Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT TẬP 10 -3



Trên đây là nhiệm vụ của năm uẩn hoạt động trong thân ngũ uẩn, tức là sự hoạt động của một  con người có  tu  tập theo  đường lối  của đạo  Phật  nhập  bốn  thiền  và  thực  hiện  Tam Minh.
Còn người chưa tu tập bốn thiền và Tam Minh thì tâm thức của họ đang nghỉ ngơi chưa hoạt động.


TẦM TỨ
Câu hỏi của Nhật Lý
Đọc  trong  Kinh  Song Tầm  đức  Phật  đã
xác định nghĩa của Tầm là sự suy tư (tầm thiện và tầm ác tức là suy tư thiện và ác).
Đọc trong Kinh An Trú Tầm, Đức Phật đã xác định nghĩa của Tứ là sự tác ý (tác ý một tướng khác của một tướng kia).


NHỚ ĐẾN LÀ TƯỞNG THỨC

Câu hỏi của Nhật Lý


Đọc  lại  bài  Kinh Đáng  Được  Ăn:  “Này các Tỳ kheo, những Sa Môn hay Bà la môn nào có nhớ đến các đời sống ở các kiếp trước, tất cả họ đều nhớ đến năm thủ uẩn hay nhớ đến một trong những  thủ  uẩn‛.  Như  vậy,  bài  kinh này đức  Phật  đã  dạy chúng ta về  quán tưởng để  tu tập năm thủ uẩn để thấy rõ năm thủ uẩn vô thường, khổ, vô ngã mà không tham đắm và không dính mắc.
Ở    đây  con  hỏi:  Tưởng  biết  rõ  màu  sắc xanh,  vàng,  đỏ,  trắng  v.v..  và  thức  rõ  biết  vị chua,  cay,  mặn,  ngọt,  đắng  v.v..  như  vậy  có đúng không?
Như  đoạn  kinh trên  Thầy  đã  trích  ra để xác minh đức Phật dạy chúng ta đang quán tưởng, nghĩa là chúng ta đang dùng tưởng thức để tư duy.
Nếu  có  một  vật  trước  mắt  dùng  để  quan sát  thì đó  là  ý  thức  quan  sát,  còn  ở  đây  đức Phật dạy nhớ lại quá khứ, vậy nhớ lại quá khứ một  sắc  tướng,  hình  ảnh,  màu  sắc,  âm  thanh,



mùi vị, cảm giác lạc, khổ, bất lạc, bất khổ v.v.. đó không phải là tưởng thức quán sát sao? Tưởng thức quán sát câu hữu với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.
Bởi mầu sắc chúng ta nhận được xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, hồng, cam v.v.. đều do tưởng  của  chúng  ta  đặt  ra để  ý  thức  chúng  ta tiếp  nhận  xanh,  vàng,  đỏ,  trắng,  đen,  hồng, cam v.v..
Ví dụ: mầu đỏ là do tưởng của chúng ta tưởng  mầu  đỏ  rồi từ  đó  ý  thức  chúng  ta  nhận thấy màu  đỏ, nếu trước  kia tưởng của chúng ta tưởng  mầøu  đỏ  là  mầu  xanh  thì bấy  giờ  ý  thức của chúng ta cũng cho nó màu xanh. Do đó, đức Phật  dạy:  “Tưởng  chỉ  là  sự  nhận  rõ  các  màu sắc‛.  Đúng  vậy  chỉ  có  tưởng  mới  nhận  ra mầu sắc.  Hôm  nay  tất  cả  những  mầu  sắc  đều  do tưởng nhận rõ các mầu sắc.
“Và  này  các  tỳ  kheo, thế  nào  gọi  là  thức? Rõ  biết  bằng  tưởng  câu  hữu  với  vị  thức  đắng, cay, ngọt, mặn v.v..‛.
Bởi, bài kinh này đức Phật dạy quán về thân  ngũ  uẩn  ở  quá  khứ, chứ  không  phải  quán thân ngũ uẩn ở hiện tại nên phải dùng tưởng câu hữu với lục thức thì mới đúng nghĩa của bài kinh. Ở  đây do dịch giả dịch không đúng nghĩa



vì dịch giả không phải là hành giả hoặc về sau những  nhà  học  giả  kết  tập  kinh  sách  thiếu kinh  nghiệm   tu   hành   nên   dùng   chữ   không chính  xác,  khiến  cho  người  đời  sau  đọc  khó hiểu, chỉ có những bậc có kinh nghiệm trên đường tu tập mới xác định được nghĩa lý này.
Cho nên, mầu sắc do tưởng nhận ra đức Phật đã xác định rất đúng và thức nhận biết ra mùi vị cay, đắng, ngọt, bùi, chua chát, mặn, lạt v.v.. thì không còn chỗ nào là sai cả.





CHÚ TÂM




Câu hỏi của Nhật Lý



Hỏi:  Kính bạch  Thầy!  Trước  đây  nhờ
chú niệm khá liên tục nên:

1- Khi theo dõi hơi thở, con thường thấy nhỏ, nhẹ ngắn dần, có lúc dường như mất hẳn.
2- Khi   kinh hành  thấy  rõ  sự  ‚nặng  nhẹ‛ của bước chân. Các thiền sư Nam Tông khuyên cứ  tiếp  tục chú  tâm  hơn  nữa  vào  hơi  thở  và bước   chân,   vì   ‚hơi   thở   vi   tế   là   tâm   vi   tế‛. Nhưng  vì  sợ  đó  là  kết  quả  của  sự  ức  chế  tâm



nên  con không  tiếp  tục hành  trì mà  chỉ  chú  ý xả tâm bằng pháp ‚Tứ Chánh Cần‛ theo Thầy chỉ dạy. Tuy  vậy hiện nay sự theo dõi, trụ tâm vào  hơi  thở  và  bước  đi của  con không  liên  tục như  trước  nữa.  Như  vậy  có  phải  niệm  căn  và tấn  căn  của  con không  được  phát  triển  đồng
đều?

Đáp:   Trước  khi  con  chưa  biết   pháp  tu hành xả tâm nên theo phương pháp tu hành ức chế  tâm,  vì  pháp  ức  chế  tâm  dễ  tu  tập  hơn pháp  xả  tâm,  tại  sao vậy?  Tại  vì chỉ  tu  tập  có một  đối  tượng  duy nhất  để  cột  tâm  vào  đó  ví dụ:  như  hơi  thở  hoặc  đi  kinh hành,  nhờ  đối tượng  đó  mà  tâm  bị  ức  chế  nên  vọng  tưởng không sanh từ đó con cảm giác hơi thở bắt đầu nhỏ nhẹ và đôi khi không còn cảm thấy hơi thở ra vô  nữa,  đó  là  một  trạng  thái  của  xúc  tưởng xuất  hiện  mà  con tưởng  đó  là  niệm  căn  được liên  tục  và  tấn  căn  được  tinh cần,  nếu  trên  đà này tiến tu thì con sẽ không khỏi giống như các sư  Nam  Tông  ôm  các  định  tướng  tưởng  mà chẳng giải quyết được sanh, già, bệnh, chết, chỉ tu  để  có  tu  mà  thôi,  chứ  con đường  phía  trước còn mờ  mịt, vì các sư Nam Tông đã  tu tập  qua rồi những trạng thái này mà chẳng thấy làm chủ tâm tham, sân, si, được rõ ràng các  sư còn



tham  ăn  thích  ngủ  tức  là  ăn  uống  phi  thời  và còn tham danh, đắm lợi, tiền bạc xe cộ, chùa to Phật lớn, không sống được trong từ tâm còn ăn thịt chúng sanh, cơ thể mập khỏe chứng tỏ các sư còn có nhiều tâm dục.
Nếu  con không ở  trên  Tứ  Niệm  Xứ  tu  tập xả tâm, đẩy lui các chướng ngại trên thân, thọ, tâm, pháp để khắc phục tham ưu trên đó thì dù con có  tu  niệm  căn,  có  liên  tục  tu  tập  tấn căn, dù  con có  tinh cần  một  triệu  năm  thì nó  cũng không giải  quyết  được  sanh, già, bệnh, chết  và chấm dứt luân hồi, vì lối tu tập này đã đi sai hướng giải thoát rồi.
Pháp xả tâm chỉ có trên Tứ niệm Xứ thỉnh thoảng  tu  tập  định, thỉnh  thoảng  tu  tập  quán và thỉnh thoảng tu tập xả, đừng nên chuyên ròng một  thứ  nào  cả, như trong kinh đức Phật đã  dạy: ‚Tỳ  kheo siêng  tu  tập  tăng  thượng  tâm, này  các  Tỳ  kheo,  nếu  một  chiều  tác  ý  tướng định, thì  có sự kiện tâm vị ấy đi đến thụ động. Tỳ  kheo siêng tu tập  tăng thượng tâm, này  các tỳ  kheo, nếu  một  chiều  tác  ý  tướng  tinh   cần, thời  có  sự  kiện  tâm  vị  ấy  đi đến  trạo  cử.  Tỳ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các tỳ kheo, nếu một chiều tác ý tướng xả, thời có sự kiện tâm vị ấy không chân chánh định tĩnh để



đoạn  diệt  các  lậu  hoặc.  Nhưng   nếu  tỳ  kheo siêng tu tập  tăng thượng tâm, này  các  tỳ kheo, nếu   thỉnh   thoảng   tác   ý   tướng   định,  thỉnh thoảng tác ý tướng tinh  cần, thỉnh thoảng tác ý tướng  xả,  tâm  vị  ấy  trở  thành  nhu   nhuyễn, kham  nhậm,  chói  sáng,  không  bẻ  vụn,  chơn chánh định  tĩnh  để đoạn tận các lậu hoặc‛.
Các   sư  Nam   Tông   chuyên   ròng   tu   tập định, vì  thế  các  Sư bị  ức  chế  tâm,  nên  sự  tu hành của các sư chẳng đi đến đâu cả.
Do lời Phật dạy trên đây chúng ta nên khéo  léo  và  thiện  xảo  tu  tập  trong  ba tướng này.





