Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013

LỊNH TINH LỌC


Hôm nay chúng ta xác định về lịnh tinh lọc, nhân đâu mà có đứng về chủ quan và khách quan. Để chúng ta tìm ra một phương trình mang tính hiện thực hóa trong đời sống của nhân bản cũng như đời sống của các giáo mối, các tôn chỉ đối với lịnh tinh lọc này.
Hôm nay ta sẽ luận cứ về lịnh tinh lọc, điếu này cũng mang tính chất khoa học. Nhằm để toàn thể con cái Hồng Ân giác ngộ về lịnh tinh lọc này. Hiểu rõ vì sao có lịnh tinh lọc, và kết quả cuối cùng của lịnh tinh lọc sẽ như thế nào?
Như chúng ta đã biết lời của Đức Bạch y đại sĩ Quảng Đại Linh cảm ứng Quán Thế Âm. Ngài phát lịnh tinh lọc và hoàn toàn lịnh tinh lọc là có thực trong đời sống của chúng ta nói riêng và nhân loại nói chung. Hoặc là đời sống của nhân bản nói riêng và tôn giáo nói chung. Để chúng ta thừa nhận lịnh tinh lọc như một định luật mà không thể thay đổi.
Ngài bảo ông Chơn Thăng Ấn Chuyển phát biểu để xác định về lịnh tinh lọc nhân đâu mà có?

Ông Chơn Thăng Ấn Chuyển: Thưa Cha, sự nghiệp công luật này là do 10 phương Như Lai và Đức Mẹ Quán Thế Âm thiết lập. Và Mẹ cũng từng dạy về lịnh tinh lọc này đối với tất cả dòng Chơn, và nói rộng ra nữa là nhân ở thiên cơ của trời đất mà Mẹ cúng từng dạy về sự tinh lọc của trời đất đối với nhân loại trên hành tinh chúng ta. Đó là tính khách quan.
Nay Mẹ day lịnh tinh lọc là khảo sát tất cả các hàng lớp trong Hồng Ân để chọn những bậc thánh sĩ, chân thần đã thành tựu bất thối chuyển trong hệ thống của công luật 10 phương để thực hiện công án. Như vậy lịnh tinh lọc là lọc tất cả những người con đã làm sai đi con đường của sự nghiệp công luật, hoặc đã làm mất đi những giá trị đạo đức tu chính của mình hoặc phạm phải những tội trọng về bất hiếu, bất nghĩa, bất trung đối với sự nghiệp công luật. Thì tất cả những sự sai lầm đó sẽ bị tinh lọc nếu tội nặng có thể ra khỏi Hồng Ân.
Như vậy chúng ta lấy sự tu học và lấy tất cả những công đức, công quả của mình để làm sự nghiệp và chứng minh cho sự thành công. Kết quả đó là cho những người con có chân hành, có trí huệ và cho những người con biết làm công án công luật theo lời Mẹ và lời Cha. Và làm sai đi đường lối của công luật đã vi phạm những điều trọng tội thì sẽ bị tinh lọc ra khỏi Hồng Ân công luật.
Ngài dạy, lịnh là sức mạnh, và sức mạnh ấy là thuộc về trung tâm. Đứng trên khách quan thì thế giới duy ngã là thế giới của tổng tinh hoa. Và tổng tinh hoa là thế giới của duy ngã. Một khi hình thành cơ xưởng và hệ thống để rèn đúc và kết tinh những sản phẩm tốt nhất thì quy luật, dịnh luật không thể thay đổi. Về tính triệt để của sự tinh lọc là loại trừ tất cả những quặng cấu, những thứ mà không thể kết tinh được thì buộc phải loại trừ. Loại trừ để kết tinh và đạt được những thành phẩm tốt nhất. Thì đó là tính thuyết phục cao nhất của định luật khách quan mà bất cứ ai trở thành những hạt nhân trong bản địa tinh hoa tất yếu của định luật này thì đều phải chịu định luật chuyển tải, đào thải và kết tinh rất khách quan của vận luật tuần hoàn. Như vậy vận luật tuần hoàn hoàn toàn là thực tướng và đang hiện hữu trong đời sống của đại thể duy ngã.
Chúng ta xác định về tính thuyết phục: lịnh là sức mạnh của trung tâm và hoàn toàn mang tính định luật, quy luật và công luật. Là sức mạnh tổng thể của một hệ thống cơ cấu thuộc về hệ thống thống hóa.
Về tính khách quan ta thấy rằng: phàm là có tổng thể tinh hoa thì nhất định sẽ có tinh lọc. Như vậy hễ ai có sự sống, có hạt tâm và có tổng thể tinh hoa thì nhất định có tinh lọc. Từ trong cho đến ngoài, từ nội đạo đến ngoại đạo, từ thượng tầng đến hạ tầng đều chịu chung một định luật mà không thể thoát được.
