không? Và nếu có
người giúp đỡ
có bị tội không?
Đáp11: Người
tự tử là người có tội giết người mặc dù mình tự sát vẫn có tội như
giết người khác, tội giết mình còn nặng
hơn tội giết người khác, cũng
như tội làm khổ mình
còn nặng tội hơn tội làm khổ người. Vì chính mình, mình còn làm khổ cho mình thì có ai mà mình từ bỏ. Tội tự giết
mình còn mang thêm một cái tội nữa
là tội trốn
tù. Người giúp
cho người tự tử là người có tội
tòng phạm giết người.
Người già ốm bệnh hoạn sống dở chết dở, nên tự mình hoặc nhờ người khác để chấm dứt cuộc đời. Đối
với luật nhân quả thì người đó tránh né trốn tội và như vậy tội còn nặng hơn.
Luật nhân
quả rất công bằng khi một
người làm ác thì
phải trả
quả khổ. Già, ốm,
bệnh hoạn sống dở chết dở là đang trả những quả
mà trước kia mình
đã gieo nhân
ác. Sao bây giờ vội tự sát để
tránh quả khổ này ư? Nếu tránh được quả khổ thì làm
sao còn có luật công
lý và công bằng được?
Đừng nghĩ rằng
chết là hết khổ,
chết là một sự tiếp nối trong
11 Chơn
Như ngày 1 tháng 2 năm 2001
đau khổ hơn.
Nếu tự sát chết cho hết khổ, điều này
không bao giờ
có được. Luật
nhân quả không phải lấy cái chết
là hết tội được, đối với luật pháp thế
gian chết là hết tội,
nhưng với luật pháp của nhân quả
thì chết sẽ tiếp tục trả quả khổ kế tiếp và tội còn nặng hơn. Tại sao
vậy?
Tại vì khi tự
sát, mình mắc tội giết người và còn thêm
một cái tội nữa là tội trốn tù. Cho nên kẻ tự sát là kẻ trốn nghiệp, những người
tự sát như vậy là những người hèn nhát trước cái khổ
mà trốn tránh, không dám
nhìn thẳng cái khổ, không dám lấy
cái khổ làm niềm vui cho mình, không dám lấy cái khổ để trả nghiệp, không biết
chuyển khổ làm
vui, chuyển họa làm phước, xưa đức Phật dạy:
“Đứng lại
thì chìm xuống
Tiến tới thì
trôi dạt
Chỉ có vượt
qua”.
Kẻ gặp khổ mà đứng lại
là kẻ hèn
nhát chỉ biết kêu
khóc, rên la,
than thân, trách phận,
oán trời trách
người, làm như vậy có lợi ích gì?
Hoặc vào chùa
cúng bái, tế lễ, cầu
xin thì cũng chẳng bao giờ giải quyết được gì? Hoặc trốn bỏ đi
tu vào
chùa thì những người
này có
tìm sự giải
thoát chỗ nào được, đó
là hạng người tránh né.
Kẻ gặp khổ cầm
dao tự sát,
hay uống thuốc độc hoặc thắt cổ, nhảy
sông trầm mình tự
tử, đó là những người
trôi dạt, những người hèn nhát, những người này bị nhân
quả xỏ mũi, những người này nô lệ cho nhân quả, những người này vô đạo đức thiếu
ý chí làm người.
Người ta cứ
nghĩ rằng khi chết là hết khổ, sự thật không phải thế, khổ là do nhân quả, ăn ở
chẳng lành khiến cho bao nhiêu người khác khổ, vì thế mà phải thọ quả khổ để đền
trả những điều mình đã làm ác và như vậy không phải là đạo lý. Tại sao làm
cho kẻ khác khổ bây giờ lại trốn tránh? Một đời dám ăn thịt
chúng sanh, biết
bao nhiêu xương máu
và sự đau khổ của loài vật khác
đã đem vào cuộc sống của mình mà bây giờ
không dám nhìn thẳng sự khổ ấy?
Không dám vui nhận sự khổ ấy? Cớ
sao lại phải tự tử. Tự tử đâu
có nghĩa là
thoát khổ mà còn phải thọ khổ gấp
trăm ngàn lần. Tại sao vậy?
Vì tự tử tội
ác chồng lên tội ác, các phật tử đừng
nghĩ rằng mình tự giết
mình là vô tội.
Đối với luật nhân quả không có thời gian và không gian, nó chỉ biết có thiện và
ác mà thôi,
vì không có
không gian nên nó trừng phạt quý vị chịu khổ
đau trong nhiều
thân và nhiều kiếp; vì không có thời gian nên sự thưởng
phạt của nó liên tục không gián đoạn, nên quý vị bỏ thân này
thì lại tiếp tục
thân kia để chịu
khổ đau và cái khổ đau
này lại
chồng lên cái khổ
đau khác nữa.
Người tự tử đối với luật
nhân quả được xem là
tội giết người,
phải xử phạt tội như xử
phạt kẻ cố sát, còn thêm một tội nữa là tội trốn pháp luật (luật định của nhân
quả).
Người giúp đỡ cho người
tự tử cũng
là có tội tòng phạm giết người. Một
lời nói khiến cho người ta chết
là tội giết
người. Rầy mắng
con cái khiến con cái tự tử là tội giết người. Vợ chồng rầy rà
cãi vã khiến chồng
hoặc vợ tự tử đều là tội giết người.
Tóm lại,
người tử tự
là người trốn
luật nhân quả, là con người không thể nào trốn luật nhân quả được, dù trốn
bất cứ nơi đâu cũng không thể thoát khỏi, trốn
luật nhân quả càng trốn luật nhân quả là bị luật nhân quả chi phối nặng
thêm tức là thọ khổ nhiều hơn nữa, chỉ có điều
duy nhất là tâm bất động trước luật nhân quả là đã chuyển được nhân quả.
Hỡi các phật
tử! Tất cả những sự
đau khổ tận cùng của
sinh mạng con
người, nếu ai không dao động tâm, thì thân tâm người ấy
sẽ mát lạnh, chính người ấy đã chuyển được nhân quả của người ấy, người ấy
thoát khổ.
Bởi vậy
người tự tử
là người ngu
si tự mình làm khổ thêm
cho mình, tạo thêm tội ác cho mình, Đức Phật dạy: ‚thọ
là vô thường‛
có gì mà chúng ta phải sợ, vì thọ có khi có, cóù khi không, có gì mà
chúng ta lo sợ, mà tự tử phải không quý vị.
MẤT TRÍ
Câu hỏi của
Tâm Thanh
Hỏi: Kính bạch
HT! Nếu như
có một
người mất
trí phạm tội giết
người thì đối với
pháp luật thế gian họ không có bị tội vì
không có chủ ý, nhưng đối với luật nhân
quả họ có bị tội báo gì không bạch HT?
Đáp: Người mất
trí là người đã bị luật nhân quả xử phạt tội rất nặng,
nặng hơn tội giết
người. Đối với luật nhân
quả tử hình
xem
như tội còn
nhẹ. Sống mà chịu khổ đau đủ mọi điều thì đó gọi là địa ngục. Địa ngục là tội nặng
nhất của luật nhân quả.
Người mất
trí chỉ là một sự hình
phạt nặng của luật nhân quả để
người này thi hành bản án tử hình và làm khổ cho những người khác, để cho những
người khác trả quả, chứ riêng bản thân kẻ mất
trí thì không còn khổ đau gì cả.
Lấy luật
thế gian mà
so sánh với luật
nhân quả thì không thể được, luật thế gian tội tử hình là nặng nhất, ngược lại luật
nhân quả không có tội tử hình mà chỉ có tội địa ngục là nặng nhất.
Đối với luật
nhân quả con người chỉ là một chuỗi dài nhân quả khổ vui mà thôi, chứ không có
sự sống chết, sự sống chết chỉ là một sự vô thường thay đổi nối tiếp sự khổ vui
nhiều hay ít hơn.
TIỀN THÂN
Câu hỏi của
Diệu Hiền
Hỏi: Kính bạch
HT! Trong sách có nói
về Tô Đông
Pha tiền kiếp trước là một thiền sư nổi tiếng. Vậy điều đó đúng hay sai? Và tại
sao một thiền sư không tiến thân ở kiếp sau là một tu sĩ giải thoát mà phải lui
lại làm một cư sĩ có vợ con?
Đáp: Từ một
thiền sư tu hành chứng đạo thân tâm thanh
tịnh làm chủ sự sống
chết, chấm dứt luân hồi. Thế
mà, lại có hậu kiếp, như vậy
Thiền Tông có
đúng là con đường
của đạo Phật không?
Khi một người tâm
đã hết tham sân, si, mạn, nghi thì làm
sao còn tương ưng với ai
mà tái sinh
luân hồi được.
Phải không con?
Hậu kiếp là
một cư sĩ có thê thiếp, như Tô Đông
Pha thì còn nghĩa
lý gì của đạo giải thoát? Từ nước đục trở thành nước trong
là khó chứ không phải dễ, từ nước trong
trở thành nước đục
là dễ chứ
đâu phải khó.