PHÁP MÔN NIỆM PHẬT

Câu hỏi của Nhật Lý


Hỏi: Kính bạch Thầy! Trước đây con có hành trì pháp  môn  NIỆM PHẬT  nhưng  khi  biết đó là pháp ức chế tâm, con đã từ bỏ. Tuy nhiên con vẫn còn có một số thắc mắc về pháp môn này:



1- Trong kinh   Thập  Thượng  (Trường  Bộ II, trang 663) Ngài  Sariputa có  dạy:  Sáu  pháp cần phải tu tập trong đó có pháp thường niệm Phật (tùy niệm Phật).
2- Trong các kinh  Tăng Chi- phần 1 pháp, phần 3 pháp v.v.. đã ghi rõ niệm Phật đưa đến
‚nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an  tịnh,  thắng trí,  giác  ngộ,  niết  bàn‛.  Vị  Thánh  đệ  tử  niệm Phật  được  ‚tịnh  tín, hân hoan, đoạn tận  phiền não‛. Vậy pháp môn Niệm Phật trong kinh Nguyên  Thủy  với  pháp  môn  niệm  Phật  của Tịnh Độ Tông khác nhau như thế nào?
3-  Một  vị  Thượng  Tọa  ở  Học  Viện  Phật Học  TP HCM  có  giảng:  ‚Người  niệm  Phật  được nhất tâm bất loạn, khi chết được vãng sanh cực lạc  Tây  Phương,  là  vị  A  Na  Hàm  hay  Trung Gian Bát Niết Bàn. Vì thế ở cảnh giới này vị ấy tu tiếp  Ngũ  Căn, Ngũ  Lực, Thất Giác  Chi, Bát Chánh Đạo để thể nhập Niết Bàn‛.
4-  Một  vị  Thượng  Tọa  viết  trong  Thanh
quy  ‚Niệm Phật là chánh niệm‛?

Kính  thưa  Thầy  các  luận  giải  này  đúng sai như thế nào?
Đáp:  Pháp  môn  niệm  Phật  trong  kinh
Nguyên  Thủy  và  pháp  môn  niệm  Phật  trong



kinh Tịnh Độ  không  giống  nhau, vì pháp  môn Tịnh Độ ức chế tâm (dùng câu niệm Phật tập trung tâm không loạn tưởng để được nhất tâm) ngược lại pháp môn niệm Phật trong kinh Nguyên Thủy là tâm tâm niệm  niệm  qua hạnh sống  của  đức  Phật  để  tâm  ly dục  ly ác  pháp, chứ  không  có  niệm  danh  hiệu  Phật  như  trong kinh Tịnh Độ.
Kinh  Nguyên   Thủy   dạy:   không   những niệm Phật mà còn niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới. Thầy đã giảng trong kinh Tứ Bất Hoại Tịnh, vậy các con hãy đọc lại sẽ rõ nghĩa và cách thức tu tập.
Một vị Thượng Tọa ở Phật Học Viện TP HCM  dạy: ‚Người niệm Phật được nhất tâm bất loạn khi chết được vãng sanh về cực lạc Tây phương‛.  Vị   thượng   tọa  này   chỉ   giảng  theo trong  kinh  Tịnh  độ,  chứ  riêng  bản  thân  vị thượng  tọa  cũng  chẳng  biết  có  được  vãng sanh hay không?
Theo thiển nghĩ của Thầy, một nước Cực Lạc  ở  Tây  phương là  một  nước  thanh  bình  và rất vui, người dân ở đó tính tình phải hiền hậu không còn tham, sân, si, trái lại người thế gian niệm Phật được nhất tâm mà tính tình hung ác vẫn còn tâm tham, sân, si ngút ngàn, nếu được



Phật  A  Di  Đà  rước  về  nước  Cực  Lạc  thì nước Cực Lạc có còn Cực Lạc và thanh bình nữa không?
Các con cứ suy ngẫm, đừng để mình  bị lừa đảo,  đừng  sống  trong  tưởng  các  con  ạ!  Phải sống trong thực tế, đừng mơ mộng ảo huyền, toàn thứ bánh vẽ, thật sự không ích lợi gì cho kiếp sống hiện tại của con người các con ạ!

Người  giữ  gìn giới luật  nghiêm  túc, không hề  vi phạm  một  lỗi  nhỏ  nhặt  nào,  tâm  thường ly dục  ly ác  pháp  thì mới  được  nhập  lưu  (vào dòng  Thánh),  nghĩa  là  tâm  người  đó  lìa  được tâm tham, sân, si chứ chưa có đoạn được, nếu tâm được như vậy mới được dự vào dòng Thánh còn  không  được  vậy  mà  gọi  là  đắc  quả  A  Na Hàm  thì không  đúng.  Pháp  môn  tu  tập  ức  chế tâm cho hết vọng tưởng mà chứng quả A Na Hàm thì thật là sống trong mơ, trong mộng.
Niệm Phật là Chánh niệm là một điều sai, niệm  Phật  chỉ  mới  tập  tỉnh  giác  trong  câu niệm Phật.
Tại sao quý vị lại không phân biệt được chánh niệm và tỉnh giác.



Chánh niệm là niệm thiện, còn tà niệm là niệm  ác. Mười  điều  thiện là  chánh  niệm, mười điều ác là tà niệm.
Tỉnh giác là tỉnh thức, nhờ có thân hành niệm tâm tỉnh giác nơi hành động nội và ngoại của thân.
Tâm chú ý hành động niệm câu danh hiệu Phật là tâm tu tỉnh thức chứ chưa có chánh niệm,  vì  câu  niệm  Phật  chẳng  thiện  chẳng  ác thì không thể được gọi là chánh niệm vì chánh niệm của nó phải có đối tượng là tà niệm.
Ở    đây  chữ  nghĩa  còn  hiểu  sai  thì thực hành  làm  sao đúng  được.  Do hiểu  sai  Thầy  Tổ của  chúng  ta  đời  đời  kiếp  kiếp  tu  hành  chẳng đi  về  đâu  cả,  thật  uổng  phí  một  đời  người,  có công tu hành, giống như dã tràng xe cát biển Đông.
Các con muốn tu theo đạo Phật thì phải nghiên cứu  cho rõ  ràng đừng vội  vàng tin, hãy cân nhắc thận trọng như đức Phật đã dạy: ‚Chớ có tin...  chớ có tin...  mà hãy tin  những gì có lợi ích cho mình,  cho người‛.





TẠO CỘNG  TỬ NGHIỆP  THIỆN LÀ MỘT HÀNH ĐỘNG DỐI TRÁ

Câu hỏi của Nhật Lý


Hỏi: Kính thưa Thầy! Đối với người già, nhất là người sắp chết, pháp môn niệm Phật dễ học   tập  và   hành  trì với  ba  tư  lương:   ‚TÍN, HẠNH,   NGUYỆN‛.   Một   pháp   sư  giảng:   người niệm  Phật  lại  được  trợ  niệm,  có  thể  giúp  cho CẬN  TỬ  NGHIỆP  có  được  sanh  thú  tốt  hơn,  ví như  dù  con bò  yếu  (niệm  thiện)  nhưng  được đứng  gần  cửa  chuồng  sẽ  được  ra trước  (?). Vậy nếu không dùng Pháp niệm Phật thì đối với người già, người sắp chết chúng ta giúp đỡ cho họ như thế nào để có ý nghĩa tích cực nhất?
Đáp: Cái mà gọi là  “CẬN  TỬ  NGHIỆP”  đây cũng là một trò lừa đảo của Tịnh Độ Tông, một việc làm hết sức phi đạo đức, che mắt thiên hạ. Một đời làm ác, chỉ đợi giờ phút cuối cùng dùng câu  niệm  Phật  để  tạo  cận  tử  nghiệp  tốt,  để được  tái  sanh  cảnh  giới  thiện  (Cực  Lạc),  tạo cận tử nghiệp thiện như vậy có đúng không?
Trong thời đức Phật còn tại thế, có một người tên là Vô Não, tu hành theo tà pháp của