Nếu xác định về thành phẩm tinh lọc của giới cấp, thì đối với chúng ta là người công luật đang thực hiện những công trình mà 10 phương giao phó thì chúng ta cũng chịu tinh lọc đó. Thí dụ về thành phẩm của hệ thống tinh lọc, như muốn làm một con dao bằng sắt thì phải qua rèn đúc. Nếu nâng lên cấp cao hơn là muốn có một sản phẩm vàng ròng tốt nhất thì cũng phải qua hệ thống tinh lọc. Như vậy từ các cấp độ sơ cấp đến đại cấp và từ hạ cấp đến thượng cấp thì dù ở cấp độ nào theo một quy trình chuyển hóa thì lịnh tinh lọc ấy luôn luôn nó gắn liền trong đời sống của hệ thống lập thể. Kể cả các loài cũng chịu định luật ấy.
Đến khi nào chúng ta mới ra khỏi định luật tinh lọc ấy? Đến khi nào chúng ta thành tựu từ tứ thánh trở lên đến vô thượng chính đẳng giác thì mới ra khỏi định luật tinh lọc ấy.
Chúng ta là người công luật, nếu là nhân danh và thế vì đúng nghĩa thì chúng ta phải giác ngộ về lịnh tinh lọc này là một trách nhiệm rất thiêng liêng cho đời sống của mọi cá nhân, thì chúng ta bắt đầu tinh lọc từ chính ta để đi theo kịp quy trình chuyển tải về sự tinh lọc chung đối với vũ trụ và công luật, để chúng ta có được một sản phẩm tốt nhất, còn nếu không thì chúng ta sẽ bị đào thải.
Như vậy lịnh tinh lọc là một sức mạnh thuộc về trung tâm và thuộc về vận luật tuần hoàn. Hay là sức mạnh của một cơ xưởng mà chúng ta hoàn toàn đã có nền tảng cơ xưởng ấy.
Hôm nay những biến cố khủng khiếp trong thế giới loài người thì đó cũng là tinh lọc. Cái nào còn, cái nào mất và mất thuộc về cấp độ nào? Phục sinh hay không phục sinh, giải thoát hay không giải thoát. Hoặc cấp độ tồn tại hay không tồn tại của hệ thống lập thể thì cũng chịu định luật tinh lọc đó. Mà định luật đó đang chuyển động và hình thành trong quá khứ hiện tại và vị lai. Và chúng ta tiếp tục thấy lịnh tinh lọc ấy trên khắp cả hành tinh. Mà trong đó có tôn chỉ chúng ta và có chúng ta.
Như vậy chúng ta hãy tự tinh lọc mình một cách tốt nhất, nhằm giải quyết về các pháp bất tương ưng, không cho nó cấu kết để đẩy chúng ta rơi vào luật đào thải ghê gớm đó. Vì chúng ta tự biết tinh lọc nên đã được định luật tinh lọc khách quan đó chuyển tải chúng ta vào trong nội lý, nội tính và được tồn tại trong giá trị tinh hoa đó. Nếu chúng ta không chịu tinh lọc cho mình thì nhất định sức mạnh chung của định luật tinh lọc sẽ đào thải chúng ta mà không ai có thể cứu được.
Về sự sáng lập của sự nghiệp cứu thế. Đối với 10 phương thì cần nhất là những sản phẩm tinh hoa cuối cùng đó là: nhân sĩ trí thức, hoặc là thiên sứ thần đức, hoặc là tứ quả thánh. Như vậy định hướng của chúng ta là chuyển tải tổng thể tinh hoa về kim tính để lấy kim tính làm kim chỉ nam để thực hiện sự nghiệp cứu thế.
Như vậy lịnh tinh lọc là đào thải những thứ không thuộc về kim tính. Nhằm chuẩn mực về kim tính, chuẩn mực về chính vị, chuẩn mực về tác phẩm tinh hoa, để đem những giá trị đó bày tỏ trước đại chúng và thực hiện mục đích của sự nghiệp cứu thế.
Ta thấy từ tính khách quan của sư tinh lọc về tổng thể tinh hoa duy ngã. Thì chúng ta mới rút ra tất cả tổng thể tinh hoa đó để thực hiện những công trình cho nhân loại, là tiếp tục tinh lọc tiếp và tinh lọc cho đạt đến bản vị của kim tính, đồng nghĩa với giá trị sự nghiệp cứu thế. Thì bây giờ chúng ta mới gặp sự nghiệp cứu thế ở đây. Tức là người chưa được trở về con đường cứu thế sẽ gặp được các vị có kim tính chuẩn mực để quyết đoán về sự nghiệp cứu thế có tính chủ quan và khách quan đó. Thí dụ cứu thế là cứu những người chưa được cứu. Nhưng nếu chính bản thân ta chưa được cứu thì làm sao cứu người khác. Nên Mẹ Quan Âm nói rằng: Ngươi cứu ngươi được bao nhiêu thì sự cứu của ngươi đó mới có tác dụng với người khác. Còn nếu chính ngươi chưa cứu được ngươi thì tính cứu của ngươi không bao giờ tác dụng với người khác.
Thế nên tính đại diện là luôn luôn có tính cao nhất. Như những tác phẩm tốt nhất mới đem ra đại diện cho tất cả những sản phẩm khác.
Như vậy chúng ta hoàn toàn có vàng nhưng tỉ trọng giá trị của vàng còn thấp tuổi hoặc còn quặng cấu thì phải tiếp tục tinh lọc thì mới có thể lấy ra được số vàng đã có ấy.
