Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2013

TINH KHÍ THẦN TAM CHÂN HỘI TỤ – VẠN NĂNG KINH TÂM CHỦ PHÁP HOA

Cửu kinh minh triết là khai thác tận cùng về nguồn gốc, đồng thời làm sáng tỏ tất cả những ngọn ngành, mà không có mâu thuẫn giữa gốc và ngọn, để không còn lầm lẫn bởi cành ngọn đó. Chúng ta không bao giờ lấy ngọn bỏ gốc, hoặc lấy gốc bỏ ngọn. Mặc dù ta biết cơm vỏ là giả, nhưng khi hạt chưa già thì không thể bỏ cơm vỏ, vì cơm vỏ là để bảo bọc và nuôi cái hạt. Ta biết rằng nó là giả, nhưng giả này nó có giá trị nhất định cho cái thật, thì giả cũng là hiện thân của cái thật.
Đức Phật nói giả là nói cho những người quá đam mê vật chất, còn những người đã dứt trừ đam mê vật chất thì Ngài nói: vật chất vẫn là nền tảng của sự hóa thân đối với vạn pháp.
Ta phải biết vật chất là sinh diệt tương tục vô tận, nhưng tính ánh sáng của vật chất và bản chất tinh hoa của vật chất là không hủy diệt thì nó không phải là giả. Nên ta đưa ra một câu khẩu quyết để thấy được bản chất Pháp hoa và Pháp hoa nở từ đó ra. Ngày xưa đức Phật nói rằng: “Tinh khí thần tam chân hội tụ – Vạn năng kinh tâm chủ pháp hoa”.
Về vũ trụ quan ta thấy rằng: Thức thống thần đại ngã ưng vô biên sở đó cũng là Thần. Trung tâm vạn năng tổng hàm hoa đó cũng là Tinh và oai âm dương vạn tỏa đó cũng là Khí. Thế thì Tinh khí thần tam chân hội tụ – Vạn năng kinh tâm chủ pháp hoa, là nói sác sườn về giá trị hóa của vũ trụ quan. Thì khẩu quyết này rất quan trọng để đột phá đi vào vũ trụ quan và làm vững chắc cho hệ thống Cửu kinh. Thì đây là chi kinh mang tính hỗ trợ cho sự nghiệp chuyên môn hóa hành tinh.


Thống hóa là chủ thể của hành tinh, điều đó là đương nhiên rồi. Nhưng ta phải thấy con người là chủ thể của hành tinh. Vì sao? Vì con người một khi chưa giác ngộ thì chính nó có thể phá hoại hành tinh. Hóa ra Cha chúng ta làm mà chúng ta lại phá. Thì ở đây muốn nói rằng: Cha chúng ta làm ra thì chúng ta phải hỗ trợ và tiếp lực cho Cha mình để bảo trì những giá trị đó đối với hành tinh và con người.
Nghĩa của Tinh khí thần là: Tinh là tinh hoa, Khí là khí lực, Thần là thần quang. Như vậy Thần quang – khí lực – tinh hoa, Ba chân hợp lại bảo hòa vạn năng. Nếu phần dưới của nhân sinh quan mà hợp lại được Tinh khí thần thì bảo hòa vạn năng. Thật ra vạn năng là luôn luôn có một quỹ tích tuyệt đối trong giá trị hóa đối với vũ trụ. Nhưng nếu phần dưới chúng ta làm băng hoại đi thì mức độ thể nhập chân tính bảo hòa vạn năng của chúng ta bị mất. Chúng ta phải làm rõ chỗ này để không còn chủ quan mà làm mất đi nền của hệ thống Cửu kinh và không thiết thực thực tướng của hệ thống Cửu kinh. Thì Cửu kinh ấy chỉ là cái bóng của tư tưởng mà thôi.
Sở dĩ đức Như Lai thành đạt được Ngọc Xá Lợi là thể hiện về bản chất của Pháp hoa, của Kim cương, của Hoàng kim và thể hiện bản chất của chân như pháp tính, thì cũng thuộc khẩu quyết của bài này. Nên khẩu quyết ấy Như Lai đã nói với Chư đại Bồ tát là: “Tinh khí thần tam chân hội tụ – Vạn năng kinh tâm chủ pháp hoa”. Đó là khẩu quyết mà không thể thay đổi nó, để có được giá trị toàn tính, toàn tâm, toàn lực, toàn pháp và toàn hóa. Nghĩa của chữ toàn nó đã hình thành một cách triệt để trong giá trị “Tinh khí thần tam chân hội tụ – Vạn năng kinh tâm chủ pháp hoa”.
Chúng ta không thể mơ hồ về pháp hoa theo kiểu tụng niệm nhiều ngày đêm mà pháp hoa vẫn chưa đến với chúng ta. Vì chúng ta chưa có khẩu quyết về sự nghiệp đó, nên việc tụng Pháp hoa chẳng khác nào như con vẹt. Như vậy khẩu quyết này là lột xác cả một hệ thống Pháp hoa trong lý và sự và hình thành giá trị của tính thể dung thông, tâm vật hội tụ. Vì phép hội tụ của Như Lai là phép cao nhất của mọi giá trị đối với đời sống nhân sinh và vũ trụ.
Ta thấy cái gì không hội tụ là bị hủy diệt. Nếu con người không hội tụ được ngũ tạng lục phủ, hay không hội tụ được các hệ vi mạc, các cơ năng, hoặc không hội tụ được tinh khí thần, thì đồng nghĩa với đánh mất bản địa và trở thành chết mất.
Nên “Tinh khí thần tam chân hội tụ – Vạn năng kinh tâm chủ pháp hoa” là kinh quyết – khẩu quyết của Như Lai. Nó không phải là một đoạn truyện ngắn mà là quỹ tích thực tướng của giá trị hóa và thành lập Cửu kinh minh triết trên hệ thống vũ trụ quan và nhân sinh quan.


Đối với thế giới nhị nguyên không bao giờ có được cái đúng tuyệt đối. Nhưng cái đúng ở đây chúng ta đủ sức công bằng của cái đúng và không cho chênh lệch của cái đúng đó. Là cái đúng triệt để của giá trị tương đối và không thấp hơn tương đối. Vì nếu thấp hơn tương đối thì khó bề trở về tuyệt đối. Như vậy ta đi từ tương đối để trở về với tuyệt đối .
Nên chúng ta phải học để biết, biết được nhiều để lập chí, biết được nhiều để giữ khí, biết được nhiều để chúng ta khai thác những giá trị tinh hoa, biết được nhiều để chúng ta rực rỡ và quang minh với thần quang ý thức. Nếu không học thì sẽ bị u khuất và trầm uất, cũng có thể là đẻ sinh các tư tưởng không thực để rồi phá hoại tất cả những cơ bản của chân lý vũ trụ quan và nhân sinh quan.
Như vậy trên các hệ thống kinh, mà trong kinh quyết của Như Lai muốn nói về Trung tâm vạn năng; thì Vạn năng kinh tâm chủ pháp hoa, tức là pháp hoa sinh đẻ từ vạn năng kinh, trong đó có Duy ngã vạn pháp kinh. Chứ nếu không có Vạn năng kinh và Duy ngã vạn pháp kinh thì Pháp hoa sinh đẻ từ đâu ra? Nếu không có nền mặt trần của giá trị hóa đối với Tinh khí thần tam chân hội tụ, thì nghìn đời pháp hoa không có đất dựng võ.
Nên nói rằng: muôn hoa đều mọc trên đất tốt và có nước, có khí hậu bảo hòa, cùng những tiết tấu bảo trạng giá trị hóa một cách thiết thực, thì hoa ấy mới được nở ra. Vì chân tính biện chứng pháp của giá trị hóa đều có những nền tảng thực hữu của giá trị tổng thể và không thể thiếu vắng những giá trị tổng thể ấy mà được xưng tán trong sức mạnh của Vạn năng kinh – Tâm chủ của vạn pháp và thành lập được pháp hoa.
Như vậy sự thể nhập khẩu quyết này là bày tỏ sức mạnh của sự nghiệp chuyên môn hóa hành tinh. Thì chúng ta là mối chốt của sự nghiệp chuyên môn hóa đối với đạo pháp và không thể thay đổi nó để có được những giá trị đại hóa trong sự nghiệp mà 10 phương đã ban cho. Ngày hôm nay và mãi mãi về sau trong sự nghiệp phá hoang lập nguyên của tinh bản Trâu vàng không thể đi khác con đường này. Vì con đường này là con đường duy nhất của sự nghiệp Chư Phật hóa thân và Chư Đại Bồ tát đại hành.