Cho nên Thiền Đông Độ tu
hành không giải
thoát nên có những
câu chuyện ngược
đời mà người
trí
không thể chấp nhận
được. Bởi vậy
người ta phá giới luật của Phật, người ta sống không có đạo đức, sống không
có đạo đức
thì lấy cái gì dạy người khác tu, do đó mới có những cư
sĩ có vợ con tâm còn
dâm dục, ăn uống phi thời mà dạy đạo giải thoát thì giải thoát chỗ nào?
Chỉ có
kinh sách phát triển
mới có cư sĩ Duy Ma
Cật v.v.. Thiền
Tông mới có cư
sĩ Tô Đông Pha v.v..
Người ta đâu
biết rằng giới luật đạo đức của đạo Phật
là pháp môn
tu hành làm chủ
sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt
luân hồi. Vì thế người nào sống phạm giới, phá giới mà nói tu giải
thoát là nói vọng ngữ, là
lừa đảo người khác.
Có bao giờ
chúng ta nghe
Phật Thích Ca thành Phật mà còn trở lại làm chúng sanh nữa
không? Trước khi chết
Ngài nói: “Ta chỉ
còn một kiếp làm người này nữa thôi”. Nghĩa là Ngài tu
thành Phật rồi
thì không bao giờ tái sanh làm người nữa. Vì từ nước đục Ngài
lóng được nước trong, cho nên nước đã trong thì không bao giờ Ngài để nước đục trở lại,
vì đạo Phật là đạo trí tuệ.
Câu chuyện
tiền thân đức Phật là câu chuyện ngụ ngôn, câu chuyện người sau bịa đặt
để ca ngợi đức
Phật dùng Bồ Tát hạnh hành Bồ
Tát đạo theo
kiểu kinh sách phát triển.
Chỉ còn có
một kiếp này mà
thôi cho nên đức Phật
di chúc: “các con tự
thắp đuốc lên mà đi” và “hãy lấy Giới luật và giáo pháp
của Ta làm Thầy”.
Thiền Đông Độ
và kinh sách phát triển dùng danh từ hóa độ chúng sanh để lừa đảo tín đồ, khi làm
Phật, khi làm chúng
sanh, vì thế câu chuyện Tô Đông Pha là câu chuyện tưởng
của các
học giả bịa đặt ra để
chứng tỏ Bồ Tát
Hạnh hành Bồ Tát đạo.
Câu chuyện
Quan Công - Hạng Võ; câu chuyện Tần Cối -
Nhạc Phi; Câu
chuyện Phật Ấn - Tô Đông Pha là
những câu chuyện nhân quả luân hồi theo kiểu
Trung Hoa chứ Phật
giáo không có nhân quả tưởng như vậy.
Những câu
chuyện này đã
minh xác cho quý
vị biết kết quả tu
hành của Thiền
Tông, xin mọi người
lưu ý và cảnh giác
lưỡi lừa của các thiền sư ngoại đạo.
PHỤ BẢN 1:
NGƯỜI CHIẾN
THẮNG (PHẦN II)
Bài viết của
Mật Hạnh
Khi ở Hòn
Sơn về Thầy
tôi tự giam
mình trong thất (nhập thất), không kết bè, kết bạn,
không chơi thân với ai và ngay cả những người trong gia đình như cô Út và bà Nội,
Thầy cũng chẳng nói chuyện phiếm, chuyện tào lao.
Thầy ở trong
thất vừa làm việc vừa tu tập, nhưng tôi không biết Thầy đã tu tập pháp môn gì, tôi chỉ thấy khi thì Thầy
đi, lúc thì Thầy ngồi, khi làm việc, lúc ngồi chơi. Thầy làm việc rất chăm
chỉ, kỹ lưỡng cẩn thận, Thầy chế tạo ra một
chiếc máy tiện cán dao rất
tiện lợi cho cô Út khỏi phải bỏ tiền
ra mua cán, Thầy còn chế
ra một chiếc máy ép
dầu thực vật
như hạt điều, đậu phộng,
mè để tiết
kiệm được kinh tế sống của gia đình.
Thầy
làm vườn cũng giỏi mà cấy
lúa cũng hay. Thầy làm bằng công sức của
mình chứ không dùng sức trâu, bò, vì Thầy là
một tu sĩ, rất
yêu thương các
loài vật. Dường
như Thầy vui sống một mình
hơn là sống với mọi người,
vì tôi biết
Thầy không có bạn bè trai cũng như gái
và ba tôi cũng
nói lại suốt
10 năm trong thất không
có một người
bạn nào đến
thăm Thầy cả.
Sau này
Thầy thuật lại
cho tôi nghe những
sự tu hành của Thầy,
nhờ đó khi nhập thất tôi mới biết cách tu xả tâm. Đến
khi tôi xả tâm gần hết dục thì tâm tôi thường quay vô, không khởi
niệm, không phóng
dật ra ngoài. Tôi thấy
tâm tôi quá
yên tịnh gần
như nó không còn muốn gì hết, thậm
chí ăn ngủ nó
cũng không tham. Lúc bấy giờ tôi mới lo
sợ và suy nghĩ: Từ lúc
bé cho đến bây giờ tôi có biết mùi
đời là gì, nếu
hết dục thì làm
sao biết đời được. Thế là
tôi xin Thầy ra đời và tự hứa sau khi biết đời xong tôi sẽ trở lại tu tập.
Xin trở lại
vấn đề, vì tôi đã nói về mình nhiều
quá mà tu
hành thì chưa ra gì xin
các bạn vui lòng thứ cho.
Thầy tôi nói
sau khi tu tập thiền Đông Độ không có kết quả Thầy
bỏ pháp môn ấy và trở về tu tập theo kinh sách Nguyên Thủy như
các bạn đã biết
về Người Chiến
Thắng tập I do Thầy Thông Huyễn viết.
Khi viết đến đây tôi
bỗng nhớ lại là
chưa xin phép viết về hồi ký tu tập của Thầy mà ghi vào đây Thầy không bằng
lòng là mình có tội.
Khi trình
bày xin phép
ghi lại Người Chiến Thắng phần hai thì Thầy bảo:
‚Căn cơ chúng sanh thấp
kém. Vả lại
tâm tham còn nhiều
đời chưa muốn bỏ mà đạo lại
muốn thêm. Cho nên, ôm một pháp tu tập là chỉ có ức chế tâm thành bệnh
hoặc thành Ma chứ không bao giờ thành A La
Hán được‛.
Người tu tập
thời nay không biết cách xả tâm mà hễ
đi, đứng, ngồi,
nằm đều tập
trung ức chế thân tâm cho không vọng tưởng khởi. Cách thức tu tập ấy họ
đã luôn luôn chịu ảnh hưởng của Thiền
Tông: ‚Chẳng niệm
thiện niệm ác‛ và Tịnh Độ
Tông ‚Thất nhật
nhứt tâm bất loạn
chuyên trì danh hiệu
A Di Đà Phật‛,
và Đại thừa: ‚Ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm‛.
Nếu Người
Chiến Thắng phần hai ra đời sớm họ không
biết đặc tướng của họ là tâm đã hết
phóng dật chưa, vội
bắt chước Thầy
tu tập một pháp thì chỉ phí bỏ cuộc
tu hành như sư Hiệp, sư Vinh, sư Bửu Quán, thầy Chơn Thông, thầy Chơn Huệ, thầy
Từ Minh, thầy Thiện Thiền, cư sĩ Minh Tông, v.v..
Vả lại
hình ảnh chưa sưu tập
đầy đủ mà viết
Người Chiến Thắng phần hai thì tập sách thiếu xác minh giá trị chân thật
của nó.
Biết ý Thầy chưa bằng lòng nên tôi có lời khuyên
các bạn nên
theo bài kinh Bát
Thành mà chọn lấy cho mình một
pháp độc nhất tu hành xả tâm. Trước kia
Mật Hạnh là tu sĩ còn
bây giờ là cư sĩ. Trước kia tu tập xả tâm trong thất, còn
bây giờ ngày
nào cũng xả
tâm theo các pháp
và các đối tượng, do đó
cuộc đời của Mật Hạnh vẫn an ổn, yên vui không bận bịu
gì việc trần thế. Chừng nào đủ duyên Mật Hạnh khoác chiếc y phấn tảo sẽ nguyện
lấy đời mình làm sáng tỏ chân lý Phật pháp trong gương Thánh hạnh để đền đáp
công ơn muôn một của Thầy.
PHỤ BẢN II:
HÃY TRỞ VỀ
NƯƠNG TỰA CHÍNH MÌNH
Bài viết của
Nguyên Thanh
Thưa các bạn
thân mến!
Chúng tôi
xin gửi đến các bạn những lời Phật dạy trong quyển kinh Dhammapada thuộc tập
Khud daka Nikaya
(Tiểu Bộ Kinh),
Pháp Cú XII: Attavagga: Phẩm Tự Ngã (159):
“Dạy người
như thế nào? Hãy dạy mình như vậy Khéo
điều, mới điều người Khó thay tự điều phục”.
