Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

đường về xứ phật - tập 2-10

có học, tu tập và sống trong lớp Chánh Tư Duy
như vậy chúng ta mới lìa xa gốc tham dục và ác
pháp.
Nếu một người quyết tâm tu hành, để cầu
giải thoát thì trong lớp Chánh Tư Duy này
chúng ta đã tìm được sự giải thoát thật sự đâu
cần phải tu pháp nào khác hơn nữa. Phải
không hỡi quý vị?
Từ khi thành lập tu viện đến giờ, hầu hết
chúng tôi thấy, người tu thời bấy giờ họ không
xả tâm, họ biết Chánh Kiến, biết rất rõ pháp
nào ác, pháp nào thiện, họ cũng biết Chánh Tư
Duy, biết rất rõ các pháp ác làm khổ mình, khổ
người nhưng họ không xả ly mà chỉ ôm ấp
trong lòng thù hận, oán ghét… để chịu khổ, thật
là đảo điên! Điên đảo! Vậy, họ tu theo Phật để
làm gì? Nếu không xả tâm dục và ác pháp.
Mục đích của đạo Phật chỉ có xả tâm để
được giải thoát, nếu họ không xả tâm mà cầu
Phật Đạo là cầu cái gì? Cầu thần thông ư? Điều
này có lợi ích gì? Cầu về Cực Lạc Tây Phương
ư? Mơ hồ trừu tượng quá không thực tế, ích kỉ
cá nhân. Cầu kiến tánh thành Phật ư? Điều
này cũng quá mơ hồ trừu tượng, chỉ có những
người điên đảo, đảo điên thì mới sống trong mơ
mộng và ảo tưởng như vậy. Cầu thiền định ư? Thiền định thì ở chỗ Chánh Kiến và Chánh Tư
Duy, ngoài Chánh Kiến, Chánh Tư Duy thì
không có Chánh Thiền Định, đó là tà thiền tà
định, mà tà thiền tà định thì có lợi ích gì cho
mình cho người đâu.
Đạo Đế là con đường duy nhất tu tập của
đạo Phật, để có Chánh Thiền Định, ngoài Đạo
Đế ra, không còn có con đường nào khác hơn
nữa, để có Chánh Thiền Định, đi đến giải thoát
làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân
hồi.
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo , chỉ là những
pháp môn trợ giúp cho Đạo Đế, hay nói một
cách khác cho dễ hiểu hơn ba mươi bảy phẩm
trợ đạo là giáo trình tu học của Bát Chánh
Đạo, nó làm sáng tỏ thêm Đạo Đế, về cách thức
thực hành tu tập rèn luyện trau dồi trí tuệ, để
sống đúng tám phương pháp này, tám phương
pháp này là đạo đức làm Người, làm Thánh của
đạo Phật như: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy,
Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng,
Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.
Vì thế, ba mươi bảy phẩm trợ đạo không phải
là Đạo Đế, nếu cho nó là Đạo Đế thì còn gọi nó
trợ đạo để làm gì? Ví dụ 1: Chúng ta lấy Tứ Chánh Cần để tu
tập ngăn ác, diệt ác pháp thì Tứ Chánh Cần là
pháp môn giúp cho chúng ta thấy rõ các ác
pháp, tức là giúp cho chúng ta có Chánh Kiến,
giúp chúng ta thấy biết rõ căn gốc của ác pháp,
tức là giúp chúng ta có Chánh Tư Duy. Và như
vậy, chúng ta tu Tứ Chánh Cần, tức là chúng ta
tu tập trí tuệ Chánh Kiến và Chánh Tư Tuy
hay nói cách khác Tứ Chánh Cần là giáo trình
thực tập trên các lớp Chánh Kiến đến lớp
Chánh Niệm có những bài vở từ thấp đến cao.
Tứ Chánh Cần, xác định rõ cho chúng ta
biết vị trí và phận sự của Chánh Kiến và
Chánh Tư Duy là ngăn ác, diệt ác pháp, có
ngăn ác, diệt ác pháp thì mới gọi là Chánh
Kiến và Chánh Tư Duy, nếu không ngăn ác,
diệt ác pháp thì không thể nào gọi là Chánh
Kiến và Chánh Tư Duy mà phải gọi là Tà Kiến
và Tà Tư Duy.
