Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013

cửu kinh minh triết 61


ĐỊNH LÝ TÂM VÀ PHÁP
(21/12 – Bính Tuất)
Hôm nay, tôi nói về giá trị, tính chất, định nghĩa của tâm và giá trị, tính chất định nghĩa của pháp. Để chúng ta biết rõ thế nào là tâm pháp.
Người ta nói tâm sinh ra vạn pháp, tâm này không thuộc về cái tâm tư tưởng mơ hồ của chúng ta sinh ra vạn pháp, mà là trung tâm sinh ra vạn pháp. Như vậy, pháp tính sinh pháp thể; nhưng không loại trừ cái trục của tâm, tức là trung tâm để có vạn pháp; Vạn pháp ở đây là do trung tâm hóa. Nhưng thường là chúng ta lại lầm lẫn lấy khách thể để làm tâm. Vì vạn pháp hóa bất tri đó thuộc về khách thể. Tức pháp thể là khách, pháp tính là chủ là tâm. Định nghĩa rõ ràng như vậy.
Nhưng tại sao nó là khách mà lại có lúc nó làm chủ chúng ta? Vì chúng ta chưa rõ hiểu được cái giá trị của pháp tính. Pháp tính tức là có trục của trung tâm, vì có trục của trung tâm nên pháp tính đó không biến đổi mà lại hóa được pháp thể. Nhưng pháp thể là khách mà cũng là cái ngọn lại có lực hấp dẫn nên chúng ta lầm nó.
Tóm lại, pháp tính là gốc nhưng có cái trung tâm để giữ cái gốc đó, nên nó không bị biến đổi. Nếu không có trung tâm để giữ thì pháp tính không nhân ở đâu mà tụ. Vậy nhờ trung tâm đó mà tụ được pháp tính và pháp tính hóa pháp thể. Như vậy giữa tâm và pháp tuy hai nhưng lại là một vì đó là gốc và ngọn, ngọn tạm gọi là khách, gốc tạm gọi là chủ. Nhưng giữa chủ và khách chúng ta không rõ ràng là vì thằng khách rất là mạnh mẽ, có lúc nó hấp dẫn đến độ thằng chủ phải chạy theo nó. Nếu chúng ta biết được pháp thể hóa từ pháp tính và pháp tính là gốc, thì các pháp thể cho dù có vạn lực, vạn năng đi nữa thì nó cũng không thể khuất phục được pháp tính và trung tâm pháp tính.

Định nghĩa của tâm: là trung tâm của pháp tính, là thuộc về gốc, thuộc về chủ.
Định nghĩa của pháp: là vạn pháp, là lập thể thuộc về ngọn, thuộc về khách.
Như vậy, vạn pháp từ trung tâm pháp tính sinh ra dù có lớn rộng thế nào đi nữa thì vẫn là khách là ngọn, nó vẫn là cái bị sinh. Thế thì thù thắng các pháp cũng có nghĩa là dẫn độ tất cả những pháp khác trở về làm bạn với chúng ta. Vậy, tâm pháp hợp nhất là ở chỗ này.
Bài giảng hôm nay để chúng ta biết được tính cơ bản và tính qui luật, tính chiến lược của tâm và pháp là nói đến mặt bằng và giá trị của nó để giải quyết rạch ròi về gốc và ngọn.Để chúng ta biết rõ chính xác nó. Vì từ lâu chúng ta bị thất bại bởi nó nên chính ta cũng không biết ta là ai nữa kia. Thí dụ hôm nay ta là người thiện nhân, ngày mai ta lại là quỉ sứ, đó là do cái biến đổi của tính khách quan ở trong đời sống tương tác giữa tâm vật mà làm cho chúng ta biến đổi theo. Vậy thằng khách quan nó rất nhiều chuyện vì nó luôn liên quan đến thằng chủ quan, nó luôn luôn tạo thành một nhịp cầu trong đời sống tương tác mà không tách rời nhau. Rồi không ngờ là thằng khách nó lại quậy thằng chủ tơi bời có khi không yên nghỉ được.
Như vậy, cái vạn pháp ấy dù nhiều lớn vô cùng đi nữa thì nó vẫn là cái ngọn, nó không thể chuyển hóa và thay làm gốc được. Nó chỉ trở về gốc chứ chính nó không thể làm gốc được. Nó chỉ là vạn pháp hóa làm cầu nối cho sự chuyển động và hình thành những giá trị tinh hoa trở về làm chủ, gọi là vạn pháp qui tôn. Khi biết được như vậy rồi thì chúng ta không theo các pháp, mà chúng ta lại điều ngự các pháp không để các pháp hấp dẫn chúng ta, rồi chúng ta lại phóng theo nó.
Đây là vấn đề minh triết là chiến lược hóa làm cho chúng ta hiểu và xác định về nguyên lý giá trị đời sống nó. Giống như tất cả những ổ khóa, thì mỗi ổ khóa đều có cái chìa của nó. Thì đây là ta dùng chìa khóa đúng qui cách, thì mới mở ra cửa đó. Như vậy chúng ta không nô lệ các pháp thuộc về ngọn, thuộc về khách, vì các pháp vốn dĩ nó vẫn là giá trị được sinh, là phương tiện hóa nhằm mục đích để làm tăng trưởng giá trị của cái gốc. Mà chúng ta lại lầm nó nên bỏ gốc theo ngọn, người bỏ gốc theo ngọn là 80% còn người quay về gốc để điều phục cái ngọn thì rất ít. Vì sao? Vì loài người là tương tác giữa tâm và vật, nên thường là phóng thức đi ra mà không mấy ai quay thức trở về. Vì lầm lẫn sự hấp dẫn của các pháp, cái không biết mà cuối cùng nó làm cho cái biết chúng ta đau khổ.