Đọc bài kệ
trên đây đã nói lên ý nghĩa rất
sâu sắc
cho chúng ta hiểu rằng: Đạo Phật là một tôn giáo xả tâm diệt ngã. Khi chúng ta
đến với Đạo Phật mục đích là để ly dục, ly ác pháp. Cái mục đích của chúng ta
khi tìm đến với Đạo Phật, khi tìm về tu viện Chơn Như là như vậy. Cho nên,
chúng ta tu tập ăn ngày một bữa, ngủ một
ngày bốn tiếng,
không còn khó
khăn chi và im lặng giữ hạnh độc cư
là muốn
xả tâm diệt ngã.
Chúng ta tìm đến
tu viện Chơn Như
là để giải
thoát không còn bị vướng mắc và trói buộc
ngay trong kiếp hiện tại đầy những niềm đau và nỗi khổ này.
Chúng ta được giải
thoát trong cái
ăn uống; trong cái ngủ nghỉ; trong cái nói chuyện. Vì thế mới gọi là Đạo
xả tâm diệt ngã. Còn những tôn giáo khác ăn uống ngủ nghỉ nói chuyện phi thời thì không
gọi là Đạo xả tâm diệt
ngã được. Mà
là một tôn
giáo đã bị
phân hoá hỗn hợp quá nhiều kiến giải, vô minh kiến trong thế giới tưởng
tri của các nhà học giả xưa và nay.
Thưa
các bạn!
Những nhà học giả xưa và nay từ tu sĩ đến cư sĩ đều dạy người
tu tập bằng những kiến tưởng giải. Chứ họ không có kinh nghiệm chứng đắc gì của
sự tu tập. Họ nói và giảng pháp như những người hát xiếc Sơn Đông nhai lại những ý tưởng tượng,
ảo ảnh, mơ hồ
nên thiếu giá trị chân thật và chính xác thường đưa dắt con người vào thế giới ảo
tưởng theo sự tìm tòi suy
tưởng nghĩ của
chính họ bằng những danh lợi trong Đạo. Cả hai tay đều
ưa muốn nắm hết, Đạo thì muốn
thêm đời không muốn
bỏ nên chi mọi khổ
ách được đổ
lên đầu lên cổ của
đàn na thí chủ. Và mỗi người trong chúng ta cũng vậy đều hiểu biết rằng:
Sự tu tập
rất khó khăn
vô cùng chiến đấu với nội tâm ái dục lừng lẫy của chính
mình đâu phải
chuyện đơn giản ai muốn
tu là được.
Tu rất khó! Nói thì ai
nói cũng được
nhưng để thực
hành rất khó không
phải chuyện dễ
đâu, chúng ta
chưa xả ly được tham,
sân, si, mạn,
nghi thì dạy ai nổi? Bản
thân chưa ly dục
nổi tự dạy
mình chưa nổi chưa xong. Ta nói với chính ta, chúng ta tự tác ý nhắc nhở cái tâm cứng đầu
khó trị của ta, cái núi tâm đầy rác bẩn hỗn hợp gai độc mà cái thằng tôi
trong ta này,
nó còn chưa muốn
chịu nghe lời
thì chúng ta đâu
có dám dạy ai được. Phải không hỡi
các bạn?
Nếu chúng
ta chưa có kinh
nghiệm trong sự tu tập hoặc
chưa chứng Thánh
quả A La Hán thì nên im lặng như Thánh. Còn ai đã tu
xong rồi đã có kinh nghiệm trong sự tu tập dạy người khác tu tập là rất tốt.
Trưởng Lão dạy người tu không có lỗi lầm gì cả. Vì Trưởng Lão đã tu chứng Thánh
quả A La
Hán, làm chủ sanh, già, bệnh, chết nên Trưởng Lão rất
xứng đáng làm bậc Đạo Sư của chúng ta.
Còn mỗi
chúng ta hễ
mà nhúc nhích, khinh
suất là cũng bị lỗi lầm của
cái tâm vô minh kiến tưởng đầy dẫy tham, sân, si, mạn,
nghi. Chúng ta vẫn còn đầy ắp phiền não của
cái tâm:
tham lam, giận hờn, mê muội. Sơ suất một
chút thôi, thiếu
tỉnh giác chánh
niệm là cục tham,
cục sân khởi
lên rồi. Hở
chút là si mê, là kiêu mạn, là nghi ngờ. Ta vẫn còn
tham muốn ăn uống phi thời, muốn ăn thêm
cái này, thêm cái khác,
bổ dưỡng thêm
cái này, bổ dưỡng thêm cái khác, v.v.. Ta vẫn còn
tham muốn ngủ nghỉ thêm giờ giấc, ngủ đến 2, 3 giờ chưa muốn ngồi dậy, còn nằm
rũ rượi thẳng cẳng trên giường, trườn qua uốn lại biếng nhác, gục lên gục xuống
trông thật tội
nghiệp! Và trong tham,
sân, si thì cái
cục si là
đáng sợ nhất, khó đối trị nhất (chúng
tôi đã trải
qua kinh nghiệm này với những ngày
tháng chiến đấu tận cùng với thùy
miên rất khó khăn vô cùng, phải bền
chí, gan dạ mới chiến
thắng được nó).
Những người
nào còn ham muốn ưa ngủ nhiều thì nghiệp nhân quả
còn vướng mắc trói buộc rất nặng
và tâm
ái dục của họ
phát triển rất mạnh, họ xả tâm
còn rất chậm, ý thức lực còn rất yếu. Vì cục si đã làm chướng ngại, tham
không đáng sợ,
sân không đáng sợ, chỉ
duy nhất sợ cục si này mà thôi. Nên Đức Phật dạy: “Si là đại ác”.
Chúng ta nhập Tứ Thiền
mới xả ly được cái tâm si mê ngu muội này. Vì vậy
chúng ta hãy
cố gắng bền chí gan dạ tu tập để buông xả lần lần mỗi ngày một ít cái tâm si mê
ưa ngủ nghỉ lười
biếng này. Chúng
ta hãy tu tập theo thời khoá đã quy định, phải
nghiêm chỉnh giờ giấc và phải đi kinh hành thật nhiều mới đối trị lại nổi cục
si này. Xin các bạn lưu ý cho. Nên Đức Phật dạy rằng:
“Người ưa ngủ
tham ăn Lăn lóc nằm qua lại Chẳng khác heo no bụng Tục sanh mãi luân hồi”.
(Kinh
Nikaya Pháp Cú:
XXIII,
Nagavagga: Phẩm Voi (325)).
Chúng ta vẫn còn
ham muốn nói
chuyện tào lao, ưa bàn
luận chuyện thiên
hạ. Nhất là ưa nhòm ngó, xét nét, phê bình
hoặc chỉ trích, góp ý và ưa
nói những lỗi lầm của
người khác. Thì làm sao dạy
người như thế
nào, hãy dạy mình
như vậy được,
phải không hỡi
các bạn? Nên Đức Phật dạy:
“Thấy lỗi
người thì dễ Thấy lỗi mình mới khó Lỗi người ta phanh tìm Như tìm trấu trong gạo
Còn lỗi mình
thì giấu
Như thợ săn giấu mình”.
(Kinh
Nikaya Pháp Cú XVIII: Malavagga: Phẩm Cấu
Uế (252)).
--o0o-- “Chớ
nói lời thô ác Nói ác, bị nói lại
Khổ
thay lời thù hận
Hình phạt tất
đến thân”.
(Kinh
Nikaya Pháp Cú: X: Dandavagga: Phẩm Đao
Trượng (133))
--o0o--
“Không nên
nhìn lỗi người Người làm hay không làm Nên tự nhìn thân ta
Có làm hay
không làm”.
(Kinh
Nikaya, Pháp Cú IV: Pupphavagga: Phẩm
Hoa (50))
Cho nên,
chúng ta hãy cố gắng siêng năng nhiệt
tâm tinh cần, rèn
luyện mỗi ngày
cho chính ta trước đã. Hãy sửa bỏ những thói quen tật xấu, mài giũa cục
đá nghiệp to lớn đồ sộ vĩ đại này mà đã
từ bao nhiêu ngàn kiếp chúng ta
đã huân tập tích
trữ của tham dục và
ác pháp cho nó hao mòn dần dần,
cùng với sự tu tập quyết tâm bền chí gan dạ của mỗi người. Đó là ước nguyện
hoài bão và mục đích của chúng ta. Khi tìm đến với chánh pháp Nguyên Thuỷ. Khi
tìm về tu viện Chơn Như xin tu tập là như vậy. Xin các bạn lưu ý điều này.
Khi chúng ta
đến tu viện Chơn Như tu tập thì mỗi người phải tự điều phục mình; tự mình nương
tựa chính mình;
tự mình làm hải đảo cho tâm
mình được nhiếp
phục an trú để gội rửa
lọc sạch rác rưởi bên trong nội
tâm của chính ta;
chúng ta gội rửa những
chất liệu nỗi đau niềm giận trong ta của cái tâm ái dục
lẫy lừng đang phát khởi, đang ngủ ngầm bên trong đầy những tham, sân, si đang vây quanh đánh vào. Mỗi một ngày chúng
ta im lặng không muốn nói chuyện nhiều là để đối diện với chính ta, đối diện với
bộ mặt thật gian xảo bên trong của
chính ta. Đó
là những giờ
phút chiến đấu tận
cùng oanh liệt
và gay cấn nhất của mặt
trận nội tâm bên trong của mỗi người.