Nếu chúng ta không chịu tinh lọc thì đồng nghĩa với bỏ thêm chất quặng vào đó. Thì quyết đoán và định hướng sự nghiệp không có, và thành quả của sự nghiệp cũng không có. Nên cuối cùng bị sức mạnh của sự tinh lọc khách quan đó nó bẻ gãy tất cả những giá trị tồn tại của chính ta và ta cũng không thể bình yên trong vị trí nào đó đã có.
Như vậy nếu tỉ lệ quặng càng cao thì lực tinh lọc càng cao, quặng càng ít thì tinh lọc càng ít, thí dụ ông Lộc có trữ vàng là 90% thì phải chịu lực tinh lọc 10%, để có đủ tuổi vàng là 100%, tức là tuổi vàng 10. Khi đạt được vàng 10 thì không còn lọc được nữa. Mà khi đưa lửa vào trui thì vàng lai càng đẹp thêm.
Chính vì vậy nên bản chất tinh lọc là quyết định về sức mạnh của con người, theo tinh thần chung của công luật, định luật, và quy luật đó, mà chúng ta hãy rèn đúc nó.
Như vậy hãy tự tinh lọc chính mình, đồng thống nhất sức mạnh của lịnh tinh lọc để chúng ta có được một sự tinh lọc rất vững chắc trong tính khách quan và chủ quan. Ngài bảo ông Chơn Ngọc Biện Hộ nói
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Kính thưa Cha cùng toàn thể. Lịnh tinh lọc thì đây là tiếng nói từ sức mạnh của trung tâm, và tiếng nói ấy nhân vận luật tuần hòa chu kinh, nhân tứ đại công quyết, nhân sự nghiệp phá hoang lập nguyên mà Mẹ mới phán quyết lịnh tinh lọc. Lịnh tinh lọc không phải hôm nay mới có, mà tính khách quan của vận luật tuần hoàn chu kinh đã tinh lọc theo tính công luật và định luật tất yếu. Vì sao? Vì sự nghiệp thống hóa hóa vạn pháp, là nhân cho vạn pháp tiến hóa trở về gốc. Mà muốn trở về gốc thì phải kết tinh tinh hoa, phải ly tâm và tinh lọc các pháp.
Hôm nay cộng nghiệp ác khổ của nhân loại đã đến một thời kỳ quá cao, quá sâu, quá dày cũng giống như trải qua một mùa lúa thu hoạch mà thành quả thì quá xấu. Hạt lúa vàng thì ít mà tất cả các loại cỏ dại thì nhiều cho nên lịnh tinh lọc là quyết phải lựa ra tất cả các loại không thuộc về lúa, để còn lại ròng tính lúa vàng và chuẩn bị gieo lại vào một vùng đất mới cho nhân loại nương nhờ.
Như vậy lịnh tinh lọc là lời nói mang tính chủ thể khách quan từ trung tâm, là sự nhắc nhở đối với chúng con toàn thể nhân loại. Để tất cả phải tự thấy rằng trách nhiệm thiêng liêng của mình là phải quay về với nhiệm thức pháp để tự rèn đúc và tinh lọc bản thể của mình. Nhằm được tồn tại trên con đường tiến hóa đi lên một cách vững chắc trong mặt bằng duy ngã đại thể để thành tựu được kim tính cao nhất. thì chúng con mới có thể trở thành những tác phẩm thật sự hữu ích cho mình và nhân loại. Còn nếu không thì sẽ bị định luật khách quan đào thải tùy theo hoặc nghiệp mà có thể rơi vào các đường ác khổ và trầm luân.
Ngài dạy về tính chất của lịnh tinh lọc có thể là biện chứng pháp sức mạnh của hó đối với tổng năng lượng, vì nếu không có sức mạnh hóa ấy thì làm sao chúng ta có được những sản phẩm tốt nhất của sự nghiệp hóa? Ngay cả đời sống của nhân bản duy ngã đại thể có cơ cấu hệ thống của đầu mình và tay chân, của não bộ thần kinh lục phủ ngũ tạng đều thể hiện tính biện chứng của định luật này. Tức là khi chúng ta thọ nhập tất cả tổng tinh hoa vào trong nội thân thì tức khắc luật tuần hoàn của lục phủ ngũ tạng phải làm việc ngay. Tức là phân chia công việc và chức năng để tinh lọc để thể nhập và chuyển tải tổng thể năng lượng đưa tất cả chất bổ vào máu để nuôi tổng tế bào trong cơ thể. Đối với thể đại tổng năng lượng được nuôi dưỡng một cách rõ ràng bằng tổng thể tinh hoa, và những thứ không thuộc tinh hoa thì khắc phải đào thải. Đào thải để ổn định hệ thống tổng thể. Nếu không đào thải một cách triệt để thì độc tố sẽ tồn tại trong cơ thể và phát sinh ra những chứng bệnh nguy hiểm nhất thì nhất định thân thể ấy sẽ không còn tồn tại được.
Như vậy tinh lọc nhằm để tồn tại, tinh lọc để có một nền tảng vững chắc cho đời sống hóa ấy. Thế thì lịnh tinh lọc cũng là sức mạnh của hóa, và hóa một cách công bằng để thể hiện sự hóa ấy một cách triệt để trong bản chất khoa học đại ngã và bản chất khoa học thực nghiệm mà đời sống của tổng thể tinh hoa duy ngã, và duy ngã trong tổng thể tinh hoa đã có một hệ thống vàng ròng thiết thực trong đời sống của chúng ta.