ngoại  đạo.  Ngoại  đạo  dạy  ông  giết  người  cắt lóng tay xâu làm chuỗi đúng 1000 lóng tay sẽ chứng đạo. Nghe lời  dạy ấy ông giết  999 người và  còn  người  cuối  cùng  ông  dự  định giết  đó  là mẹ ông.
Biết  được  tâm  niệm  bất  hiếu  tội  lỗi  này đức Phật  đến đó giải  cứu mẹ ông và  khiến ông thức tỉnh.
Từ  đó,  ông  năng  nổ  tu  hành  theo  giáo pháp của đức Phật, ông thường ngăn ác và diệt ác trong tâm ông. Một hôm ông đi khất thực người  ta  biết  được  ông  là  người  tàn  ác  thường hay giết  người  nên người  ta đã  không cho cơm ăn  mà  còn  lấy  đá  ném  và  gậy  gộc  đánh  ông  u đầu chảy máu, ông nhẫn nhục chạy đi và không thù oán kẻ đánh mình, ông nghĩ quán như lời Phật  dạy: ‚nhân  quả‛. Do sự  quán xét  này ông đã cứu mình  thoát khổ và chẳng bao lâu ông chứng đạo quả A La Hán.
Sự chứng đạo giải thoát này không phải nhờ  ai  hộ  niệm  cho ông  mà  phải  chính  ông năng  nổ  chuyên  cần  tu  tập  ngăn  ác  diệt  ác pháp với một tâm nhiệt huyết nồng nàn.
Con  đường  tu  hành  giải   thoát  của  đạo Phật  không  thể  có  sự  hộ  niệm  được  mà  phải chính  bản  thân  của  người  đó  tinh tấn  siêng



năng  tu  tập,  vì  thế  đức  Phật  dạy:  “Chẳng phải  tôi, cũng chẳng phải người nào khác có  thể  đi  con  đường  ấy  cho  anh.   Chính anh, anh phải đi cho anh”.
Như vậy, rõ ràng khi còn sống mạnh khỏe không tu tập đến khi chết còn gì tu tập cho kịp nữa.  Suốt  một  đời  tu  tập  xả  tâm  ly dục  ly ác pháp hết sức năng nổ còn sợ chưa làm xong, huống  là  sắp  chết  đến  nơi  rồi  thì hộ  niệm  còn sức  đâu  đủ  bình  tĩnh,  còn  sức  đâu  đủ  gan  dạ chịu đựng những cơn nghiệp khổ đau tận cùng lúc  sắp  lâm  chung như  ai  xé  ruột  xé  gan. Hộ niệm  chỉ  là  một  hình  thức  suông  mà  các  nhà phát triển tưởng giải ra để lừa đảo mọi người làm sai lệch ý nghĩa tự lực của đạo Phật.
Một  đời  làm  ác  chỉ  một  phút  giây  tỉnh giác  quay  đầu  trở  lại  là  giải  thoát  ‚Tu nhất kiếp ngộ nhất thời‛. Lời này dạy không đúng, đức  Phật  Thích  Ca Mâu  Ni còn  phải  sáu  năm khổ  hạnh,  bốn  mươi  chín  ngày  tu  tập  hết  sức mới chứng được đạo quả.
Hiểu  biết  Phật  pháp  cho đúng nghĩa cũng không  phải  dễ  huống  là  tu  tập  còn  khó  gấp trăm  ngàn  lần,  vì  phải  trải  qua một  thời  gian dài  sống  và  tu  tập  uốn  nắn  tâm  mình  cho đến



khi thuần  thục  đâu  phải  là  một  việc  dễ  làm, một sớm một chiều làm xong được.
Bởi vậy chúng ta tu tập thì hãy tu tập cho đúng lời dạy của đức Phật chứ đừng nghe theo những lời dạy của các Tổ, do đó đức Phật cảnh giác  chúng  ta:  ‚Đừng  tin   Thầy  Tổ..  đừng  tin kinh  sách v.v.. và đừng tin  v.v..‛.
Trong  kinh sách  Nguyên  Thủy  không  có dạy hộ  niệm,  chỉ  dạy cho người  còn đang sống mạnh  khỏe,  còn  người  đau bệnh  đức  Phật  đã xác định: ‚người  có  bệnh  tu  tập  rất  khó‛. Đó là một  điều  khó  tu  trong  năm  điều  khó.  Trong kinh Bồ Đề Vương Tử thuộc kinh Trung Bộ: ‚Có năm điều khó tu tập:
1-        Không có lòng tin.

2-        Bệnh tật.

3-        Gian trá, không thật.

4-        Không tinh  tấn bỏ các ác pháp.

5-        Không có trí tuệ về sự sanh diệt‛.

Trong  đời  sống  hằng  ngày,  nếu  muốn  tu theo  đạo  Phật,  có  năm  điều  khó  này  khiến không  tinh cần  còn  không  giải  thoát  huống  là giờ phút sắp chết, còn gì nữa đâu hộ niệm.



Hộ  niệm  là  một  sự  cầu  tha  lực,  ngược  lại con đường tu hành của đạo Phật là phải tự lực, hộ niệm là một phương pháp tạo cận tử nghiệp thiện, đó là một sự dối trá. Dối trá là một điều vi phạm trong năm điều khó tu của đạo Phật.
Tóm  lại,   muốn  hộ   niệm  cho  người   sắp chết,  tốt  nhất  khi họ  còn  mạnh  khỏe  khuyên họ  nên  sống  trong  thiện  pháp,  nhờ  sống trong thiện pháp, huân thành nghiệp thiện đến khi chết nghiệp thiện tiếp tục tái sanh được sanh vào  cõi  thiện,  đó  là  một  việc  làm  chắc  chắn, còn  hộ  niệm  bất  cứ  một  việc  làm  gì đều  là  giả dối cả.
Hộ  niệm  mang bản chất  giả  dối, chúng ta là những người tu theo đạo Phật không bao giờ chấp nhận sự giả dối đó. Chúng ta hoàn toàn chấp  nhận  bố  thí pháp  để  giúp  cho mọi  người biết chánh pháp, biết đạo đức làm người để  họ sống  đúng  một  đời  sống  đạo  đức  nhân  bản  - nhân quả không làm khổ mình,  khổ người.
Sống không làm khổ mình, khổ người thì hạnh  phúc  biết  bao! Đến  khi chết  bất  cứ  sanh vào cõi nào chúng ta cũng đều không làm khổ mình,  khổ người, thì nơi đó là Thiên đàng, Cực lạc. Vì vậy, chúng ta không cầu vãng sanh, không  cần  hộ  niệm  chúng  ta  vẫn  được  giải



thoát. Con nên suy ngẫm lời Thầy dạy có đúng thì tin bằng không đúng thì đừng tin.





VONG LINH




Câu hỏi của Nhật Lý



Hỏi:  Kính bạch  Thầy!  Kinh  Tăng  Chi,
phẩm  ‚Nghiệp  Các  Công  Đức‛  trang 680, Phật dạy cho Ngài Cấp Cô Độc:  ‚Vị  Thánh  đệ  tử  với tài  sản...  thu  hoạch  đúng  pháp...  tổ  chức  năm loại lễ hiến cúng... hiến cúng cho các vong linh quá  khứ...‛  để đạt được đi đến hưởng thọ đúng phương xứ. Con phải hiểu và hành theo ý kinh này như thế nào cho đúng?
Đáp: Con có  đọc  bài  kinh Pháp  Môn Căn Bản chưa? Ba mươi ba cõi trời là ba mươi ba cõi tưởng.
Con  có   đọc   bài   kinh   Thập   Nhị   Nhân Duyên chưa? Khi mười hai duyên tan rã thì không còn một duyên nào  cả. Vậy thì linh hồn ở chỗ nào mà có?



Ở  đoạn kinh này con phải  hiểu  nghĩa cho chính xác:
1/ Nghĩa thứ nhất của nó sai là do người biên soạn viết ra hoặc người dịch không hiểu ý Phật nên dịch là vong linh.
2/ Nghĩa thứ hai là kinh sách Phật không bao giờ dạy có mâu thuẫn nhau.
3/ Nghĩa  thứ  ba trong  bài  kinh Tăng  Chi Phật dạy đạo đức làm người, nên phải dành ra một số  tiền đã  thu  hoạch được  để  sửa sang mồ mả  và  nơi  thờ  tự  để  tưởng  nhớ  công  ơn  Tổ Tiên, ông bà, cha mẹ, đó là lời dạy của Phật về đạo đức làm người tỏ lòng biết ơn của những người quá cố.
Đừng  có  hiểu  theo  nghĩa  của  ngoại  đạo
‚vong linh‛ mà  phải  hiểu  theo  nghĩa nhân quả
‚Cây có cội, nước có nguồn‛ mới đúng nghĩa đạo đức làm người.
Vì  thế,  thờ  cúng  Tổ  Tiên  không  có  nghĩa là thờ cúng những vong linh người chết.





KHÁI NIỆM VỀ GIỚI

Câu hỏi của Nhật Lý


Hỏi: Kính bạch Thầy! Thế nào là giới cấm,   giới   kinh,    giới   hành,   giới   hạnh,   giới đức...?  Còn  những  khái  niệm  nào  về  giới  của đạo Phật mà chúng con cần phải biết thêm?
Đáp: Giới cấm tức là pháp luật, là thanh qui, là nội qui, là những điều lệ mà tu sĩ không được vi phạm.
Giới kinh là những lời dạy của đức Phật được  kết  tập  thành kinh sách dạy về  các  pháp thiện,  người  tu  sĩ  cần  phải  học  và  tu  tập hằng ngày không được biếng trễ.
Giới hành là những pháp môn tu tập rèn luyện  thân  tâm  để  thân  tâm  được  thuần  hóa trong   thiện   pháp   như:   Định  Vô   Lậu,   Định Niệm  Hơi  Thở,  Định Chánh  Niệm  Tỉnh  Giác
v.v..