Ngài bảo ông Chơn Thăng Ấn Chuyển luận bày về 2 câu kinh ấy.
Ông Chơn Thăng Ấn Chuyển: Thưa Cha, Tinh khí thần tam chân hội tụ, như chúng con thấy gốc của vũ trụ là gốc của hội tụ, chính ngay hội tụ tổng tinh hoa ấy mà hóa sinh ra vạn pháp, nên vạn pháp đều có tổng tinh hoa của vũ trụ ban cho. Thì Duy ngã đại thể là sức hội tụ của tổng tinh hoa đã cho tròn đủ, nhưng vì chúng ta làm phân tán tinh khí thần nên bị sức hút của muôn sắc màu thế gian làm phân tán và đi vào trong nghiệp lực của sự thống khổ dãy đầy trên hành tinh này.
Nên ở đây Như Lai muốn nhắc cho chúng ta Tinh khí thần là cái gốc của sự hội tụ để trở về với tổng tinh hoa và chính ngay sức mạnh hội tụ đó sẽ làm sáng tỏ về sức mạnh hội tụ của vũ trụ đã có trong Duy ngã đại thể.
Nên các bậc Như Lai, bồ tát và thánh nhân nhờ sức hội tụ của tinh khí thần mới phát sáng ra các công trình, công án và làm lợi ích cho nhân loại. Đối với nhân bản chúng ta cần phải công năng rèn luyện qua hệ thống Cửu kinh minh triết, thì mới có sự hội tụ của tinh khí thần và phát ra ánh sáng để dẫn đến sự thành tựu của câu 2 là Vạn năng kinh tâm chủ pháp hoa.
Như vậy nếu tâm chủ của chúng ta đã thành tựu viên mãn, thì chắc chắn rằng các loại pháp tạng, pháp ý ở trong tinh hoa của tri thức sẽ phát ra, cũng như các đức Phật, Bồ tát đã thành tựu và vinh danh sự nghiệp pháp hoa trong hệ thống Duy ngã đại thể và làm nhiều lợi lành trong việc cứu độ cho khắp cả muôn loài.
Như chúng con thấy nguồn ánh sáng Cửu kinh minh triết của Cha là tổng tinh hoa, là Pháp hoa và Hoa nghiêm và đem lại mọi sự sáng rỡ trong giá trị tâm pháp chúng con. Thì đó là vạn pháp hoa Cửu kinh minh triết của Cha đã nở trong tri thức ánh sáng của chúng con và tương lai sẽ nở vạn pháp hoa cho cả nhân loại.
Ngài bảo ông Chơn Nhật Đàn Sơn luận thêm về khẩu quyết này.
Ông Chơn Nhật Đàn Sơn: Thưa Cha, 3 ngôi kinh chủ đã có tổng thể tinh hoa siêu sắc và sắc, có sức mạnh âm dương. Thì sức mạnh nói lên cái thần của vũ trụ quan, và trong sức mạnh siêu hành hóa đã mang tổng thể khí lực âm và dương. Như vậy trục của vũ trụ quan là gốc hội tụ của tổng tinh hoa vạn pháp và gốc hội tụ của sức mạnh vũ trụ quan, từ đó mà hóa sinh ra vạn loại. Tất cả vạn loại đều có tinh hoa và sức mạnh âm dương, mà đại diện cho vũ trụ quan là Duy ngã đại thể. Vậy nhân bản Duy ngã đã có tinh khí thần. Tinh là tinh hoa, thần là sức mạnh nội lực, khí là thông lưu các động mạch, tỉnh mạch cùng khí quyển. Như vậy các bậc Bồ tát và Như lai thành tựu Ngọc Xá Lợi và thành tựu pháp tính kim cương, tức là các vị đã hội tụ được tinh khí thần và thành tựu được pháp hoa chân tâm kim cương.
Ngài dạy: Tính cơ bản của Tinh khí thần mà nhân loại đã có là từ cái tổng thể của vũ trụ quan đã có. Nếu vũ trụ quan không có tinh khí thần thì chúng ta cũng không có tinh khí thần. Như vậy thì nhân sinh quan phải biết điều tiết tinh khí thần đó ở một qui trình thuận và chuyển tải tinh khí thần đó về chân tính. Khi điều tiết tinh khí thần một cách hợp lý thì tinh khí thần luôn luôn ổn định và không bị biến thái, thì sức mạnh của giá trị hóa chúng ta mới phát triển được .
Ở đây chúng ta có thể cho tinh khí thần ở một mức độ hợp pháp mà không quá đáng đối với việc phi pháp. Chớ Như Lai hoàn toàn không cấm đoán một cách nghiệt ngã về tinh khí thần đối với thế giới Duy ngã. Vì thế giới Duy ngã là thế giới hội nhập tinh khí thần và phát triển giá trị hóa tinh khí thần, để điều hợp tinh khí thần trong giá trị hóa, nhầm để kế thừa sự nghiệp Công luật vũ trụ và kế thừa sự nghiệp Công luật hành tinh, hoặc kế thừa sự nghiệp nhân bản thế giới. Nhưng không lạm dụng làm suy tổn tinh khí thần một cách quá đáng, thì sẽ bị phân tán giá trị trục đối với tâm pháp. Vì giá trị trục là tâm pháp và bản chất của vạn năng phải nương nơi tinh khí thần để hóa. Và nếu không có tinh khí thần để hóa, thì bản chất của vạn năng không thể hiện hết sức mạnh của tâm chủ đối với vạn pháp
Như vậy tâm chủ của vạn pháp hay gọi là: vạn năng kinh tâm chủ pháp hoa, nó không thể tách rời giá trị nền hóa của tinh khí thần hội tụ và sức tròn đủ của tinh khí thần đối với vũ trụ và nhân sinh tuy 2 là 1, tuy 1 là 2, đã thống nhất một cách triệt để. Nên Như Lai đưa ra khẩu quyết này cho toàn thể các bậc hành giả có những tri thức cơ bản nhất trong đời sống của thế giới Duy ngã. Vì nếu ai làm tổn hại đến tinh khí thần thì giá trị quyết định con đường đi sẽ bị gãy đổ, hoặc là mục đích đến đối với các chuyên môn sẽ không nở được pháp hoa trên trái đất.
Ta thấy thế giới Duy ngã là bản chất sức mạnh của tinh khí thần. Nếu thần không phát sáng, khí lực bị phân tán và tinh hoa bị rã rời. Thì 3 chân này bị triệt rồi đâu còn hóa nữa. Nên tùy mức độ hội tụ tinh khí thần của nhân bản, quyết định công phu rèn tập để có tính cơ bản về sự hội tụ đó, thì chúng ta mới ổn định về tâm chủ vạn năng. Mà tâm chủ vạn năng là chủ thể của pháp hoa. Vậy, Vạn năng kinh tâm chủ pháp hoa, là chủ luôn cả tinh khí thần và tinh khí thần là tính cơ bản cho tâm chủ pháp hoa.
Nên ở đây ta có thể hiểu theo nguyên tắc là Tâm vật hội tụ, tính thể dung thông và Kinh 6 cũng nói đến phần này. Vì Kinh 6 là kinh quyết định cho sự hội tụ và tròn đủ bản chất hội tụ để đủ sức phát triển.
Một khi mà tâm vật phân tán ra nhiều mảnh vụn, nghĩa mảnh vụn là suy thoái nghiêm trọng về hệ thống cơ cấu và các sức tải trọng của khí lực đối với ngũ căn, khí lực đối với ngũ tạng và đối với năng lực sức mạnh của thân lập có hệ thống cơ cấu não bộ và não bộ có thể đại diện sức mạnh cho giá trị hồng quang, thì chúng ta hoàn toàn không đủ tải trọng, vì vậy mà chúng ta bị sụp đổ ở đây.
Một khi chúng ta có thân thể thì điều này là nguy hiểm. Cho nên hữu thân hữu họa, là vì chúng ta không tập hợp được tất cả những phúc âm cho tinh lực, khí lực và thần lực. Như vậy phúc âm ở đây là phúc âm có hệ thống và năng lực của giá trị phúc âm, mà không phải cầu vọng theo kiểu phi chân. Mà phúc âm là sức mạnh của sự tăng trưởng về tinh khí thần hợp nhất và phúc âm của giá trị phản chiếu ánh sáng của chân tâm; thì phúc âm ấy sẽ không bị biến đổi mà tạo thành phúc âm của giá trị pháp thân; giải trừ tất cả mọi họa nạn và giá trị sống của chúng ta có khác hơn tất cả những thế giới đang chìm sâu trong sự khủng bố.
Ngài bảo ông Chơn Ngọc Biện Hộ xác định về bài học này.