Như vậy lịnh tinh lọc không phải là chung chung, mà đã đi vào sát đề của hệ thống hiện sinh và sinh học, hóa học cùng tất cả những công trình học đều trở thành lọc và hóa lọc cho đến tất cả những tài nguyên, những năng lượng cho đến các loại khí và các loại thể vật đều tinh lọc cả.
Khi ta càng mổ xẻ phẫu thuật và giải thông về các nghĩa lý thì ta thấy từ nhỏ đến lớn, từ cực vi đến cực đại đều có bản chất của lọc, và đều có bản chất sức mạnh của hóa trong tổng năng lượng ấy.
Thế thì lịnh tinh lọc đã có sẵn trong đời sống của các hệ thống sinh học, vật học, khoa học và các loại học đều phải có tính công năng về lọc và nếu không lọc sẽ hủy diệt
Thí dụ như nước cũng phải lọc để mà uống và tất cả mọi thực phẩm ăn uống từ đơn giản đến phức tạp nếu ta không rõ biết về bản chất của nó mà lại đem dùng thì cũng có thể chết. Như vậy cái chết đó là do chúng ta không chịu tinh lọc. Nếu chúng ta biết tinh lọc thì sẽ được sống đời đời trong siêu thể và thể một cách vững chắc. Đó là định lý của giá trị lịnh tinh lọc mà đối với một phạm trù chung của vũ trụ quan và nhân sinh quan.
Hôm nay Cha khai thị về thực tướng của lịnh tinh lọc mà Mẹ Quán Âm đã phán quyết để toàn thể con cái được biết chứ không khéo thì chúng ta sẽ hiểu lịnh tinh lọc là một sự huyền bí nào đó. Giống như là một sự chỉ thị của một vị Phật hoặc vị thánh nào đó đề ra.
Ta phải hiểu Mẹ Quán Âm phán quyết lịnh tinh lọc là đứng trên khách quan của lịnh tinh lọc là sức mạnh hóa để nói về tinh lọc này. Thế thì lịnh tinh lọc là mang tính sức mạnh toàn hữu của giá trị siêu cực và vô cực của vạn năng, siêu năng, đa năng và đặc năng. Chứ lịnh tinh lọc không phải đơn điệu như một thành phái, một đơn vị hoặc một ông bà nào đó mà có được.
Ngài bảo ông Chơn Quốc Chính Thống xác định về lịnh tinh lọc.
Ông Chơn Quốc Chính Thống: Thưa Cha lịnh tinh lọc là bản chất của thống hóa vạn năng mà nhân loại đã đúc kết bằng định luật tiến hóa cho nên khi thành lập thái dương hệ hành tinh là luôn luôn nằm trong hệ thống của tinh lọc. tinh lọc là ngôi lời có tính chất kinh điển tuyệt đối, quyết định cho sự sống còn của chúng ta trên mặt trạng hành tinh này nói riêng và toàn thể vũ trụ nói chung. Được biểu hiện cụ thể bằng tác phẩm của duy ngã đại thể thì ta thấy tất cả mọi người đều phải lọc. Nếu chúng ta đi ngược lại quy trình tinh lọc của thống hóa vạn năng thì tất nhiên phải bị sụp đổ trong hệ thống duy ngã vạn pháp. Như vậy chính tinh lọc là nhiệm luật trong hệ thống công luật tuyệt đối để quyết định cho sự sống vô cùng.
Như vậy tính tinh lọc chủ quan mà Mẹ muốn nhắc nhở cho chúng ta trong cuộc thi cuối cùng đối với công án Bia Sơn. Thì chúng ta phải thấy được tầm quan trọng của công án Bia Sơn mà biết tinh lọc bản thể để đạt đến mục tiêu cuối cùng là thành tựu chân tâm kim cương. Nhằm để trình bày tác phẩm ấy cho nhân loại để nhân loại dựa theo đó mà tiếp tục kết tinh. Đó là mục tiêu tối hậu của thống hóa vạn năng.
