Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

đường về xứ phật - tập 2-11

Niệm Xứ. Người đời sau không hiểu vì chưa có
thực hành tu chứng nên đã biến Tứ Niệm Xứ
thành một loạt thiền ức chế tâm chứ không còn
là Chánh Niệm trong Bát Chánh Đạo.
Cho nên, Chánh Niệm trong Bát Chánh
Đạo mà đức Phật đã xác định là Tứ Niệm Xứ
như trên chúng tôi đã dạy, nếu đức Phật không
xác định như vậy thì chắc chắn Tứ Niệm Xứ là
Tà Niệm. Bởi vì, Chánh Niệm là chân lý của
đạo Phật, mà trong đạo Phật thì không thể có
hai ba chân lý được, chánh là chánh, tà là tà,
không thể cái nào cũng chánh hết cả. Vì thế ,
pháp môn Tứ Niệm Xứ là giáo trình tu học cho
lớp Chánh Niệm của Bát Chánh Đạo. Cho nên
tên Chánh Niệm là tên của lớp học, còn Tứ
Niệm Xứ là những môn học cho lớp học đó, chứ
không phải Chánh Niệm là những môn học
như Tứ Niệm Xứ. Quý vị có hiểu chưa?
Tu Tứ Niệm Xứ thì ai cũng thông suốt
theo kiểu kinh sách phát triển và kiến giải của
các nhà học giả, họ lý giải Tứ Niệm Xứ đủ kiểu
cách nhưng nhìn lại quá trình tu tập của mọi
người thì kết quả sẽ chẳng đi tới đâu cả. Bởi vì
người ta biến Tứ Niệm Xứ thành Tà Niệm, một
loại pháp môn tu hành ức chế tâm, chứ không
còn là Chánh Niệm nữa. Như trong bài trước, đức Phật đã xác định
Chánh Tinh Tấn là Tứ Chánh Cần cũng như
trong bài này Chánh Niệm là Tứ Niệm Xứ, như
vậy trong bốn pháp này chỉ có hai pháp mà
thôi, tuy tên có khác nhưng tu tập và kết quả
đều đẩy lui các chướng ngại pháp (ác pháp).
Theo lời đức Phật dạy trên đây chúng ta phải
hiểu như thế nào?
Theo kinh nghiệm tu hành của chúng tôi
thì Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ là những
pháp môn trong 37 phẩm trợ đạo. Vì thế ,
chúng tôi hiểu rằng đức Phật xác định như vậy
là vì Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ là những
bài pháp tu học cho lớp Chánh Tinh Tấn và lớp
Chánh Niệm, chứ không phải Chánh Tinh Tấn
và Chánh Niệm là môn học như trên đã nói.
Cách thức tu tập Tứ Niệm Xứ tức là trên
thân quán thân tỉnh giác Chánh Niệm để khắc
phục tham ưu ở đời, đó là kinh dạy như vậy
nhưng chúng ta phải hiểu quán là quan sát ,
quán xét trên bốn chỗ thân, thọ tâm, pháp, bốn
chỗ này đức Phật gọi là Tứ Niệm Xứ, quan sát
quán xét trên bốn chỗ này để làm gì?
Trên bốn chỗ này thường có Tà Niệm xảy
ra (ác pháp) vì vậy mà phải quan sát quán xét
cho kỹ để phát hiện ra những Tà kiến, Tà Niệm, phát hiện ra được những Tà Kiến và Tà
Niệm là chúng ta đã đẩy lui chúng ra khỏi tâm
tư mà Đức phật gọi là khắc phục tham ưu.
Công việc tu hành Tứ Niệm Xứ là chỉ có
quan sát bốn vị trí này để diệt trừ các chướng
ngại pháp, cho nên tâm thường ở trong Chánh
Niệm tức là không có Tà Niệm, không có Tà
Niệm tức là không có niệm ác, không có niệm
ác thì thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Quý vị nên lưu ý trong Bát Chánh Đạo có
hai nẻo tu tập xả tâm như:
1/ Chánh Tinh Tấn.
2/ Chánh Niệm.
Chánh Tinh Tấn thì ngăn ác diệt ác pháp,
sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Đây là
pháp tu tập phòng hộ bảo vệ thân tâm không
cho các ác pháp bên ngoài xâm chiếm vào bốn
chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Chánh Tinh Tấn
giống như chiến thuật chiến lược ngăn và đánh
giặc, không cho giặc tấn công vào lãnh thổ.