Vậy, chúng ta thu liễm tất cả những cái ngọn đó trở về cái gốc để điều tiết cái ngọn đó thì chúng ta sẽ có cái tâm pháp hội tụ, khi chúng ta biết được nó rồi thì trở thành có nguyên lý, có cái tiêu chí và đích thực của giá trị về tâm pháp để chúng ta hoàn bị cả tâm và pháp, chúng ta mới sống được trong tâm pháp, mới làm chủ được tâm pháp, bão hòa được tâm pháp và bây giờ tâm pháp không còn mâu thuẫn nữa.
Nếu chúng ta đặt vấn đề trở về nhất thể là không thì đó là hoàn toàn sai. Mà trở về nhất thể là hội tụ một cách toàn diện mà trung tâm pháp tính không bị mất một thứ gì của tâm pháp cả. Ta tiếp tục hóa thân và ứng thân, thì ta lại tiếp tục dùng các pháp, như vậy thể dụng của các pháp lại tiếp tục chuyển động và hình thành, mà chúng ta không bị mắc kẹt trong tâm pháp. Như vậy, chúng sinh bị mắc kẹt trong tâm pháp, thánh hiền cùng các bậc đại trượng phu không bị mắc kẹt trong tâm pháp, vì các bậc ấy đã trở về gốc, đã nắm cái gốc rất vững để điều phục tất cả những cái ngọn và không bị các pháp ngọn làm đảo lộn cái tâm pháp gốc đó.
Đức Phật nói rằng: Khi ngươi chưa trở về chân tâm thì tâm vô thường làm chủ các ngươi, các ngươi sẽ không biết ngươi là ai. Vì hôm nay ngươi nói A, rồi chốc nữa ngươi nói B, ngày mai ngươi nói C, ngươi luôn thay đổi liên tục thì làm gì ngươi biết ngươi là ai. Vì không có chữ thường nên con người trở thành nhiều mặt, mặt đen, mặt đỏ, mặt trắng, mặt vàng… Như vậy, khi chúng ta trở về chữ thường của chân như, chúng ta có một mặt trạng tuyệt đối về sự bình an của chân tính, có nghĩa ròng của nó là lưu ly, pha lê. Lúc bấy giờ, chúng ta chỉ có một mặt chứ không còn nhiều mặt. Như vậy, khi con người chưa thắng phục được các pháp, giữa tâm và pháp chưa trở về tụ và chưa định nghĩa ra được tâm pháp, chưa giải quyết được tâm pháp thì con người đó sẽ không bao giờ biết chính họ. Vậy khi mà ta về chính ta là trở về cái gốc, thì lúc bây giờ ta sẽ biết được ta và ta cũng không bị biến đổi nữa.
Thí dụ như: Pháp tính là chủ xe, là ông tài xế xe; pháp thể là đầu máy xe, là khách. Người điều động chiếc xe là ông chủ và chiếc xe chỉ có trách nhiệm là cơ động hóa trong tính chất máy móc. Như não bộ chúng ta là hệ thống máy móc tối siêu tinh vi và phức tạp để cho pháp tính điều động. Khi máy hư người chủ phải sửa, nếu sửa không được thì phải bỏ cái máy đó. Khi bỏ máy đó người chủ là tài xế vẫn còn nguyên không mất. Giống như ta bỏ cái đầu não của thân tứ đại cũng không mất pháp tính. Như vậy giữa pháp tính và pháp thể luôn liên quan như một hệ thống máy móc, điều ngự như một ông chủ và các công cụ. Thường là do chúng ta lầm cái hệ thống máy móc hấp dẫn đó, chúng ta mới phóng thức vượt ra khỏi pháp tính và bỏ pháp tính gốc đó mà đi theo ngọn nên gọi là: phóng thức theo các trần lao, ở trong sắc thanh hương vị xúc pháp đó. Vì nó liên quan đến sáu căn, mắt tai mũi miệng thân ý, nó liên quan đến sáu thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Chính sự liên quan đó nó hấp dẫn sáu căn và chính sáu căn làm cho chúng ta lầm lẫn. Khi chúng ta hiểu được rồi thì chúng ta trở về điều ngự pháp tính, thủ trì và chuyên luyện hóa pháp tính. Mà khi chúng ta thủ trì được pháp tính rồi thì các pháp thể được quy túc. Cho nên về nguyên tắc định chiếu của nhà Phật: định là các pháp tụ, là tập hợp các pháp qui tôn; loạn là các pháp phân hóa và biến đổi làm cho pháp tính chúng ta bị nhiệt não khổ đau trong sự biến đổi đó. Như vậy khi chúng ta hiểu được công luật thì chúng ta trở về trung tâm để điều hợp pháp tính. Khi trở về điều hợp pháp tính thì vạn pháp lại tập hợp về, gọi là vạn pháp qui tôn. Khi chúng ta phóng thức ra ngoài, thì làm cho tâm thức duyên theo các pháp đó, mà pháp tính bị đảo lộn. Đảo lộn là do sự phân biệt giữa cái đúng, cái sai; cái thiện, cái ác; Còn đối với pháp tính thì bản chất của nó là trong sáng, vì nó định chiếu nên soi rọi và tránh mọi sự lầm lẫn trong các pháp. Nên không sinh ra pháp ác, mà sinh ra pháp thể chân thật, là trở về cái chân thật của pháp tính, tức tính của nó là toàn thiện thì an vui hạnh phúc ở chỗ toàn thiện đó. Như vậy, li khai pháp tính tức phiền não khổ đau, nhập hóa nhập lưu định chiếu pháp tính là an vinh hạnh phúc. Hạnh phúc đó không phải là mời gọi, mà hạnh phúc đó có là do công thức chuyển động và hình thành theo tính khoa học của qui luật trở về với chân tính.
Ví như đức Phật đã vào bờ rồi, Ngài thấy chúng ta còn lênh đênh trên biển cả, nên Ngài tung ra những chiếc phao pháp để chúng ta nương phao đó mà dùng sức đạp vào bờ. Ngài tung phao đó là công thức hóa pháp tạng, là phương pháp nâng đỡ cho chúng ta nương phao đó mà vào bờ. Quay trở về bờ tức là quay trở về pháp tính, là bờ của chân tính, bờ của pháp tạng, bờ của chân như, bờ của tri thức ánh sáng.
