiêu. Như thực tế con người đã đưa ra về pháp luật tài nguyên môi trường, nhưng gốc thì vẫn là chế biến trong quy trình nghịch hóa thì dù cho có trăm ngàn pháp luật về tài nguyên môi trường cũng bằng không.
Như vậy đối với sự nghiệp cửu kinh chuyên môn hóa là mang tính hệ thống liên thông trong các vai trò từ trục cho đến tàn cánh, là bài học mang tính ánh sáng tri thức thống nhất đối với ánh sáng vũ trụ.

Nếu ánh sáng tri thức mà không thống nhất với ánh sáng vũ trụ thì tha hồ chế biến để thỏa mãn về bản ngã duy ngã, thì quy trình nghịch hóa ấy sẽ xuất hiện. Nghịch hóa dụ như đối với hành tinh chúng ta không cho phép sử dụng những nguyên liệu hóa thạch quá lâu. Chúng ta chỉ được sử dụng ở một tỉ trọng phù hợp với không gian được cho phép, nghĩa là phải làm sao cho ánh sáng của mặt trời cùng các lực từ trường và các đơn vị hóa học được chuyển động trong sự bảo hòa. Như đối với Thống hóa là bỏ ra rất nhiều năng lượng nhưng luôn là năng lượng bảo hòa của hạt duy nhất và tính trọng của giá trị hóa không bao giờ mất của sự cân bằng; cho nên bỏ ra và lấy lại và tiêu trưởng sức mạnh của hóa một cách vô cùng vĩ đại mà không bao giờ có thể đi sai quỹ đạo đó. Còn con người thì lại chạy theo cán cân cung và cầu trong sự tăng trưởng dân số trên hành tinh. Hành tinh thì hoàn toàn có giới hạn đối với tài nguyên, nhưng lòng tham không đáy của nhân loại thì không giới hạn đã tận khai thác của giá trị hóa đối với sự nghiệp hành tinh. Vì vậy nên sự nghiệp hóa chuyên môn cũng không có.
Phần nghị luận.
Ngài bảo ông Chơn Quốc Chính Thống trình bày.
Ông Chơn Quốc Chính Thống: Thưa cha, trong quy trình chuyển hóa của Công Luật vũ trụ mang tính khách quan và luôn luôn bảo hòa trong tính vạn tỏa và vạn tỏa trong định luật vãn hồi của Thống hóa. Thí dụ như các loài thực vật khi từ hạt tâm sinh ra lớn lên và cuối cùng là trở về hạt tâm và được sung mãn trong giá trị của hạt tâm. Tuy nhiên do lòng tham dục của nhân bản đại thể khi chưa trở về hệ thống cửu kinh thì họ chỉ biết thỏa mãn lòng tham dục ấy, thì tất nhiên hệ quả sẽ đổ ngược lại trên đầu của nhân loại. Đó là những hệ quả chế biến trong quy trình nghịch hóa.
Ngài dạy, bản chất chế biến trong sự nghiệp hóa là bản chất tổng hóa của Công Luật vũ trụ, hoặc ròng tính là của thiên nhiên. Nhưng một khi con người đã copy về việc chế biến ấy thì bắt đầu tạo ra sự phân biến. Thí dụ như con người đã khai thác rừng một cách càn quét thì trên đại mạn của tất cả những hệ thống sinh thái đã bị chế biến với một sức mạnh không cùng và không có định hướng của sự chế biến ấy, thì quy trình nghịch hóa sẽ bắt đầu phát sinh.
Thế nào là thuận hóa? Là các pháp chế biến y cứ trên hệ thống thiên nhiên và hoàn toàn không đánh mất giá trị trung hòa và bản vị nhất thiết giá trị hóa đối với tổng hóa mà không bị phản ứng. Nên Như Lai nói rằng: Nếu cắt đứt mọi giá trị hóa trong tổng hóa ấy thì kinh Bát Nhã bị sụp đổ ngay chổ này. Vậy kinh Bát Nhã là kinh tham gia vào sự nghiệp hóa và không cho biến đổi hệ thống hóa và thành lập được kết tinh tinh hoa hóa để đi đến đỉnh cao của sự nghiệp hóa.
Ngài bảo ông Chơn Thăng Ấn Chuyển trình bày.