Học lớp Chánh Niệm là học lớp khắc phục
tham ưu có nghĩa là chiến đấu với nội tâm của
mình khi thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta có
chướng ngại thì dùng Tứ Niệm Xứ đã học trong
lớp Chánh Niệm để đẩy lui ác pháp. Cũng giống như một nhà vua dùng chiến thuật chiến

lược diệt giặc nội chiến để đem lại đất nước
thống nhất, tức là trị nội loạn, còn dùng Tứ
Chánh Cần đã học trong lớp Chánh Tinh Tấn
đem ra diệt giặc ngoại xâm. Qua sự giải thích
này quý vị có thể hiểu rõ ràng là Phật giáo có
một chương trình giáo dục đào tạo những bậc
Thánh vô lậu A La Hán mà chúng tôi cố gắng
giải thích cho quý vị hiểu dễ dàng để không bị
giáo pháp phát triển lừa gạt đánh lận pháp
môn vào pháp môn của Phật giáo.
Người tu tập theo đạo Phật mà không biết
sử dụng Tứ Chánh Cần thì đâu dễ gì ngăn ác
pháp bên ngoài được.
Người tu theo đạo Phật mà không biết sử
dụng Tứ Niệm Xứ thì đâu dễ gì diệt ác pháp
trong nội tâm được.
Tóm lại, tu học lớp Chánh Tinh Tấn là
cách thức ngăn và diệt các ác pháp bên ngoài,
còn tu học lớp Chánh Niệm thì tu học cách
thức đoạn diệt các ác pháp bên trong.
 LỚP THỨ TÁM: “CHÁNH ĐỊNH”
ChánhĐịnh là lớp thứ tám của Bát
Chánh Đạo, đây cũng là lớp cuối cùng của Đạo
Đế. Vậy Chánh Định là gì?
Chánh Định ở đây có nghĩa là ngưng hoạt
động, tịnh chỉ các hành trong thân và tâm. Đức
Phật đã xác định Chánh Định là Bốn Thiền tức
là Tứ Thánh Định. Trong Tứ Thánh Định này
có bốn thiền như:
1/ Sơ Thiền
2/ Nhị Thiền
3/ Tam Thiền
4/ Tứ Thiền
- Muốn nhập Sơ Thiền thì phải tịnh chỉ
ngôn ngữ tức là ly dục ly ác pháp.
- Muốn nhập Nhị Thiền thì phải tịnh chỉ
tầm tứ tức là lìa sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức,
tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
- Muốn nhập Tam Thiền thì phải tịnh chỉ
tưởng thức tức là ly hỷ dục tưởng. - Muốn nhập Tứ Thiền thì phải tịnh chỉ
hơi thở tức là xả lạc , xả khổ, xả niệm thanh
tịnh.
Khi giảng tới đây chúng tôi mới thấy rõ
Đạo Đế của đạo Phật thật là một chân lý giải
thoát thực tế, cụ thể và rất rõ ràng, chỉ còn có
quyết tâm tu tập hay không tu tập mà thôi, đều
là do hành giả chứ không phải do pháp môn
nữa, vì lớp học Chánh Định này chỉ dạy Bốn
Thiền quá rõ ràng, không còn một điểm nào
nghi ngờ lớp học này được nữa và cũng không
còn một Tà Thiền, Tà Định nào lừa đảo, dối gạt
chúng ta được nữa.
Bát Chánh Đạo đã xác định từ cách thức
tu tập xả tâm ly dục ly ác pháp cho đến cách
thức nhập các định cụ thể rõ ràng mà không
còn có một pháp môn của ngoại đạo nào lồng
vào giáo pháp của đạo Phật được, lồng đến đâu
người ta đều thấy bộ mặt giả của nó, vì Bát
Chánh Đạo đã chỉ cho chúng ta biết rất rõ.
Những bài vở học tu ở lớp nào ra lớp nấy, đâu
đó rõ ràng, có mạch lạc, có thứ lớp tứ thấp đến
cao. Cho nên, theo chương trình giáo dục đào
tạo ở trên thì giáo pháp của một số hệ phái
khác không còn gạt được ai nữa. Nếu ai có đủ duyên học tập Tứ Diệu Đế,
hiểu rõ bốn chân lý này thì không còn bị các
pháp thiền của ngoại đạo lừa đảo được. Bởi vì,
đức Phật đã xác định nghĩa lý của thiền định
rất rõ ràng. Từ xưa đến giờ người ta hiểu thiền
định của Phật giáo không đúng.
Đây, chúng ta nghe các nhà học giả xưa
và nay định nghĩa Chánh Định: “Chánh Định
có nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề
chánh đáng, đúng với chân lý có lợi ích cho
mình cho người”. Người theo đúng Chánh Định,
thường tập trung tư tưởng để quan sát những
vấn đề chính sau đây như:
1- Quán thân bất tịnh.
2- Quán từ bi.
3- Quán nhân duyên.
4- Quán giới phân biệt.
5- Quán hơi thở.