Trong đời sống của biển cả trần lao nó vô cùng hung hãn mà chúng ta không thể dễ dàng vượt ra được nó. Chúng ta chỉ có quay trở về mới vượt được nó, còn nếu chúng ta tiếp tục buông thả ra đi phân thức và tác động vào trong đại dương của sự khổ đau, thì chúng ta sẽ bị mênh mông trong sự khổ đau đó và không bao giờ được hạnh phúc.
Chúng ta sống với nhau và tạo các nghiệp khác nhau, thì chính các nghiệp khác nhau đó nó dẫn chúng ta đi vào những con đường khác nhau trong lục đạo. Làm cho chúng ta gặp nhau hôm nay rồi không còn gặp nhau nữa. Còn nếu chúng ta sống và làm đúng công thức của sự quay trở về, thì khi chúng ta thoát thể tất cả sẽ được hạnh phúc và ở cùng nhau. Đức Phật nói: “trong một vạn tôn giả đó họ đang sống ở đây trong sức mạnh của sự tu chính và giải thoát, đến khi trở về trong đại hội thì tất cả đều được dự hội, vì họ đi giống ta nên họ ở cùng ta và họ gặp ta mãi mãi”, đó gọi là đồng tính pháp.
Vậy cuộc sống chúng ta tuyệt đối có đời sau, thì chúng ta phải tu học cho tốt để chúng ta có một ngôi vị, một quả vị tốt và chúng ta có một đời sau thật tốt, mà bắt đầu từ hôm nay.
Tâm và pháp rất mênh mông và bao la, nó rất phức tạp và mâu thuẩn, nhưng khi chúng ta biết được nó rồi, thì tâm và pháp nó là anh em, nó là gốc và ngọn, là cái để chúng ta phát triển trở về hoàn thiện chính ta.
Một khi hiểu được nguyên lý trung tâm thì chúng ta bắt đầu quay về, vì quay về là phản bổn là gặp lại mình. Còn ra đi là ta bỏ chủ thể chân tâm mà đi theo cái hư huyễn của vọng tâm.
Chúng ta có mặt trên hành tinh là một thực thể mà chúng ta không thể chối bỏ thực thể đó. Vì trung tâm vạn năng có thực, hành tinh có thực, và con người chúng ta có thực, tất cả đều có thực, là sự thực của gốc và ngọn.
Trước đây vì lầm nên chúng ta bỏ gốc theo ngọn, khi chúng ta giác ngộ rồi thì chúng ta lại trở về gốc để điều phục cả gốc và ngọn, thì chúng ta sẽ được sống đời đời. Trở về trung tâm, trở về chân tâm là gốc, là quyền lợi tuyệt đối của chính ta.
Thống hóa đã cho mỗi con người một hạt tâm, một linh hồn, thì ngài muốn linh hồn chúng ta được phát triển trở về gốc, để được độc lập sống trong trung tâm thường trụ đó. Như vậy, duy tâm thượng trung tâm vạn năng là vũ trụ quan, là phần đại ngã. Duy tâm hạ ý thức tương tác là phần nhân sinh quan, là tiểu ngã. Giữa tiểu ngã và đại ngã có một hệ thống rất là chặt chẽ, nên nguyên tắc tiểu ngã phải trở về đại ngã. Nếu tiểu ngã mà tiếp tục ra đi thì trở thành phân biến, càng ra đi thì càng phân biến đến cực vi tiểu ngã, biến thành các loài như hóa sinh, thấp sinh, noãn sinh v.v…Vậy càng trở về thì chúng ta càng lớn dần. Trở về bằng những pháp môn trị liệu của ba thừa, bằng những phương pháp tu chính rất cơ bản, như những bài thuốc trị liệu các chứng bịnh mà trước đây chúng ta đã từng bệnh. Đó là bệnh lầm lẫn sai biệt, bệnh vô minh, bệnh chối bỏ gốc hoặc quay lưng đi. Thì bây giờ chúng ta hãy nhờ ba thừa kinh, vì đó là kho tàng linh dược mà chư Phật đã chế biến rõ ràng, thì chúng ta phải uống những loại thuốc đó để dần dần chữa được các loại bệnh đó, để chúng ta trở thành những con người có một tâm chủ mạnh khỏe, đứng vững trong đời sống vũ trụ của thời gian và không gian mà không còn sợ chết nữa.
Chúng ta không sợ chết là dấu hiệu sạch bệnh tâm, chúng ta không bị biến đổi tâm thức vô thường, chúng ta không dính nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng và ngã tướng, là chúng ta đã sạch bệnh tâm, chúng ta không bị đoạn kiến tức không cho rằng chết là mất, đó là sạch bệnh tâm. Chúng ta ở trong con đường thường chiếu, các pháp không còn bị phân tán nữa mà trở về một gốc thành tựu chân tâm pháp tính thì vạn pháp có đủ, tâm pháp đã hợp nhất rồi thì đó là con đường hạnh phúc vĩnh viễn.
CHƠN TÂM VÀ VỌNG TÂM
Giữa cái vọng và cái chơn chúng ta rất dễ lầm nó vì vọng là cỏ mà chơn là đất. Cỏ luôn gắn liền với đất, nhân đất mà có cỏ nên chúng ta dễ lầm nhận cỏ ấy làm tâm.
Ví như sóng từ nước sinh ra, sóng là sự biến đổi từ tính yên lặng của nước tạo ra, thì sóng đó thuộc về vọng. Trong sóng không bao giờ có tính phản chiếu, vì sóng là sự biến động làm mất đi thực thể vắng lặng của nước. Tuy nhiên sóng và nước là một nhưng sóng khác nước là ở chỗ chuyển động làm mất đi tính ánh sáng phản chiếu. Chỉ khi sóng trở về sự yên lặng của mặt nước mà không có gợn thì bây giờ mới phát ra sự phản chiếu. Vậy chơn tâm là mặt nước không bị biến đổi, còn vọng tâm là sóng đã biến đổi.