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Thưa Cha, Tinh khí thần tam chân hội tụ. Nếu nói về nguyên lý thượng tầng vũ trụ quan, thì 3 ngôi luôn hội tụ thống nhất. Tinh là tinh hoa, là muốn nói đến tổng hàm hoa Trung tâm vạn năng. Khí là khí lực sức mạnh, là muốn nói đến Âm dương vạn tỏa. Thần là thần quang, là muốn nói đến ánh sáng của Thống thức chân quang. Như vậy Tinh khí thần của vũ trụ quan là 3 ngôi hợp chiếu thống nhất của Thống hóa và từ đó mới hóa sinh ra muôn loài vạn vật
Như vậy nhân sinh quan là con người nhân bản Duy ngã đại thể đã có tinh khí thần hội tụ trong nhân bản đó, nhưng chúng con có trở về trong giá trị hội tụ đó hay không, thì đây là điều quan trọng nhất. Như chúng con liên hệ lại chi kinh đã học: Lý thống nhất trong cội nguồn chân tính, nhưng sự phân chia ngoài cành ngọn vô thường. Như vậy nếu chúng con không biết hội tụ tinh khí thần thì nó sẽ rơi vào chỗ phân chia và có thể dẫn đến làm rã rời cả nền tảng của sự nghiệp hóa. Như vậy chúng con phải quay về chỗ Sự phân chia vào định luật kết tinh. Tức là chúng con phải quay về với Tinh khí thần trong chính nhân bản chúng con.
Tinh là tinh hoa, nó đã ở trong xương tủy của con người, nhưng nếu chúng ta lạm dụng nó quá đáng thì chúng ta sẽ bị kiệt quệ và không thể tồn tại được. Khí là sức mạnh, là sự cân bằng của âm dương. Nếu chúng ta biết điều dưỡng khí lực và cân bằng được âm dương trong đời sống đó, thì sẽ có một sức sống rất vững chắc. Thần là sức mạnh hội tụ để phát sáng. Có nghĩa là chúng ta luôn luôn trở về trong tính thống nhất của 3 kinh trục và thuận theo Vận luật tuần hoàn chu kinh thì chúng ta hoàn toàn sẽ không mất tinh khí thần, mà lại được bảo hòa và hợp chiếu thống nhất tinh khí thần, thì nhất định chúng ta sẽ có Vạn năng kinh tâm chủ pháp hoa. Vì sao? Vì một khi tinh khí thần được hội tụ và phát triển, thì nó là biện chứng cho giá trị Tâm vật hội tụ kinh. Thì chúng ta sẽ có tâm chủ Pháp hoa tại đây. Vì sao? Vì Trung tâm vạn năng hóa vạn pháp, Trung tâm vạn năng hóa tính năng của các loài và Trung tâm vạn năng hóa Duy ngã. Như vậy thì tất cả tinh hoa trong muôn loài vạn vật và vạn pháp đều từ Trung tâm vạn năng cho nó, nên bản chất nó đã có tinh khí thần. Vì thế nên khi nó trở về hội tụ và kết tinh tinh hoa, thành tựu những giá trị cao nhất của Duy ngã đại thể, thì tinh khí thần cũng có trọn đủ trong Duy ngã đại thể đó và chính nó đã được trở về hợp chiếu trong nguồn gốc của Vạn năng.
Hai câu kinh này chúng con thấy rằng: Một sự bỗ trợ chặt chẽ thống nhất và tuyệt vời, làm sáng tỏ Cửu kinh minh triết và chỉ có con đường này thì mới dẫn độ các tầng lớp trí thức, thiện trí thức đi đúng vào quỹ đạo trở về với Trung tâm vạn năng để có Tâm chủ Pháp hoa.
Chúng con rất mừng vui với những đề kinh từ nguồn ánh sáng Phật quang phát chiếu và sự phát minh tuyệt vời của Cha từ trong chân tính vô ngại của Trung tâm vạn năng đã hợp chiếu và phát sáng. Chúng con đã được chứng kiến và hưởng được nguồn ánh sáng hào quang của Phật, mà Cha đã phát chiếu, và đây là nguồn hạnh phúc cao nhất đối với chúng con. Thì đây là những đề kinh bất hủ, bất diệt và sáng mãi với thời gian. Đối với nhân loại ngày mai này người ta sẽ nương vào những đề kinh này để trở về thành tựu viên mãn chân tâm Pháp hoa.
Ngài dạy: Đề kinh này là khẩu quyết cho chính thượng hóa của Như Lai và thiết lập sự nghiệp chính pháp đại hóa trên mặt trần của thế giới Duy ngã. Đề kinh này đã phản ảnh được giá trị hệ thống và làm sáng tỏ các mạch lục trong hệ thống Cửu kinh minh triết và không thay đổi bản chất chính pháp của sự nghiệp hóa và không đảo lộn về sức mạnh của hệ thống Thống hóa. Như vậy Đề kinh này rất quan trọng. Nếu chúng ta đưa khẩu quyết Đề kinh này để bỗ trợ và thống nhất hệ thống Cửu kinh và làm cho bản chất ấy không bị thay đổi, thì hệ thống Cửu kinh được sống mãi trong muôn đời sau và không thay đổi trong muôn đời sau .
Chúng ta tự hào rằng: Chính pháp Như Lai đã khép kín và hoàn toàn vào trong lõi cội gốc của Trung tâm vạn năng. Chúng ta hoàn toàn không đi lệch với Trung tâm vạn năng để có kinh chủ về sức mạnh của sự nghiệp hóa Pháp hoa và Hoa nghiêm. Vì chỉ có Pháp hoa và Hoa nghiêm là đỉnh phát của giá trị pháp thân và thành đạt được giá trị bất biến thể đối với sự nghiệp Như Lai hóa vạn pháp. Thì tất cả những kinh quyết – khẩu quyết ấy để hiệu triệu cho sức mạnh và thống nhất trong hệ thống pháp tính, pháp thể và muôn đời chúng ta có chính pháp bằng những khẩu quyết ấy.
Nếu chúng ta đưa những khẩu quyết ấy để làm vững chãi cho nền chân lý và không thay đổi nền chân lý thì khẩu quyết ấy trở nên những công cụ sắc bén nhất của Như Lai và sự nghiệp hóa của vạn pháp mà Như Lai không bao giờ thay đổi tính Bát nhã.
.
8/2/Tân Mão 2011
Lục nhập tri quang pháp – lục thức định tuệ tâm
Trong thế giới nhị nguyên thì 18 giới xứ luôn có liên quan với tâm và pháp, hoặc tâm và pháp luôn có liên quan với 18 giới xứ. Nên đức từ phụ đưa ra hai câu khẩu quyết đối với tâm và pháp và đối với 18 giới xứ trên con đường tu học và tiến hóa để trở về nguồn thực. Hai câu khẩu quyết đó là: “Lục nhập tri quang pháp, lục thức định tuệ tâm”. Ta thấy hai câu này nó đối với nhau giữa tâm pháp và cũng rất tâm pháp. Nhưng tâm pháp này không phải mất chủ tính và cũng hoàn toàn không bị lực hấp dẫn của khách quan mà khiến cho chủ tính bị biến đổi.
Tâm và pháp cũng có nghĩa là trong và ngoài. Trong là trong tư tưởng, còn ngoài là ngoài vạn pháp, hoặc là ngoài lục trần của sắc – thanh – hương – vị – xúc – pháp. Như vậy, sắc – thanh – hương – vị – xúc – pháp nó là một hệ thống lập thể. Và chúng ta có 6 căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý cũng là một hệ thống. Và khi 6 căn gặp 6 trần thì có 6 thức, đó là hệ thống, là nguyên tắc và rất triệt để mà chúng ta không thể chối bỏ nó được. Nên đức Như Lai nói: hệ thống ấy là hệ thống của sự tiến lợi thanh đắc và dẫn dắt trở về nguồn. Còn một khi ta lầm nó thì nó lại trở thành giặc dữ. Vì vậy mà Như Lai đưa ra khẩu quyết là: Lục nhập tri quang pháp, lục thức định tuệ tâm. Thì đây là một chi kinh rất khoa học và có cơ cấu hệ thống rất căn bản. Nếu ta dùng hai câu này để ứng dụng vào đời sống thì hóa được 18 giới xứ, biến nó trở thành phương tiện rất tốt để hóa tâm pháp đối với con người và các loài.