Và sẽ không
có một ai hi sinh làm Bồ Tát cho ai cả. Nếu có một người nào đó tự cho mình hy
sinh để được làm Bồ Tát, thì xin thưa đó là những kẻ điên đảo
tưởng, v.v.. Vì sao vậy? Bởi
vì nếu chúng
ta làm Bồ Tát thì sẽ đi ngược luật nhân
quả. Đi ngược
lại luật nhân
quả là phi đạo đức, làm đảo lộn trật tự sự công bằng
công lý của vũ trụ. Chúng ta hiện giờ còn đang trên đường tu tập, còn
đang sống trong
nhân quả. Và mỗi
giây phút nếu chúng ta thiếu tỉnh giác chánh niệm
thì sẽ bị luật
nhân quả chi phối
ngay trong giây
phút đó liền,
chúng ta vẫn chưa làm
chủ được nhân
quả thì chớ có
phát tâm hạnh nguyện làm Bồ Tát hạnh. Chỉ có những kẻ vô
minh điên đảo mới phát
tâm làm Bồ Tát hạnh. Vì thế, các vị Bồ
Tát bị dòng nước danh lợi cuốn trôi đạo nghiệp giải
thoát, nên đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, chỉ có hình
thức tu sĩ và cư sĩ làm ô danh Phật Giáo.
Đối với Phật
Giáo chỉ có những bậc Thánh A La Hán mới có đủ năng lực dạy và độ người. Còn tất cả
chúng ta đều đang bị chi phối
sống và chết trong luật nhân quả. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng tu tập chuyển
hoá nhân quả của thân, khẩu, ý
mà do chính ta
đã tạo ra. Cho nên,
hễ mà nhúc
nhích thì hãy coi chừng luật nhân quả, nó sẽ xử phạt rất công minh
chính trực. Đó là
cán cân công
lý rất tuyệt
vời, xin các bạn lưu ý điều này.
Văn hóa Phật
Giáo Nguyên Thuỷ là một giáo lý thực lực có trí tuệ của nền đạo đức nhân bản nhân
quả, sống không làm
khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh; là chân lý lẽ phải
của nhân loại; là đạo xả
tâm diệt ngã;
là văn hoá có
phẩm chất đạo đức trí tuệ
rất bình dị, gần
gũi thân thương, gắn liền với cuộc sống của mỗi con người. Nên mỗi lời
nói của chúng
ta đều phải có Chánh tri kiến của
đức từ tâm, của đức bi tâm, của đức hỷ
tâm và của đức xả
tâm, nghĩa là bốn đức này gồm trong
các hạnh: nhẫn nhục, tuỳ thuận và
bằng lòng. Nếu chúng ta có Chánh
tri kiến, có Chánh
tư duy mỗi ngày thì khi gặp nghịch cảnh, chướng
duyên ta sẽ diệt ngã xả tâm rất nhanh
chóng. Chúng ta thường quay về thủ
hộ sáu căn của mình;
quay về nương tựa pháp Thân Hành Niệm của mình; quay về nương tựa pháp
hướng tâm như lý tác ý của chính
mình. Đó là ý
nghĩa của bài kệ trên rất thâm
thúy vô cùng sâu sắc; đó là những gia bảo
tinh hoa quý giá mà Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni đã
để lại cho tất cả
chúng sanh - những bài kinh Pháp Cú ngắn gọn thâm sâu vi
diệu.
Những bài kệ này chính
là những lời dạy của Đức Phật tự thân thuyết. Cho nên, khi
đọc
những bài kệ
này chúng ta cảm như thân nghe chính lời Phật dạy
từ hơn 2000 ngàn năm vẫn còn vang lại với giá trị bất hủ của tập
kinh Dhammapada là ở chỗ này. Nhờ
ở chỗ này mà ta cảm thấy không
có sự trung
gian của các vị
Tổ Sư kết tập
kinh điển. Chúng tôi
hân hạnh xin gửi gắm đến quý bạn.
Thưa
các bạn thân mến! Trên bước
đường tu tập của chúng ta chỉ có Đức Phật và các bậc Thánh A
La Hán mới
có đủ năng lực trí tuệ Tam Minh làm vị Thầy của Trời, Người,
mới giảng dạy pháp và luật cho chúng ta. Còn ngoài ra sẽ không
còn có một người
nào xứng đáng dạy pháp và luật này cả. Vì sao vậy?
Bởi vì các bậc
Thánh A La Hán tâm các Ngài đã vô lậu hoàn toàn, đã ly dục ly ác pháp,
không còn đắm
nhiễm trong sắc,
danh, lợi, thực, thuỳ nên các
Ngài rất xứng đáng là nguồn năng lượng thương yêu của chúng sanh, nguồn năng lượng
tình thương yêu đó rất cao quý biết bao,
rộng lớn mênh
mông hơn biển cả đại dương không thể đem một vật gì vô giá
trên cuộc đời này để mà so
sánh được. Nên mỗi lời giảng dạy của Bậc Thánh A La Hán rất có giá
trị cho chúng ta.
Chúng ta là
những người con đã có gieo trồng thiện duyên
từ nhiều ngàn
kiếp xa xưa nên ngày hôm nay mới
đủ duyên gặp lúc Bát Chánh Đạo Nguyên Thuỷ hồi sinh. Do hội đủ nhân duyên
mới được hội
tựu về đây
cùng chung sống bên nhau tu
tập trong nguồn năng lượng thương yêu của
Trưởng Lão Thích Thông Lạc trên quê hương yêu dấu của miền nhiệt
đới xứ sở Tây
Ninh miền Nam Việt Nam
này. Vì vậy chúng ta hãy đặt trọn
vẹn niềm tin yêu son sắt thủy chung nơi
những lời giảng
dạy nhiệt tình tha thiết thương
yêu của Ngài.
Nên cố gắng tu tậïp xả
tâm diệt ngã.
Đó là cốt
lõi cơ bản phạm hạnh của
tu sĩ và cư
sĩ; đó
cũng là mục đích Sa Môn
quả của hàng
tăng, ni và cư sĩ
chuyên tu khi tìm về
tu viện Chơn
Như tu
tập.
Chúng tôi nhớ
lại hồi còn học ở Trường ĐHKHXH - CCPHHĐ,
thường hay lập luận các bản kinh dài
của Hoà Thượng Minh Châu dịch trong
Đại Tạng Kinh
Việt Nam, thuộc
Trường Bộ Kinh tập I, phẩm
kinh Lohicca. Đức Phật- bậc
đại A La Hán
Thích Ca Mâu Ni đã
giảng dạy cho Bà La Môn Lohicca về ý nghĩa của các vị Đạo Sư.
Đức Phật dạy
rằng: ‚Này Lohicca, ở đời có ba vị
Đạo Sư đáng bị chỉ trích và
ai chỉ trích Đạo
Sư như vậy. Sự chỉ trích của
vị này chân chánh,
hợp pháp, không
lỗi lầm. Thế
nào là
ba?‛.
‚Này Lohicca.
Ở đời có một vị Đạo Sư không
chứng mục đích của Sa
Môn Quả mà mọi
người xuất gia từ bỏ gia
đình, sống không gia đình, hướng
đến không chứng
được mục đích Sa Môn
Quả ấy. Vị
này thuyết pháp
cho các đệ tử:
‚Như thế này
là lợi ích
cho các người! Như
thế này là hạnh phúc
cho các người!‛. Những
đệ tử này
không chịu nghe lời dạy của các vị ấy, không lóng tai
ghi nhận, không trú tâm phát xuất từ hiểu biết, và sống trái ngược với giáo
pháp của vị Bổn Sư. Đạo Sư như vậy cần phải được khiển trách: ‚Đại đức
không chứng mục
đích Sa Môn Quả mà Đại
đức xuất
gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình
hướng đến không
chứng được mục
đích Sa Môn Quả ấy (tức là không chứng được quả Thánh A La Hán) mà Đại đức
thuyết pháp cho các đệ tử: ‚Như thế này là lợi ích cho các người, như thế
này là hạnh
phúc cho các
người‛. Những người đệ tử này không nghe lời dạy của Đại đức, không để
tai ghi nhận, không trú tâm
phát xuất từ
hiểu biết và sống trái ngược giáo pháp của vị Bổn Sư‛. Cũng
giống như người tán tỉnh
cô gái muốn
xa lánh mình, hay ôm
hôn cô
gái muốn né mặt mình.
Như Lai nói rằng:
‚Cử chỉ ấy
là ác pháp,
tham pháp, vì có ai làm giúp cho ai được?‛.
‚Này
Lohicca, như vậy là hạng Đạo Sư thứ I đáng
bị chỉ trích và
ai chỉ trích vị
Đạo Sư như vậy là sự chỉ trích
này chân chánh, hợp pháp, không lỗi lầm‛.
Thưa các bạn!