Như tôi đã ví dụ ở phần trên thì chân tâm là thực địa, còn vọng tâm là cỏ từ thực địa ấy sinh ra. Chúng ta hãy lìa cỏ, lìa các thực trạng ở phần trên của đất để quay về thựa địa thì phần bên dưới là đất, thì đất là chân tâm, còn cỏ là vọng tâm.
Như vậy, cái gì biến động mà không có ứng tác sở trí của định chiếu thì đó là vọng tâm. Muốn tránh được vọng tâm thì luôn luôn chúng ta phải giữ con đường bát chánh đạo mà đi, dần dần chúng ta sẽ trở về chân tâm. Bát chánh đạo đầu tiên là chánh kiến, tức là cái thấy của chúng ta bằng nghĩa chánh. Như chúng ta thấy muôn sự vật trên đời, nó luôn luôn biến đổi chuyển động không dừng lại, đó là thấy chánh. Hoặc như ta thấy vật chất là vô thường nhưng trong vật chất nó vẫn có tính thường trụ, thì đó là thấy chánh.
Bát chánh đạo là phương pháp lập thiền, còn thất giác đạo chi là tinh chế thiền định để đưa chúng ta trở về chân tâm. Khi có chân tâm thì chúng ta có chân ngã.
Vậy mặt bằng của duy ngã là phải hóa, phải dùng phương pháp để hóa, tức hóa vọng thành chơn, hóa cái sai biệt của ý niệm trở về trung tâm hóa cái chấp trước của vạn pháp, cái dính mắc và kẹt trong vạn pháp ấy mà trở về để ăn cái tinh hoa vạn pháp và không còn bị kẹt trong tướng vạn pháp, thì đó là hóa chân tâm. Tức là chúng ta không kẹt trong tướng vạn pháp mà lại biết ăn cái tánh của vạn pháp, và tập hợp tinh hoa vạn pháp trở thành một khối lớn thì vạn pháp không còn bị biến động nữa.
Đạo của sự sống trở về chân tâm là đạo của trung đạo và không có sở kiến chấp. Con người nào có nhiều sở kiến chấp thì đồng nghĩa có nhiều vọng tâm.Càng kiến chấp là càng vọng tâm, càng bị kẹt vào các sắc tướng, thì đó là lực hấp dẫn cho vọng tâm. Kẹt trong các âm thanh mà không tinh lọc được âm thanh của từng cao thì cũng bị vọng tâm. Kẹt trong các hương vị mà không tinh lọc được tính tinh hoa không biến thể của hương vị thì cũng bị vọng tâm. Mọi sự xúc chạm mà không thù thắng nó, không có lối thoát, không giải được mà bị mê đắm thì đó là vọng tâm.
Vì vậy, chúng ta phải vững trên con đường bát chánh đạo. Nhờ có chánh kiến mới có chánh tư duy, nhờ có chánh tư duy mới có chánh ngữ, nhờ có chánh ngữ mới có chánh nghiệp, nhờ có chánh nghiệp mới có chánh mạng, nhờ có chánh mạng mới có chánh tinh tấn, nhờ có chánh tinh tấn mới có chánh niệm, nhờ có chánh niệm mới có chánh định. Vậy chánh niệm là then chốt, là tập hợp sức mạnh của ý niệm chân chánh để vào chánh định. Vậy, thấy chánh, nghĩ chánh, làm chánh và niệm chánh để giữ yên bờ cõi tâm pháp là nền tảng để chúng ta vào chân tâm.
Con người chúng ta có tổng tinh hoa rồi, nhưng phải tinh lọc tinh hoa để có vàng ròng, để có chân tính ròng. Nếu không tinh lọc tinh hoa thì chắc chắn chúng ta sẽ bị quặng cấu ở trong phần tinh hoa tính ấy. Về vàng thì nguyên tắc là sinh từ đá, nhưng khi hình thành vàng thì vàng vẫn để lại cái quặng nhất định của nó. Nên buộc chúng ta phải ly tâm phân kim và loại trừ quặng ra khỏi đời sống của vàng thì chúng ta mới có vàng mười. Vậy vàng mười là chân tâm, quặng là vọng tâm. Loại quặng ra khỏi đời sống của vàng chúng ta sẽ có tinh thể ròng vàng. Loại hoặc lậu ra khỏi đời sống của tổng tinh hoa chúng ta sẽ có chân tâm. Chúng ta không nhằm lẫn cái sóng ấy mà trở về sự yên lặng của mặt nước, là không nhô lên bất cứ một móng niệm nào thì lúc đó ánh sáng từ chân tâm phản chiếu. Thì chính pháp là chỗ này, chân lý sự thật là chỗ này.
Nếu chúng ta thiền định mà phát ra vọng đĩa bay, vọng tam thiên đại thiên thế giới, vọng cảnh sắc nhà Phật, vọng cõi thiên đàng, vọng các tướng trang nghiêm của Phật… Đều là các tướng pháp hư huyễn của ý niệm vọng ra mà thôi, chứ không có thực thể cảnh Phật. Mà cảnh Phật là chân tâm, cảnh Phật là kiến tánh, cảnh Phật là tánh bất biến không bị xao động, đó mới là cảnh Phật, là nhất thể không bao giờ thay đổi.
Chúng ta phải hiểu rằng cảnh Phật là sự soi chiếu trong ngoài vẳng lặng trong suốt như pha lê lưu ly, ánh sáng tỏa ra như kim cương tính mà không có một chút gợn. Đó là thực thể chân tướng của Phật.