Chánh Kiến và Chánh Tư Duy là lớp để tu
tập Tứ Chánh Cần, còn Tứ Chánh Cần là giáo
trình thực tập để định nghĩa và làm sáng tỏ
cho lớp Chánh Kiến và Chánh Tư Duy trong tu
tập.
Ví dụ 2: Chúng ta lấy Tứ Niệm Xứ trên
thân, quán thân để tu tâïp khắc phục tham ưu, thì Tứ Niệm Xứ sẽ giúp cho chúng ta quan sát,
hiểu biết rõ bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp,
khi có các ác pháp tham ưu sanh khởi, trên bốn
chỗ này khiến cho nó bị khổ đau, phiền toái.
Như vậy, Tứ Niệm Xứ cũng là giáo trình thực
tập để xác định và làm sáng tỏ giúp cho chúng
ta có Chánh Kiến và Chánh Tư Duy để ngăn ác
và diệt các ác pháp trên bốn chỗ này. Và như
vậy, chúng ta tu tập giáo trình Tứ Niệm Xứ, tức
là tu tập trí tuệ Chánh Kiến và Chánh Tư Duy.
Tóm lại, ba mươi bảy phẩm trợ đạo chỉ là
những giáo trình tu học làm sáng tỏ cho sự
hiểu biết và sự thực hành để chúng ta thực
hiện chương trình Bát Chánh Đạo dễ dàng
hơn, không có mệt nhọc mà kết quả giải thoát

rất cụ thể.
Trên đây, chúng ta tu học lớp thứ hai
Chánh Tư Duy, nếu chúng ta theo như lời đức
Phật đã dạy mà tu tập lớp Chánh Tư Duy như
vậy thì chắc chắn không những chúng ta mà
bất cứ người nào tu tập cũng đều có sự giải
thoát như nhau cả, nghĩa là người nào tu theo
đạo Phật đúng con đường Bát Chánh Đạo thì
chắc chắn trăm muôn ngàn người đều có kết
quả thiết thực cụ thể, tức là giải thoát giống y
như nhau. Kính thưa các bạn! Tu học Bát Chánh
Đạo, đức Phật đâu có dạy: tụng kinh, bái sám,
ngồi thiền, niệm Phật, niệm chú đánh chuông,
gõ mõ, v.v.. mà chỉ có sống đúng Chánh Kiến,
Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ...
Bát Chánh Đạo là một chân lý trong bốn
chân lý của đạo Phật vàø nó chính là chương
trình tu học chân chánh của đạo Phật thì cách
thức tu tập phải rõ ràng, cụ thể và thiết thực
không thể mơ hồ, trừu tượng, mê tín được. Nếu
Bát Chánh Đạo là chương trình giáo dục đào
tạo tu học mơ hồ, trừu tượng, ảo giác, huyễn
hóa thì không được gọi là chương trình giáo dục
đào tạo, không được gọi là chân lý.
Cho nên, chương trình giáo dục đào tạo,
được gọi là chân lý phải là thiết thực, cụ thể,
phải hiểu biết bằng tri thức của chúng ta, còn
những loại pháp môn trừu tượng, mơ hồ, ảo
giác, với sự hiểu biết bằng tưởng tri thì không
được gọi là chân lý như: Triết học Tánh Không,
Trí tuệ Bát Nhã, Phật Tánh, v.v.. đều không
được gọi là chân lý, phần nhiều người ta hiểu
về những pháp này bằng tưởng tuệ, chứ không
phải trí tuệ, nên các pháp môn này được xem là
Tà Kiến ngoại đạo, không phải là của đạo Phật.
 LỚP THỨ BA: “CHÁNH NGỮ”
ChánhNgữ là lớp thứ ba trong Bát
Chánh Đạo. Vậy Chánh Ngữ là gì?
Chánh Ngữ có nghĩa là lời nói chân thật,
ngay thẳng, không bao giờ nói sai sự thật, lời
nói không thiên vị, không xuyên tạc, không nói
chuyện phiếm, chuyện tào lao, không nói đùa,
nói chơi, nói giỡn cợt, nói móc họng, nói mỉa
mai, nói to tiếng, nói tranh luận hơn thua, nói
xỉ vả, chửi mắng, nạt nộ, la hét, hù dọa, không
nói lời làm cho người khác tức giận, không nói
lời làm cho người khác buồn phiền khổ đau,
không nói xấu người khác, không đặt điều thêm
bớt, không đem chuyện người này nói lại với
người kia…
Chánh Ngữ còn là lời nói hiền lành, lời
nói không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng
sanh như: Không nói lờøi giết hại chúng sanh,
không nói lời xui khiến người giết hại chúng
sanh, không nói lời trộm cắp cướp giựt của
người, không nói lời xui khiến người khác trộm
cắp cướp giựt của người khác, không nói lời
dâm dục, tục tĩu. Tóm lại, Chánh Ngữ là những lời nói luôn
luôn lúc nào cũng ôn tồn, nhã nhặn, dịu dàng,
nhẹ nhàng, từ tốn, khiêm cung và lời nói không
làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng
sanh.