Như vậy, ở đây quý vị thấy chữ “định” có
đúng nghĩa hay không?
Đức Phật đã xác định nghĩa của chữ
“định” rất rõ ràng “Tịnh chỉ, ngưng hoạt động”,
còn các nhà học giả định nghĩa chữ “định” bằng
cách “tập trung tư tưởng rồi quán xét các
pháp”. Ở trong Bát Chánh Đạo Chúng ta thấy rất rõ, tập trung tư tưởng quán xét các pháp là
ở các lớp tu tập đầu tiên như: “Chánh Kiến,
Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp,
Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn và Chánh
Niệm, còn Chánh Định thì không còn tư duy
quán xét mà chỉ có tịnh chỉ các hành trong
thân ngũ uẩn.
So sánh như vậy chúng ta thấy rất rõ
ràng, người tu thiền thời nay và thiền của đạo
Phật ngày xưa thì không giống nhau.
Tóm lại, Định Vô Lậu câu hữu với Tứ
Thánh Đế tức là nhờ quán xét tu tập Tứ Thánh
Đế mà thân tâm hoàn toàn vô lậu, vô lậu tức là
giải thoát không còn khổ đau nữa.
Nếu được sanh làm người, được gặp Tứ
Thánh Đế và được tu tập Đạo Đế thì sẽ làm
chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh
luân hồi trong một kiếp này mà thôi.
 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP II
VI- ĐỊNH VƠ LẬU
CÂU HỮU TỨ VƠ LƯỢNG TÂM
Định Vô Lậu câu hữu Tứ Vô Lượng Tâm
tức là dùng Tứ Vô Lượng Tâm tu tập đểâ đạt
được vô lậu. Tứ Vô Lượng Tâm chúng tôi đã
giảng dạy trong Giáo Án Tu Tập Đường Lối của
đạo Phật xin quý vị nghe lại những đoạn băng
này.
Ở đây, chúng tôi xin nhắc sơ lược lại cách
thức dùng Tứ Vô Lượng Tâm để tâm được vô
lậu.
Ví dụ: Có người chửi mắng mình, mình bị
chửi mắng tức là phải có nguyên nhân, như đức
Phật đã dạy mọi nguyên nhân đau khổ đều do
lòng tham dục, tham dục của người hoặc tham
dục của mình. Biết rõ lòng tham dục của mình
tạo ra sự bất mãn, tự ái, tức giận của người, do
đó ta nên xả lòng tham dục của ta không được
ganh đua hơn thiệt với người.
Tự ái, bất mãn, tức giận là sự đau khổ của
người nên ta khởi tâm thương yêu họ và cố
gắng tìm mọi cách giúp đỡ tạo cho họ được an
vui và không còn thù oán ta nữa, cho nên Đức phật dạy: “Lấy ân trả oán chứ đừng lấy oán trả
oán”.
Từ chỗ xả ly tâm tham dục đã giúp chúng
ta an vui biết thương người khiến cho người
không còn khổ, đó là làm mình vui và kẻ khác
vui. Những việc làm như vậy gọi là tu tập từ,
bi, hỷ, xả; tu tập từ, bi, hỷ, xả từ việc lớn đến
việc nhỏ, không bỏ xót một việc nào thì gọi là
tu Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Vô Lượng Tâm còn có
một cái tên nữa là Vô Lượng Tâm Hành, Vô
Lượng Tâm hành sẽ diệt tận khổ đau, tức là
diệt tạân lậu hoặc cho nên gọi là Định Vô Lậu
câu hữu Tứ Vô Lượng Tâm.
Tóm lại, dùng Tứ Vô Lượng Tâm để quét
sạch lậu hoặc, khiến cho tâm bất động trước
các pháp và các cảm thọ.
 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP II
VII- ĐỊNH VƠ LẬU
CÂU HỮU TỨ BẤT HOẠI TỊNH
Tứ Bất Hoại Tịnh chúng tôi đã giảng dạy
trong Giáo Án Tu Tập Đường Lối của đạo Phật
xin quý vị vui lòng nghe lại đoạn băng đó.
Tứ Bất Hoại Tịnh là một pháp trợ đạo cho
Đạo Đế, là một giáo trình tu học trong lớp
Chánh Kiến nó cũng là một pháp môn trong 37
phẩm trợ đạo, nó lấy Tứ Niệm Xứ tức là lấy
thân, thọ, tâm và pháp mà niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng, và niệm Giới, nó thuộc về
Tín Lực tức là nó lấy lòng tin mà tu. Vì tin
Phật nên phải sống như Phật, vì tin Pháp nên
Pháp dạy sao tu tập không sai, vì tin Tăng nên
sống đúng như chư Tăng, vì tin Giới nên sống
không phạm Giới. Phần nhiều tu sĩ và cư sĩ
ngày nay họ không tin Phật, Pháp, Tăng và
Giới vì thế họ tu theo đạo Phật mà sống không
giống Phật, không như pháp đã dạy, không
giống hạnh các bậc Thánh Tăng, thường phạm
giới, phá giới nên thành sống theo tà đạo.