Phật là kim cương thì đâu có một cái hoặc nào trong kim cương đó. Phật là vàng ròng thì không có một cái quặng cấu nào trong vàng ròng đó. Thì đó là thực tướng và cảnh giới của Phật đó. Nếu được như vậy thì đối với tam thiên đại thiên thế giới này đều là cảnh Phật cả. Đối với đất nước gió lửa và sông núi là cảnh Phật cả, và những gì vũ trụ có là nơi đó đức Phật đều có thể hóa cảnh trí Phật. Thực thể của Phật là cảnh trí viên giác, là chân tính ánh sáng viên dung không thuộc về hình thể sắc tướng. Vì tất cả những gì có sắc tướng thì bị biến đổi, bị thành trụ hoại không, bị sinh trụ dị diệt. Tất cả những tướng ấy không thực có trong đời sống của chúng ta, nó chỉ là cái bóng mà thôi.
Chúng ta trở về thực tướng, biết cái bóng ấy là khách quan tự nhiên của vũ trụ nên nó không làm gì thay đổi được chúng ta. Chư Phật trở về thực tướng và thành tựu chân tâm kim cương nên đến bất cứ trong tam giới, dù là chỗ tận cùng đau khổ của chúng sinh thì cảnh trí của Phật cũng không bao giờ mất.
21/8/ Kỷ sửu
GIẢNG NGHĨA VỀ PHÁP TẠNG
Hôm nay chúng ta định nghĩa để làm sáng tỏ về hệ thống pháp tạng một cách khách quan tinh ròng mang tính minh triết. Để không còn bị vướng mắc hoặc kiến chấp ở một quy trình nào nữa, mà chúng ta nhìn nhận pháp tạng một cách chân thật.
Đứng trên tinh thần công luật học thì pháp tạng là hệ thống pháp tính và pháp thể, tổng thể tinh hoa vũ trụ quan. Định nghĩa pháp tạng là tính tổng thể tinh hoa vũ trụ quan kể cả pháp tính và pháp thể. Nếu đặc ra chỉ có pháp tính mà không có pháp thể thì làm sao để kết tinh được tinh hoa tinh ròng cuối cùng của giá trị pháp tạng. Ví như pháp tạng là liên hoa thì liên hoa ấy từ bùn mà ra. Vậy bùn chính là nền tảng của pháp tạng. Như vậy thế giới nhị nguyên là nền tảng của pháp tạng và thân ngũ ấm là nền tảng và là giá trị biện chứng pháp của pháp tạng. Như vậy pháp tạng hoàn toàn không có sự phân biệt trong ranh giới giữa hữu và vô. Còn nếu chúng ta phân biệt và làm cho giá trị hữu và vô ấy bị biến đổi là không thuộc về kho tàng pháp tạng.
Đối với kho tàng pháp tạng là bất ly thế gian pháp để thiết lập kho tàng pháp tạng trong sự nghiệp hóa thân của tam thiên đại thiên thế giới. Về phần thể thì tam thiên đại thiên thế giới là nền tảng của kho tàng pháp tạng. Như vậy định nghĩa pháp tạng là tất cả tổng thể tinh hoa về mặt lý sự, về mặt tính thể và dung thông không bị trở ngại, thì đó là pháp tạng chính thống.
Nguyên tắc của pháp tạng là phải dung thông, nhưng nếu chúng ta còn bị kẹt trong chỗ phân biệt đối đãi thì chỉ ở biên bìa của pháp tạng mà thôi. Thế thì các pháp chính thống sẽ giúp chúng ta vào trong trung tâm của pháp tạng để điều ngự được pháp tạng và nắm giữ được tất cả những mối quan trọng nhất của hệ thống chuyển động pháp tạng và hoàn toàn không bị trở ngại trong hệ thống pháp tạng ấy.
Như vậy những pháp bất tương ưng là những rào cản sẽ không đưa chúng ta trở về kho tàng pháp tạng được, và chúng ta sẽ không bao giờ đạt được bửu ý và vô tận ý pháp tạng được.
Chúng ta phải thấy pháp tạng đã hiển nhiên trong sự nghiệp kho tàng vô tận của vũ trụ quan và nhân sinh quan; là nơi nào có sự sống của phần tính và thể thì nơi đó có pháp tạng. Nghĩa là pháp tạng không có biên giới. Vì sao? Vì không thể tách pháp tính ánh sáng vô biên mà thực hiện công trình pháp tạng và các pháp thể tương tục sinh diệt vô tận không chấm dứt cũng không có luôn. Như vậy chân đế của pháp tạng là trung tâm, hay tối thượng đế của pháp tạng là ba trục kinh chủ. Chỉ có khi nào ba trục kinh chủ bị sụp đổ hoàn toàn thì pháp tạng trong hệ thống sống của mười phương Như Lai và pháp giới mới bị chấm dứt. Vậy pháp tạng của chân tính ánh sáng vô biên là tính thường trụ. Còn pháp tạng ở lập thể vì do chưa quay về hệ thống pháp chính thống nên nó bị vô thường. Như vậy tính cứu cánh của pháp tạng hoàn toàn có thường trụ, nhưng mà phương tiện bất tương ưng của tính pháp tạng thường trụ ấy bị thay đổi là do chính nó lầm lẫn.
Pháp tạng là tính kho tàng mà con người phải khai thác và tìm kiếm nó; phải xác định tính chất kho tàng để trở về với kho tàng. Như vậy ta là con người sinh từ kho tàng hãy trở về với kho tàng và sinh từ pháp tạng hãy trở về với pháp tạng.
Pháp tạng tổng thể của nó được chia cho rất nhiều phương án, công án, rất nhiều pháp môn và phương tiện để dẫn chúng ta đến kho tàng pháp tạng vô biên ấy mà sống đời đời trong trung tâm kho tàng pháp tạng ấy.
Pháp tạng nếu ở trong hành vi thì có bất tương ưng và tương ưng. Nếu tương ưng là hệ thống chính thống pháp tạng. Còn bất tương ưng thì làm biến đổi tính chính thống và làm cho pháp tạng của giá trị tính bị che khuất.
Ví dụ như pháp tạng của ông Đề Bà Đạt Đa bị che khuất là do lòng tham vọng, hoặc pháp tạng của ông A Nan bị che khuất là do ông nhớ quá khứ và hiện tại quá nhiều mà không bao giờ quay về trục chân như nên không vô được cửa vô ngại.