Các bạn có biết Sa Môn quả là gì không?
Sa Môn quả
là kết quả tu tập của một tu sĩ Phật
Giáo. Các bậc ấy đã
thành tựu viên mãn, đầy đủ oai
nghi chánh hạnh (giới luật), đầy đủ thần
lực, chuyển hóa nhân quả (Thiền định), làm chủ sinh tử, chấm dứt luân hồi (Trí
tuệ). Khởi sự tu tập từ giới luật,
Thiền định đến Tam Minh. Nói cho dễ hiểu là một người
đã tu chứng quả Thánh A La Hán tâm hoàn toàn vô
lậu.
Trong đoạn
kinh trên đây đã xác định cho chúng ta thấy rằng: Các vị giảng sư của Phật
Giáo hiện giờ
cũng giống như vị Đạo Sư
thứ nhất này tu hành chưa tới đâu mà đi thuyết giảng dạy người tu.
Dạy về giới luật
giảng thì rất hay
nhưng sống không đúng giới luật, chánh hạnh không có. Cả Thầy lẫn học trò đều phạm
giới, phá giới, bẻ vụn giới, chẳng
có giới luật nào mà không vi phạm. Thưa
các bạn! Lời
chúng tôi nói quý bạn thấy có
đúng không?
Dạy về Thiền định, thuyết giảng cũng rất hay, nhưng
chẳng có ông giảng sư nào
nhập định được và cũng không biết nhập định bằng cách nào,
chỉ biết ngồi
lim dim ức chế
thân tâm không có vọng tưởng
giống như ‚cóc‛,
từ một giờ, hai giờ cho đến
một ngày, hai
ngày, v.v… Rồi tuyên
bố, quảng cáo khắp nơi rằng:
mình đã nhập
định, kiến tánh
thành Phật,
v.v…
Dạy về trí
tuệ Tam Minh thuyết giảng thì rất hay: Nào là Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu
Tận Minh, nói đủ loại thần thông, nhưng
xét ra cái
trước mắt của
các ông là những bài
kinh mà các ông đang thuyết giảng.
Chính các ông
nói minh mà
các ông chẳng
có minh chút nào cả. Các ông giống như những người mù rờ voi.
Những bài kinh
mà các ông đang
thuyết không phải của Phật
thuyết mà các ông không biết thì
các ông có minh chỗ nào đâu. Có đúng như vậy không các bạn?
Lời dạy của Đức
Phật trên đây
là chỉ thẳng cho chúng ta biết rằng
những vị giảng sư trong Phật giáo
hiện giờ chưa
có người nào xứng đáng là bậc Đạo Sư của chúng ta. Tại
sao
vậy?
Tại vì các
ông giảng sư tham danh làm Thầy
thiên hạ, tham lợi phật tử cúng
dường tiền nhiều, giống như những
chàng thanh niên mê gái vậy.
Cho nên đức
Phật dạy: ‚Cũng giống
như người tán tỉnh cô
gái muốn xa lánh mình, hay ôm
hôn cô gái muốn né mặt mình. Như Lai
nói rằng: ‚Cử chỉ
ấy là ác pháp, tham pháp, vì có ai
làm giúp cho
ai được?‛. Qua lời dạy này chỉ rõ những hạng Đạo sư thứ
nhất là những người tham danh.
Theo Phật
giáo chân chánh
thì các vị giảng
sư trong Phật giáo
hiện giờ đều
đáng bị chỉ trích:
Tu chưa tới nơi mà
đi ra làm Thầy dạy Đạo
để lừa đảo mọi người
‚Ngồi trong mát ăn bát
vàng‛. Thật là đáng chê trách như
đoạn kinh này xác định:
‚Này Lohicca, như vậy là
hạng Đạo
Sư thứ I đáng bị chỉ trích và
ai chỉ trích vị Đạo
Sư như vậy
là sự chỉ
trích này chân chánh, hợp pháp,
không lỗi lầm‛.
Hạng Đạo Sư
thứ hai là hạng người ngu si không
lo quét tâm
mình cho sạch những
rác
bẩn tham,
sân, si lại đi hốt quét rác tâm người, như
lời Phật dạy
trong đoạn kinh
này: -‚Lại nữa, này Lohicca, ở đời
có một vị Đạo Sư không chứng mục đích của Sa Môn Quả mà mọi người xuất gia từ bỏ
gia đình, sống không nhà cửa, hướng đến
không chứng được mục đích Sa Môn quả ấy. Vị
này thuyết pháp cho
các đệ tử: ‚Như thế này là lợi
ích cho các người! Như thế này là hạnh phúc cho
các người!‛ Những đệ tử này không
chịu nghe lời dạy của
các vị ấy,
không lóng tai ghi nhận, không trú tâm phát xuất từ hiểu biết, nhưng
sống trái ngược với giáo pháp của
vị Bổn Sư. Đạo Sư như vậy cần phải được khiển
trách: ‚Đại Đức
không chứng mục
đích Sa Môn quả mà Đại Đức xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không nhà cửa hướng đến không chứng được mục đích sa môn quả ấy, (tức
là không chứng được quả Thánh A La Hán) Đại Đức thuyết pháp cho các đệ tử: ‚Như thế này là lợi ích
cho các người!
Như thế này
là hạnh phúc cho các
người!‛. Những đệ tử này
không nghe lời dạy của Đại Đức, không lóng tai ghi nhận, không
trú tâm phát
xuất từ hiểu
biết nhưng sống trái
ngược với giáo
pháp của vị Bổn
Sư. Cũng giống
như người bỏ ruộng dưa của
mình mà nghĩ đến việc
nhổ cỏ cho ruộng dưa
của người khác.
Như Lai nói rằng:
‚Cử chỉ
ấy là ác
pháp, tham pháp, vì có ai làm giúp cho
ai được?‛.
‚Này
Lohicca, như vậy là hạng Đạo Sư thứ II đáng bị chỉ trích và ai chỉ trích Đạo Sư
như vậy là sự chỉ trích này
chân chánh, hợp
pháp, không sai lầm‛.
Một tu sĩ Phật
Giáo tu hành chưa chứng Đạo mà đi thuyết giảng cũng giống như các ông giảng sư của
Phật Giáo hiện
giờ mà Đức Phật
xem họ như những người
nông dân ngu si
làm cỏ ruộng dưa cho người
khác còn ruộng
mình thì để cỏ mọc đầy, vì lý do này mà họ được đặt vào vị trí Đạo Sư thứ
II đáng bị chỉ trích vì cái ngu của mình.
Cho nên, những hàng Bồ Tát tu chưa chứng đạo mà ra độ
người được Đức Phật cho là những hạng người ngu si.
Đọc đoạn
kinh này, các bậc tôn túc hòa thượng,
thượng tọa, đại đức tăng,
ni và các phật tử bốn phương có
nhận thấy lời dạy này đúng không?
Thưa các bậc
tôn túc! Các vị phải tự xét mình,
có thấy mình
thuyết giảng kinh sách Phật là giống như những người ngu
si đi nhổ cỏ ruộng dưa cho người khác không? Trong khi ruộng dưa của mình cỏ mọc đầy mà không nhổ. Như vậy các vị có thấy
cái dở của mình không?
Khi tu xong Đức Trưởng
Lão Thông Lạc nhìn
lại Thầy Tổ, bạn bè của mình
đang say mê danh lợi trong tôn
giáo trôi lăn theo dòng nước đục khổ đau của nhân quả, đành chịu ngu si một đời
đi nhổ cỏ ruộng dưa cho người thì Trưởng
Lão rất thương tâm,
nhưng không biết làm sao giúp cho
họ thức tỉnh trở về con đường chân
chánh của Phật
Giáo Nguyên Thủy.
Vì thế, Trưởng Lão
cho ra đời bộ sách
Đường Về Xứ Phật
chỉ thẳng đánh mạnh như tiếng sét làm sáng rõ cái đúng, cái sai, khiến cho
các bậc tôn túc thức tỉnh giấc mộng Đại Thừa và Thiền Tông.
Đây là những hạng Đạo Sư thứ
II, do sự ngu si đáng bị chỉ trích mà đoạn kinh này dạy rất rõ:
‚Này Lohicca, như vậy là hạng Đạo Sư
thứ II đáng bị chỉ
trích và ai chỉ
trích Đạo Sư như vậy là sự chỉ
trích này chân chánh, hợp pháp, không sai lầm‛.
Thưa các bạn!
Những đoạn kinh này đã giúp cho các bạn nhận xét vị Đạo Sư của mình có xứng
đáng là Đạo Sư hay không?
Trong kinh sách Đại Thừa thường kêu gọi mọi người
nên tu tập theo Bồ Tát hạnh vừa độ
mình vừa
độ người. Đó
là những nguyện
vọng cao quý của Bồ
Tát hạnh. Kinh sách
dạy làm
Bồ Tát hạnh
được gọi là kinh Đại Thừa. Vấn đề này trong Phật giáo Nguyên Thủy cho rằng: Bồ
Tát không biết chữ mà đi dạy người khác học chữ thì việc làm này các bạn cứ xét
xem có kết quả hay không? Từ xưa đến nay đã chứng minh rằng: việc làm của Bồ
Tát Đại Thừa là việc làm không ích lợi, chỉ là một việc lừa đảo người mà
thôi.