Giới hạnh là những hành động thân, miệng, ý được rèn luyện, được tu tập không còn làm khổ mình,  khổ người.



Giới đức là những đạo đức làm người làm Thánh được học tập và được áp dụng vào đời sống hằng ngày.
Ngoài  những  giới  trên  đây  đạo  Phật  còn có  nhiều  giới  như:  giới  bổn,  giới  luật,  giới  bất tử, ngũ giới, lục giới, bát giới, thập giới v.v..
Nói  giới  luật  tức  là  nói  đến  đạo  đức,  nói đạo đức là nói đến những hành động vượt thoát ra khỏi  bản chất của loài cầm  thú; nói đạo đức là nói đến những hành động cao thượng đẹp đẽ tuyệt  vời  của con người  đối  xử  nhau trong cuộc sống  không  làm  khổ  mình,  khổ  người  và  khổ tất cả muôn loài vạn vật trên hành tinh này.





NIỆM GIỚI LÀ TIÊU CHUẨN ĐƯỢC SINH LÀM NGƯỜI
Câu hỏi của Nhật Lý


Hỏi:  Kính bạch  Thầy!  Có  vị  giảng  sư nói:  ‚Chỉ  cần  giữ   gìn   năm  giới  thì kiếp  sau được  làm  người,  10  giới  được  làm  thân  chư



thiên‛?   Đúng   hay   sai,   xin   Thầy   giảng   cho chúng con được rõ.
Đáp: Đó là một tiêu chuẩn làm người, đức Phật  đã  xác định rất  rõ  ràng, vì thế  khi quy y Tam  Bảo  thọ  năm  giới,  người  cư sĩ  cần  phải sống đúng năm giới, nhưng mấy ai đã giữ gìn năm giới trọn vẹn, một tiêu chuẩn có năm điểm để được đậu làm thân người, nhưng nhìn  những người   xung  quanh  ta,   tuy   đã   thọ   năm   giới nhưng  mấy ai  đã  giữ  được  trọn vẹn, mặc dù  có người  đã  thọ  năm  giới  rất  lâu  có  thể  từ  năm năm  hay  mười  năm.  Thế  mà  giờ  này  còn  có người vi phạm.
Trong năm giới này gồm có:

1-        Sát sanh

2-        Trộm cắp

3-        Tà dâm

4-        Vọng ngữ

5-        Uống rượu

Trong  năm giới này giới trộm cắp, tà dâm và uống rượu là dễ giữ gìn, còn giới sát sanh và giới  vọng  ngữ  là  khó  giữ,  nói  khó  không  có nghĩa là giữ không được.



Người tu sĩ hiện nay năm giới này còn giữ không trọn huống là người cư sĩ. Bởi vậy “được thân người khó, khó như con rùa mù tìm bọng   cây   giữa   biển   Đông”.  Nói  khó  được thân người tức là nói giữ gìn năm giới rất khó.
Khi mất thân rồi phải trải qua vô lượng kiếp  mới  làm  được  người, thế  mà  mọi  người  có thân  chẳng  mấy  ai  quý  trọng.  Mỗi  phút  thời gian  trôi  qua làm  sao chúng  ta  cứu  được  thân. Nhờ  có  thân  tu  tập  mới  mong giải  thoát  luân hồi sanh tử, không có thân lấy gì tu tập giải thoát được. Phải không quý vị?

“Tấc bóng thời gian một tấc vàng, Tấc vàng tìm được không gì khó, Tấc bóng thời gian khó hỏi han”
Năm  giới  này  là  năm  hành  động  đạo  đức
làm người.

1- Giới  thứ  nhất  không sát sanh, giới này xác định quý vị có được thân người hay không? Nếu  quý  vị  phạm  giới  này  thì không  bao giờ quý vị được làm thân người nữa.
2- Giới này dạy: không vì sự sống của ta, mà ta nỡ sống trên sự giết hại và làm đau khổ của muôn loài vật khác, trong sự đau khổ đó có con người.  Giới  này là  một  hành  động  đạo  đức



hiếu  sinh,  chỉ  có  con người  mới  thực  hiện lòng thương yêu ấy; chỉ có con người mới tu tập rèn luyện đạo đức này. Còn tất cả loài thú vật trên hành  tinh này  không  thể  hiểu  biết  và  tu  tập rèn  luyện  đạo  đức  này  được.  Con người  nhờ  có tri kiến  hiểu  biết  thiện  và  ác,  còn  con thú  thì không  phân  biệt  được  thiện  ác.  Do biết  phân biệt  nên đức  Phật  mới  dạy cho con người  sống đạo đức hiếu sinh, vì có thương chúng sanh mới có  thương  mình,   có  thương  mình   không  nên làm  khổ  chúng  sanh,  làm  khổ  chúng  sanh  tức là  làm  khổ  mình,  tại  sao vậy?  Vì  luật  nhân quả,  khi làm  khổ  chúng  sanh  tức  là  huân  sự khổ  đau vào  mình.  Cho nên, người  nào  ăn thịt và giết hại chúng sanh thì người ấy đã huân sự bệnh  tật,  tai  nạn  vào  mình   và  những  người thân của mình.
‘Tích  thiện  gieo   nhân  ta  thắp  sáng  bầu

trời.



Đem  lợi  ích  cho  muôn  loài  là  niềm  vui

hạnh phúc‛.

Giới thứ nhất của Phật dạy chúng ta biết tạo  nhân  quả  không  sát  hại  và  ăn  thịt  chúng sanh  để   không  vay  nợ   xương  máu  và  thân mạng chúng sanh, nhờ đó mới được thân người, nếu  giết  hại  và  ăn thịt  chúng sanh là  phải  trả



nợ  máu  xương và  thân  mạng  tức  là  phải  làm thân chúng sanh để cho người khác giết hại và ăn thịt lại.
Điểm cao nhất của giới này là để được làm thân người, đó là đạo đức làm người thứ nhất của người cư sĩ.
Đạo  đức  này đã  không giết  hại  và  ăn thịt chúng  sanh  mà  còn  thương  yêu  tất  cả  chúng sanh như con mình.  Muốn được làm thân người thì quý vị phải nhớ kỹ lời dạy này; phải nhớ kỹ giữ gìn đạo đức này, đạo đức hiếu sinh, đạo đức này chỉ có con người mới có, nếu không giữ gìn được đạo đức này thì chớ mong có được thân người ở kiếp mai sau. Do đức hạnh này mà đức Phật dạy: “thân người khó được”.
Chỉ  trong  giới  này  cũng  đủ  xác  định  kiếp sau của quý vị còn có được thân người hay không?  Nếu  quý  vị  giết  hại  và  ăn  thịt  chúng sanh thì chắc chắn kiếp sau quý vị không được làm  thân  người.  Luật  nhân  quả  rất  công bằng, vì  thế  kiếp  sau quý  vị  phải  làm  thân  chúng sanh  để  trả  vay  nợ  máu  xương như  chúng  tôi đã  nói  ở  trên thì quý  vị làm  sao có  thân người được.
Còn bốn giới kia để xác định đời sống của quý  vị  khi có  thân  người  được  hạnh  phúc  sang



giàu  hay  khổ  đau  nghèo  cùng,  có  tình nghĩa hay bạc tình, có thông minh hay u tối như:

Giới thứ hai là giới cấm trộm cướp, giới này xác định làm được thân người có giàu sang hay  nghèo  khổ  đói  rét,  nếu  kiếp  này  quý  vị tham lam trộm cắp của người. Của cải trộm cắp ấy không những trong kiếp này, của cải tài sản của  quý  vị  như để  ngoài  sân,  nó  sẽ  bị  tiêu  tan dễ  dàng  như:  lửa  cháy,  nước  trôi,  Nhà  nước sung  công,   con  cái   trong  nhà   phá  tán  v.v.. Trong kiếp này và kiếp sau quý vị trở thành người  nghèo  cùng  khốn  khổ  cơm không  đủ  ăn, áo không đủ mặc, nghèo khổ đến mức không có nhà ở, phải ở hè phố ngủ đường ngủ bụi v.v.. đó là  luật  nhân  quả  rất  công  bằng  xử  phạt  kẻ tham lam trộm cắp cướp giật của người khác.
Nhìn   qua  giới  luật  này,  xét  thấy  trong cuộc sống của quý vị thì biết ngay quý vị nghèo khổ  hay  là  giàu  sang  đều  do  nhân  lấy  của không cho (tham lam trộm cắp) hay bố thí.
Giới  thứ  ba là  giới  Tà  dâm, giới  này xác định được quý bạn là người có đạo nghĩa hay không đạo nghĩa. Đức Phật dạy giới này là cấm dâm dục không chân chánh, dâm dục chân chánh là tình nghĩa đạo lý con người, còn dâm dục không chân chánh, nay lấy người này, mai