Ông Chơn Thăng Ấn Chuyển: Thưa cha, Thống hóa đã cho chúng ta vô lượng các chất hóa học để hóa trong sự nghiệp hóa thuận thì sẽ hóa được những điều tốt lành cho hành tinh và cho nhân bản đại thể. Nhưng trái lại con người đã sử dụng các loại hóa chất ấy vào quy trình nghịch hóa thì sẽ đem lại những nguy hại rất to lớn. Hoăc rừng là môi trường xanh đem lại sinh thái nhưng con người đã làm triệt tiêu nó nên bị phản ứng ngược lại là đem lại sự nguy hại cho tất cả nhân loại.
Thực tế thì vũ trụ đã cho con người một khối óc, một linh hồn trong hệ thống Thống hóa là để tiến hóa, thì trái lại chúng ta làm các pháp bất thiện tức là nghịch hóa thì nhất định sẽ đem lại mọi sự đau khổ.
Ngài dạy, như vậy bản chất của nghịch hóa là ác tính. Như ở mặt bằng hóa học thì nó đã có một sự ổn định và trật tự của tính tất yếu trong hệ thống thiên nhiên. Nhưng do con người đã làm mất đi tính bảo hòa của nó. Ví dụ như ta lấy hóa học của chất độc da cam ra khỏi đời sống của trung hòa hóa thì bản chất đây là ác tính. Hay là tất cả những sự chuyển đổi của hóa học đã hình thành động cơ phát lực và âm thầm ở bên trong không phát ra tiếng nổ, thì sức mạnh ấy lớn lao biết chừng nào, mà con người đã lấy ra để làm chiến tranh. Đối với hóa học thì mục đích không phải để thực hiện chiến tranh, mà mục đích để hóa tâm và hình thành giá trị hóa trong các đơn vị thiết lập về lập thể hóa và thành lập đơn vị hóa để kết tinh hóa. Như nguyên tử bản chất của nó không phải là để triệt tiêu mà là sinh hóa tột cùng không có sự chấm dứt đối với giá trị nguyên tử và lượng tử trong đời sống của thế giới quan và vũ trụ quan.
Như vậy bản chất của ác tính là nghịch hóa, thì những con người giết người đã âm thầm ở trong phòng thí nghiệm cũng có thể giết được nhân loại một cách dễ dàng. Chúng nó còn mệnh danh cho rằng: tôi đang làm công trình khoa học, tôi đang làm công trình hóa học và tôi được khen tặng…Nhưng thực sự khi tìm hiểu ra thì chính nó đã đi vào quy trình nghịch hóa. Nếu đứng trên tinh thần Công Luật vũ trụ thì chúng nó phải được đem ra xử tội. Còn đứng trên nhân bản đại thể thì khó mà thấy được nó. Như vậy phải vạch mặt nó trong đời sống sự nghiệp hóa của tổng thể và đại thể.
Ngài bảo ông Chơn Hoàng Quang Quân trình bày.
Ông Chơn Hoàng Quang Quân: Thưa cha, bản chất của nghịch hóa là ác tính vì nó đã làm triệt tiêu và giết hại nhân loại. Đối với Thống hóa thì bản chất là chế biến, nhưng chế biến trong sự cân bằng. Như tất cả những sự biến động về địa chất là nhằm để cân bằng của hành tinh. Hoặc là những sự hô hấp của các loài vi sinh vật, thực vật và con người, thì tất cả đều cần Oxy và CO2. Như cây thải ra Oxy và CO2, nhưng Cacbondioxit (CO2 )này nó lại cân bằng với tất cả những điều kiện tự nhiên xung quanh nó. Vậy Thống hóa là sự thu liễm và cho các chất hóa học là nhằm để hóa và tổng hóa, nhưng con người đã lạm dụng tất cả những chất hóa học vì mục đích riêng để rồi đưa hành tinh đi đến chổ nguy hiểm. Tức là đi vào nghịch hóa làm mất đi sự cân bằng.