Nếu một mai, chúng ta có lỡ lời nói không
Chánh Ngữ, khiến cho mình khổ , người khác
khổ thì chúng ta nhất định phải từ bỏ, không
được dùng lời nói đó nữa, nếu chúng ta còn nói
lời đó nữa, là chúng ta không phải con người, vì
chúng ta đã học Chánh Ngữ, thế mà chúng ta
còn dùng lời nói làm khổ mình, khổ người thì
chúng ta là con vật, chứ không phải là con
người tu hành. Và vì vậy, mỗi khi nói một điều
gì thì chúng ta phải tư duy, suy nghĩ cho kỹ rồi
mới được nói, như đức Phật đã dạy: “Này chư
Tỳ Kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các
Người có thể dùng khi nói với người khác:
1/ Đúng thời hay phi thời.
2/ Chơn thật hay không chơn thật.
3/ Nhu nhuyễn hay thô bạo.
4/ Có lợi ích hay không lợi ích.
5/ Với từ tâm hay với sân tâm. - Này chư Tỳ kheo khi nói với người
khác, các ngươi có thể nói đúng thời, đừng
nói phi thời.
- Này chư Tỳ Kheo, khi nói với các
người khác, các ngươi có thể nói lời chân
thật, chứ đừng nói lời không chơn thật.
- Này chư Tỳ Kheo, khi nói với người
khác, các ngươi có thể nói lời nhu nhuyễn
chứ đừng nói lời thô bạo.
- Này chư Tỳ Kheo, khi nói với các
người khác, các ngươi có thể nói với từ
tâm chứ đừng nói với sân tâm.
Này chư Tỳ Kheo, ở tại đây, các người
cần phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ
giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm,
chúng ta sẽ không thốt ra lời ác ngữ,
chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm
từ bi, với một tâm không sân hận. Chúng
ta sẽ sống bao phủ mọi người với tâm câu
hữu với lòng từ. Và với mọi người này là
đối tượng của ta, ta sống biến mãn cùng
khắp thế giới với tâm câu hữu với lòng từ,
lòng quảng đại vô biên, không hận, không
sân”. Này chư Tỳ Kheo, như vậy các người
cần phải học tập”.
Trên đây, đức Phật nhắc nhở chúng ta giữ
gìn lời nói, có năm điều kiệ n để nói, nếu chúng
ta giữ gìn đúng lời dạy trên đây. Đó là chúng ta
đang tu học lớp Chánh Ngữ.
Chánh Ngữ rất lợi ích cho đời sống của
chúng ta, nếu chúng ta biết giữ gìn đúng Chánh
Ngữ như trên đức Phật đã dạy thì chúng ta đã
đem lại cho mình cho người một sự an vui,
thanh thản giải thoát dù ở bất cứ nơi đâu.

LỚP THỨ TƯ: “CHÁNH NGHIỆP”
Chánh Nghiệp là lớp thứ tư trong Đạo
Đế mà chúng ta cần phải sống, học và tu tập
hằng ngày trong mỗi hành động thân, miệng
và ý của chúng ta.
Chánh Nghiệp là những hành động thiện,
hành động không làm đau khổ cho mình, cho
người và cho tất cả chúng sanh. Về thân có ba hành động Chánh Nghiệp
như:
1/ Thân không đánh đập, không làm đau
khổ và không tự giết hại mình, người và tất cả
chúng sanh, đó là Chánh Nghiệp.
2/ Thân không trộm, cắp, cướp giựt , không
móc túi, không lấy của không cho, đó là Chánh
Nghiệp.
3/ Thân không tà dâm, không làm những
điều bất chánh gây đau khổ cho mình cho
người, đó là Chánh Nghiệp.
Về miệng nếu giữ gìn được Chánh Ngữ tức
là giữ gìn Chánh Nghiệp của miệng, cho nên
học về Chánh Ngữ tức là học về Chánh nghiệp
của miệng, như vậy những bài học Chánh Ngữ
ở trên là những bài học Chánh Nghiệp ở đây.