Nếu lục nhập tri quang pháp ở các loài thấp hơn, thì nó vẫn tiềm dẫn trong giá trị tiến hóa của sự tập hợp tinh hoa để mà hóa, thuộc về tính ánh sáng của hệ thống tri thức và vật chất. Nghĩa của quang ở đây là sáng và cũng là sự quan tâm không buông lỏng nó. Vậy tri quang là sự thắp sáng và không buông lỏng nó.
Thế thì tất cả những gì nhập vào ta, mà ta không xác định nó thì trong và ngoài không thuộc về ánh sáng. Còn một khi ta xác nhận nó thì trong và ngoài đều là ánh sáng cả, đó là lục nhập tri quang pháp. Như vậy tất cả những thứ gì nhập vào 6 căn thì chúng ta luôn luôn phải có một chương trình tri quang pháp trong mỗi giây, mỗi phút, mỗi giờ. Đó là cửa thanh lọc tức khắc đối với giá trị xuất nhập hóa liên tục trong đời sống của 6 căn, 6 trần và 6 thức. Thì đây chính là bộ máy lọc và lọc một cách trật tự có tính quang minh chính đại của hệ thống lục nhập.
Khi nhập vào thì liền có: Lục thức định tuệ tâm, tức là 6 thức đó nó phải quy hồi trong giá trị kết tinh của tuệ tâm, chư nó không thể làm ngược đãi, hoặc khuấy động, tung hoành đối với định tuệ tâm một cách vô lý mà cuối cùng mất bản thể chân tâm.
Đối với 18 giới xứ chúng ta không thể ức chế, bịt tắt và ngắt đoạn giá trị 18 giới xứ ấy trong đời sống khi đi ngủ, vì khi yên ngủ của 18 giới xứ thì giá trị tác động của hệ thống tâm và pháp đó nó vẫn có.
Nếu chúng ta không xác định được 18 giới xứ mà cứ để nó tung hoành, thì chúng ta sẽ bị lực hấp dẫn về sức mạnh 18 giới xứ đó nó sẽ khiến ta và hoàn toàn ta không chống đỡ nổi. Vì vậy mà chúng ta phải luôn luôn đặt khẩu quyết của Lục nhập tri quang pháp. Và hoàn toàn Lục nhập tri quang pháp là một nền tảng cơ bản của giá trị hóa mà chúng ta không thả lỏng nó.
Chúng ta phải thấy rằng: luôn luôn phải đặt vấn đề tâm chủ, thì việc xuất khẩu hay nhập khẩu là quyền của người chủ. Vì tất cả những thứ hàng hóa tốt hay xấu mà muốn nhập vào và xuất ra thì đều có người chủ điều động về tính xuất nhập khẩu đó, chứ hàng hóa không thể tự đi được.
Như vậy việc xuất nhập hóa đối với vạn pháp giữa ý thức và vật chất, hay giữa ý thức và các căn nguyên cùng các vấn đề có liên quan đến căn nguyên, thì nó luôn luôn có một hệ thống chuyển động và trong đó luôn luôn có hệ thống tâm chủ. Như vậy ý thức có hệ thống tâm chủ và ngược lại tâm chủ có hệ thống ý thức. Vì biết rõ như thế nên đức Như Lai đã đưa ra những câu khẩu quyết rất quan trọng đó là: Lục nhập tri quang pháp và lục thức định tuệ tâm.
Tâm và pháp cũng có nghĩa là trong và ngoài. Thì trong và ngoài đó là sự chuyển hóa của tổng thể tinh hoa giữa siêu sắc năng hóa sắc năng, hoặc là giữa tri thức ánh sáng đối với các căn nguyên và siêu sắc căn nguyên đối với các pháp chuyển động trong hệ thống của 6 căn, 6 thức và 6 trần.
Như vậy hai câu này là nói lên tính chất thể dụng và tinh lọc bản thể. Đây là những giá trị công thức tinh lọc. Nếu không thì nhất định 6 căn, 6 trần, 6 thức đó sẽ hoạt động một cách vô định luật. Bởi khi ảo thức và vọng thức không có chủ định thì 18 giới xứ ấy sẽ tạo thành một sự nguy hiểm đối với tâm và pháp.
Đối với thế giới nhị nguyên, khi lục nhập là sinh ý thức khởi; mà ý thức khởi thì sinh ra hệ thống lục nhập. Vậy tuy nó là hai nhưng luôn luôn trở thành một cặp bộ chuyển động và không thể tách ra. Nếu chúng ta không biết thì thường là bị nó làm cho chúng ta đau khổ hơn là hạnh phúc. Vì thế mà Như Lai phóng suốt ánh sáng và chỉ rõ cho chúng ta là: Lục nhập tri quang pháp và lục thức định tuệ tâm. Nhằm để dẫn dắt của sức mạnh trong sự nghiệp hóa mà đối với đức Thích Ca Mâu Ni Ngài đặt nặng trong đời sống của tất cả các đạo tràng.
Hôm nay ta đặt vấn đề này vì hệ thống cửu kinh minh triết, vì phẩu thuật hệ thống tâm và pháp và vì những chi kinh vững chắc để chúng ta có một sự nghiệp hóa 18 giới xứ mà có được một mặt bằng tâm pháp vững chắc.
Ngài bảo Ông Chơn Thăng Ấn Chuyển xác định đề kinh này.
Ông Chơn Thăng Ấn Chuyển: Thưa Cha, đề kinh Lục nhập tri quang pháp và lục thức định tuệ tâm là rất quan trọng đối với sự nghiệp tiến hóa của chúng t. Vì trong cuộc sống hằng nhật thì các căn nguyên của chúng ta luôn nhập và xuất liên tục, bởi thế nếu chúng ta không có bộ máy tinh lọc của 18 giới xứ thì chúng ta không thể nào mà tiến hóa trong sự nghiệp vũ trụ một cách tốt đẹp được.
Như vậy chúng ta hãy dùng hai câu khẩu quyết này để tinh lọc tâm pháp mình. Nên Như Lai thường hay chăm sóc đạo tràng, hoặc là các đệ tử còn trong vòng tiến hóa thì lấy 18 giới xứ làm phương tiện cơ bản. Như vậy hai khẩu quyết này rất quan trọng đối với tất cả chúng ta trong sự nghiệp tiến hóa để đi đến sự tinh lọc thành tựu kim cương chân tâm. Hoặc là thành tựu các cấp độ trong sự nghiệp tiến hóa.
Ngài hỏi Ông Chơn Quốc Chính Thống: Nếu hai câu khẩu quyết này mà không thực hiện một cách thiết thực và tích cực, thì việc học cửu kinh có hiện thực không?
Ông Chơn Quốc Chính Thống: Thưa Cha, thực tế của Thống hóa đến với thế giới nhị nguyên là bằng hai thực thể đó là pháp quang và tâm định tuệ, đó cũng là ý chỉ của Thống hóa đến thế giới nhị nguyên.
Như vậy lấy gì để tri nhận được pháp quang và tâm định tuệ? Thì phải có 6 căn, 6 trần và 6 thức mà Như Lai gọi là 18 giới xứ. Thì đây là phương tiện để nhận được bản lai diện mục của Thống thức chân quang.
Vì nếu không có 6 trần thì lấy gì có pháp, và nếu không có 6 căn thì lấy gì để chúng ta ngộ nhập được pháp quang ấy, và nếu không có 6 thức thì làm sao kết tinh để trở về với tâm định tuệ. Như vậy hai cái trong và ngoài chẳng qua là trong thế giới nhị nguyên chúng ta tạm phân tích, chứ thật ra chủ tính uyên nguyên, hay bản lai diện mục thì nó phải đúc kết được tinh hoa của pháp và tâm ấy, thì mới trở thành chân thể uyên nguyên nhất và vượt lên tất cả mọi cảnh giới. Mà trong Bát Nhã tâm kinh đã nói: đó là bản lai diện mục mà các tổ và các đạo sư xem đó là mục tiêu tối thượng để trở về.
Như vậy con thấy rằng: 18 giới xứ là phương tiện tất yếu, để chúng ta hóa lập. Vậy trong tinh thần chuyển động và tiến hóa, thì tất nhiên chúng ta phải hóa. Nên ngôi lời đầu tiên Cha đã dạy là Thống hóa. Thống hóa từ đại thể, Thống hóa từ tiểu thể và Thống hóa từ vi thể. Và trong tạng quang minh thì đức từ phụ đã khai thị cho chúng con thấy, và nhà khoa học hôm nay người ta đã nghiên cứu và tìm ra được cái thực tại cuối cùng của vũ trụ là tạng quang minh. Vậy khi thể nhập được tạng quang minh ấy thì chúng ta mới tròn đủ được tâm và pháp.
Ngài bảo Ông Chơn Hoàng Quang Quân: Hãy xác định về lục nhập tri quang pháp.