Ngài dạy, như rừng đã làm được điều kỳ bí là ban đêm nhả ra Cacbondioxit còn ban ngày thì nhả ra Oxy. Tại sao vậy? Vì ánh dương quang luôn luôn cho nó những giá trị của các tia ánh chiếu về sinh thái và hoàn chỉnh trong hệ thống lá và mặt trần của sự nghiệp hóa đối với mặt trời và trái đất, mặt trời và muôn loại. Nên ban đêm là quy trình hóa mà mặt trời phải chia cho giá trị bán cầu. Thì ban đêm công việc của rừng phải chia cho giá trị bán cầu là làm những việc ổn định của giá trị cân bằng giữa Oxy và Cacbondioxit. Đây là sự tuyệt vời mà chỉ có Thống hóa mới làm được, còn loài người thì lại không biết được
ý đồ của Thống hóa nên đã xúc phạm đến Thống hóa để rồi các đại thể tổng hóa bị sụp đổ và hành tinh bị băng hoại trong sự nghiệp duy ngã đại thể đó. Như vậy đây là yếu tố mà cửu kinh minh triết phải hóa giải vấn đề này để trả lại được sự cân bằng cho hành tinh. Nếu không thì các pháp tiếp tục chế biến trong quy trình nghịch hóa này thì nhất định sẽ có một sự phản ứng đối với các thể đại tổng hóa.
Đây là một phẩm kinh quan trọng có tính chuyên môn hóa trong đời sống, thì chúng ta phải xác định về tính chất này để đi vào thực hiện giai đoạn 2 khi chu trình của xanh hóa và mặt trần của hành tinh được trở lại đời sống như thiên nhiên đã cho.
Ngài bảo ông Chơn Ngọc Biện Hộ trình bày.
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Thưa cha, chúng con đã xác định rõ về các pháp chế biến trong quy trình nghịch hóa thì bản chất nó là ác tính, vì nó làm nguy hại đến đời sống của nhân sinh quan và vũ trụ quan. Chúng con xác định bản chất của Thống hóa là tổng thể hóa, là hóa trong định luật cân bằng, hóa trong định luật bảo tồn và bảo hòa. Nhưng duy ngã đại thể vì do ngã sở và lòng tham không đáy đã phát sinh và chế biến ra các pháp trong quy trình nghịch hóa.
Ngài dạy, chúng ta phải thấy rõ vấn đề trong sự nghiệp hóa của sinh diệt tương tục vô tận, Đấng Thống hóa đã lấy lại bản hạt cho muôn loại và bản hạt cao nhất là các Thánh nhân, các đức Như Lai và những bản hạt bình thường trong giá trị duy ngã đại thể thì Thống hóa không cất giữ, không lấy đi mà luôn luôn lấy lại cho nó giá trị bản hạt để tiếp tục được sinh lại trong đời sống hóa. Như vậy chính sự sinh diệt của Đức Như Lai đã làm bừng lên những ánh sáng từ quang và lòng thương yêu vô tận trong sự sinh diệt ấy mà hoàn toàn không bị đoản hậu của sự sinh diệt.
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ nói tiếp: Thưa cha, trong nguyên lý của Thống hóa thì luôn luôn có sự thống nhất dung thông và cân bằng giữa tính và thể, tâm và vật. Nhưng do con người đã làm ngược lại là phá vỡ sự cân bằng đồng nghĩa là chế biến đi ngược quy trình hóa của Thống hóa. Đó là con người đã phá vỡ môi trường sinh thái hoặc đã đưa các tố chất hóa học không đồng tính vào trong đời sống của thực phẩm, nên ngầm bên trong đã tạo ra những sự phản ứng bất tương ưng trong các loại thực phẩm đó và hệ quả là các bệnh ung thư xảy ra. Thì đó là ác tính.
Hoặc trong nền công nghiệp đã dựng lên những ống khói lớn để sản xuất ra các loại sản phẩm phục vụ cho đời sống con người, nhưng thực ra bề trái là đem lại một sự nguy hại rất lớn, đã làm cho khí quyển, sinh quyển bị ô nhiễm và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người và muôn loại, thì đó là ác tính.
Như vậy sự nghiệp cửu kinh minh triết hóa chuyên môn là hệ thống tổng hóa của Thống hóa sẽ ra đời để con người học tập và khai thác chính xác đi vào trọng tâm của quỹ đạo bảo hòa. Tức là hóa thuận để làm trong sạch hóa môi trường và trở lại sự cân bằng mà thiên nhiên đã cho thì con người sẽ có một đời sống an bình tốt đẹp nhất và hạt tâm lý
tính được thăng hoa trong sự cân bằng giữa tâm và vật ấy.
Ngài bảo ông Chơn Trung Đạo Luật trình bày.
Ông Chơn Trung Đạo Luật: Thưa cha, đối với Đấng Thốn
g hóa thì luôn luôn bảo hòa trong các hệ thống hóa. Nhưng do nhân sinh đã làm mất đi tính bảo hòa là sinh ra các pháp nghịch hóa, từ đó làm cho nhân loại khốn đốn và triệt tiêu. Còn nếu mà các pháp chế biến trong quy trình thuận hóa thì sẽ được phát triển tiến hóa trong sự cân bằng để trở về với Đấng Thống hóa.