ở  với  người  khác  chẳng  khác  nào  là  một  con thú vật không đạo nghĩa, không chung thủy.
Giới luật này chỉ rõ đạo nghĩa làm người. Làm   người   phải   có   tình,  có   nghĩa,   có   lòng chung thủy thương yêu nhau mới gọi là con người. Vì hạnh phúc của chúng ta và mọi người thì chúng  ta  đâu  có  quyền  làm  khổ  mình,  khổ người bằng cách lang chạ như loài thú vật.
Con  người  khác  hơn  con thú  ở  giới  luật này, nếu con người  không giữ  gìn giới luật  này thì kiếp sau khó làm người, hiện tại họ là một con người  nhưng  tâm  tánh  họ  có  khác  gì  con thú, sống không tình, không nghĩa, sống không có   lòng   trung   trinh  tiết   hạnh,   sống   không chung thủy với nhau.
Giới  luật  này  xác  định  được  tình nghĩa đạo  đức  cao đẹp  của  con người  với  con người, nếu  không  có  giới  luật  này  thì đạo  đức  tình nghĩa  của  con người  không  có,  và  như vậy  con người chỉ là một con thú vật mà thôi.
Giới  thứ  tư là  giới  vọng  ngữ,  tức  là  giới cấm nói dối, giới cấm không nói thất hứa, thất hẹn v.v.. giới luật này xác định được uy tín của con người  trong cuộc  sống  đối  với  những người khác, giới luật này nói lên sự uy tín của con người  đối  với  con người  trong  xã  hội  như  trên

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


đã  nói, người  ở  đời  ai  phạm  vào  giới  luật là  tự làm  mất  uy tín. Con người  phải  có  uy tín, con người không uy tín là không xứng đáng làm người.
Một  con thú  vật  mang  đầy  đủ  tánh  hung ác  giết  hại  lẫn  nhau,  cướp  giật  ngang  tàng, sống lang chạ không chung thủy, nhưng rất thành thật không dối trá.
Giới  luật  này nếu con người  phạm  vào  thì còn  thua  loài  thú  vật  thì làm  sao xứng  đáng làm người được.
Người nói láo, thất hứa, thất hẹn là những người xã hội không ai dám gần. Giới không nói dối  là  một  giới  luật  rất  khó  giữ  gìn, làm người chúng ta thường hay phạm vào giới này, vì thế chúng  ta  phải  luôn  luôn  đề  cao cảnh  giác  khi nói chuyện bất cứ người nào.

Giới  thứ  năm  là  giới  uống  rượu.  Kẻ  say sưa rượu chè là người mê mờ, không sáng suốt. Người  uống  rượu  thường  tự  tạo  tri kiến  của mình  ngày  càng  u tối  và  đần  độn.  Người  nào hay uống rượu là người ấy tự làm khổ mình,  tự giết  mình,  uống  rượu  như  uống  thuốc  độc  vào mình. Vì thế, chỉ có những người không sáng suốt và mê mờ mới nuốt độc dược vào thân mà không biết.



Rượu  là  một  chất  độc  kích  thích  và  tác động  thần  kinh  khiến  cho  người  uống  rượu giống  như người  điên,  không  còn  trí tuệ  thông minh,  nên  người  say rượu  thường  ăn  nói  bừa bãi,  ăn  nói  khiếm  nhã  thiếu  lịch  sự,  văn  hóa, ăn nói thô lỗ cộc cằn v.v..
Người  uống  rượu  say sưa tánh  tình hung ác không khác nào như một ác quỷ, án mạng thường xảy ra phần lớn là  do những người  say
rượu.

Tóm  lại,  trong  năm  điểm  này,  nếu  chúng ta chỉ cần thiếu một điểm thì chúng ta cũng không thể làm người được, vì đó là năm tiêu chuẩn được làm  người mà  đức  Phật  đã  dạy cho mọi  người  để  xác  định  muốn  được  thân  người thì phải sống đúng năm giới luật này một cách cụ  thể,  rõ  ràng  mà  không  có  người  nào  phản đối.


NGƯỜI BIẾT ĐẠO KHÔNG CẦN GIỮ GIỚI LUẬT

Câu hỏi của Nhật Lý


Hỏi:  Kính bạch  Thầy!  Có  sự  khác  biệt nào giữa việc uống rượu của Tế Điên Tăng và việc  tự  sát  bằng  dao  của  Ngài  Channa  trong kinh  Tương Ưng tập 4 trang 99? Có vị nói, đối với người đã đắc đạo, thân có thể phạm giới nhưng  tâm  không  bao giờ  phạm,  từ  đó  đánh đồng hai hành động nêu trên?
Đáp:  Những  lý  luận  của  các  nhà  học  giả
‚Người  chứng  đạo  không cần  giữ  giới luật” điều
đó là sai cả.

Tế Điên Tăng là một nhân vật Đại Thừa thể hiện sự phá giới phi  đạo đức của đạo Phật, là một vị tăng đại diện cho giáo pháp Đại Thừa nên hành động Tế Điên Tăng thiếu oai nghi tế hạnh  nghiêm  trang  của  một  tu  sĩ  chân  chánh. Tế Điên Tăng chỉ lòe thần thông tưởng lừa đảo người,  mà  đức  Phật  đã  cho những  thần  thông đó là huyễn hóa không đáng cho chúng ta ca ngợi.



Tế Điên Tăng là một tu sĩ thiếu đức hạnh của một bậc Thánh Tăng thì không đáng cho chúng  ta  cung kính,  chỉ  có  những  người  ham mê thần thông thì mới cung kính,  còn những tu sĩ  đệ  tử  của đức  Phật  chân chánh tu  hành giải thoát thì xem đó là những kẻ tà đạo bàng môn, không phải là những tu sĩ Phật giáo.
Đức Phật so sánh mũi dao của tỳ kheo Channa  và Tứ Thiền tịnh chỉ hơi thở không có khác nhau.
Đọc  qua bài  kinh  này  chúng  ta  mới  thấy rõ thâm ý của đức Phật dám đem thiền định so sánh  với  mũi  dao thì thật  là  tuyệt  vời,  vì  đức Phật  muốn  bài  bác  thần thông một  cách quyết liệt,  vì  thần  thông  chẳng  đem đến  ích lợi  cho con người  thiết  thực.  Mặc  dù  Tứ  Thiền  là  một loại  thiền  định  tuyệt  vời  và  mầu  nhiệm  làm chủ được sự sống chết có nghĩa là người nhập được thiền định này muốn chết, muốn sống không còn khó khăn chút nào cả.
Tự  tại  trong  sanh  tử  như  thế  mà  Ngài dám đem mũi dao của Tỳ kheo Channa mà so sánh  thì Thầy  xin  tán  thán  đức  Phật  đúng  là một   bậc   Ứng  Cúng,   Chánh  Biến  Tri,  Minh Hạnh  Túc,   Thiện   Thệ,   Thế   Gian   Giải,   Vô



Thượng Sĩ, Điều  Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân
Sư, Phật Thế Tôn.

Sự  so sánh  này  hay tuyệt,  thần  thông  và Tứ  Thánh Định được  đức  Phật  xem như đồ  bỏ, như  một  chiếc  dép  hư,  không  còn  dùng  được nữa.





TỤ ĐIỂM




Câu hỏi của Nhật Lý



Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Khi  chúng  con
ngồi thiền:

1-  Xác  định tụ điểm  ở  chỗ  nào?  Giữ  nó như thế nào trong thời gian ngồi?
2- Mở  mắt  hay  nhắm  mắt,  có  lợi  hại  gì? Khi  nhắm  mắt  con dễ  gom 6 căn,  dễ  niệm  hơi thở hơn, vậy con có nên tiếp tục nhắm mắt?
3- Tay  để  bình  thường  hay  bắt  buộc  bàn tay phải để trên bàn tay trái, ngón cái chạm nhau?
4- Theo sự hướng dẫn của cô Út, mỗi ngày con chỉ ngồi rất ít (khoảng 45 phút), chủ yếu lo



hướng  tâm  xả  tâm.  Thưa  Thầy  chúng  con có nên tăng thời lượng lên không?
Đáp: Khi ngồi thiền các con cần nên lưu ý những điểm sau đây:
Trong câu hỏi một có hai câu:

1-  Xác  định  tụ  điểm.  Khi ngồi  thiền  tu Định  niệm  hơi  thở  thì nên  đặt  tụ  điểm  tại nhân trung tức là nơi hơi thở ra vào, giữa nhân trung cạnh mũi. Tu Định niệm hơi thở đặt tụ điểm  tại  nhân  trung  là  chính  xác  và  cụ  thể thực tế nhất không bị tưởng, đặt trên chóp mũi cũng  được,  nhưng  không  bằng  đặt  tại  nhân trung, vì nơi đó trụ tâm không sanh ảnh hưởng rối loạn thần kinh. Còn bất cứ đặt tụ điểm nơi đâu để trụ tâm đều không tốt, tại sao vậy?
Vì đặt bất cứ nơi đâu trên thân mà tu hơi thở  thì dễ  rơi  vào  định  tưởng,  định  tưởng  là một loại định rất nguy hiểm. Vì vậy, người tu thiền cần  phải  quan tâm  và  cảnh  giác  để  bước đường tu tập không là bước đường cùng.
1- Thời gian thích nghi tu tập tụ điểm. Tu tập và giữ gìn tụ điểm, muốn tu và tạo tụ điểm phải dùng một hơi thở vô và ra chậm và nhẹ nghĩa  là  hít vô  chậm  chậm  và  thở  ra  cũng chậm chậm, trước khi thở hơi thở này, chúng ta