Chánh Nghiệp về miệng còn một điều nữa rất
là quan trọng, đó là miệng không nên ăn thịt
chúng sanh, tại vì hành động ăn thịt chúng
sanh tức là tạo ra nghiệp đau khổ vào thân mà
không biết, cho nên hành động ăn thịt chúng
sanh không phải là Chánh Nghiệp mà là Tà
Nghiệp.
Chánh Nghiệp còn gọi là những nghề
nghiệp sống chân chánh, nghề nghiệp không làm đau khổ chúng sanh. Có sáu Tà Nghiệp mà
người Phật tử không nên làm như:
1/ Không làm nghề săn bắn.
2/ Không làm nghề ngư phủ.
3/ Không được làm nghề buôn bán thịt
sống.
4/ Không được làm nghề buôn bán thịt
chín.
5/ Không được làm nghề sản xuất rượu và
buôn bán rượu.
6/ Không được làm nghề buôn bán người
(mãi dâm).
Tóm lại, Chánh Nghiệp là tu tập rèn
luyện mỗi hành động thân, miệng, ý phải được
trong sạch, thanh tịnh; trong sạch, thanh tịnh
tức là hành động thân, miệng, ý toàn thiện,
nếu còn có một chút xíu hành động ác thì
không được gọi là Chánh Nghiệp, cho nên
Chánh Nghiệp tức là mỗi hành động thân,
miệng, ý của chúng ta không làm khổ mình,
khổ người và khổ tất cả chúng sanh, thì đó mới
chính là Chánh Nghiệp.
Mỗi người sinh ra trong đời đều phải có
nghề nghiệp làm để sống, nhưng phải chọn
nghề nghiệp thiện, đừng nên chọn nghề nghiệp ác. Vì nghề nghiệp ác sẽ đem đến sự khổ đau
cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh,
còn nghề nghiệp thiện sẽ mang đến hạnh phúc,
an vui cho mình, cho người và cho tất cả chúng
sanh. Cho nên, Chánh nghiệp rất quan trọng
trong đời sống của con người. Vì thế , mỗi người
cần phải theo tu học lớp học Chánh Nghiệp
này, đừng bỏ qua rất uổng, hễ là con người dù
bất cứ có tôn giáo nào hay không tôn giáo, mọi
người cũng đều phải học và thực tập để hiểu
biết cách sống đúng ý nghĩa trong Chánh
Nghiệp

LỚP THỨ NĂM: “CHÁNH MẠNG”
Chánh Mạng là nẻo tu tập thứ năm còn
gọi là lớp tu học thứ năm của Đạo Đế. Vậy
Chánh Mạng là gì?
Chánh Mạng là mạng sống chân chánh
của con người, là sự sống của cơ thể không
huân tập vào thân những sự khổ đau của kẻ
khác và của tất cả chúng sanh. Chánh Mạng là nuôi sống thân mạng
bằng những nghề nghiệp chân chánh tức là
những nghề nghiệp lương thiện không tạo việc
làm ác để nuôi thân mạng.
Chánh Mạng còn có nghĩa là sống đúng
chánh pháp, không mê tín dị đoan, không sống
trong tưởng giải, ảo giác, mơ hồ, trừu tượng.
Chánh Mạng còn có nghĩa là sống không
chạy theo dục vọng và các ác pháp về ăn uống.
Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Này chư
Hiền, có bốn loại thức ăn này, khiến cho
các loài chúng sanh đã sanh được an trú
hay các loài hữu tình sẽ sanh được hộ trợ
cho sanh. Thế nào là bốn?
1/ Đoàn thực loại thô hay loại tế.
2/ Xúc thực.
3/ Tư niệm thực.
4/ Thức thực.
Từ tập khởi của ái có tập khởi của
thức ăn, từ đoạn diệt của ái có đoạn diệt
của thức ăn. Thánh Đạo Tám Ngành này
là con đường đưa đến đoạn diệt của thức
ăn, tức là: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy,
Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh
Định. Này chư Hiền khi nào Thánh đệ tử
tuệ tri thức ăn như vậy, tuệ tri tập khởi
thức ăn như vậy, tuệ tri đoạn diệt của
thức ăn như vậy, tuệ tri con đường đưa
đến đoạn diệt của thức ăn như vậy, vị ấy
đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch
sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạng tùy
miên “Tôi là”, đoạn trừ vô minh, khiến
minh sanh khởi, diệt tận gốc khổ đau ngay
trong hiện tại. Này chư Hiền, như vậy
Thánh đệ tử có Chánh Tri Kiến, có tri kiến
chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và
thành tựu diệu pháp này”.