Như vậy tính khách quan là hoàn toàn tuyệt đối tinh lọc và tính chủ quan chúng ta cũng như thế. Nếu trong công án chính trục Bia Sơn mà chúng ta không kết tinh được kim cương chân tính thì công án chính trục Bia Sơn ấy cũng không có trong chúng ta
Ngài dạy như vậy phương trình hóa tinh lọc đã có trong tính đa nguyên và đa quang và đã có ngay trong đời sống của đời và đạo, của các thể chế, các quốc gia từ nhỏ nhất đến lớn nhất. Tất cả những đất nước có những hiến pháp tốt nhất mà nhân bản và tất cả những quyền vị lãnh đạo nếu không có sự tinh lọc thì hiến pháp tốt nhất đó cũng không thể có tốt nhất. Vì các hiến pháp tốt nhất được tập hợp từ trí huệ của nhân loại hoặc của một đất nước đã hình thành một hệ thống cương lĩnh tốt nhất, nhưng nếu không có lịnh tinh lọc vào đời sống của Quốc hội, của nhân cử, của nghị sĩ thì giá trị hiến pháp ấy bị bẻ gãy bởi không có hệ thống tinh lọc trong Quốc hội ấy. Vì nó không tinh lọc bản thân chính nó nên nó đã bẻ gãy hiến pháp và nó đã xâm hại đến đời sống của nhân loại và của dân tộc nó. Thậm chí là nó ăn hối lộ vô tội vạ và nó làm những chuyện phi pháp không thuộc về hiến pháp thì hoàn toàn cương lĩnh ấy có cũng trở thành không vì nó không có lịnh tinh lọc chung trong Quốc hội ấy hoặc là các nghị sĩ chân chính trong hệ thống tinh lọc của bản vị không có cho nên đất nước ấy bị suy đoài là do thiếu sức mạnh tinh lọc của hệ thống Quốc hội. Hoặc là của đảng trị, hoặc là của đại trị. Như vậy lịnh tinh lọc hóa, pháp môn hóa là giá trị, là phương trình mà không thể khác được. Cho nên tất cả những pháp môn hóa là biểu thị cho sức mạnh của tinh lọc, trì niệm về những sức mạnh của tinh lọc là tinh lọc. Như vậy nếu có các giá trị phương trình pháp môn hóa tinh lọc trong đời sống của đời và đạo thì sự bình an và hạnh phúc sẽ đến với đại thể đó.
Thế thì lịnh tinh lọc không còn là đơn giản hóa nữa mà nó quá ư là phức tạp trong đời sống của đất nước, con người, xã hội, quốc gia. Mà còn là những chế độ hoặc những đạo vị tôn chỉ của nôi mới, của sức mạnh mà toàn thể nhân loại cần phải có sự tinh lọc này để bảo an bờ cõi của đất nước quê hương dân tộc và xứ sở. Còn nếu không có thì tât cả những điều nguy ngập nhất về tội ác sẽ đổ vào đầu của thế giới loài người vì thiếu mất đi sức mạnh của tinh lọc đó, mà xảy ra những biến cố ghê gớm trong đời sống tâm linh và vật chất.
Nếu tăng độ sức mạnh tinh lọc trong đời sống hóa quốc gia và các tôn chỉ giếng mới của đạo và đảng. Nếu các tôn giáo và đảng phái chân chính thì sức mạnh tinh lọc phải càng cao và các hiến pháp như một phương trình và định hướng cương lĩnh cao nhất của các dân tộc được tập hợp. Mà nếu quốc hội ấy không có sự tinh lọc lớn thì tất cả những hiến pháp của nhân loại bị bẻ gãy trên mặt bằng của thế giới và của đất nước ấy.
Như vậy lịnh tinh lọc là sức mạnh của hóa về chính trị hóa, kinh tế hóa, quân sự hóa và tất cả những cái hóa nào cao nhất, tốt nhất sẽ được tồn tại trong sức mạnh của nó. Và đem sức mạnh của hóa ấy vào trong đời sống của thế giới nhân loại thì thế giới nhân loại sẽ có một tổng hóa về giá trị hóa đối với nhân bản và kết tinh sức mạnh cộng đồng để tạo ra một sức tinh lọc trong thời kỳ phá hoang lập nguyên.
Bài học về TÍNH VÔ NGHI TRONG HỆ THỐNG CỬU KINH
Lý thống nhất trong cội nguồn chân tính. Sự phân chia ngoài cành ngọn vô thường.
Lý thống nhất trong cội nguồn chân tính: Thì đây là tính bất biến đổi về phần lý, nhưng trong hệ thống của nhị nguyên thì sự việc ít khi đi theo lý đó mà lại đi một chiều khác. Nên mới có: Sự phân chia ngoài cành ngọn vô thường.
Ta có thể thấy một nhân bản thống nhất là thống nhất một ý chí, một tâm pháp, một ý niệm, một tư tưởng và một ý thức. Nhưng khi phân chia là 6 căn, 6 thức, 6 trần mà lại rất vô thường. Nếu chúng ta không nghiệm ra được chỗ diệu lý này thì cái chuyện vô thường là thường.
Nghĩa là chuyện vô thường của sự phân chia ấy rất là thường xảy ra. Nhưng chuyện thường của lý thống nhất thì lại không có; nếu có là rất vô thường.
Hôm nay chúng ta bình luận về bài này để nhằm bổ trợ cho tính vô nghi đối với sự nghiệp Công Luật vũ trụ và hệ thống Cửu Kinh Minh Triết.
Ta thấy câu một: Lý thống nhất trong cội nguồn chân tính, là tính tất yếu. Câu hai: Sự phân chia ngoài cành ngọn vô thường, không thuộc về tất yếu, mà là vạn pháp thường biến trong hệ thống nhị nguyên. Thì đây là nhân ở lý tất yếu mà có.
Nói cành ngọn vô thường là nói sự biến đổi. Chứ thật ra về diệu lý của vô thường thì nó là thường trụ. Vì tất cả vạn vật là có thay đổi nhưng cuối cùng cũng về chân tính mà trụ. Như vậy, vô thường là mặt bằng của sự biến đổi, nhưng biến đổi là sự chuyển hóa và hình thành của giá trị không biến đổi. Thì đây là điều mà chúng ta phải lý luận để bổ trợ cho giá trị vô nghi đối với sự nghiệp Công Luật vũ trụ.
Ngài bảo ông Chơn Minh Ứng Hội trình bày.