dùng pháp hướng để dẫn tâm vào tụ điểm: ‚Hai mắt  phải  nhìn   xuống  tụ  điểm,  tâm  phải  tập trung vào  đó‛.  Sau khi hướng tâm xong thì hai mắt  phải  nhìn  xuống  nhân  trung  và  tâm  phải tập trung chú ý biết tại nơi đó, mắt và tâm đều tập trung nơi đó, chúng ta bắt đầu hít vô chậm chậm nương theo hơi thở vô, gom tâm tại nhân trung và  khi thở  ra cũng gom như vậy,  nếu  đủ sức thì chúng ta tu tập liên tục 5 hơi thở chậm rồi  thở  lại  hơi  thở  bình  thường,  còn  không  đủ sức  thì chỉ  thở  một  hơi  thở  chậm  mà  thôi,  rồi thở lại 10 hoặc 20 hơi thở bình thường. Khi thở lại hơi thở bình  thường thấy tâm bám chặt vào tụ điểm thì không cần thở lại hơi thở chậm, chỉ khi nào  tâm  chưa  bám  chặt  vào  tụ  điểm,  có nghĩa  là  tâm  còn  vọng  tưởng  thì mới  hướng tâm  và  thở  lại  một  hơi  thở  chậm  nhẹ  như  lúc ban đầu. Đó  là  cách giữ  gìn tâm  bám  chặt  vào tụ  điểm  để  tâm  không  còn  khởi  niệm.  Nếu  ai biết dùng hơi thở chậm gom tâm, người ấy ức chế tâm hết vọng tưởng dễ dàng, nhưng đây không phải thiền định, đây chỉ là sự tập trung tâm để giúp tâm tỉnh thức chứ không phải đi vào  tĩnh  lặng  để  rồi  rơi  vào  định  tưởng.  Xin quý vị lưu ý.



2- Mở mắt hay nhắm mắt trong khi tu tập còn tùy vào hai trường hợp:
a- Khi loạn tưởng thì nên nhắm mắt.

b- Khi bị hôn trầm thùy miên thì nên mở

mắt.
Mở mắt to sanh loạn tưởng, nhắm mắt lại

sanh hôn trầm, vì thế người tu hành nên tập tu không  mở  mắt,  không  nhắm  mắt  mà  chỉ  cần mắt  nhìn  xuống,  khi mắt  nhìn  xuống  thì mắt chỉ  mở  một  phần ba, mắt  chỉ  mở  một  phần ba là vừa đủ thu nhiếp tâm và không bị hôn trầm thùy miên và loạn tưởng.
Khi mới  bắt  đầu  tu  tập,  nhắm  mắt  tu  dễ gom tâm  nhưng  tu  lâu  thì không  tốt,  vì  dễ  bị ma tưởng quấy nhiễu.
Con không nên tiếp tục tu tập nhắm mắt mà  phải  tu  đúng  cách  ngay  từ  lúc  ban  đầu. Người tu thiền không được nhắm mắt, không được mở mắt, khi ngồi thiền chỉ có nhìn  xuống, từ  chỗ  ngồi  đến  điểm  mắt  nhìn  cách  khoảng một  thước  hoặc  tám  tấc,  không  được  xa  hơn cũng  không  được  gần  quá,  vì  xa  hơn  thì đầu phải ngước lên và như vậy thì mắt phải mở to, còn  gần  quá  thì đầu  phải  cúi  xuống,  đầu  cúi



xuống mà ngồi thiền thì trông tướng rất xấu đễ bị hôn trầm thùy miên vô ký và tưởng lạc.
3- Tu thiền theo Phật giáo, hai bàn tay không  bắt  ấn,  chỉ  có  người  tu  theo  Mật  Tông hai  bàn tay luôn luôn lúc  nào  cũng bắt  ấn, khi ngồi thiền hai bàn tay để tự nhiên trên hai đầu gối như tượng Phật Nguyên Thủy hoặc hai bàn tay để chồng lên nhau một cách tự nhiên chứ không  bắt  buộc  hai  đầu  ngón  tay  cái  chạm nhau. Chúng  ta  tu  theo  Phật  thì phải  sống  và tu tập như Phật, đừng bắt chước theo kinh điển phát triển, bởi vì thiền của Phật là chỗ tâm không còn tham, sân, si chứ không phải chỗ ngồi, ngồi như thế nào thoải mái dễ chịu thì ngồi, còn ngồi mà khổ đau thì không nên ngồi, vì  chúng  ta  theo  Phật  là  tìm  sự  giải  thoát không  còn  khổ  đau.  Đức  Phật  đã   xác  định:
‚Pháp   Ta  không   có   thời   gian   đến   để   mà thấy...‛. Và  như vậy trong khi tu tập có  sự  khổ đau xảy  ra tức  là  chúng  ta  đã  tu  sai  hoặc  tu theo  pháp môn của ngoại đạo, vì tu tập  có  khổ đau như vậy là ức chế  thân tâm, là tự làm  cho mình  khổ,  là  thiếu  đạo  đức  với  mình,  là  pháp khổ  hạnh  của  ngoại  đạo  ngày  xưa thiếu  chút nữa  đức  Phật  đã  làm  vật  hy  sinh  cho những pháp môn này.



Tóm lại, con nên ngồi xếp bằng kiết già hoặc  bán  già  cũng  đều  tốt  như  nhau  cả  hoặc ngồi bất cứ một tư thế nào mà thân tâm con an lạc thì con ngồi, mục đích tu tập là lo xả tâm ly dục ly ác pháp, đẩy lui tất cả chướng ngại pháp trên tứ niệm xứ của con, để tâm con không phóng dật tức là tâm thanh tịnh, tâm không phóng dật là tâm định chứ không phải ngồi mà có định, ngồi chỉ là một phương tiện giúp cho tâm dễ gom, và tâm gom được thì tâm mới tỉnh giác, mới thấy được chướng ngại pháp. Ngồi chỉ là  một  phương tiện  nhỏ  mà  thôi.  Còn  hai  bàn tay  thì không  cần  thiết  phải  như  thế  này,  thế
kia...

4- Cô Diệu Quang dạy rất đúng, ngồi ít mà xả tâm nhiều tức là không bị ức chế, còn lấy sự ngồi nhiều làm mốc tu tập coi chừng sẽ tu lạc hướng vào định tưởng. Chủ yếu lúc nào, giờ nào phút  nào,  giây  nào  cũng  lo  xả  tâm,  xả  tâm  tốt thì tăng giờ  lên, còn xả  tâm  chưa tốt, tăng giờ lên cũng chẳng có ích lợi gì. Nên nhớ lúc nào cũng  giữ  tâm  thanh  thản,  an lạc  và  vô  sự,  và lúc  nào  cũng  phòng  hộ  sáu  căn,  không  bao giờ để  có  kẽ  hở  cho tâm  lang  thang  chạy  theo  các pháp trần bên ngoài, ngồi hay không ngồi, đâu
còn  có  nghĩa  lý  gì  nữa,  tu  tập  trong  bốn  oai nghi: Đi, đứng, nằm, ngồi.


thở:

THÂN HÀNH LÀ GÌ?

Câu hỏi của Nhật Lý
Hỏi: Kính bạch Thầy, về quán niệm hơi
1- ‚An  tịnh  thân  hành  tôi  biết  thở  vô/ra‛.

Thân hành ở đây là gì? Có phải là hơi thở hay thân thể, hoạt động thân nói chung?
2- Hỷ thọ khác lạc thọ như thế nào?

3- Quán  vô  thường,  quán  ly  tham,  tôi  sẽ thở  vô/ra...?:  Khi  quán  cần  phải  có  thời  gian suy  xét,  thẩm  sát...,  sao lại  có  thể  thực  hiện được  trong khoảnh  khắc  ngắn  ngủi  trước  mỗi hơi  thở? Khi  quán vô  thường con phải  trải  qua nhiều  lần  thở  ra thở  vô.  Vậy  có  đúng  không bạch Thầy?
4- Niệm  hơi  thở  khi  không  có  tác  ý,  chỉ đơn thuần biết thở vô ra khác với tùy tức trong Lục  Diệu  Pháp  Môn  như  thế  nào?  Ngoài  một



bên là xả tâm, một bên là ức chế tâm thì  Định Niệm Hơi Thở của Phật có khác với Chỉ, Quán, Hoàn,  Tịnh của  Lục  Diệu  Pháp  Môn  như  thế
nào?