‚Lại nữa,
này Lohicca. Ở đời có một vị Đạo
Sư không chứng
mục đích của
Sa Môn Quả mà mọi người
xuất gia từ bỏ gia
đình, sống không nhà cửa, hướng đến không chứng được mục đích Sa Môn quả
ấy. Vị này thuyết pháp cho các đệ tử:
‚Như thế này là lợi ích
cho các người! Như thế này là hạnh phúc cho các người!‛. Những
đệ tử này
không chịu nghe lời dạy của các vị
ấy, không lóng tai ghi nhận, không trú tâm phát xuất từ hiểu biết, nhưng sống trái
ngược với giáo
pháp của vị Bổn Sư. Đạo
Sư như vậy cần phải
được khiển trách:
‚Đại Đức
không chứng mục
đích Sa Môn quả mà
Đại Đức xuất
gia, từ bỏ
gia đình, sống không nhà cửa hướng đến không chứng được
mục đích
Sa Môn quả ấy, (tức là
không chứng được quả Thánh
A La Hán) Đại Đức
thuyết pháp cho các đệ tử:
‚Như thế này là lợi ích
cho
các người!
Như thế này là hạnh phúc cho các người!‛. Những đệ tử này không nghe lời dạy của Đại Đức, không
lóng tai ghi nhận, không trú tâm phát xuất từ hiểu biết
nhưng sống trái ngược với giáo pháp của
vị Bổn Sư. Cũng giống như người cắt sợi dây
cũ trói buộc,
lại tự làm một sợi
dây mới khác
buộc mình. Như
Lai nói rằng: ‚Cử chỉ ấy
là ác pháp,
tham pháp, vì có ai giúp cho ai được?‛.
Vị Đạo Sư
thứ ba mà Đức Phật nêu trong đoạn kinh này thì chúng tôi thấy một số
các Thầy Đại Thừa rất giống. Vì vừa cắt bỏ sợi dây ái kiết sử gia
đình sự nghiệp
thế gian, thì lại trói
mình vào một sợi dây mới. Một sợi dây danh
lợi trong tôn
giáo, vì thế Đức Phật dạy:
‚Như
Lai nói rằng: ‚Cử chỉ ấy là ác pháp,
tham pháp, vì có ai giúp cho ai được?‛.
Trên đây
là ba hạng Đạo Sư mà
quý phật tử nên lưu ý: ‚Đừng nên chọn những
vị Đạo Sư này
họ chẳng xứng
là Thầy của
quý vị‛. Cho nên Bà La Môn
Lohicca hỏi đức Phật: ‚Thưa Ngài Tôn Giả Gotama, ở
đời có vị Đạo Sư
nào không đáng bị chỉ trích?‛
‚Đức Phật dạy: Này
Lohicca ở đời
có vị
Đạo Sư không
đáng bị chỉ trích‛.
‚Thưa Ngài
Tôn Giả Gotama
ở đời, thế
nào là Đạo
Sư không đáng bị chỉ trích?‛.
‚Đức Phật dạy: Này
Lohicca! Ở đời
Đức Như Lai xuất
hiện là Bậc
A La Hán
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân
Sư, Phật, Thế Tôn…‛
(Như kinh sa môn quả số 40- 74, với
những thay đổi cần thiết).
‚Khi
quán tự
thân đã xả
ly năm triền
cái ấy, hân hoan sanh, do hân hoan nên hoan hỷ sanh, do tâm hoan hỷ nên
thân được khinh an, do thân được khinh an nên lạc thọ sanh, do lạc thọ sanh tâm
được định tỉnh, do tâm định tỉnh vị tỳ kheo ly dục ly ác pháp chứng và trú Thiền
thứ I một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ‛.
‚Này Lohicca, lại
nữa tỳ kheo diệt
tầm và tứ chứng và trú Thiền thứ
II một trạng thái hỷ lạc do định sanh
không tầm không tứ nội tĩnh nhất
tâm… Trú thiền
thứ III... chứng
và trú Thiền thứ
IV…‛ ( Như kinh Sa Môn quả số 74-
84 với những
thay đổi cần thiết).
‚Với tâm định tỉnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu
nhuyễn, dễ sử dụng vững chắc, bình thản như vậy. Vị tỳ kheo
dẫn tâm, hướng
tâm đến lậu tận trí Tam Minh, vị ấy biết
như thật ‚đây là khổ…‛ và sẽ không có
đời sống nào
khác nữa‛ (Như kinh Sa Môn quả số 79- 98).
‚Này Lohicca
đệ tử của vị Đạo Sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy (tức là chứng quả
Thánh A La Hán).
Này Lohicca vị Đạo
Sư như vậy không
đáng bị chỉ
trích và ai chỉ trích một Đạo Sư
như vậy, là sự chỉ trích ấy sẽ
không xác thật,
không chân chánh
không hợp pháp và
có lỗi lầm‛.
(Đại Tạng Kinh
Việt Nam thuộc Trường
Bộ Kinh tập I:
Phẩm kinh Lohicca trang 383- 393).
Qua những lời dạy của Đức
Phật trên đây đã chứng
minh một cách
rõ nét cụ thể cho chúng ta thấy rằng: Khi tìm đến với Đạo Phật
thì chúng ta hãy nên chọn cho riêng mình
một vị Thầy Phạm hạnh có đầy đủ oai nghi chánh hạnh, có đức độ và giới
luật phải nghiêm chỉnh để cho chúng ta có thể được nương tựa, làm tàn cây bóng
mát cội bồ đề vững chắc về tinh thần và có thể thưa hỏi tu học giáo lý qua những
lời giảng dạy của vị Đạo Sư ấy. Chính những
lối sống sinh hoạt hằng ngày được thể hiện qua hành động
và ngôn ngữ của vị Thầy đó là
gương hạnh phản chiếu mẫu mực cho chúng
ta
soi sáng nội
tâm của mình, mỗi
ngày chúng ta được xoa dịu bao nỗi khổ niềm đau của tâm hồn trong cuộc đời
khổ đau này. Khi gặp nghịch cảnh và chướng
ngại trên con đường tu tập. Vì vậy, để chọn cho riêng
mình một vị Thầy có phạm
hạnh, giới luật
nghiêm chỉnh, giữ
gìn hạnh ăn, hạnh ngủ, hạnh độc cư, độc trú rất là khó khăn vô cùng, rất quý hiếm,
rất ít có trên cuộc đời này
- đó là Đức Trưởng
lão Thích Thông Lạc.
Đôi khi chúng ta
còn bị lệ thuộc
vào luật
nhân quả của mỗi người
gieo trồng thiện duyên từ nhiều
ngàn kiếp xa xưa để lại. Một vị Thầy
đã thông suốt và biết rõ
như thật về bốn nỗi khổ đau của kiếp người (Khổ, Tập, Diệt, Đạo).
Một vị Thầy
đã nhập Tứ
Thánh Định có Tam Minh
thấu suốt mọi
ngõ ngách tâm tham,
sân, si, mạn,
nghi của chúng
sanh. Thì đó là một vị Đạo Sư rất
xứng đáng cho chúng
ta tôn trọng
kính lễ, là chỗ nương
tựa vững chắc an lành hạnh phúc trong tâm hồn và trái tim của mọi loài.
Thưa các bạn! Chúng
tôi luôn muốn
nói đến Bậc Thầy, một bậc Thầy giới luật nghiêm chỉnh, sống biết nhẫn nhục,
tùy thuận và vui lòng trong mọi hoàn cảnh dù nghịch hay thuận. Đó là Đức Trưởng
Lão Thích Thông
Lạc người
Việt Nam.
Ngài đã trình bày phương pháp dẫn tâm vào Đạo. Với phương pháp như lý tác ý rất
chân thực cụ thể, dễ
hiểu qua những bài giảng trải rộng tất cả nhiệt huyết con tim
thương yêu chúng sanh trên những trang sách dạy đạo đức làm người.
Thưa các bạn!
Sự thật viết rất khó, nhưng viết lên chân lý còn khó hơn nhiều và những
chân lý
vĩ đại thường là
đơn giản nhất.
Với ngòi bút thực
chứng sáng nghĩa của
Chơn Như đã giúp cho
người hậu học
am tường đâu là
chân lý lẽ phải của nền đạo đức nhân bản nhân quả, đâu
là Ma đạo,
đâu là Chánh
đạo. Thật vinh hạnh
cho đất nước
Việt Nam có Bậc
Thánh Nhân chứng
đạo Bồ Đề.
Nên Đức Phật
dạy:
“Vui
thay, Phật ra đời.
Vui
thay, Pháp được giảng. Vui thay, Tăng hoà hợp.
Vui
thay, Chúng đồng tu!”
Và được
sinh ra làm người
là một điều khó, thế mà được sinh làm người mà còn gặp
được bậc Thánh nhân thì phước duyên đời trước đã gieo trồng nhiều thiện pháp với
chánh pháp. Nên kinh Pháp Cú dạy:
“Khó gặp Bậc
Thánh Nhân Không phải đâu cũng có Chỗ nào Bậc Trí sanh.