Trên đây là lời dạy của đức Phật chúng ta
nên lưu ý câu này “Từ tập khởi của ái có tập
khởi của thức ăn, từ đoạn diệt của ái có
đoạn diệt của thức ăn”. Chúng ta đảo ngược
câu nói này lại, chúng ta có một pháp hành rất
cụ thể “Từ tập khởi của thức ăn, có tập
khởi của ái, từ đoạn diệt thức ăn, có đoạn
diệt của ái”.
Cho nên, người tu học lớp Chánh Mạng
tức là nuôi mạng sống thì không nên tập khởi
theo ăn uống, vì chạy theo ăn uống tức là nuôi Tà Mạng, nuôi Tà Mạng tức là tập khởi thức
ăn, tập khởi thức ăn tức là tập khởi ái dục.
Ngược lại, ăn ngày một bữa để sống, tức là nuôi
Chánh Mạng, còn người tu sĩ mà ăn hai ba bữa
trong một ngày thì đó là nuôi Tà Mạng, nuôi
Tà Mạng thì tâm dục sanh, bằng chứng quý vị
cứ suy ngẫm lời đức Phật dạy có đúng không?
Quý vị nên lấy đời sống của mình làm thí điểm
thì sẽ thấy rất rõ ràng.
Một chúng sanh, phải thọ thực bằng bốn
cách nuôi sống thân mạng như trên đức Phật
đã dạy, nhưng người tu theo Bát Chánh Đạo,
thực hiện lớp Chánh Mạng thì chỉ dùng có
Đoàn thực dù thô hay tế để đủ nuôi sống thân
mạng mà thôi, còn Xúc thực, Tư niệm thực và
Thức thực thì ngăn chặn và đoạn dứt, không
nên dùng ba cách thức ăn uống này, vì ba cách
thức ăn uống này sanh ra dục như lời dạ y ở
trên “ăn uống tập khởi thì dục tập khởi”.
Người tu theo đạo Phật nên lưu ý: chúng
ta là những người đến với đạo Phật là đi tìm sự
giải thoát, làm chủ sự sống chết và luân hồi,
chứ không phải đi tìm ăn uống hay tìm danh
lợi hoặc tìm thần thông phép thuật, tàng hình
biến hóa, v.v.. Chúng ta đến với đạo Phật là đi tìm sự
làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người sanh,
già, bệnh, chết chứ không phải ngồi thiền nhập
định năm bảy ngày hoặc một tháng hai tháng
hoặc chết để lại nhục thân hoặc tiếp tục tái
sanh luân hồi làm Bồ Tát, để rồi vừa sanh ra là
nhớ lại được tiền kiếp của mình. Chúng ta tu
hành không có mục đích đó, nên chúng ta phải
sống đúng những lời dạy trong Bát Chánh Đạo,
vì lẽ đó chúng ta phải sống đúng Chánh Mạng,
ăn ngày một bữa, đủ sống để nuôi thân, ăn
không cần ngon, không cần thích, không cần
tưởng.
Trong đạo Phật dạy có bốn cách nuôi Tà
Mạng, người tu sĩ chân chánh của đạo Phật thì
phải tránh bốn cách nuôi mạng sống không
chân chánh này:
1/ Hạ khẩu thực, tức là đi khất thực phi
thời và ăn uống phi thời, hạng tu sĩ này là
những người nuôi Tà Mạng, nuôi Tà Mạng thì
dù họ có tu pháp môn nào thì cũng tu tà pháp
mà thôi.
Bởi Đạo Đế là con đường chân lý chắc thật
của đạo Phật, nếu người nào tu đúng đường lối
đó thì sẽ có giải thoát ngay liền, thế mà người tu nuôi mạng sống bằng Tà Mạng thì làm sao
tìm giải thoát được.