Ngài dạy, như vậy chúng ta xác định nguồn năng lượng vô tận của vũ trụ quan đã cấu trúc thành một định luật bảo tồn và tính thiết yếu của giá trị định luật ấy là không cho sự băng hoại và không cho sự phản ứng của nó. Như chúng ta tìm ra các loại hóa học năng lượng đều là tính bảo hòa và tính hỗ trợ giúp cho hành tinh được tồn tại bền vững trên sự sống ấy và loài người nhờ thuyền đại thể của giá trị tổng năng lượng và mặt bằng tổng năng lượng theo quy trình hóa thuận thì loài người được sống trong đó. Vì năng lượng hóa thuận là năng lượng luôn luôn sạch đẹp trong đời sống của mặt bằng duy ngã đại thể và mặt trần của thái dương hệ. Vậy những năng lượng ấy đóng một vai trò thiết yếu như một sự thiết lập của hệ thống bền vững đối với hành tinh và cũng là nền móng của duy ngã đại thể .
Một khi con người phát minh và chế biến ra thứ gì đó, thì phải lấy từ tổng năng lượng hệ thống vật thể và lấy từ các đơn vị hóa học ra chế biến, nhưng lại chế biến trong quy trình nghịch hóa. Nghịch hóa nghĩa là chúng làm cho các hóa học phản ứng với nhau và các đơn vị năng lượng phản ứng với nhau. Như vậy, bản chất của hóa học không có ác tính mà bản chất của sự chế biến nghịch hóa là ác tính. Vì thứ nhất là tính khách quan của giá trị hóa thì hoàn toàn được bảo hòa, nhưng khi con người đưa ánh sáng tri thức vào đó mà không biết thực hiện công trình hóa theo quy trình hóa thuận thì nó trở nên nghịch biến. Và vì con người chưa chấm dứt được giá trị nghịch hóa ấy nên mặt trần của đại thể luôn luôn tạo ra sự sóng gió và xảy ra những điều khốc liệt nhất.
Đối với bài học này còn phải đem một chương trình giảng luận lớn về bản chất hóa học thuận và bản chất hóa học nghịch. Bản chất quy trình chế biến thuận và bản chất quy trình chế biến nghịch. Đồng thời phân tích giá trị chế biến ấy trong hệ thống của cửu kinh minh triết.
Nếu ta đem hệ thống Cửu Kinh Minh Triết để thực hiện công trình thì hoàn toàn là thuận. Nhưng nếu tách rời Cửu Kinh Minh Triết để mà hóa thì nhất định các pháp biến hóa ấy đối với ý thức tham vọng của duy ngã đại thể, hoặc của các nhà kinh tế, nhà doanh nghiệp, hoặc các nhà khoa học kỹ thuật mà họ chỉ biết khai thác nó vì lợi ích trước mắt mà không thấy sự nguy hại lâu dài của thế giới và loài người. Như vậy chúng ta đem Cửu Kinh vào đây để nói rõ với nhân loại là các pháp chế biến trong quy trình nghịch hóa là phản ứng của các thể đại tổng hóa. Đây là bài học xác định về tính chất định luật và sự nghiêm trọng đối với thế giới và hành tinh. Như chúng ta đã thấy rằng về tài nguyên cũng như về sinh thái đã đi vào quy trình nghịch hóa rồi. Ngay cả đời sống hít thở của chúng ta cũng đang chịu những nghiêm trọng về nghịch hóa đối với các hóa học đã xâm nhập làm cho bầu trời không được trong sáng. Vì tỷ trọng giá trị của Cacbon-Oxit và Metan đã tràn ngập trong không gian và đang giết nhân loại từng ngày đó.
Như vậy, đây là bài học đích thực của toàn bộ những con cái trong sự nghiệp Công Luật đại hóa. Phải biết rằng khi đi vào sự nghiệp chuyên môn hóa thì chúng ta phải nắm những quy tắc và những định luật này để đi vào sự nghiệp hỗ trợ cho đời sống của vũ trụ và nhân sinh, và hỗ trợ về chức năng của giá trị hóa trong đời sống của thánh nhân cùng các vị thiện nhân trong đời sống hóa.