Như vậy ở một góc độ nào thì giá trị pháp tạng cũng đều ứng giải cho chúng ta. Và khi chúng ta không còn bị lệch giá trị trục của pháp tạng thì kho tàng pháp tạng được hiển nhiên trong đời sống của chúng ta.
Đối với tam thừa tạng kinh là lập phương tiện nghĩa lý để giải thông cho tổng thể của pháp tạng trong vũ trụ quan và nhân sinh quan. Vậy thừa ấy lấy từ đâu ra? Thừa lấy từ tổng thể tinh hoa ra và lấy từ trục bất biến không sinh diệt để làm thừa. Bởi vì khi chúng sinh còn có tăng giảm thì có thừa, nhưng đến khi hết tăng giảm thì tam thừa này cũng hoàn toàn không có, mà chỉ có một kho tàng duy nhất mà thôi.
Như vậy có thừa là vì giá trị tiến hóa không đồng đều và sự tiến hóa của giá trị pháp tạng chưa trở về thống nhất, nên Như Lai đưa tam thừa là nhằm mục đích đưa chúng sinh đến chỗ thống nhất.
Thế nào là bất lập văn tự và giáo ngoại biệt truyền?
Nghĩa này muốn nói là không còn đem giáo lý để mà truyền bá nữa. Giáo lý là phương tiện lập thể, là các ngôn ngữ chữ viết và là nghĩa lý của các kinh kể cả hệ cấp tối thượng thừa. Thì trong hệ cấp truyền bá, từ các nghĩa lý truyền bá, văn tự ngôn ngữ truyền bá thì không truyền bá nữa.
Trực chỉ chân tâm cho đối với người đã sạch các nghiệp lậu nhưng lại còn kẹt một chút xíu về ngã sở; cũng giống như chúng ta lột bẹ cây chuối; khi lột gần đến lõi, bẹ đã kề sát với lõi nhưng chưa phải lõi, mà ta lại tưởng lầm đó là lõi. Thì Đức Tổ mới chỉ cho cái bẹ cuối cùng đó cực kỳ mỏng còn dính trên lõi chuối đó. Vì thế mà Tổ mới dùng một biện pháp mạnh để làm cho người kiến chấp sở ngã về năng lực của mình, đó gọi là bị ảo giác năng lực cuối cùng. Vì ảo giác năng lực cuối cùng là nguy hiểm nhất của các bậc thánh, vì mình chưa chứng quả mà lại cho rằng mình chứng quả. Thường thường đối với các tổ truyền nhiệm và giải quyết vấn đề này là thuộc về công vụ, thuộc về vai trò và sự sắp xếp cho việc kế thừa hoặc có liên quan đến kế thừa.
Người còn kẹt ở nghiệp là còn bị mọi sự rào cản không bao giờ trực chỉ chân tâm được, mà trực chỉ chân tâm là phải sạch hoặc lậu, sạch nghiệp lậu và hoàn toàn làm chủ được các nghiệp, tức là chuyển được nghiệp thì đó là đầu đời của trực chỉ chân tâm.
Như vậy ông Thần Quang Trực chỉ chân tâm không phải trong thời kỳ làm quốc sư cho vua Lương Võ Đế, mà là thời kỳ sau đó chín năm tại núi Tuyết Sơn. Vì khi đó Tổ Đạt Ma biết Thần Quang quả đã già nhưng chưa chín nên Ngài phải đợi đến chín năm sau. Khi quả Thần Quang đã chín thì sự bừng sáng và hối thúc trong ông phải đến gặp Tổ. nghĩa là ông đã ngộ ra rằng: trước đây ta đã gặp Tổ mà lại không biết Tổ. Đó là do ảo giác năng lực cuối cùng còn sót lại trong ông. Và khi ông đến gặp Tổ thì Tổ nói rằng: “Ngươi hãy cho ta một nắm tuyết hồng” Lúc bấy giờ Thần Quang liền hiểu cái ngã tướng cuối cùng ta chưa đánh sập nó. Nên Ngài liền chặt đứt cánh tay, là đồng thời một sự bức phá ngoạn mục, nhưng khi chưa chặt xong cánh tay thì ông đã kiến tính. Vậy câu bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ chân tâm, kiến tính thành Phật” là Tổ Đạt Ma nói để truyền tâm ấn cho Thần Quang ngay lúc đó.
Tóm lại, câu bất lập văn tự là dành cho những bậc vô học, còn đối với những người còn trong phạm vi hữu học là còn phải tiếp tục lập văn tự, ví như trứng gà đã ấp thành con rồi thì không cần phải cho mẹ nó ấp nữa. Còn cái trứng ấy chưa thành con thì cần phải tiếp tục cho mẹ nó ấp. Vậy lập văn tự cho những trứng gà hoàn toàn chưa thành con, và bất lập văn tự cho những trứng gà đã hoàn toàn thành con. Như vậy chúng ta đã xác định được lập văn tự cho ai, và không lập văn tự cho ai. Còn trực chỉ chân tâm thì ai là trực chỉ được và ai là không trực chỉ được.
Vậy chúng ta phải hiểu Ma không thuộc về cái bóng, mà ma là sự ma sát của ý thức phân biệt, ma sát của ý thức nghiệp lực, ma sát của ý thức tâm pháp và ma sát của những thứ làm cho mình quá khổ đau, luôn luôn dập dẫy, mệt mỏi khắc khoải và bị băng hoại bởi những vực thẳm trước mắt và hai bên. Nên Đức Phật nói: chính nó là ma mà nó lại sợ người khác là ma. Như vậy chúng ta xác định tất cả những sự hư dối đó là ma. Như những người nói Pháp Phật mà không có giá trị như Phật và hoàn toàn không chiếm lĩnh được giá trị tinh hoa của Phật, là không có thực tướng Phật thì người ấy là Ma.