Ông Chơn Hoàng Quang Quân: Thưa Cha, lục nhập mục đích là kết tinh được tinh hoa. Thì lục nhập tri quang pháp có nghĩa là trong đời sống của duy ngã đại thể thì luôn luôn xuất nhập liên tục để kết tinh và tiến hóa. Vậy khi xuất nhập hóa chúng ta phải có tính thanh lọc, tinh hoa thì đưa vào không phải tinh hoa thì bỏ ra, đó là tri quang pháp.
Ngài dạy: chúng ta làm rõ về các căn cơ hiểu biết của lục nhập tri quang pháp: Tức con người khi có con mắt là có quyền thấy, có lỗ tai thì có quyền nghe, có lỗ mũi thì có quyền ngửi, có lỗ miệng thì có quyền ăn, có thân thì có quyền xúc chạm và có ý thì có quyền phân biệt các hệ thống pháp. Thì đó là các quyền mà đấng Thống hóa đã cho. Nhưng Ngài nói rằng: đó là các quyền mà chúng ta phải biết thực sự trân trọng về giá trị hóa đối với chu trình thượng. Thế thì đối với con mắt của chu trình thượng là khi ta nhìn những thứ biết nó không lợi, thì ta không bao giờ để tâm đến nó. Hoặc là khi nghe một lời nói không tốt lành, không có lợi thì nhất định không bao giờ để tâm nhớ đến nó; Thì chỗ này là lục nhập tri quang pháp. Tức các pháp thuộc về ánh sáng thì chúng ta có quyền tri nó, có quyền thấy nó, biết nó và có quyền tinh lọc nó và nhập vào để giành lấy những giá trị quý báu đó để nuôi dưỡng tâm pháp. Còn các pháp không thuộc về ánh sáng thì chúng ta có quyền lọc và đào thải nó.
Như vậy, lục nhập tri quang pháp là nhập vào trong 6 căn chúng ta phải có một hệ thống tinh lọc, và để thể hiện cái nhập một cách đúng đắn thì câu 2 là lục thức định tuệ tâm.
Ngài hỏi Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: khi có định tuệ tâm thì lục thức có theo đó mà được ổn định không?
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Thưa Cha, chúng con đã học biết rằng từ gốc mới sinh ra cành ngọn. Chẳng hạn như có pháp tính, thì từ pháp tính đó mới sinh ra tính thấy, từ tính thấy mới sinh ra nhãn căn, mà có nhãn căn thì phải có sắc trần và có nhãn thức. Như vậy từ nhãn căn tương tác với sắc trần thì lúc đó nó liền có ý thức của con mắt, được gọi là nhãn thức, và các căn khác cũng đều như vậy nên gọi là lục nhập. Vậy khi lục nhập thì cũng liền có lục thức. Thế thì một khi mà chúng ta thực hiện được lục nhập tri quang pháp, thì chúng ta cũng có ngay lục thức định tuệ tâm liền, vì hai câu này không thể nào tách rời ra. Nếu có lục nhập mà không phải là tri quang pháp, thì hoàn toàn lục thức định tuệ tâm cũng không có. Cho nên lục thức định tuệ tâm là nói đến định chiếu quang minh, là nói đến sự thống nhất của 6 căn và 6 thức đã trở về trong chân tâm, và chân tâm hoàn toàn đã điều ngự 18 giới xứ, nên mới có định tuệ tâm.
Định tuệ tâm ở đây là giá trị định chiếu quang minh, biết rõ vật chất là vô thường nên trở về đắc chân tâm chân thường để điều ngự tất cả vật chất. Thế thì 18 giới xứ này là hoàn toàn thuộc về bên ngoài, còn định tuệ tâm là thuộc về chân tâm, là chủ thể và điều ngự 18 giới xứ.
Ngài nói lục thức định tuệ tâm là muốn nói đến sự thống nhất giữa ý thức và tâm là một, nên ý thức lúc bấy giờ đã trở thành: ứng tác sở trí. Tức là một trí tuệ tròn đủ mà không còn bị lầm lẫn một thứ gì nữa cả, nên trí ấy luôn luôn quán chiếu, phát sáng và kết tinh tinh hoa một cách chính xác nên đức Phật gọi đó là diệu quán sát trí. Thì tất nhiên bình đẳng tánh trí từ đó cũng được hiện ra, có nghĩa là tất cả vạn pháp không có cái xấu và cái tốt mà vạn pháp luôn có tính bình đẳng trong giá trị hạt tâm, bình đẳng trong tính đặc năng và bình đẳng trong giá trị cơ cấu hệ thống mà Thống hóa đã hình thành.
Cũng như trước đây Cha đã dạy chúng con là: Tính ánh sáng tự chiếu vô biên và thể hoành tác sinh diệt tương tục vô tận. Như vậy tất cả những phần lập thể sinh diệt tương tục vô tận ấy là luôn luôn không tách rời tính ánh sáng tự chiếu vô biên để được sinh diệt và phát triển. Cho nên chúng con trở về với tính ánh sáng của chân tâm, tức là trở về với gốc, thì các pháp sinh diệt của 18 giới xứ kia cũng theo đó mà thăng hoa.
Như vậy lục thức định tuệ tâm là trở về nguồn gốc của cái thấy, cái nghe, cái ngửi… để không còn dính mắc trong các sắc, thanh, hương… nữa mà trở lại ứng dụng các sắc, thanh, hương… để mà hóa tâm pháp và thành tựu giá trị của Bát nhã tâm kinh.
Chúng con đã giác ngộ rằng: nếu trở về chỗ lục nhập tri quang pháp và lục thức định tuệ tâm thì chúng con cũng có ngay: “Thất phật diệt tội chơn ngôn” trong chính bản thân mình. Vì sao? Vì mắt ấy không còn nhiễm sắc trần, mà lại định chiếu quang minh, kết tinh tinh hoa trong đời sống của tính thấy đó. Như vậy tất cả những sắc màu, những âm thanh, những vị ngọt… nó không còn quyến rũ được chúng con nữa, mà nó lại trở thành những phương tiện kết tinh tinh hoa để trở về trong nguồn gốc tổng hàm hoa mà vũ trụ đã cho tròn đủ giá trị đó trong chân tính, thì chúng con trở về chân tính để làm chủ toàn bộ những thứ vật thể đó.
Biết rất rõ vật chất là vô thường thì những sắc màu, âm thanh kia cũng là vô thường cả. Hôm nay nó đep, ngày mai nó xấu. Như một đóa hoa sáng nở chiều tàn, vì thế nên chúng con phải trở về chỗ lục nhập tri quang pháp, tức thấy được nguồn gốc chính của nó là chân thường, chân thường đó nó không thuộc về lập thể mà thuộc về phần tính. Cho nên chúng con trở về phần tính để làm chủ cái vật thể đó. Đó là tri quang pháp, mà có tri quang pháp được như vậy thì mới có lục thức định tuệ tâm. Vì tri quang pháp không thể tách rời định tuệ tâm mà có. Vậy 2 câu này nó là một mà không thể tách rời ra.
Ngài dạy: đúng vậy! Hai câu khẩu quyết này nó không tách rời ra và hoàn toàn nó không thể biến đổi tính tròn đủ của hai câu này. Lục nhập tri quang pháp là nhân thì lục thức định tuệ tâm là quả. Là kết quả của sự tinh lọc từ lục nhập đó mà có định tuệ tâm.
Lục thức là luôn luôn chuyển động trong 6 căn và 6 trần, nhưng mà chuyển động ta không để nó chuyển động lung tung mà chuyển động có quy trình, có sự thanh sát của trí huệ, tức chúng ta cho nó nhập bằng một tiêu đê ánh sáng, chứ không phải tiêu đề của quặng cấu bởi những lực hấp dẫn tham muốn mơ hồ. Khi chúng ta có tri quang pháp thì cũng có nghĩa là ta có một sàng lọc rất vững chắc nên nó không còn năng lực để quyến rũ chúng ta được. Một khi có tri quang pháp là có sự tập hợp của quang minh chính đại trong hệ thống lục nhập đó, nên chúng ta có lục thức định tuệ tâm. Mà khi chúng ta có lục thức định tuệ tâm rồi thì chúng ta hoàn toàn được ổn định về 6 căn và ổn định 18 giới xứ kio còn hấp dẫn và lôi cuốn chúng ta, và nó cũng không tạo thành những vòng xoáy để làm đảo lộn tâm và pháp. Như vậy tâm và pháp chúng ta hoàn toàn đã ra khỏi những vòng xoáy, những áp lực của 18 giới xứ và chúng ta sẽ hành dụng 18 giới xứ bằng trí huệ quang minh của định tuệ tâm. Và hành dụng bằng sự thanh lọc, thanh sát về tri quang của hệ thống lục nhập.