2/ Ngưỡng khẩu thực, có nghĩa là không
giữ gìn phạm hạnh đi xin ăn, mà lại đi làm
nghề xem thiên văn như: nhìn xem hiện tượng
trăng sao, đoán thời tiết, bói khoa, tiên tri
chuyện quá khứ vị lai cho người, hoặc xem ngày
giờ tốt xấu cất nhà cửa, xây mồ mả, dựng vợ gả
chồng, coi sao hạn để rồi cúng sao giải hạn để
cắt giá ăn tiền hoặc trao đổi sự cúng dường, đó
là hành những nghề mê tín lường gạt người để
nuôi sống Tà Mạng. Trong Trường Bộ Kinh,
đức Phật dạy: “Như sắp đặt ngày lành để
rước dâu hay rể, lựa ngày giờ tốt để hòa
giải, lựa ngày giờ tốt để chia rẽ, lựa ngày
giờ tốt để đòi nợ, lựa ngày giờ tốt để cho
mượn hay tiêu tiền, dùng bùa chú để giúp
người được may mắn, dùng bùa chú để
khiến người bị rủi ro, dùng bùa chú để
phá thai, dùng bùa chú để làm cóng lưỡi,
dùng bùa chú khiến quai hàm không cử
động, dùng bùa chú khiến cho người phải
bỏ tay xuống, dùng bùa chú khiến cho tai
bị điếc, hỏi gương soi, hỏi đồng cốt, hỏi
Thiên Thần để biết họa phước, thờ Mặt
Trời, thờ Thổ Địa, thờ Thần Tài Siri. Còn Sa Môn Gotama tránh xa các tà mạng kể
trên”. (Kinh Phạm Võng trang 27 trong Trường Bộ
Kinh tập 1 thuộc tạng kinh Nikaya).
Đức Phật chấp nhận cho người tu sĩ chỉ có
một cái nghề duy nhất, đó là đi khất thực,
ngoài ra các nghề khác, bất cứ một nghề nào
đức Phật cũng không chấp nhận, vì mọi nghề
khác đều nuôi thân mạng không chân chánh.
Tại sao vậy?
Tại vì tất cả mọi nghề khác làm ra tiền để
sống thì không thể nào xả tâm tham, sân, si
được. Đạo Phật vốn là đạo buông xả sạch vật
chất thế gian, vì thế còn làm ra tiền là còn
nuôi dưỡng tâm tham dục, còn làm tất cả các
nghề khác là còn vật sở hữu, dù là vật sở hữu
có một chút vẫn không xả hết tâm dục và ác
pháp.
Lớp tu tập về Chánh Mạng quý vị nên lưu
ý: nó là một chân lý để tu tập đi đến giải thoát,
thế mà một người đi tìm đạo giải thoát mà tu
hành không đúng pháp tức là sống nuôi Tà
Mạng, không đúng Chánh Mạng thì quý vị
nghĩ sao? Họ có giải thoát được không? Chắc
hẳn là không, phải không quý vị?
Quý vị Tu Định Vô Lậu câu hữu Tứ Diệu
Đế, thì thấy rất rõ sự tu tập có giải thoát ngay liền và sự tu tập không có mệt nhọc, không có
khó khăn gì cả, chỉ cần sống đúng những lời
dạy này, tức là hằng ngày quý vị áp dụng vào
Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ,
Chánh Nghiệp và Chánh Mạng, chỉ trong năm
lớp tu học này thì quý vị cũng cảm thấy tâm
bất động trước các pháp và luôn luôn lúc nào
quý vị cũng sống trong thiện pháp đúng đạo
đức làm người không làm khổ mình, khổ người
và khổ chúng sanh. Đó là chân hạnh phúc của
loài người trên hành tinh này.
Khi giảng Tứ Diệu Đế đến đây, chúng tôi
cảm nhận bốn chân lý của đạo Phật thật là
tuyệt vời, đúng là bốn chân lý của loài người.
Một chương trình giáo dục đào tạo những bậc
vô lậu chứng Thánh quả A La Hán.
Đạo Đế là một pháp môn giải thoát vi
diệu mầu nhiệm, nhưng tại sao các bậc Thầy
Tổ của chúng ta lại không thấy nó là một chân
lý chân thật, một pháp môn giải thoát bốn sự
đau khổ của kiếp người và chấm dứt luân hồi
sanh tử mà không thể có một pháp môn nào
hơn được, một pháp môn sống an lạc thanh
thản và vô sự giải thoát cụ thể, thiết thực, lợi
ích cho mình, cho người rất rõ ràng. Pháp thiết
thực, cụ thể như vậy mà Thầy Tổ của chúng ta lại dạy những pháp mơ hồ, trừu tượng như:
Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông, chúng ta
tu tập chết người mà tâm tham, sân, si vẫn còn
và nhiều khi còn mạnh hơn, những pháp môn
này tu tập mãi chúng ta rơi vào cửa danh, cửa
lợi khiến chúng ta chết chìm trong danh lợi của
thế gian như: ăn uống, quần áo, xe cộ, ti vi, tủ
lạnh, chùa to Phật lớn, v.v..