27-01- Canh Dần
HẠT TÂM LÝ TÍNH THUẬN VẬN LUẬT TUẦN HOÀN HÓA VẠN PHÁP
Con người có não bộ thần kinh như có một đầu máy, có một công trình máy và vũ trụ là siêu máy. Con người đã bắt chước tất cả những cơ cấu hệ thống máy lập trình của vũ trụ quan. Như con người bắt chước con chim để làm máy bay, bắt chước con cá để làm tàu thủy v.v… Tất cả những thứ có trên đời này là những tác phẩm đương nhiên của sự nghiệp tuần hoàn và thành lập hóa của giá trị tuần hoàn thuận. Như tất cả những tác phẩm từ vũ trụ hóa ra là không có thứ gì nghịch lại tuần hoàn, vì cái gì nghịch là bị triệt tiêu và mất đi, còn cái gì thuận là tồn tại. Cho nên trong đời sống của tam tài là “thuận thiên giả tồn nghịch thiên giả vong”. Trời đất rất máy móc và tuần hoàn rất định luật. Nếu một ai mà chống lại định luật thì đồng nghĩa là tự phá định luật của chính mình, vì chính mình đã được thiết lập trong định luật ấy.
Nếu ta học mà không giải quyết được sự mê lầm, thì chỉ để lại cái chuyên môn của nghề nghiệp, và cuối cùng bá nghiệp sẽ dãy đầy trong đời sống của nhân sinh thì hệ thống chuyên môn ấy không thể tồn tại trong tính chất thực tướng của giá trị vũ trụ.
Trên mặt bằng khách quan thì nhân loại đã thừa nhận vận luật tuần hoàn. Đối với tuần hoàn nghịch và tuần hoàn thuận thì thế giới cũng đã rõ mặt rồi. Vì tuần hoàn là một hệ thống máy móc vô cùng vĩ đại, khoáng đại và thực tướng nhất. Như trong thân thể con người thì tất cả những nghiệm thể và những trọng trách của các bộ phận quan trọng về ngũ tạng thì y học người ta đã biết và làm hết rồi. Còn về cơ cấu não bộ rất phức tạp và đời sống của não bộ gần như là một cơ quan đầu não quan trọng nhất của hệ thống tuần hoàn. Con người cũng đã biết rằng: như thế nào là nghịch, như thế nào là thuận; nhưng có những cái biết mà không thể cứu chữa được, thậm chí là họ đã đưa ra hàng trăm ngàn kế hoạch hạn chế về sinh đẻ nhưng rồi kết quả cũng không cao mà lại còn sinh ra nhiều thứ đảo lộn khác.
Về định luật thành trụ hoại không và sinh lão bệnh tử cũng hình thành trên hệ thống duy ngã đại thể. Như vậy sự mãn tính về nhân sinh trên hành tinh thì nó cũng thành lập theo định luật của thành trụ hoại không. Một khi mà tự nó nghịch lại tuần hoàn thì nó sẽ bị đào thải và triệt tiêu. Nên Như Lai nói rằng: nhân duyên thuận thì sinh, nhân duyên nghịch thì diệt. Tức là nếu giữa người và người gặp nhau mà không hòa hợp với nhau, không thể nhập với nhau, không đồng thuận về hiểu biết và không thương mến cùng nhau thì sẽ không bao giờ có thể tồn tại. Thế nên các mối nhân duyên khách quan và chủ quan nó luôn luôn có những sự ràng buộc nhất định trong đời sống của hệ thống duy ngã đại thể và có liên quan đến vận luật tuần hoàn.
Hạt tâm lý tính không tách rời vận luật tuần hoàn chu kinh và chính vận luật tuần hoàn chu kinh đã hiệp thương cùng hạt tâm lý tính và giúp cho hạt tâm lý tính được tăng trưởng thì vận luật tuần hoàn là hệ thống rất công luyện về tính khách quan và có tính chất chế biến giá trị sản phẩm và thành tựu tổng thể tinh hoa cuối cùng của nó là vàng và kim cương.
Thế nên vận luật tuần hoàn là hệ thống chế biến của sự nghiệp vĩ mô và vi mô đối với đại thể duy ngã và hệ thống lập hình đa năng. Nên ta nói rằng: hạt tâm lý tính thuận vận luật tuần hoàn chuyên môn hóa vật thể. Như vậy, vật chất từ vi mô đến vĩ mô, từ đơn giản đến phức tạp, vật chất của giá trị cao cấp, thường cấp và hạ cấp thì tính chất hòa hợp của vật chất và hóa của vật chất nó luôn luôn nằm trong quy trình thuận đối với vận luật tuần hoàn.