Đáp:  1.  Trong   kinh  sách  Nguyên  Thủy đức Phật thường dạy: “Thật  hy  hữu  thay chư Hiền  giả!  Thân  hành  niệm  này  được  tu tập,  được  làm  cho  sung  mãn,  thì có  quả lớn, có công đức lớn”. Ở  đây con hỏi thân hành là gì?
Thân hành là sự hoạt động của thân. Sự hoạt động của thân có hai phần:
a. Thân hành ngoại. b. Thân hành nội.
Thân  hành  ngoại  là  sự  đi,  đứng,  nằm, ngồi, nói, nín  hoặc làm tất cả mọi công việc dù lớn, dù nhỏ, dù nhẹ, dù nặng v.v.. đều được gọi là thân hành niệm ngoại.
Thân hành niệm nội là sự hoạt động trong nội thân như: tế bào, thần kinh, tuần hoàn, hô hấp, bài tiết v.v..
Về  phần  thân  hành  niệm  nội  trong  thân thì chúng ta chỉ có điều khiển được hơi thở tức là  về  phần  hô  hấp  còn  tất  cả  những  sự  hoạt động  khác  thì chúng  ta  không  thể  điều  hành



được. Nếu chúng ta điều  hành được  hơi  thở  thì chúng ta sẽ điều hành được tất cả sự hoạt động trong  nội  thân,  do đó  điều  khiển  được  hơi  thở tức  là  điều  khiển  được  sự  sống  chết.  Các  nhà Yoga tu  tập  hơi  thở  để  đạt  được  sự  làm  chủ sống chết là do luyện tập hơi thở, họ luyện tập hơi thở chia làm ba loại hơi thở:
a. Hơi thở vô. b. Hơi thở ra. c. Hơi thở nín.
Sự luyện tập  hơi  thở  này đưa đến kết  quả làm  chủ  được  hơi  thở  tức  là  làm  chủ  được  sự sống  chết,  nhưng  không  chấm  dứt  được  luân hồi, vì tu sĩ Yoga chưa thực hiện được lậu tận minh nên nguyên nhân tái sanh luân hồi còn chưa đoạn diệt. Vì pháp môn tu bằng tưởng tức (hơi  thở  tưởng)  nên  khi làm  chủ  được  hơi  thở các  tu  sĩ  Yoga tưởng  mình  hòa  nhập  vào  đấng tối  cao. Sự  tu  tập  này  rất  khó  cho nên  chỉ  có một  số  quá  ít người  đạt  được  ở  mức  độ  cao. Phần nhiều  tu  tập  để  ngừa bệnh trị  bệnh theo phương pháp dưỡng sinh. Nhưng dùng phương pháp  yoga ngừa  bệnh  và  trị  bệnh  thì chỉ  ngừa và  trị ở  ngọn chứ  không trị ở  gốc của bệnh tật được.



Đạo Phật cũng dùng hơi thở nhưng không luyện tập  hơi  thở  như Yoga, chỉ  nương vào  hơi thở tự nhiên để tỉnh thức trong mọi pháp, nhờ có  tỉnh  thức  nên  xả  tâm  ly dục  ly ác  pháp  dễ
dàng.

Đạo  Phật  không  dụng  riêng  hơi  thở  tu tập  như  các  nhà  Yoga,  mà  còn  sử  dụng  mọi hoạt động của thân. Đức Phật xem hơi thở là một hành động như tất cả các hành động khác của thân.
Mục  đích  của  đạo  Phật  là  bất  động  tâm, cho nên sự  tỉnh thức  trong chánh niệm  là một điều  quan trọng  trong  việc  tu  tập  xả  tâm.  Và khi tâm đã  xả sạch tức là tâm ly tham và đoạn các  ác  pháp  thì lúc  bấy  giờ  tâm  thanh  tịnh, tâm thanh tịnh thì tâm có đủ năng lực điều khiển các  hoạt  động  trong  thân,  thậm  chí như điều khiển cả bộ óc làm việc theo ý muốn của mình,  chứ không phải chỉ có điều khiển hơi thở mà thôi.
Còn phương pháp  của Yoga luyện tập  khổ công về hơi thở và còn dùng tưởng để mở các luân xa trong thân tứ đại bất tịnh, đó là một việc tu tập không giống Phật giáo chút nào.
Đức Phật dạy chỉ nương vào thân hành niệm  để  tu  tập  xả  tâm  ly tham  đoạn  ác  pháp,



chứ không phải đi tìm thiền định trong hơi thở hoặc  bất  cứ  một  hành  động  nào  khác  trong thân,  nhưng  chúng  ta  nên  biết  sự  lợi  ích  của thân hành niệm là giúp chúng ta xả tâm tốt nhất, ngoài thân hành niệm ra chúng ta khó có pháp nào giúp cho chúng ta xả tâm tốt. Hơi thở là  một thân hành niệm  trong muôn ngàn thân hành niệm của thân, chứ không lấy hơi thở làm điều quan trọng cho sự tu tập thiền định.
Thiền định của Phật giáo là chỗ tâm hết tham, sân, si, mạn, nghi. Chỗ tâm hết tham, sân, si, mạn, nghi là mục đích của đạo Phật.
2. Hỷ  thọ  và  lạc  thọ  thì hỷ  thọ  thuộc  về tâm;  lạc  thọ  thuộc  về  thân.  Thân  ngồi,  hay nằm, hay đi, hay đứng đều cảm thấy an lạc, đó gọi  là  lạc  thọ,  còn  tâm  cảm  thấy  thanh  thản, an ổn, vô sự không phóng dật, đó là hỷ thọ.
Tóm lại, hỷ lạc là chỉ cho trạng thái thân và tâm thanh thản, an lạc, vô sự, tâm lúc nào tâm  cũng  không  phóng  dật  đó  chính  là  trạng thái của tâm thanh tịnh đang hiện tiền trong cuộc sống không lúc nào mất thì người đó đang nhập  Bất  Động  Tâm.  Tâm  đang  ở  trạng  thái Bất Động, muốn nhập Sơ Thiền rất dễ dàng.
Trạng  thái  hỷ  lạc  của  Sơ Thiền  là  do ly dục sanh nên khi nhập Sơ thiền thì có năm chi



thiền hiện  ra: Tầm,  Tứ,  Hỷ,  Lạc  và  Nhất  tâm. Năm chi thiền này là một trạng thái Sơ Thiền Thiên.
Người  nào  nhập  được  Sơ  Thiền  là  được sinh  vào  cảnh  giới  Sơ Thiền  Thiên  khi bỏ  xác thân này.
3. Quán, tác ý và hướng tâm: Quán vô thường, quán ly tham ở Định Niệm Hơi Thở không  có  nghĩa  là  quán  xét,  tư  duy, suy nghĩ, nó có nghĩa là hướng tâm.
Câu  quán  vô  thường  và  quán  ly tham  tôi biết tôi hít vô, tôi biết tôi thở ra là pháp như lý tác  ý  để  giúp  tâm  huân  thành  một  thói  quen thấy  các  pháp  vô  thường,  hoặc  thấy  các  pháp liền lìa tâm tham đắm. Pháp như lý tác ý để giúp  tâm  có  một  năng  lực  vô  thường,  ly tham, ly sân, ly si, ly mạn, ly nghi v.v..
Nếu không có kinh nghiệm tu hành thì Định Niệm Hơi Thở chỉ là một lý giải suông không thể tu tập được.
Người không có kinh nghiệm tu hành không  hiểu,  nên  Định  Niệm  Hơi  Thở  gọi  là quán  niệm,  ấy  thật  là  sai  lệch,  vì  thế  Định Niệm  Hơi  Thở  của  đạo  Phật  đã   biến  thành Quán Niệm Hơi Thở của ngoại đạo.



Bài kinh Xuất Tức Nhập Tức trong kinh Trung  Bộ  đã  dạy quá  rõ  ràng, thế  mà  người tu hiện  giờ  không  có  ai  tu  đúng,  chỉ  tưởng  giải bằng cách này, bằng cách khác, thiếu kinh nghiệm  thực  tế,  vì  thế  người  tu  hiện  giờ  tu không có kết quả.
Tóm lại,  quán vô  thường, quán ly tham  là pháp dẫn tâm vào đạo chứ không phải pháp quán như con hiểu một cách sai lạc.
4.  Niệm  Hơi  Thở  không  tác  ý  chỉ  đơn thuần  biết  thở  vô, ra thì không  khác  pháp  tùy tức  trong  Lục  Diệu  Pháp  Môn,  pháp  Tùy  Tức trong  Lục  Diệu  pháp  môn  là  pháp  ức  chế  tâm mà Tổ Trí  Khải Đại Sư đã  chế ra để người sau tu hành thiền định.
Lục  Diệu  pháp môn là một  pháp do tưởng tri chế  tác, chứ  không phải  do kinh nghiệm  tu hành theo đúng lộ trình của Phật giáo, mặc dù nó  có  quán, hoàn, tịnh nhưng  vì nó  dùng pháp sổ, tùy, chỉ để ức chế tâm trước khi quán, hoàn, tịnh,  vì  vậy  nó  rơi  vào  tưởng  pháp,  sanh  ra tưởng  tuệ,  đó  là  một  sự  khác  biệt  giữa  pháp môn thiền của Phật và Tổ. Theo Lục Diệu pháp môn chỉ (ức chế vọng tưởng) trước, còn quán (tư duy quan sát) sau, theo Phật giáo vừa tỉnh giác vừa  xả,  tỉnh  giác  đâu  thì xả  tâm  đó,  hai  pháp



này  không  lìa  nhau  “quán  ly tham tôi  biết tôi hít vô, quán ly tham  tôi biết tôi thở ra”. Hít vô  ra là  tỉnh  giác  còn  ly tham  xả  ác  pháp là chánh niệm chứ không phải quán như Lục Diệu Pháp Môn.
Cho nên quán, hoàn, tịnh của Lục Diệu Pháp Môn là pháp tưởng thức quán, chứ không phải ý thức quán.
Phật dùng ý thức để tu, còn Tổ dùng tưởng thức để tu, do đó Phật làm chủ sanh, già, bệnh, chết  là  thật,  vì  đó  là  liễu  tri,  còn  Tổ  làm  chủ sanh, già, bệnh chết là không thật, vì đó tưởng tri.