Ông Chơn Minh Ứng Hội: Thưa Cha, lý thống nhất trong cội nguồn chân tính là nói lên tính thống nhất và không biến đổi của chân tính vũ trụ để sinh ra định luật vô thường, nhằm mục đích kết tinh tinh hoa để trở về tính bất biến.
Như vậy, duy ngã đại thể muốn trở về thành tựu tính bất biến đó, thì phải đi qua những định luật vô thường để kết tinh và tiến hóa. Nhưng trong thế giới nhị nguyên con người thường hướng về hình tướng bên ngoài nên ý thức vô thường biến đổi liên tục. Nhưng cũng nhờ sự vô thường đó mà con người mới giác ngộ từ phương tiện đó mà trở về phần lý và thành tựu về chân tính không biến đổi.
Ngài dạy: Chúng ta phải nói rạch ròi về việc của lý và sự. Như thường ở mặt bằng duy ngã đại thể khi chưa giác ngộ thì lý và sự là không gặp nhau. Nên câu hai là nói cho mặt bằng duy ngã đại thể chưa giác ngộ, là phần gần như là hiện hữu trong đời sống của thế giới nhị nguyên.
Về sự phân chia ta không thể nói hết cái tận cùng của sự phân chia. Có thể nói cả đời ta cứ phân chia mãi mà không bao giờ hết sự phân chia đó. Thậm chí ngày mai chết mà hôm nay cũng còn phân chia. Như vậy, cái nguy khốn của bề trái về định luật vô thường thì không bao giờ có được cái tính chân thường. Nên về câu hai đức Phật nói rằng: Chúng phân chia để chúng luân hồi, chúng phân chia nên chúng mới ở ngoài mà chưa bao giờ trở về bên trong được.
Nếu ta đem câu hai này mà áp dụng cho các tổ và các vị thánh đế, hoặc cho những vị đã thành tựu chính vị, thì câu này không có tác dụng. Nhưng đối với chúng sinh thì câu này là có thực trong đời sống mặt bằng duy ngã.
Như vậy, pháp này là pháp bổ trợ vô nghi để xác định về tính chất chân lý một cách thuần nhất. Nhằm để làm sáng tỏ cho hệ thống lập nguyên (của nhất nguyên và nhị nguyên). Nên câu một là của nhất nguyên, còn câu hai là của nhị nguyên.
Đối với mặt bằng của chúng sinh thì giữa nhất nguyên và nhị nguyên là hai. Nhưng đối với mặt bằng của Như Lai, Bồ Tát và Thánh hiền thì là một. Chính chỗ hai và một đó đã làm đão lộn tất cả các pháp. Và thường thường là xảy ra trong hệ lụy của chúng sinh tướng, chúng sinh tánh về các ý thức phân chia không dừng lại bởi những lầm lẫn ghê gớm của chúng sinh. Lầm lẫn có hai vấn đề: Khách quan và chủ quan. Về khách quan của lầm lẫn là ta dùng tri thức để nhìn nhận sự lầm lẫn. Về chủ quan của lầm lẫn là dãy đầy những nghiệp lực cưu mang và nặng trĩu trong ý thức mà không thể tháo gỡ được. như vậy, giữa chủ quan và khách quan lầm lẫn là hai vấn đề luôn luôn đuổi bắt chúng ta trong đời sống của thế giới nhị nguyên. Chúng ta phải luận để làm rõ vấn đề này, nhằm tẩy sạch mọi mê tín, mọi u khuất. Và bày tỏ được chân lý của sự sống đối với sự nghiệp Công Luật giữa hai thềm nhất nguyên và nhị nguyên.
Ngài bảo ông Chơn Ngọc Biện Hộ trình bày.
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Thưa Cha, “lý thống nhất trong cội nguồn chân tính”. Tức chúng con xác định về cội nguồn chân tính thì hoàn toàn thống nhất về phần lý. Thống nhất ở đây là thống nhất trong tổng hàm hoa giữa tính vầ thể, cũng như giữa tâm và vật. Tức là trong siêu sắc năng và sắc năng thì tổng hàm hoa ấy đã được thống nhất một cách trọn vẹn. Từ đó mới hóa ra tất cả vạn pháp. Như vậy, “sự phân chia ngoài cành ngọn vô thường” là muốn nói cho thế giới nhị nguyên, muốn nói cho những qui trình lập hóa, tiến hóa. Mà hóa này không phải Thống hóa phân chia. Đối với Thống hóa phân chia là phân chia trong hệ thống hóa, phân chia trong sự công bằng và phân chia trong sự thống nhất tổng hàm hoa, chứ không phải phân chia trong sự phân ly. Vì bản chất của Thống hóa luôn luôn hội tụ và thống nhất.
Như vậy, “sự phân chia ngoài cành ngọn vô thường” là muốn nói đến những tư tưởng, những ý niệm vô thường của con người từ đó mới phân chia ra, làm rã rời giữa nhất nguyên và nhị nguyên. Rồi cho nó là vô thường, chứ thật ra thực chất, bản chất của vạn pháp luôn luôn thường trụ. Nên ta thấy các pháp sinh diệt tương tục vô tận không chấm dứt, đó chính là bản chất của thường trụ. Thì nhất nguyên đã có ngay trong đời sống của nhị nguyên rồi.