Chánh Nghiệp của đạo Phật dạy là như
vậy mà Thầy Tổ của chúng ta biến chúng ta
thành những người hành nghề nghiệp ác, mê
tín lừa đảo, lường gạt người, khiến chúng ta
mất cả lương tri Chánh Nghiệp của đạo Phật
thật là đau lòng.
Còn năm lớp trong Bát Chánh Đạo chỉ cho
chúng ta thấy rất rõ ràng các pháp, tức là các
đối tượng đến với chúng ta thì ngay đó, chúng
ta thấy biết liền chúng là ác pháp hay là thiện
pháp, đó là chúng ta đang thấy chúng bằng
Chánh Kiến, nếu Chánh Kiến không nhận ra
chúng thiện hay ác được thì liền ngay đó chúng
ta dùng Chánh Tư Duy, Chánh Tư Duy giúp
chúng ta thông suốt ác pháp hay là thiện pháp.
Khi đã biết rõ ràng, chúng ta mới dùng Chánh
Ngữ thì lời nói của chúng ta không làm khổ
mình, khổ người. Không làm khổ mình, khổ người, tức là chúng ta ly dục ly ác pháp, ly dục
ly ác pháp tức là chúng ta sống đúng Chánh
Nghiệp, sống đúng Chánh Nghiệp tức là hành
động thân, miệng, ý toàn thiện, có nghĩa là
không còn làm khổ mình, khổ người nữa.
Không làm khổ mình, khổ người nữa, tức là
sống đúng Chánh Mạng, sống đúng Chánh
Mạng thì chỉ còn có đi xin ăn mà thôi.
Kết quả của năm lớp này đưa chúng ta đi
đến con đường giải thoát thực tế cụ thể, hiện
tại không có thời gian, nếu chúng ta là những
người đã từng lăn lộn trong cuộc sống bảy nổi
ba chìm thì làm sao không thấy đời là khổ,
thật sự đời người sanh ra là khổ, khổ đủ mọi
mặt và khi nghĩ như vậy chúng ta rất ngao
ngán và chán chường cho kiếp sống của con
người. Con người sanh ra để làm gì? Kết cuộc
rồi cũng chẳng có gì, chỉ là một trò ảo ảnh. Nếu
xét đi xét lại hết một kiếp người chỉ có bon
chen vật lộn với cái ăn, cái mặc, cái ở cuối cùng
cũng chẳng có nghĩa lý gì cả, lớp người trước
chết mất đi, lớp người sau thừa kế cũng như
vậy và cứ như vậy mãi mãi muôn đời muôn
kiếp vô vị chẳng có nghĩa lý gì! Ôi thật là một
trò huyễn mộng của kiếp người.
 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP II
LỚP THỨ SÁU: “CHÁNH TINH TẤN”
ChánhTinh Tấn là lớp thứ sáu trong
Bát Chánh Đạo. Vậy Chánh Tinh Tấn là gì?
Chánh Tinh Tấn là sự siêng năng đúng
với chánh pháp, có những sự siêng năng mà
không đúng chánh pháp như những tu sĩ và cư
sĩ siêng năng “niệm Phật, trì chú, tụng kinh,
bái sám, ngồi thiền, v.v…”, đó không phải là
Chánh Tinh Tấn, mà chính là Tà Tinh Tấn.
Chánh Tinh Tấn mà đức Phật đã xác định
rất rõ ràng là “Tứ Chánh Cần”. Người nà o có
Chánh Tinh Tấn tức là hằng ngày siêng năng
tu tập “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng
trưởng thiện pháp”. Và sự tu tập siêng năng
như vậy sẽ mang lại cho họ ngay liền một cuộc
sống thanh thản, an vui và vô sự.
Cách thức tu tập Tứ Chánh Cần thì quý vị
đã học rồi chúng tôi không cần giảng ra đây
làm mất thì giờ vô ích.