Những người còn dãy đầy nghiệp lực mà tự cho mình là trực chỉ chân tâm, kiến tính thành Phật là tự hư dối với chính mình. Và nếu tiếp tục hư dối với chính mình thì ma nghiệp của chính mình nó sẽ luôn luôn tấn công và không bao giờ dừng được.
1/6/Kỷ sửu
18 GIỚI XỨ
Hôm nay chúng ta minh bạch về vấn đề 18 giới xứ có biến đổi không? Chúng ta phải xác định rằng tất cả muôn hình tướng có đều từ một gốc mà ra. Như gốc là từ kim loại nắn ra, hoặc là từ cục đất nắn ra, đó là tính biện chứng. Như vậy nếu nắn ra hình thể con người và muôn hình thể của các loài khác thì từ đâu mà có?
Ngài bảo ông Chơn Ngọc Biện Hộ xác định 18 giới xứ như thế nào?
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Thưa Cha, như chúng ta đã học và biết rằng mặt bằng trung tâm duy ngã vạn pháp kinh là biện chứng tổng hàm hoa của vũ trụ. Thì nhân bản duy ngã đại thể là mang tính biểu trưng cho tổng hàm hoa đó vì nhân bản duy ngã đại thể là hội đủ tổng tinh hoa của siêu sắc thể và sắc thể. Như vậy tất cả vạn pháp được hình thành ra trong mặt bằng của thế giới nhị nguyên cũng như tất cả các thế giới ngân hà, thiên hà thì từ trung tâm vạn năng, tổng tinh hoa siêu sắc thể của chân tính siêu cực hóa sinh.
Như vậy chúng ta có 18 giới xứ của sáu căn, sáu trần và sáu thức là 18 phương tiện hóa tâm pháp. Nó không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện để kết tinh tâm pháp và dẫn đến sự cứu cánh. Mà phương tiện này là đặc trưng cho nhân bản duy ngã đại thể? Vì chỉ có nhân bản hạt tâm đã tròn đủ nhân tế phật tính thì mới có ý thức. Như vậy sáu thức này là sự hiểu biết của sự phân biệt, chứ không phải là hiểu biết của sự tròn đủ như ánh sáng chân tính. Cho nên chúng ta thường bị kẹt ở trong chỗ 18 giới xứ này. Vậy 18 giới xứ này được sinh ra từ trung tâm vạn năng chân tính ánh sáng của hạt tâm lý tính và chính chúng ta có hạt tâm lý tính thì mới hóa được phương tiện 18 giới xứ đây. Như vậy nó chính là phương tiện nhập hóa tổng tinh hoa từ sắc thanh hương vị xúc pháp để chúng ta trở về thành tựu tâm pháp một cách viên mãn. Nếu chúng ta lầm và nhận 18 giới xứ làm tâm, thì ngược lại nó sẽ làm chủ ta và chúng ta sẽ bị kẹt chỗ này, mà không trở về được với chân tâm thực tướng của mình.
Ngài dạy: xác định về cái nền của tính biện chứng như con người ta lấy đất tạo ra muôn hình thể. Nhưng thực tế phải có tri thức hiểu biết kết hợp với cục đất đó để làm ra mọi hình thể hoặc phải có tri thức hiểu biết tác động vào kim loại để tạo ra mọi hình thể.
Như vậy chúng ta lấy cái biết kết hợp với kim loại, cái biết kết hợp với cục đất thì mới nắn ra được muôn hình vạn trạng. Vậy nếu ta tách một trong hai cái ra thì sẽ không nắn được gì cả. Vậy đây là một định luật muôn đời và mãi mãi vĩnh cửu mà không thể thay đổi.
Vậy nếu ta tách vật chất ra khỏi đời sống của tri thức hoặc tách tri thức ra khỏi đời sống của vật chất thì sẽ không làm ra một tác phẩm gì cả. Vậy phải có cả tri thức và vật chất mới có thể làm ra được tác phẩm. Bây giờ chúng ta nâng lên một tầng cao hơn thì chúng ta xác định có trung tâm vạn năng. Vì nếu không có trung tâm vạn năng và không có hạt tâm lý tính tổng hàm hoa siêu sắc năng hóa sắc năng thì làm sao lập ra muôn hình thể đây.
Như vậy hệ thống duy ngã vạn pháp kinh là người ta nói đến siêu sắc năng và sắc năng. Tức là siêu sắc và sắc chớ không có không. Nghĩa của không trong bát nhã là vô sắc , thì vô sắc là siêu sắc năng. Như trong bát nhã nói rằng: “vô sắc tức thị sắc”, thì vô sắc tức là sắc, như vậy ý của bát nhã muốn nói sắc này là từ vô sắc mà ra. Vậy thì vô sắc là siêu sắc năng.
Ngài hỏi ông Chơn Đạt Pháp Trí, gốc của trung tâm vạn năng và hạt tâm lý tính có giới xứ không? Và có mất không?
Ông Chơn Đạt Pháp Trí: Thưa Cha gốc của trung tâm vạn năng và hạt tâm lý tính là không có giới xứ và không mất mà hình thành ra giới xứ.
Ngài hỏi tiếp hình thành ra giới xứ để làm chi?
Ông Chơn Đạt Pháp Trí: Thưa Cha để nhằm trong định luật hóa đối với tất cả vạn vật.
Ngài dạy: thành lập 18 giới xứ là nhằm mục đích để hóa hạt tâm lý tính kim cương bất hoại, đó là chính đáng nhất của sự nghiệp vũ trụ. Nhưng con người vì lầm lẫn cho 18 giới xứ đó là thực mà cuốn chạy theo nó và bị nó quay cuồng rồi điên đảo trong 18 giới xứ đó.
18 giới xứ đối với duy ngã đại thể là phương tiện, nhưng nếu duy ngã đại thể bị sụp đổ 18 giới xứ này thì trở thành sa đọa và khổ não. Như các loài ngạ quỷ thì 18 giới xứ trở thành nghiệp báo dữ dội, hoặc sụp xuống các loài động vật thấp thì 18 giới xứ không còn tròn đủ để hóa vì nó không có ý thức. Như vậy xét về 18 giới xứ có hai mặt, mặt thứ nhất là rất lợi khí cho hệ thống duy ngã đại thể, mặt thứ hai là rất nguy hiểm cho hệ thống duy ngã đại thể.