Như vậy, những sự phân chia ngoài cành ngọn vô thường đó, những sự biến đổi đó thuộc về các hình tướng lập thể có thay đổi là để chuyển trạng và kết tinh tinh hoa. Vì biến đổi phần tướng nên chất liệu tinh hoa bên trong thuộc về phần lý thì không bao giờ mất, không bao giờ biến đổi.
Chúng ta biết rằng chân tính bất biến của Thống hóa đã có trong hạt tâm lý tính của chúng ta, thì cũng đồng nghĩa là hạt tâm lý tính trở thành bất biến. Như vậy, tính thống nhất đã có trong hạt tâm lý tính ấy. Nhưng chúng ta cứ mãi theo các pháp biến đổi bên ngoài, thì chính ta đã phân chia tính thống nhất chúng ta hạt tâm lý tính của mình, nên kết quả là chịu thăng trầm đau khổ theo sự biến đổi của các pháp. Như vậy, “sự phân chia ngoài cành ngọn vô thường”, là nói cho chúng sinh trên mặt bằng duy ngã đại thể chưa giác ngộ. Chớ còn đối với Như Lai, Bồ Tát và các vị đã giác ngộ về chân lý tổng hàm hoa của vũ trụ là nguồn gốc của mình rồi, thì câu này hoàn toàn không có tác dụng đối với các hàng bậc ấy.
“Sự phân chia ngoài cành ngọn vô thường” là muốn nói cho các hoặc lậu chuyển động trong tiềm thức và ý thức. Bởi ta đã nhận lầm các pháp tướng là thật, nên đã biến đổi trong cành ngọn vô thường đó mà đánh mất đi giá trị của lý thống nhất trong cội nguồn chân tính kia.
Ngài dạy, bây giờ Như Lai thay đổi câu kinh thứ hai là câu kinh thực tướng của giá trị hóa đối với tính thống nhất và lý thống nhất của chân tính hóa đối với vạn pháp thì câu kinh thứ hai Như Lai đổi là: “Sự phân chia vào định luật kết tinh”. Như vậy, hãy đánh đổ tất cả sự phân chia ngoài cành ngọn vô thường. Vì ngoài cành ngọn vô thường là cái dễ lầm mà thế giới duy ngã đã lầm rất lớn. Như Lai bèn nhân ở tính ánh sáng vô cùng mà thay đổi câu hai là: “Sự phân chia vào định luật kết tinh”. Thì câu hai này là để giải quyết về phần hai của giá trị lập thể đối với hệ thống thống nhất . Tức sự phân chia này nhằm để kết tinh.
Như vậy, chúng ta hãy giác ngộ rằng: Ngoài cành ngọn vô thường ấy thì trong đó có cái vào định luật kết tinh. Thì chỗ này đã được sáng tỏ, để bổ trợ cho tính vô nghi của Cửu Kinh Minh Triết đối với Công Luật vạn hữu trong đời sống của thế giới nhất nguyên và nhị nguyên, thì đã được thống nhất ở đây.
Thường thì sự nghi ngờ nằm trong thế giới nhị nguyên rất lớn. Vì nhị nguyên là thế giới của ngũ độn sử (tham- sân- si- mạn- nghi) của phân chia 6 căn, 6 trần, 6 thức và là thế giới lập thể của 5 ấm sắc- thọ- tưởng- hành- thức. Như vậy, những sự phân chia ấy là để chịu trách nhiệm vai trò về sự thống nhất trong hệ thống hóa. Nếu đời đời không có sự phân chia để trở thành hệ thống ấy ,thì có lẽ chúng ta sẽ không thành con người. Chính vì thành con người là đã phân lập công vụ giá trị hóa đối với các hệ thống đại tạng và thiết lập phân chia trong cơ cấu thống nhất ấy để thành lập hệ thống thống nhất. Thì giá trị thống nhất vẫn là đại nguyên, vẫn là nhất nguyên, vẫn là linh nguyên, vẫn là giá trị thường trụ bất biến đổi.
Trong 6 đường luân hồi có thay đổi về lập thể, nhưng hạt tâm lý tính vẫn sống trong sự an vui hoặc khổ đau, chứ không mất bản hạt ấy, thì ấy là bản chất của chân thường.
Như vậy, sự việc an vui hoặc khổ đau là thuộc về nhân quả do chúng ta giác ngộ hoặc lầm mê mà tạo tác ra. Còn chân thường là thuộc về bản chất của hạt tâm lý tính. Thì ở đây rất rạch ròi rõ ràng về bản giác hạnh nguyện của Công Luật vũ trụ và giá trị của linh giác và giác nguyên của chúng ta đã hằng có trong đời sống ấy.
Về vô thường thì chúng ta phải hiểu rằng: Nếu cho vô thường là không thực thì cũng chưa hẳn là đúng, còn nếu cho là sự thật chân lý tột đinh thì cũng chưa hẳn là đúng. Vì sao? Vì vô thường là thay đổi, mà thay đổi là nhằm để hóa. Nên Như Lai mới thay đổi câu 2 là “Sự phân chia vào định luật kết tinh”. Thì câu 2 này sẽ gặp được câu 1 là “Lý thống nhất trong cội nguồn chân tính”. Thì sự thay đổi này bằng sức mạnh của sự nghiệp hóa mà không chịu luật vô thường chi phối nó.