KHẮC PHỤC TÂM  VÔ KÝ

Câu hỏi của Nhật Lý


Hỏi:   Kính  bạch   Thầy!   Khi   quét   sân hoặc  đi kinh  hành,  con có  nhắc  tâm  chia  tuần tự 3 loại định tu tập: Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, kết hợp hành động của  Thân  hoặc  bước  chân,  Định Vô  Lậu?  Con tu  như  vậy  có  đúng  không?  Dù  có  nhắc  tâm,
nhưng  khi  thực  hiện  thường  bị  quên  do  tạp niệm  vô  ký,  Vậy  con phải  khắc  phục như  thế
nào?

Đáp:  Tu  tập  xả  tâm  theo  đạo  Phật  là phải kết hợp bốn loại định:
1-   Định  Chánh   Niệm   Tỉnh   Giác   (định ngăn ác pháp).
2- Định Niệm Hơi Thở (định ngăn ác pháp).
3-        Định Vô Lậu (định diệt ác pháp).

4-   Định Sáng  Suốt  (định thư  giãn,  trạng thái chân lý).
Trong một thời tu tập trên bốn chỗ thân, thọ,   tâm   và   pháp   của   chúng   ta,   thường   có những hiện tượng sanh ra trên đó. Khi mỗi  ác pháp sanh ra một trên bốn chỗ này thường tạo ra chướng  ngại  khiến  cho bốn  chỗ  này  bất  an. Muốn cho bốn chỗ  này được  an ổn thanh thản, an lạc và vô sự thì phải tùy theo các pháp đã tu học trên đây áp dụng để diệt những ác pháp để đem lại sự bình an cho thân, thọ, tâm và pháp. Nếu  không  có  ác  pháp  sanh  ra trên  bốn  chỗ này  thì chúng  ta  dùng  pháp  tác  ý  ngăn  ác pháp,  nhưng  khi chúng  ta  sử  dụng  công  sức nhiều  để  tu  tập  không  phù  hợp  với  đặc  tướng



của  mình  nên  thường  bị  hôn  trầm,  thùy  miên và  vô  ký.  Đó  là  thời  gian  tu  tập  chưa phù  hợp với đặc  tướng của mình.  Biết như vậy con phải tu  ít trở  lại  để  tu  tập  có  chất  lượng  tỉnh  thức cao, không còn bị rơi vào vô ký nữa.
Xét  qua sự  trình bày  tu  tập  những  loại định của con thì con tu tập không sai, chỉ sai là tu hơi nhiều quá sức tỉnh thức của mình.  Muốn không bị rơi vào vô ký thay vì con tu 1 giờ thì con  nên  tu lại  30’,  thay vì con  tu 30’  thì con  tu lại  15’.  Chừng  nào  con  thấy  sự  tỉnh  thức  của mình trong suốt thời gian tu tập mà không có một chút  nào  vô  ký thì con nên tăng thời gian lên.  Nhưng khi  tăng  thì con  chỉ  tăng  lên  từ  5’ chứ đừng có tăng nhiều quá mà sức tỉnh thức không đủ thì con sẽ bị rơi vào vô ký nữa.
Vô  ký  là  thiếu  sự  tỉnh  thức,  vì  thế  mà pháp  môn  của  đức  Phật  dạy  chúng  ta  tu  tập tỉnh thức  bằng  THÂN HÀNH  NIỆM  là một pháp môn tuyệt vời, nếu chúng ta biết cách tu đúng đặc  tướng  thì chúng  ta  có  sự  tỉnh  thức  ngay liền, phá sạch hôn trầm, thùy miên, vô ký.
Tóm lại, nếu tu tập đúng cách của Thân Hành  Niệm  thì phá  tâm  si  ám  rất  dễ  dàng. Hôn  trầm,  vô  ký,  thùy  miên  là  những  trạng thái  của  tâm  si,  cho nên  tâm  tỉnh  thức  có  thì



tâm  si  ám  bị  triệt  tiêu, tâm  si  ám  bị  triệt  tiêu thì chánh  niệm  mới  hiện  tiền,  có  chánh  niệm thì ác pháp không xen vào được, ác pháp không xen vào được thì tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự, mà tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự thì đó là giải thoát của Phật giáo.





PHÁP MÔN CỦA PHẬT LÀ PHÁP MÔN CÂU HỮU
Câu hỏi của Nhật Lý


Hỏi:  Kính bạch  Thầy!  Khi  nào  cần  kết hợp  các  định với  nhau,  khi  nào  chỉ  tu tập  một loại định mà thôi?

Đáp:  Theo như  lời  đức  Phật  đã  dạy:  ‚Tỳ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các tỳ kheo, nếu một chiều tác ý tướng định, thì  có sự kiện tâm vị ấy đi đến thụ động.
Tỳ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các tỳ kheo, nếu một chiều tác ý tướng tinh  cần thời có sự kiện tâm vị ấy đi đến trạo cử.



Tỳ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các tỳ Kheo, nếu một chiều tác ý tướng xả, thời có  sự  kiện  tâm  vị  ấy  không  chân  chánh  định tĩnh để đoạn diệt các lậu hoặc.
Nhưng   nếu   tỳ   kheo  siêng   tu   tập   tăng thượng tâm, này các  tỳ  kheo, nếu  thỉnh  thoảng tác ý tướng định, thỉnh thoảng tác ý tướng tinh cần, thỉnh thoảng tác ý tướng xả, tâm vị ấy trở thành nhu nhuyễn, kham nhậm, chói sáng, không  bẻ  vụn,  chân  chánh  định tĩnh để  đoạn tận các lậu hoặc‛.
Trên đây Đức Phật dạy câu hữu ba pháp môn trong một thời tu:
1/  Tỉnh thức (Thân Hành Niệm Nội và Ngoại, tức là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và Định Niệm Hơi Thở).
2/        Tứ Chánh Cần.

3/        Định Vô Lậu.

Lời  dạy này chúng  ta  ghi  nhớ: Phật  pháp không  thể  tu  riêng  một  pháp  môn  nào.  Khi tu hành phải biết kết hợp chặt chẽ pháp này với pháp kia, lúc thì định tỉnh, lúc thì quán tư duy vô  lậu,  lúc  thì ngăn  diệt  mạnh  mẽ.  Có  tu  tập đúng như vậy tâm mới nhu nhuyễn, dễ sử dụng.






NIỆM THIỆN

Câu hỏi của Nhật Lý
Hỏi:   Kính  bạch   Thầy,   khi   quét   sân,
kinh  hành các niệm thiện khởi lên như: nhớ lại một câu Phật ngôn chưa hiểu, về cách thức tu tập Thầy dạy..., con nên gạt ra ngay để tiếp tục theo hành động thân hay nên suy xét thêm về những niệm thuộc về thiện này?
Đáp: Đức Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp,  sanh thiện  tăng  trưởng  thiện  pháp”. Như  vậy  khi tu  tập  trong  một  thời,  con đều luôn tu  cả  ba pháp  môn trong đó  có  Tứ  Chánh Cần và  vì vậy khi một câu Phật ngôn khởi  lên trong  con thì con phải  tư  duy nghĩa  lý  của  câu Phật ngôn này để thấu suốt lý như thật của nó, nhờ  vậy  mà  tri kiến  của  con càng  ngày  càng phát triển, đó là con triển khai trí tuệ tri kiến giải  thoát  tức  là  con thỉnh  thoảng  tác  ý  tướng xả như lời Phật đã dạy trong kinh Tăng Chi.
Đây  cũng  là  sự  tăng  trưởng  thiện  pháp trong Tứ Chánh Cần, người tu sĩ cần phải siêng năng và cần mẫn tu tập. Đạo Phật có được sự giải  thoát  là  nhờ  vào  trí tuệ  tri kiến  này,  nếu



con không  chịu  triển  khai  tu  tập  như  thế  này thì làm sao có trí tuệ tri kiến được.
Muốn  có  trí tuệ  tri kiến  giải  thoát,  người mới  tu  thì phải  bắt  đầu  học hiểu đạo đức nhân quả, Tứ Diệu Đế, Thân Ngũ Uẩn, Thập Nhị Nhân  Duyên...  nói  chung  là  phải  nghiên  cứu tạng kinh Pali cho thông suốt.
Vì thế, mỗi khi có một niệm khởi về Phật pháp thì con nên tư duy quán xét cho rõ tận nguồn  gốc  đừng  nên  gạt  bỏ  ngang,  vì  bỏ  qua một  điều  kiện  triển  khai  trí tuệ  thì thật  quá uổng.
Tóm lại, sự tu tập theo Phật giáo không giống sự tu tập của ngoại đạo, ngoại đạo tu tập hay  chuyên  nhất  một  pháp  trong  một  thời  tu còn Phật Giáo thì không chuyên nhất vào pháp môn nào cả trong một thời tu.
Phật giáo chuyên xả tâm vào định, ngoại đạo chuyên ức chế tâm vào định, cho nên Phật giáo và ngoại đạo không giống nhau là ở chỗ xả tâm và ức chế tâm.
Phật  giáo  đi từ  xả  vào  định bằng tri kiến giải  thoát  nên  lấy  đạo  đức  làm  gốc  (giới  luật) còn  ngoại  đạo  đi  từ  định  đến  xả  (quán,  hoàn, tịnh) bằng tưởng tuệ, nên phá giới luật.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!