Nếu duy ngã đại thể bị sụp xuống các tầng A Tu la, ngạ quỷ, súc sinh và địa ngục thì họ không đủ 18 giới xứ để hóa, cho nên sự ràng buộc của 18 giới xứ đối với nghiệp lực là có một vận tốc lớn hơn và khủng khiếp hơn, cho nên về mặt lợi khí đối với những tầng độ ấy không có. Nhưng khi thăng hoa lên loài người thì 18 giới xứ tròn đủ; nếu là cấp hạ nhân thì năng động của 18 giới xứ kém hơn; nhưng nếu càng lên cao các cấp đại nhân hoặc trời thì 18 giới xứ càng mạnh hơn và sắc hóa vĩ đại hơn.
Như vậy 18 giới xứ nếu chúng ta giác ngộ nó, thì nó là mặt bằng và điều kiện của sự hóa tốt nhất cho tất cả mọi sự nghiệp cứu cánh. Nhưng nếu chúng ta lầm nó thì nó cũng là xấu nhất, vì nó làm tiêu hao hạt tâm lý tính, vì nó là móc xích, là dây chuyền nghiệp liên trùng cột ý thức ta trong 18 giới xứ đó.
Vậy chúng ta phải nỗ lực công phu và vận hành 18 giới xứ từ chiều hạ qua chiều thượng để kết tinh được kim cương chân tâm và không còn kẹt trong 18 giới xứ nữa, thì chúng ta được ở trong chân tính ánh sáng và hoàn toàn làm chủ 18 giới xứ. Và 18 giới xứ là phương tiện đời đời của Như Lai và không bao giờ bị mất. Còn đối với chúng sinh vì chưa ra khỏi 18 giới xứ nên trở thành nghiệp dĩ đời đời. Tức là nó ràng buộc giữa căn mắt đối với sắc, căn tai đối với âm thanh, căn mũi đối với hương, căn miệng đối với vị, căn thân đối với xúc và căn ý đối với pháp. Nó ràng buộc mà không cho chúng ta yên nghĩ bất cứ một giờ nào. Tức thân chúng ta biến động trong 18 giới xứ đó và tâm hoàn toàn bị trói trong 18 giới xứ đó. Và chính chúng sinh điên đão cũng trong 18 giới xứ đó.
Điên đão không bởi do thần kinh, vì thần kinh là yếu tố tập hợp cho tất cả những tác động của 18 giới xứ nên mới điên. Tức điên là vì hụt hẫn những lòng tham muốn về mắt, về tai, về mũi, về miệng, về thân và ý. Hoặc hụt hẫn về lòng si mê đối với mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Và vì ta mất mác tất cả những thứ mà cố cho là thực nên phát sinh ra lòng giận hờn đau khổ. Rồi tất cả những điều rối ren trong đời sống thì cũng đều từ 18 giới xứ đó.
Như vậy 18 giới xứ là mặt bằng để hóa, đưa chúng ta vào đỉnh vinh quang của kim cương chân tâm. Nhưng ngược lại nó cũng là mặt bằng để nhận chìm chúng ta vào trong cõi u minh. Đức Phật đã thấy về sự cấu trúc của hệ thống duy ngã và muôn loài cùng tất cả mọi sự chuyển động của các dòng nghiệp từ trong 18 giới xứ như thế và Ngài nói như thế. Như vậy đức Phật nhân vào cái thực ở trong đời sống của thế gian, của vũ trụ, của loài người mà nói. Tức là không nói thêm và cũng không nói bớt.
Như vậy con người muốn làm ra một tác phẩm nào thì phải lấy trí huệ, tư tưởng, ý niệm và kết hợp cùng một vật thể nào đó để làm ra tác phẩm. Như vậy là tổng hàm hoa siêu sắc năng hóa sắc năng là trung tâm vạn năng hóa lập thể là nhằm mục đích thiết lập 18 giới xứ để thực hiện những công trình cao nhất của vũ trụ.
Thành quả cao nhất của 18 giới xứ là hóa kim cương chân tâm, là kết quả cao độ nhất của hệ thống duy ngã đại thể. Thì công trình của duy ngã đại thể hoàn toàn nằm ở đây. Vậy chúng ta chớ lầm 18 giới xứ là nơi thực tướng mà phải biết rằng 18 giới xứ là phương tiện hóa thực tướng chân tâm kim cương.
Đức Phật hỏi đức Ca Diếp rằng: Hởi ông Ca Diếp, ông có thể ra khỏi 18 giới xứ ấy không? Đức Ca Diếp thưa rằng: Vì sự nghiệp cứu cánh cao nhất của muôn loài và rất nhiều những hành tinh xa xôi đang chờ tất cả những Bồ Tát, vì đại nguyện lớn nhất thì con nguyện ra khỏi 18 giới xứ ấy.
- Vậy thì ông còn giới xứ nào nữa không?
- Thưa Ngài, con còn giới xứ 19 là xứ sở của thường trụ, là xứ sở của mọi sự hóa thân và hoàn toàn không bị biến đổi, nên con được làm chủ 18 giới xứ kia.
Như vậy, đức Ca Diếp không chấp không của cái không mà bèn nói về xứ sở 19 là hoàn toàn ông có siêu hữu hóa trong sự nghiệp của 18 giới xứ, và hoàn toàn làm chủ 18 giới xứ để có một xứ sở vô biên.
Như vậy, sự nghiệp của chúng ta là sự nghiệp hóa 18 giới xứ và chuyển đổi 18 giới xứ ấy thành xứ sở thứ 19. Thì xứ sở ấy là vĩnh hằng để điều hợp và làm chủ 18 xứ sở trong không gian, thời gian và suốt những hành tinh thì chúng ta cũng đều làm chủ của chính nó.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!