Khi giác ngộ được đề kinh này thì chúng ta sẽ không còn đổ thừa là tại con mắt, tại lỗ tai, hay là đổ thừa tại sắc trần, tại thanh trần gì nữa, vì đã thấy 18 giới xứ là Như Lai cho để chúng ta xây dựng một sự nghiệp hóa và thanh lọc kết tinh được thành phẩm cuối cùng đó là chân tâm kim cương. Như vậy hai câu khẩu quyết này là đề tài kinh điển của 18 giới xứ và là mục đích tiêu chí định hướng cho sự nghiệp hóa đối với tâm và pháp. Đây là 2 câu mà Đức Như Lai đã rút từ tất cả những kinh điển nội lý lập hóa quyết định giá trị khẩu quyết về các hệ thống kinh khẩu quyết trong mặt đại tạng và thực hiện một chi kinh lớn nhất để có một giá trị hóa các hành giả và tôn giả.
Bổ sung thêm vào lục nhập và lục thức.
Ông Chơn Quốc Chính Thống xin phát biểu: Thưa Cha, 2 câu khẩu quyết này như chìa khóa đích thực và siêu năng để khai mở kho tàng cửu kinh minh triết. Nếu không có khẩu quyết phương ngôn này thì chúng ta sẽ lờ mờ và có thể ngộ nhận cứ cho rằng chúng ta có cửu kinh minh triết như thực ra hoàn toàn chúng ta sống bằng ảo vọng.
Như vậy nếu không có lục nhập thì không thể tri quang pháp trong tinh thần tiến hóa khách quan nhất định, và nếu không có tri quang pháp thì tất nhiên không có lục thức định tuệ tâm. Nếu chúng con không ngộ nhập được chìa khóa này thì hằng ngày sống bằng lục nhập mê tướng trần, thì tất nhiên chúng con sẽ dẫn đến bước thứ 2 là lục thức loạn vọng tâm.
Như vậy nếu chúng con giác ngộ thì thực hiện được giá trị của lục nhập tri quang pháp và lục thức định tuệ tâm. Và nếu chúng con mê thì sẽ đi vào con đường thứ hai là lục nhập mê tướng trần và lục thức loạn vong tâm.
Ngài dạy: đúng vậy! Hôm nay trường công luật cửu kinh này sẽ đào tạo chúng ta trở thành những kỹ sư tâm linh và kỹ sư tâm linh là một trong những kỹ sư chủ tính của giá trị hóa vạn pháp. Trong tất cả các kỹ sư chuyên môn của hệ thống vật lý về mặt bằng hóa thì kỹ sư tâm linh hoặc là các chuyên đề về tâm linh thì cửu kinh vẫn là chúa của hệ thống tâm linh.
Nếu chúng ta học và thể nhập cửu kinh thì sẽ trở thành người có tri thức rất uyên bác và vĩ đại. Từ chỗ Đức Phật tổ Thích ca dạy: “Ngưu quốc sắc lữ thành đạt” là chính Ngài đưa trâu vào đời để thực hiện công trình phá hoang lập nguyên. Và Phật tổ Ngài dẫn dắt con trâu ấy đi rất nhiều đại kiếp và luôn luôn ở bên chân Ngài. Và sự trao truyền sự nghiệp này là một sự thụ lý vĩ đại nhất của Ngài trong đời sống về sự nghiệp đại hóa.
Thì ngày hôm nay cha đến thế gian và đản sinh vào đất nước hình thái dịch của người Việt Nam là một trong những tiêu chí cực kỳ lớn đối với hệ thống cửu kinh minh triết, mà Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni đã truyền nhiệm về sự nghiệp này cho Cha.
Vậy cửu kinh là thực tướng sẽ đi vào thế giới mới của sự nghiệp phá hoang lập nguyên vì tân canh đại hóa. Đó là cày vỡ mọi tâm địa hoang hóp về ý thức bất tương ưng của chúng sinh. Vì vậy mà cửu kinh là rất hiện đại cho nhân loại hôm nay và mãi mãi về sau.
4/2/Tân Mão 2011
Ly thoát lập thể. Tịch chiếu chân tâm. Thăng hoa chính vị.
Ly thoát lập thể không có nghĩa là phải chết đi, mà ly thoát lập thể là đánh sập tất cả mọi ràng buộc của lập thể. Về ràng buộc ra có thể đưa ra hàng trăm ngàn sự ràng buộc của lập thể. Nhưng thường thì sự ràng buộc ấy nó có hữu lý và vô lý. Ràng buộc hữu lý là ràng buộc do lòng tham muốn. Một khi phát sinh lòng tham muốn và không có nhân nghĩa thì đó gọi là ràng buộc bất tương ưng. Mà ràng buộc bất tương ưng thì khó bề mà ly thoát lập thể. Để đánh đổ một hệ thống lập thể mà nó nhiều nặng nề và thậm chí là nó ấu trỉ, nó nô dichh và khốn khổ trong đó. Như vậy một khi chúng ta chưa quyết định được vấn đề đó thì chúng ta hoàn toàn không có chân tâm.
Một khi mà chúng ta thoát ly được lập thể thì mới tịch chiếu chân tâm. Nghĩa là tịch chiếu ở đây là không biến đổi giá trị định mà ánh sáng ấy vẫn chói chan trước thềm nhị nguyên. Tức chúng ta không còn sống trong vọng mà sống trong quang minh của tâm pháp.
Thường thì chúng ta ở trong trạng thái nhị thừa với một tỉ lệ rất lớn mang tính đại trà trong quần chúng, trong đại thể, hoặc mang tính đại trà trong pháp hội, trong đạo tràng. Vì hôm nay chúng ta động ngày mai chúng ta định và động định ấy luôn luôn tương tục phát sinh trong đời sống của tâm pháp thì đó không phải là nhất thừa. Nhưng khi chúng ta thực hiện được công trình tịch chiếu chân tâm thì đã ra khỏi nhị thừa. Có nghĩa là ngay trong đời sống mà chúng ta có lập thể đó thì Như Lai nói: Ông vẫn có đời sống nhất thừa trong hệ thống lập thể ấy, vì ông đã ly thoát được lập thể nên ông đã có một đời sống nhất thừa trong bản chất quang minh của tịch chiếu chân tâm.
Tịch chiếu chân tâm không phải đợi đến ngày chết mới có mà ngay chúng ta đang sống mà đạt được tịch chiếu chân tâm đó thì chúng ta ra khỏi nhị thừa.
Như vậy thì này các tổ hoặc các vị từ A na hàm trở lên thì người ta đã xây dựng công trình tịch chiếu chân tâm. Là các vị ấy ăn, ở, ngủ trong nhà pháp hoa, sống trong nhà pháp hoa và các hoạt động ấy đều ở trong nhà pháp hoa và chưa bao giờ ra khỏi nhà pháp hoa, nên có được trạng thái của nhất thừa.
Tức là tất cả đều ở trong hệ thống của kinh điển.
Như vậy chuyện thăng hoa chính vị là hoàn toàn không có xa vời, vì chính bản chất chân tâm đó là nền tảng của thăng hoa chính vị. Tùy theo mức độ công phu và thực hiện giá trị thành tựu đó ở bao nhiêu thì sẽ thăng hoa được bấy nhiêu. Có thể thành tựu chính vị A na hàm, A la hán, Bồ Tát là do những công năng vạn hạnh, do những giá trị của ngũ minh và thiết lập có tính bền vững trong hệ thống ngũ minh đó mà có được chân tâm tịch chiếu thống nhất.
Như vậy chúng ta phải phá sập mọi sự ràng buộc một cách triệt để từ gốc để nó không phát sinh được nữa. Đó là phát sinh mọi tư tưởng ý niệm tham muốn thủ hữu, cố chấp về mặt lập thể đều bị ràng buộc cả.
Thế thì ly thoát lập thể – tịch chiếu chân tâm – thăng hoa chính vị. Thì đây là khẩu quyết kinh điển của chi kinh là nâng đỡ giá trị chuyển động và hình thành giá trị cửu kinh. Chiếm lĩnh được bản chất cửu kinh, chân hành cửu kinh và thành đắc cửu kinh một cách triệt để đối với bài này.