Như vậy khi chúng ta hình thành hạt tâm lý tính thì từ trong tính khách quan ta đã thuận vận luật tuần hoàn không tính theo thời gian và không gian, và hóa trong giá trị thuận vận luật tuần hoàn với thời gian và không gian ấy, cho nên chúng ta mới có mặt hôm nay. Nếu chúng ta đã nghịch nó thì hoàn toàn chúng ta không có hạt tâm lý tính và đồng thời chúng ta không trở thành nhân bản duy ngã đại thể trên mặt hành tinh. Nên chúng ta liền giác ngộ hạt tâm lý tính thuận vận luật tuần hoàn chuyên môn hóa vật thể. Như vậy bộ máy chuyển động của tuần hoàn là hình thành giá trị sản phẩm vật chất các đơn vị hóa và hình thành hóa ở trong tổng thể cũng như các hệ thống đơn vị cơ cấu và rất trật tự trong thành phẩm ấy.
Nếu ta bẻ gãy vận luật tuần hoàn chu kinh thì sự nghiệp chuyên môn hóa của các công trình không thể mọc lên trên mặt đất này. Nên các nhà bác học nói rằng: nếu đánh mất vận luật tuần hoàn chu kinh thì chúng tôi là bác học chết vì hoàn toàn không có mặt bằng của giá trị tuần hoàn để chúng tôi chuyển động và hình thành hóa vật chất, và vật chất sẽ không có sản phẩm ra đời với những giá trị cao cấp ở đời sống trong vận luật tuần hoàn.
Hạt tâm lý tính liên tịch và chiếu suốt trong vận luật tuần hoàn chu kinh thuận để hóa vật chất và thành lập các cơ cấu vật chất và các thành phẩm vật chất trong đời sống hóa của mặt bằng duy ngã đại thể. Như vậy vận luật tuần hoàn chu kinh nếu đi đúng là vạn hội bình an trong thế gian và mặt bằng luôn luôn có những ân sũng lớn đối với vận luật tuần hoàn chu kinh và sẽ trả lại cho chúng ta những sản phẩm tốt nhất trong đời sống ấy. Cũng không bao giờ lật ngược và lấy đi những giá trị thành lập của tuần hoàn đối với chu kinh này, cùng đối với hạt tâm lý tính và vật chất kia, tất cả được thống nhất trở thành sức mạnh từ tương đối đi đến tuyệt đối.
Tất cả những giá trị ấy đã trở thành định luật, trở thành kho tàng, trở thành máy móc rất vững chải, rất tinh khôi và rất thực tướng nên Như Lai nói: máy móc của tuần hoàn là máy móc của trung tâm thực tướng, là hoán đổi tất cả những hệ thống cơ cấu và thiết lập những cơ cấu thuận theo giá trị hóa của tổng thể tinh hoa nên có pháp hoa.
Như vậy tuần hoàn đã cho chúng ta những pháp hoa lừng lẫy nhất trên thế giới và tất cả những thái dương hệ, ngân hà và thiên hà. Dù trăm triệu mặt trời đi nữa cũng chịu luật tuần hoàn để kết tinh ánh sáng và thành lập những ánh sáng chói lọi của những vùng kinh điển xa xôi và những trung tâm kinh điển đã được hiệp chiếu và không bị tan biến của tuần hoàn ví dụ như kim cương và vàng.
Như vậy hạt tâm lý tính ở mặt bằng duy ngã đại thể hãy hiếu thuận tuần hoàn như một công trình xây dựng vĩ đại nhất cho giá trị hạt tâm lý tính tiếp theo và nối bước theo giá trị vật thể đối với giá trị thành lập để chúng ta có những công trình vĩ đại trong đời sống thế gian.
Bài học hôm nay mang tính khai thị để sau này nương theo những kinh điển này mà khai thác thêm và thấy rõ thêm những giá trị công suất lớn của vũ trụ và nhân sinh, của hành tinh và thế giới. Thì con người sẽ làm những chuyện hòa bình nhiều hơn là chiến tranh và con người sẽ hiếu nhân đại thể hơn là ghét nhau và ruồng bỏ nhau và cũng không còn vô lý với nhau trên mặt bằng duy ngã đại thể, trong hệ thống cửu kinh minh triết là sức mạnh cứu cánh lớn nhất của chúng ta.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!