Gia đình tất
an lạc”.
(Kinh
Nikaya Pháp Cú: XIV Buddhavagga: Phẩm Phật
Đà (193- 194).
Thưa các bạn! Mỗi
người trong chúng
ta rất có thiện duyên khi đã gặp
Trưởng Lão; khi đã được gần gũi thân
thương bên Người; khi đã được lắng nghe chân
diệu pháp của
Người. Đó là đại phước duyên của
mỗi chúng ta khi tìm vềâ tu viện Chơn Như tu tập. Cho nên, hơn bao giờ hết, chúng
ta hãy cố gắng tu tập xả
tâm diệt ngã mỗi ngày và giữ gìn
giới luật nghiêm chỉnh không vi phạm lỗi nhỏ nhặt
nào, giữ gìn ba
đức, ba hạnh cho được
trọn vẹn, để đền đáp công ơn sâu dày hiếu
hạnh với cha mẹ, ân đức cao dày của Trưởng
Lão Thông Lạc
đã tận tuỵ giảng dạy pháp và luật cho chúng ta.
Nói đến công
ơn của Trưởng Lão thì chúng ta phải nhớ đến công ơn của cô Út Diệu Quang
cũng đã
tận tụy sớm
khuya khổ cực
gánh vác mọi gian lao
trên đôi vai gầy yếu
của mình, lo lắng chu toàn
từng bữa cơm độ
ngọ phòng hộ thất cho chúng ta yên tâm tu tập mỗi ngày.
Đó
là những
ơn đức ân tình rất
cao quý, rất sâu nặng thắm đậm tình nghĩa tha thiết son sắt
thủy chung của Cha Mẹ, của
Thầy, của Út, mà chỉ có sự tu tập chúng ta mới đền đáp
trong muôn một. Phải không các bạn?
Nên đức Phật
dạy rằng:
“Vui
thay, hiếu kính Mẹ Vui thay, hiếu kính Cha Vui thay, kính Sa Môn
Vui thay,
kính Hiền Thánh!”
(Kinh
Nikaya Pháp Cú: XXIII: Nagavagga: Phẩm
Voi (332).
Thưa các bạn
thân mến! Chúng tôi thiết nghĩ rằng: Khi chúng
ta tu tập
chưa xong thì nên im lặng như Thánh, đừng có thuyết giảng pháp và luật
cho một ai cả. Vì nếu chúng ta có giảng dạy hay tuyệt đến đâu chăng nữa, có hấp
dẫn nổi tiếng như những kĩ xảo điện ảnh dựng lên những
Thiên đường lộng
lẫy nguy nga tráng
lệ hay tuyệt
đẹp… thì nó cũng vẫn còn nằm
trong danh lợi của tâm tham, sân, si, còn lỗi lầm rất vi tế
đang tiềm ẩn
bên trong nội tâm với bản ngã to lớn đồ sộ vĩ đại của mỗi
người. Ngẫm nghĩ trên cuộc đời này, ai ai cũng ưa thích ham muốn làm thầy thiên
hạ, những
hạng người
nào mà như vậy khi có được chút ít quyền lực trong tay thì ôi thôi! Lại luôn độc
tài, chiếm hữu và hiếp đáp, lấn lướt áp đặt người khác. Đời và Đạo chẳng khác
gì mấy.
Khi tu tập
mà có được một chút ít kết quả nho nhỏ,
kha khá và
có thêm quyền
lực thì ôi thôi, chao
ơi! Ta muốn
thổi phồng lên
như những quả bong bóng vậy. Và rồi ta bắt đầu khoác lác vọng ngữ,
cũng muốn thuyết
giảng cho người khác
được nghe, bằng
những kiến giải, bằng
những danh từ đội lốt mang râu nghe rất
hợp lý bùi
tai: ‚Bồ Tát hạnh, Bồ Tát
khổ vì
chúng sanh khổ‛. Đó
là tâm lý
chung của những hạng người thích muốn làm Thầy thiên hạ là vậy.
Vì thế,
ta luôn ham
thích và muốn
nói thật nhiều để nhắc nhở người chị, người em, người anh, v.v.. đừng có
nói chuyện nhiều; đừng có cười đùa
nhiều; đừng có
ham ngủ nhiều; đừng
có ham ăn hốt uống
nhiều. Hãy xả cái
tâm sân
hận đi! Hãy
buông xả cái
tâm ganh ghét đi! Hãy xả bỏ cái
tâm tham lam đi! Hãy khước từ cái tâm kiêu mạn đi! Hãy xả đi buông xuống cái
tâm nghi ngờ đi! Đừng nên hở một chút là nghi
ngờ; hở một
chút là sân hận, v.v… chúng
ta luôn ham
thích khi nói
điều đó.
Chúng ta nói
hay lắm, tưởng chừng ta đã làm được; tưởng chừng
ta đã gội rửa sạch
tham, sân, si, mạn, nghi của chính
ta; tưởng chừng ta đã gỡ hết giống
gai độc
của ngũ triền cái đang ở bên
trong nội tâm của chính
ta. Nhưng sự thật chúng ta vẫn chưa làm được, chưa tu tập
nổi, còn
vướng mắc và bị trói
buộc như những con cá mắc cạn trên bờ phải chết dở, sống
dở...
Cho nên, vô
minh triết luận suông nửa chừng không tới đích nên ta sẽ phải dậm chân nơi cổ mộ luân hồi đắm luỵ. Bởi
vì chủ nhân của nó không có thừa tự Đạo Chánh, nên
phải dùng gương giới tuệ nội soi sẽ giúp
cho chúng ta nhận rõ
đâu là phải
trái của cuộc đời... thì tốt nhất nên im lặng như Thánh mà lo tu
cho mình trước đã, chứ thuyết
giảng có lợi
ích gì cho mình đâu. Phải không hỡi các bạn?
Khi tu chưa
xong, nếu chúng ta thuyết giảng là phạm giới luật. Giới thứ tư cấm nói dối (Nói
dối, nói lời hung ác, nói lưỡi đôi chiều, nói lật lọng). Giới này là đức Thánh
chân thật nên đức Phật dạy chỉ có người tu chứng Thánh quả A La Hán mới đi
làm giảng sư vì lòng
thương tưởng đến chúng sanh, không đắm nhiễm trong danh lợi. Còn người
chưa tu chứng mà thuyết giảng ưa làm Thầy thiên hạï sẽ có ngày đọa địa
ngục với cảm
thọ hành xác thân đau nhức nhối vì
đã chết chìm
trong danh lợi,
nên quả báo phải lãnh đủ.
Chúng ta
hãy xem các vị hoà
thượng, thượng toạ trong
các chùa thuộc
hệ phát triển thì sẽ rõ! Dạy người mà không có kinh
nghiệm của sự tu chứng thì chẳng khác nào nói dối, khoác lác, vọng ngữ trong thế
giới tưởng tri, để moi tiền của
người khác, đó
là mang di chứng của căn bệnh: ‚Vô minh kiến, lừa đảo bằng
miệng lưỡi, đắm nhiễm trong thế giới cuồng tưởng, Marketing tôn giáo của tẩu hoả
nhập ma trong danh lợi‛, chứ nào phải là độ chúng sanh, độ kiểu đó là giết chết
chúng sanh. Và đạo đức nhân bản nhân
quả sẽ xử phạt rất
công minh, chính trực, dù cho
khôn khéo cao siêu cũng không trốn thoát. Xin các bạn lưu ý cho. Nên Đức Phật dạy:
“Không phải
vì nói nhiều
Mới xứng
danh bậc trí An ổn không oán sợ Thật
đáng gọi bậc trí”.
--o0o--
“Không phải
nói lưu loát
Không phải sắc
mặt đẹp
Thành được
người lương thiện. Nếu danh tham, dối trá”.
(Kinh
Nikaya Pháp Cú: XIX
Dhammatthavagga:
Phẩm Pháp trụ(258-262))
Thưa
các bạn!
Chỉ có những
bậc Thầy đã tu
chứng đủ Thánh
quả A La
Hán mới triển khai nổi vì các Ngài có đầy kinh nghiệm
trong sự tu tập,
và vì vậy mới xứng
đáng làm giảng sư. Còn những người phá giới, phạm giới
mà đi thuyết giảng thì giảng làm sao đúng được vì đã phạm giới
mà dù có
thuyết giảng đúng vẫn
được xem là vọng
ngữ. Họ giảng,
họ nói theo kiểu
nhai lại bã
mía của người
xưa theo chữ nghĩa kiến
giải tưởng thành
hoá ra nói
sai pháp, biến Chánh Pháp của Phật thành ra tà pháp của ngoại đạo.