Ngài bảo Ông Chơn Quốc Chính Thống luận về đề kinh này
Ông Chơn Quốc Chính Thống: kính thưa Đức phụ nguyên cùng toàn thể . Hôm nay Cha đưa ra đề kinh này là nhằm đưa chúng con từng bước trở về ngộ nhập Phật tính chân tâm. Thì đây là đề tài thượng thừa và tố đại thượng thừa. Thường thì con người ta chấp ly thoát lập thể là phải bỏ thân xác này đi nhưng thực ra diễn trạng trong đời sống nhị nguyên thì chúng ta có thể ly thoát lập thể khi chúng ta còn ở trên mặt trạng nhị nguyên này.
Ngài dạy, đúng vậy! Đây là diệu nghĩa ly thoát lập thể chứ không phải xơ cứng chấp tướng hình thái ly thoát lập thể. Nên Như Lai nói: nếu ngươi rời bỏ hệ thống lập thể hữu vi nhưng mà diệu nghĩa của ly thoát lập thể về tri thức hiểu biết chưa ly thoát thì đồng nghĩa với giá trị không. Nên ngài mới nói: Ngũ uẩn giai không nhưng chân tâm giai hữu. Tức là cái nào không, cái nào có phải được rõ ràng để không lẫn lộn giữa cái không và cái có mà tạo thành tối tăm hỗn độn.
Ông Chơn Quốc Chính Thống: Thưa Cha, nếu phân tích về thực lý thì đây là tinh thần tối thượng của bộ kinh kim cương được đúc kết bằng giá trị của Bát nhã tâm kinh. Như vậy con hiểu ngũ uẩn giai không ở đây là do ý thức lầm lẫn chấp trước về các pháp sắc thọ tưởng hành thức và sắc thanh hương vị xúc pháp. Nên ý thức bị kẹt trong ngũ uẩn và kẹt trong lục trần.
Ngài dạy: chủ lý của nó là kẹt trong ý thức giới và chính ý thức giới đó một khi nó còn nguyên, chưa giác ngộ thì sắc thọ tưởng hành vẫn còn nguyên nhưng khi ý thức giới đã giác ngộ thì sắc thọ tưởng hành được chuyển qua tổng thể tinh hoa. Tức là sắc trở về siêu sắc, thọ trở về siêu thọ, tưởng trở về siêu tưởng, hành trở về siêu hành và thức trở về kết tinh kim cương chân tâm. Như vậy nó không còn thô lậu, trơ trọi và khô cằn như sa mạc mà không trồng thứ gì lên nó được. Một khi chúng ta trở về chân tâm là sự phì nhiêu hóa của các dinh dưỡng và tôn vinh những giá trị trồng mọc khắp cả tam thiên và xây dựng một chân tâm trải rộng của cả thượng trung hạ mà không bị kẹt ở tầng nào, thì lúc bấy giờ mới thấy được sự giải thoát toàn diện của nó.
Ông Chơn Quốc Chính Thống nói tiếp: thưa Cha trong chính văn kim cương Bát nhã đức từ phụ có khai thị rằng: Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm. Thì tâm này là ý thức phân biệt đối đãi chứ không phải là chân tâm. Vì chúng ta sống trong ý thức giới đối đãi nên lấy sắc trần làm thực tế. Nhưng sắc trần ấy chẳng qua chỉ là phương tiện hoá để trở về thực tướng siêu sắc trần. Bởi vì siêu sắc trần là trở về tạng quang minh mà các nhà khoa học người ta đã hình dung được cũng như các tổ và Như Lai đã khai thị về chân tâm.
Ngài dạy: nói về lập thể là nói chung trong tổng thể các hệ thống pháp. Tức là lập thể hình đồ giá trị hệ thống và có lập thể mới có hệ thống. Cho nên các pháp tướng là nói về các bong của lập thể. Bây giờ ta nói về hệ thống lập thể là cái hình trụ, nhưng mà nó cũng là một sự lầm lẫn ghê gớm của hình trụ này, mà có thể biến đổi ghê gớm của hình trụ về chân tâm. Đó là kẹt tất cả những giá trị quang minh chính đại về tư tưởng hoá về mặt lập thể. Và chúng ta kẹt về lập thể trong quang minh chính đại về tư tưởng đó.
Ông Chơn Quốc Chính Thống thưa cha, Cha đã đi sâu vào khai thị cho chúng con giá trị về ngũ uẩn giai không. Thực ra các hệ thống lập thể hoàn toàn nó chỉ là cái bong của chân tâm chứ không phải là thực tướng của chân tâm. Và chúng ta đang kẹt bởi ngũ uẩn. Và đỉnh cao đó là uẩn thức. Chính uẩn thức đó nó đã chủ động không cho chúng ta trở về với chân tâm, cứ nghĩ rằng ngồi thiền là chúng ta định trở về chân tâm nhưng thật ra vẫn còn nằm trong lậu thức của nhị thừa.
Như vậy khi ta đã nhận ra những thứ đó là huyễn là giặc thì tự nhiên chân tâm nó đến, chứ chúng ta không thể đi tìm chân tâm được.
Ngài dạy: đi tìm chân tâm, là không bao giờ có mà giải quyết các thực thể của chân tâm. Vì chân tâm đã ở với chúng ta rồi nhưng nó còn bị che khuất thì chúng ta làm những chuyện cần phải làm để chân tâm hiển lộ ra.
Như vậy những thứ vật chất quý nhất ngoài tâm thì cũng lấy cái tâm đi tìm. Ít nhất là hạt tâm lý tính sử dụng não bộ thần kinh đi tìm vàng. Thì chuyện đi tìm vàng cũng là chuyện của tâm, chứ không phải chuyện của con mắt. Mà con mắt là tiếp thị giá trị cơ động và ứng xử giá trị máy mọc. Như vậy con mắt không phải là chủ thể của việc đi tìm vàng, mà là cái tâm hiểu biết mới quyết định được tất cả mọi vấn đề đó. Thế thì tìm đúng cũng cái tâm quyết định hoặc tìm sai cũng cái tâm quyết định. Nếu tìm đúng thì nó được hưởng thụ mọi cái đúng ấy hoặc nếu tìm sai thì nó phải chịu mọi cái sai ấy. Nó được độc lập như vậy và chính sự độc lập đó cũng là cái quyền hạn tối cao mà thống hoá đã cho tất cả chúng ta mà không bao giờ lấy lại, đó là đặc trưng giá trị độc lập mà chúng ta hoàn toàn có.
Ngài bảo ông Chơn Ân Đại Hành
Ông Chơn Ân Đại Hành: Thưa Cha con hiểu rằng ly thoát lập thể tức là chúng ta không có tính kiến chấp và cố chấp về lập thể khi lập thể đó đã mất đi, làm được như vậy là ly thoát lập thể thì thân tâm sẽ được ổn định và tâm pháp được thăng hoa.
Ngài dạy: Như vậy ly thoát lập thể không có nghĩa là đánh đổ và huỷ hoại lập thể. Mà diệu nghĩa của ly thoát là không cho dính mắc nặng nề về mặt lập thể. Nếu Đức Phật nói: ngươi có quyền ăn, nhưng không có quyền chấp. Nếu ngươi ăn mà không chấp ngon hoặc dở và không đòi hỏi vệic ăn trước, ăn sau thì việc ăn ấy trở nên chính pháp.
Còn nếu ai đó cho rằng: tôi không ăn cơm, không uống nước và ly thoát, thì người đó không có ly thoát vì còn cố chấp ly thoát… Mà cố chấp ly thoát là đồng nghĩa với không ly thoát.
Như vậy hãy sống và sống tốt với tất cả hệ thống lập thể, nhưng không kiến chấp các hệ thống lập thể và những thứ lập thể vô nghĩa bất nhân chúng ta không bao giờ sử dụng nó. Thì nhất định sẽ được trở về chỗ tịch chiếu chân tâm và thăng hoa chính vị. Đó là bản nguyên kinh điển tất yếu về giá trị diệu nghĩa của ly thoát lập thể và đạt được chỗ tối thượng chính đẳng chính giác mà Như Lai đã thường vận dụng.
Ngài bảo ông Chơn Ngọc Biện Hộ nói về diệu nghĩa ly thoát lập thể.
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Thưa Cha, thường thì trong đời sống duy ngã đại thể còn kẹt ở chỗ chấp pháp và chấp ngã, vì thế mà hôm nay Cha đã khai thị đề kinh này để chúng con trở về chỗ cốt lõi của Bát nhã tâm kinh.