Người mới bắt đầu tu theo đạo Phật thì
phải tu học và sống cho đúng theo năm lớp:
Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ,
Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, nếu đã tu học và sống đúng năm lớp này thì đương nhiên người
đó đang tu tập Tứ Chánh Cần, tức là ngăn ác
diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện
pháp, mà ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện
tăng trưởng thiện, tức là đang thực hiện lớp
thứ sáu trong Bát Chánh Đạo, đó là Chánh
Tinh Tấn. Vậy Chánh Tinh Tấn tức là siêng
năng tu tập, nhưng siêng năng tu tập cái gì?
Siêng năng tu tập ngăn ác diệt ác phá p
tức là siêng năng tu tập: Chánh Kiến, Chánh
Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh
Mạng.
Trong thiền định của đạo Phật thì Chánh
Tinh Tấn là phương pháp đầu tiên để tu tập
thiền định, nghĩa là hằng ngày đi, đứng, nằm,
ngồi, nói nín đều ngăn ác diệt ác pháp và luôn
luôn sống trong thiện pháp, để giúp cho thân
tâm ly dục ly ác pháp, thân tâm ly dục ly ác
pháp, thì thân tâm mới thanh tịnh, thân tâm
có thanh tịnh thì mới bắt đầu có định, chính từ
tâm thanh tịnh này chúng ta mới chính thức đi
vào thiền định. Nếu thân tâm chưa thanh tịnh
mà vội vàng tu thiền định tức là tu sai, tu
không đúng như trong Bát Chánh Đạo đã dạy.
Chánh Tinh Tấn tức là Tứ Chánh Cần, Tứ
Chánh Cần là một danh từ chỉ chung cho cách thức tu tập của năm lớp trong Bát Chánh Đạo
như: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ,
Chánh Nghiệp, Chánh Mạng.
Trong năm lớp này cách thức tu tập theo
Tứ Chánh Cần rất rõ ràng.
Ví dụ: Có một pháp xảy đến, trước tiên
chúng ta thấy pháp đó không làm khổ mình,
khổ người, nhưng muốn chắc ăn hơn chúng ta
tư duy suy xét pháp đó đúng là pháp thiện,
pháp không làm khổ mình, khổ người tức là
chúng ta tu tập lớp Chánh Tư Duy, khi đã tư
duy xong pháp đó chúng mới đưa ra hành động
thân, miệng, ý của mình tức là chúng ta tu tập
Chánh Nghiệp. Hành động Chánh Nghiệp đưa
đến thân tâm của chúng ta được thanh thản, an
lạc và vô sự, thân tâm được thanh thản, an lạc
và vô sự đó là chúng ta tu tập Chánh Mạng.
Như vậy trong sáu lớp của Bát Chánh Đạo
chúng ta tu tập được thân tâm thanh tịnh và
giải thoát hoàn toàn.
Còn hai lớp nữa là Chánh Niệm và Chánh
Định, như vậy có thừa không? Chúng tôi xin
thưa rằng: Đức Phật không bao giờ dạy thừa
mà cũng không dạy thiếu, vì Đạo Đế là một
chân lý trong bốn chân lý thì không lý nào lại
dạy thừa mà cũng không lý nào lại dạy thiếu, vì dạy thiếu người đời sau không biết đâu mà
tu tập, còn dạy thừa tu tập mất thì giờ vô ích.
Lần lượt chúng ta sẽ tu học trọn hai lớp sau
cùng và sẽ thấu rõ tám lớp tu tập của đạo Phật
không thiếu, không thừa.
Sáu lớp này chúng ta chưa thấy đức Phật
dạy ngồi thiền, tụng kinh, lạy sám hối hoặc trì
chú, niệm Phật, cúng bái, tế lễ v.v.. mà chỉ có
dạy chúng ta ngăn ác diệt ác pháp. Lần theo
dấu vết của Bát Chánh Đạo chúng ta mới thấy
rõ Thầy Tổ của chúng ta tu sai pháp, lạc vào
pháp môn của ngoại đạo tà giáo rất rõ ràng.

LỚP THỨ BẢY: “CHÁNH NIỆM”
Chánh Niệm là lớp thứ bảy trong Bát
Chánh Đạo. Vậy Chánh Niệm là gì?
Chánh Niệm là niệm chân chánh không
có tà niệm, niệm thiện, niệm không làm khổ
mình, khổ người và khổ chúng sanh, đức Phật
đã xác định Chánh Niệm là Tứ Niệm Xứ, Tứ
Niệm Xứ là một tên khác của Chánh Niệm, cho

nên người tu Chánh Niệm tức là tu tập Tứ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!