Hiện bây giờ những
nhà học giả
xưa và nay từ tu
sĩ đến cư sĩ
là những giảng
sư có trình độ tri thức chuyên
môn có bằng cấp cao giáo sư, tiến sĩ đều dạy người tu tập đi
vào con đường bế tắc
ngõ cụt của đạo Phật,
thành thử mọi người không biết được
đâu là con đường chân lý lẽ phải của nền đạo đức nhân bản nhân quả, mà
không còn biết
đâu là pháp
hành
chính tông
Nguyên Thuỷ của đạo Phật chỉ cứ đi theo lối mòn - lối cũ dẫm lại những luận điệu
kiến giải của
các vị Tổ Sư
truyền thừa lại mà
thôi, làm cho biết bao nhiêu thế hệ trẻ úa tàn, héo hắt,
xác xơ, ê chề,
khốn đốn vì lỡ đời, lỡ
đạo, lỡ
hiếu hạnh với
song đường vì
tu sai đường lạc lối; làm suy yếu
tiêu mòn phá sản nội lực trí tuệ của bao thế hệ tu theo Phật Giáo Đại Thừa phát
triển; làm tiêu
hao tài sản của đàn na thí chủ khánh kiệt tận cùng gia sản
của mỗi người dân Việt.
Vì tin tưởng vào
tà ma ngoại đạo mê tín Thần Thánh
đang mỗi ngày phát triển rất mạnh, đang len lỏi vào trong tâm hồn của mỗi
người dân. Từ giới bình
dân cho đến giới trí thức
cũng bị ảnh hưởng rất
sâu đậm. Rốt cuộc vẫn chìm nổi trong
bể khổ luân hồi quằn quại đau thương tan nát. Vì đâu? Phải chăng đã lỡ
tu sai đường lạc lối
bế tắc ngõ cụt
do không đủ phước
duyên gặp được bậc Thầy chơn chánh. Đó
là nỗi đau lòng
nhất của Phật Giáo ngày nay.
“Giới luật
còn là Đạo Phật còn”.
Đây là lời tiên
tri của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni về sự hồi sinh Đạo Phật mà Đức Trưởng Lão
Thích Thông Lạc đương đại đang làm sống lại giới luật cuối thế kỷ 20 này.
“Giới luật mất là Đạo Phật mất”. Là lời
di chúc của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni về sự cáo chung tà pháp, mê tín Thần Thánh
đang ẩn núp trong ngôi nhà Phật Giáo.
Cho
nên, hơn
bao giờ hết, khi mỗi
chúng ta tìm đến với chánh
pháp Nguyên Thuỷ, chúng ta hãy sống có chánh tri kiến
suy tư mỗi ngày trên con đường tu tập của mình;
chúng ta hãy sống tự mình là ngọn
đèn cho chính mình; tự mình nương tựa mình. Đó chính
là ôm phao mà ta sẽ vượt thoát qua những giông tố biển cả của cuộc đời đầy những niềm
đau và nỗi khổ này. Vì thế, đức Phật mới dạy rằng:
“Tự mình
nương tựa mình Tựa điểm nào hơn nữa Nhờ khéo điều phục mình Được điểm tựa khó
được”.
--o0o--
“Tự mình làm
điều ác Tự mình sanh nhiễm ô Tự mình không làm ác
Tự mình
thanh tịnh mình. Thanh tịnh không thanh tịnh
Đều do tự chính
mình
Ai thanh tịnh cho ai?”.
(Kinh
Nikaya Pháp Cú XII: Attavagga: Phẩm Tự
Ngã (160- 165)).
Thưa các
bạn thân mến!
Khi lưu dấu những
dòng chữ này,
trái tim chúng tôi
xin chia sẻ tất cả nỗi niềm trên trang giấy đến với các quý bạn vì chúng
tôi cũng đang trên đường tu tập cũng gặp rất
nhiều thử thách
chướng ngại trên đường tu nên tâm hồn rất thấm đậm cảm thông cho những nỗi
khổ và niềm đau của mỗi chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy cố gắng nổ lực tu tập chiến đấu
đến tận cùng với bọn giặc sanh tử
tham, sân, si, mạn, nghi này. Phải không
hỡi các bạn?
Nên đức Phật mới nhắn nhủ đến với chúng ta:
“Dầu tại bãi
chiến trường Thắng ngàn ngàn quân địch Không bằng tự thắng mình Thật chiến thắng
tối thượng”.
--o0o--
“Tự thắng vẻ
vang hơn
Hơn chiến thắng người khác
Kẻ khéo điều
phục mình
Thường sống
tự chế ngự”.
(Kinh
Nikaya Pháp Cú: VIII: Sahassavagga: Phẩm
Ngàn (103-104))
Chúng tôi
cũng rất có thiện duyên là được đi
tu từ nhỏ
(12 tuổi), mười bốn
năm trời lưu lạc
lang thang vô định trong kiếp
luân hồi nơi đất khách
quê người. Vì
tu sai đường
lạc lối nên bây giờ đây chúng tôi
đã được sớm trở về trong vòng tay thương yêu của Thầy, của Út và đã
được hồi sinh Bát Thánh Đạo Nguyên Thủy; được gần gũi thân thương bên bậc
Thầy; một người Thầy vĩ đại; một
Trưởng Lão thương kính
nhất của mọi
người nên tâm hồn và
trái tim con rất đầm thắm an lành và hạnh phúc.
Thưa các bạn!
Chúng tôi xin kết luận lời tâm sự này bằng sự thành kính tri ân:
Namo Tassa Bhavagato Arahato
Sammasambuddhassa.
Trái tim con
thành tâm kính lễ Đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc Một bậc Thầy cao thượng
Một đấng Giới
thanh nghiêm.
Thưa các bạn
thân mến! Khi cầm bút viết lên những lời
Phật dạy trong
tập kinh
Dhammapada
Sutta Khuddaka Nikaya- Sutta Pitaka. Trái tim chúng tôi chỉ có một tâm nguyện
mong sao những lời dạy này của đức Phật sẽ được soi sáng dẫn đường cho mọi hành
động, tâm tư,
ngôn ngữ của
chúng ta, và ở
trong một thế giới đương đại văn minh tiến bộ với nền khoa học kĩ thuật hiện đại
mà vẫn còn những cuộc chiến
tranh đầy máu
lửa, đau thương nước mắt, đầy những
phân hoá hỗn tạp, hận thù, gian xảo. Những lời dạy này của đức Phật sẽ
xoa dịu một
phần thương đau
cho những tâm tư đã quá căng thẳng
hay buồn nản của con người Việt
Nam. Làm người
phật tử Việt Nam, phải đúng ý
nghĩa của người phật tử
là:
“Không làm
những điều ác Thành tựu các hạnh lành Tâm ý thường thanh thản Chính lời chư Phật
dạy”.
Thân ái chào
các bạn, chúc các bạn thành
công trong ước
nguyện.
PHỤ BẢN II1:
NHÂN QUÂ
Câu hỏi của
Tuệ Hạnh
Hỏi: Nếu con
biết có người phạm lỗi mà
con
không làm sáng tỏ vấn đề, để phạm nhân cứ ung dung tạo tội, như thế con có mang
tội đồng loã không? Và quả báo của con phải
chịu như thế nào?
Nếu con làm
sáng tỏ vấn đề thì
có bị oán tằng hội khổ không?
Theo con
nghĩ nếu đúng với đạo đức nhân bản
– nhân quả
thì nên làm
sáng tỏ vấn đề
phạm nhân phải nhận lấy hậu quả ngay trong hiện tại, may ra còn chút hồi tâm
hướng thiện, khỏi phải bị quả báo khổ nhiều đời nhiều kiếp, như vậy là mình giúp họ, chứ đâu phải hại họ. Phải không Thầy?
Đây là những
dòng suy tư của con lúc rất bình thản
và lòng từ
bi, chứ không
phải với tâm oán hận, Thầy có
tin con không?
Đáp: Để trả
lời câu hỏi này là chỉ cho người hỏi biết
rõ mình đang chánh
tư duy hay tà tư duy; đang có ác
ý hay thiện ý, không khéo
con dễ bị tâm dối gạt,
tưởng minh làm tốt,
nhưng sự thật đó là đang trả thù kẻ khác.
Cho nên,
trên bước đường tu tập cầu giải thoát
như lời đức Phật khuyên
dạy: ‚Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người‛.
Sự suy tư của
con coi chừng bị tâm con lừa đảo.
Trong cuộc đời
tu hành, khi tu
tập chưa đến nơi đến chốn thì
không nên thấy lỗi ai hết. Thấy lỗi người
khác mình đã
sai. Ai làm sai nhân quả họ phải trả không sớm thì muộn
không thể nào tránh khỏi. Vậy con đừng nên bận tâm lỗi của người khác
mà hằng ngày nên tìm xem lại lỗi
mình để cố khắc phục
không còn lỗi nữa.
Tóm lại, những
điều con đã nói ở trên là nên tránh, không nên làm những điều đó. Hãy để tâm
thanh thản an lạc
và vô sự. Đừng để các
ác pháp bên
ngoài tác động
tâm mình con ạ! Đó cũng chỉ là tâm phóng dật mà thôi.
Tâm còn phóng dật
thì con đường đạo còn xa
lắm con ạ!
Tu tập xả
tâm là tu tập xả những tâm chướng ngại pháp đó, chứ không phải xả tâm nào. Con
nên ghi nhớ lời dạy này.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!