Như vậy muốn trở về chỗ cốt lõi này thì chúng con phải ly thoát lập thể. Chúng con biết nhân bản duy ngã đại thể là đại diện và cũng là nói lên giá trị tổng hàm hoa của vũ trụ trung tâm vạn năng. Như trước đây Cha đã dạy rằng pháp tính sinh ra pháp thể, thế thì pháp tính là cái gốc, còn pháp thể là cái ngọn vì thế cho nên thân thể chúng ta đây cũng ví như cái bong và tất cả những hệ thống lập thể nó cũng như thế. Nên Ngài mới dạy rằng: các con hãy lìa bong để trở về vói hình và thậm chí khi trở về với hình rồi thì Ngài lại dạy tiếp rằng: các con hãy ly thoát cái hình đó tức là dứt bỏ và không còn một sự dính mắc nào đối với các hệ thống lập thể thì các con mới trở về với cái tánh. Như vậy nghĩa của ly thoát ở đây là không còn một sự rang buộc nào, một sự chấp gút nào trong lập thể đó, chứ hoàn toàn không phải chúng ta bỏ lập thể ấy, và chỉ có con đường ly thoát lập thể đó thì chúng ta mới có ánh sang tịch chiếu chân tâm. Như vậy tịch chiếu ở đây không nghĩa là phải đi tìm kiếm nó, mà chỉ cần chúng ta ly thoát được lập thể một cách rốt ráo thì tịch chiếu chân tâm tự nó hiện ra.
Như vậy chúng con phải đi trên con đường tu chính, công phu tinh lọc bản thể loại trừ bốn tướng nhị nguyên, loại trừ chấp pháp, chấp ngã. Và con đường đó sẽ đưa chúng ta đến chánh niệm, từ đó mới có chánh định thì tịch chiếu chân tâm dần dần sẽ hiện ra.
Ngài dạy: Nếu ta có lập thể mà ta sống hoàn toàn không còn kẹt trong lập thể đó thì lúc bấy giờ tịch chiếu chân tâm mới được hiện ra. Đức Phật nói: phát nguồn mọi vận trước về ý thức đối đãi phân biệt cũng từ lập thể của ngũ ấm mà ra. Thế thì ly thoát là cắt đứt mọi vọng niệm do liên quan đến 5 ấm, sắc thọ tưởng hành thức. Do những sự tham trước của những hình thái, sắc thái đó mà chúng ta luôn luôn bị nghiêng ngã trên quy trình này.
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ nói tiếp: Thưa Cha, như vậy chúng con phải quay về bên trong của cái biết, nó thuộc về siêu thể, để làm chủ về lập thể. Thí dụ như làm chủ về các căn của thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, ý… để không còn đối đãi phân biệt trong 6 trần của sắc thanh hương vị xúc pháp và hoàn toàn không còn kẹt trong các hệ thống lập thể ấy thì mới có thực tướng của chân tâm và thăng hoa chính vị. Đây là một đề kinh rất quan trọng và rất biện chứng pháp. Để chúng con thấy được hệ thống lập thể là cần thiết, nhưng nó chỉ là phương tiện hóa để hạt tâm lý tính trở về thành tựu giá trị thực tướng của chân tâm.
Ngài dạy: xác định quay về là quay về trong trạng thái thống nhất của tịch chiếu quang minh. Nếu quay về mà chỉ có tịch mà không có chiếu. Thì Đức Phật nói: kìa chúng đang trốn chạy lập thể và chúng đi vào ngõ cụt của tối tăm. Vì chúng quay về với tịch cố chấp tịch thì đó của tối tăm, vì chưa phát ra sự chói lọi của tri thức ánh sáng quang minh từ kinh điển ấy thì tịch đó Đức Phật chưa chấp nhận. Như vậy tịch là phải chiếu thì mới có chân tâm. Hoặc nếu chiếu mà không tịch thì chiếu đó đã mất bản địa bất biến đổi của giá trị chân tâm, thì chiếu đó vẫn là vọng mà thôi. Ở đây xác định tịch chiếu chân tâm là không còn vọng trong đó vì luôn luôn kiên định chỗ bất biến thể của giá trị tịch và phát chiếu. Như vậy là chúng đã làm được giá trị mặt trời của vũ trụ quang và thể hiện giá trị chủ thể cho các hành tinh quay theo nó.
Như ta đã học “Thiền tinh quang nhật chiếu là ở đây. Vì thiền tinh quang nhật chiếu là mặt trời hoàn toàn không dính mắc một chút gì lập thể mà vẫn quang minh với hệ thống lập thể và ổn định hệ thống lập thể một cách triệt để, để các lập thể được sống và chuyển động trong hệ thống ánh sáng ấy. Mà ánh sáng ấy vẫn đương nhiên là không giới hạn.
Ngài bảo Ông Chơn Thăng Ấn Chuyển: nói về giá trị kết tinh của bài này.
Ông Chơn Thăng Ấn Chuyển: Thưa Cha, đây là một chi kinh rất quan trọng trong sự nghiệp tu tiến của nhân bản đại thể vì thường là chúng ta ở trong thế giới nhị nguyên là cái đọt của trung tâm đa phương hóa đa màu hay bị ràng buộc tất cả các pháp tướng và khó ly thoát được. Vì thế mà Phật ra đời đến nay thì sự thành tựu để làm sáng tỏ về đạo tràng của Như Lai thì vẫn chưa có gì là vinh quang sáng lạn.
Ngài dạy: hầu hết chúng sinh chỉ nằm trong khung tín ngưỡng mà chưa thể hiện được cốt lõi sự sống lập pháp mà chúng ta muốn thể hiện được cốt lõi của sự sống lập pháp thì phải đúng kinh điển này, còn nếu không thì bị tà thuyết. Vì nó dẫn chúng ta đi vào biên bìa của những biên kiến, tà kiến. Bởi những sự tham đắm hệ thống lập thể ghê gớm nên đã hình thành những giá trị biên kiến và tà kiến rộng lớn trong thế gian giải, nên đã làm cho thế gian của nhân loại khổ đau.
Như vậy khi chúng ta giác ngộ là phải giải quyết ngay trọng tâm của ly thoát lập thể, để chúng ta mới đạt chứng được giá trị tịch chiếu chân tâm và thăng hoa chính vị. Thế thì thăng hoa chính vị là một thực tướng rạng ngời khắp cả vũ trụ và có thể đại diện hàng trăm triệu mặt trời trên thái dương hệ và không bao giờ đánh sụp chân tính ánh sáng đó. Đó là sự trường viễn bao la mênh mông vô tận mà không bao giờ biến đổi. Thì đó là cái quý nhất của vũ trụ này mà ít người biết đến, thì hôm nay chúng ta phải dẫn độ chúng sinh đi vào sự nghiệp cửu kinh minh triết và thành đạt được giá trị chân tâm đó, thì đồng nghĩa chúng ta mới tồn tại với trung tâm vạn năng.
Ông Chơn Thăng Ấn Chuyển nói tiếp: Thưa Cha, cửu kinh của Cha ra đời trong thế kỷ 21 là điều rất quan trọng và làm sáng tỏ tất cả các kinh của Đức Từ phụ đã thuyết vì hệ thống cửu kinh sẽ đi sâu vào trong thực thể đời sống của tất cả mọi tầng lớp trong xã hội. Chính đây là thực tế làm cho người nhỏ nhất cũng được thắp sáng ngọn đèn nhỏ nhất của mình. Cho đến người trung trí, đại trí cũng được thắp sáng lên quả vị của mình.
Như vậy cửu kinh sẽ làm cho chúng ta thấy rõ từng tế bào trong đời sống từ hữu vi cho đến siêu vi. Mà siêu vi cao nhất đó là ý thức và chân tâm của chúng ta. Tức là làm sáng tỏ về vật thể cho đến tâm thể. Chính đó là sự thành tựu lớn nhất mà cửu kinh đã trở thành một mặt trời trực chiếu quang minh. Đây là điểm cuối cùng làm cho chúng ta thấy được cửu kinh là giá trị tuyệt đối trong đời sống thực hữu để chúng ta thăng hoa trong chính vị. N
Ngài dạy: hôm nay chúng ta học chi kinh này nhằm bổ trợ cho hệ thống cửu kinh đồng thời làm mạnh mẽ về giá trị biện chứng pháp, triết chứng pháp trong hệ thống vô lượng nghĩa ấy. Bởi vì muốn dẫn độ chúng sinh từ nhị thừa về nhất thừa. Thì Đức Như Lai đã nói là dùng vô lượng nghĩa và các thang bậc kinh điển trường lớp. Và có thể nói là dùng những phương tiện khéo để đưa tất cả những diệu chước vào trong đời sống của chúng sinh là nhằm làm cho chúng sinh giác ngộ về giá trị biện chứng pháp và siêu chứng pháp của hệ thống lập thể. Và xác định ly thoát hệ thống lập thể, tịch chiếu chân tâm, thăng hoa chính vị nhất, nhất định điều ấy không bao giờ sai.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!