Ngài bảo ông Chơn Ân Đại Hành luận bày.
Ông Chơn Ân Đại Hành: Thưa Cha, “Lý thống nhất trong cội nguồn chân tính”. Đối với vũ trụ trung tâm vạn năng hoàn toàn mang tính thống nhất đó là thuộc về nhất nguyên. “Sự phân chia ngoài cành ngọn vô thường” là thuộc về mặt bằng nhị nguyên. Đây là sự phân chia nhằm để kết tinh tinh hoa nên Cha mới nói câu hai là “Sự phân chia vào định luật kết tinh”.
Ngài dạy: Diệu ý của sự phân chia là để thực hiện hệ thống, cấu trúc hệ thống, thành lập các trọng nhiệm về các hệ thống. Ví dụ hệ thống trạm kim, hệ thống trạm hỏa…. Thì đây là sự phân chia nhưng không tách rời tính thống nhất của hệ thống. Còn con người thì lại dùng ý thức phân chia làm rã rời hệ thống, thì đây là phân chia của sự lầm lẫn. Còn phân chia của sự giác ngộ là phân chia của trọng nhiệm, của vai trò hệ thống cơ cấu để thực hiện công trình chung đối với giá trị hóa.
Ông Chơn Ân Đại Hành nói tiếp:Thưa Cha, sự phân chia mà quay về thì đó là sự phân chia kết tinh và mang tính thống nhất. Còn phân chia mà không quay về là không kết tinh.
Ngài bảo ông Chơn Hoàng Quang Quân trình bày.
Ông Chơn Hoàng Quang Quân: Thưa Cha, “Lý thống nhất trong cội nguồn chân tính” là nói về bản chất thống nhất của gốc vũ trụ. Còn “Sự phân chia ngoài cành ngọn vô thường” là nói về ý thức phân biệt của duy ngã đại thể. Thật sự ra bản chất thống nhất của Thống hóa đã có trong nhất nguyên và nhị nguyên rồi. Như vậy, sự phân chia ở đây có hai vế, nên câu kinh thứ ba là “Sự phân chia vào định luật kết tinh”. Nếu duy ngã đại thể mà phân biệt trong sự lầm lẫn đối đãi thì sự phân chia này sẽ bị lạc lối về, nên gọi là vô thường. Nhưng nếu phân chia để hướng thượng thì đi vào định luật kết tinh, thì chính chỗ này là trở về trong lý thống nhất.
Như vậy, 3 câu kinh này là nói về giá trị thực tướng của vũ trụ Thống hóa. Và Như Lai đã nhìn thấy được về những định luật qui luật đó mà nói để chúng ta tìm về với vũ trụ bằng định luật kết tinh.
Ngài dạy: Vô thường hoàn toàn là giả tướng, nó thuộc về qui trình hóa. Thì chúng ta đừng nhằm vào hóa mà đánh mất bản lai diện mục của sự nghiệp chân tính ánh sáng của trung tâm mà trong chúng ta đã có. Thế nên tất cả những pháp bổ trợ vô nghi đối với sự nghiệp Cửu Kinh Minh Triết Công Luật Thống hóa vũ trụ đã được trở thành những bài toán đích đáng nhất và hoàn toàn không có một chút mê lệch trong hệ thống kinh điển này. Vì kinh điển này là giải quyết những cơn mê đối với pháp giới chúng sinh, làm cho chúng sinh giác ngộ để trở về kết tinh giá trị thực tướng của tổng thể tinh hoa vũ trụ. Như vậy, định luật vô thường là nhằm để chúng ta trở về với thường trụ.
Ta thấy con người ai cũng có tâm hướng thượng, nhưng hướng thượng còn vô thường, nên bị nghiệp thức cưu mang bên dưới nó kéo lại. Cưu mang thuộc về ân sủng, nhưng ta phải giác ngộ sự cưu mang nào là cần thiết. Nên Như Lai nói: Tại sao ngươi không mang nặng những trọng nhiệm của giá trị sự nghiệp, mà ngươi lại mang nặng những thứ nó không thể đưa ngươi đến đỉnh vinh quang. Nếu ta cưu mang với ngai vàng điện ngọc thì làm sao ta cưu mang chúng sinh trong sự nghiệp đại hóa cứu thế. Như vậy, ta bỏ sự cưu mang này để lấy sự cưu manh khác. Để chúng ta có một sự cưu mang làm thay đổi được sự nghiệp đời sống của chúng ta và đưa chúng ta đi đến đỉnh vinh quang của sự nghiệp cứu thế và giải thoát. Còn nếu ta cưu mang nghiệp dĩ, cưu mang những điều bất tương ưng, thì chúng ta không trở về được mà lại còn phải đi xa hơn.
Như vậy, hôm nay chúng ta cần biết mình phải cưu mang những gì và làm gì để có được sức mạnh về tư tưởng ý chí để thực hiện cho đúng nghĩa đối với Công Luật vũ trụ. Vì chúng ta là con người của hành tinh và vũ trụ, thì chúng ta phải đi vào vũ trụ và trọng nhiệm chúng ta phải hóa hành tinh và phải thực hiện những công trình tốt đẹp cho hành tinh.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!