Mục đích của pháp môn này là sống như
thế nào cho đúng và giống như Phật, như Pháp, như chúng Thánh Tăng, như Giới Luật đã dạy
không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì
thân tâm mới được gọi là Chánh Kiến, mới
được gọi là thanh tịnh.
Đó là một pháp độc lập tự nơi nó khiến
cho thân tâm ly dục ly ác pháp hay nói một
cách khác là pháp này sẽ giúp cho thân tâm
thanh tịnh và đạt được kết quả tâm bất động
trước các pháp ác.
Người tu Tứ Bất Hoại Tịnh tuy mới nhìn
vào thì không hiểu pháp này có sự liên hệ chặt
chẽ với Bát Chánh Đạo, nhưng chính người nào
có lòng tin Phật, Pháp, Tăng và Giới thì tất cả
mọi hành động tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh tức là
mọi hành động tu tập lớp Chánh Kiến trong
Bát Chánh Đạo chứ không phải ngoài pháp
môn Tứ Bất Hoại Tịnh mà còn có những pháp
môn nào khác hơn, vì mỗi hành động trong Bát
Chánh Đạo là mỗi hành động của Phật, Pháp,
Tăng và Giới Luật, nó luôn luôn tu học đầy đủ
trong các lớp: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy,
Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng,
Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.
Cho nên pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh là
một pháp môn cần phải học hiểu cho thông
suốt như đức Phật đã dạy: “Những gì thông hiểu cần phải thông hiểu”. Nói đến người tu
hành theo Phật giáo mà không thông hiểu
pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh, đó là một điều
thiếu sót rất lớn cho con đường tu tập để đạt
đến sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm
dứt luân hồi.

VIII- ĐỊNH VƠ LẬU
CÂU HỮU ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ
ĐịnhNiệm Hơi Thở là một loại định
ngăn các pháp ác tuyệt vời, khiến cho tâm
không còn phiền não, đau khổ, phiền toái, bất
toại nguyện hoặc giận hờn, thương ghét, lo sợ,
v.v… Nó khiến cho tâm vô lậu hoàn toàn nên
gọi Định Vô Lậu câu hữu với hơi thở.
Định Niệm Hơi Thở chúng tôi đã giảng
xong, trong chương trình Giáo Án Đường Lối
Tu Tập của đạo Phật, xin quý vị nghe lại đoạn
băng đó.
Chúng tôi xin tóm lượ c lại, để quý vị có
một khái niệm về Định Vô Lậu câu hữu Định Niệm Hơi Thở, như trong kinh Xuất Tức Nhập
Tức dạy:
“Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly
tham tôi biết tôi thở ra”.
“Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly
sân tôi biết tôi thở ra”.
“Quán ly si tôi biết tôi hít vô, quán ly si
tôi biết tôi thở ra”.
Vậy tham, sân, si là gì?
Tham, sân, si là lậu hoặc, nương vàohơi
thở để lìa xa tham, sân, si tức là nương vàohơi
thở để xa lìa lậu hoặc, vì thế do sự tu tậphai
pháp kết hợp lại làm thành một pháp, nêngọi
là câu hữu.

IX- ĐỊNH VƠ LẬU
CÂU HỮU PHÁP BẤT TỊNH
Pháp Bất Tịnh là gì?
Pháp bất tịnh là pháp cấu uế, ô trược, bẩn
thỉu, hôi thúi, v.v.. Người chấp thân là ngã quá nặng, tâm
ham mê sắc dục không bỏ được nên phải dùng
những đề mục thiền quán như:
1- Quán tử thi.
2- Quán tử thi sình hôi thúi.
3- Quán xương trắng.
4- Quán sự bài tiết bất tịnh bên ngoài
thân.
5- Quán sự bất tịnh uế trược trong nội
thân.
Nhờ quán tưởng như vậy nên diệt được
ngã, xả được tâm sắc dục. Nếu là một người có
chí bền tâm tu tập quán tưởng bất tịnh thì sẽ
xa lìa được những lậu hoặc này, cho nên Định
Vô Lậu câu hữu với Pháp Bất Tịnh là vậy.

X- ĐỊNH VƠ LẬU CÂU
HỮU THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
Thập Nhị Nhân Duyên là gì?
Thập Nhị Nhân Duyên là 12 duyên như: 1/ Duyên Vô Minh
2/ Duyên Hành
3/ Duyên Thức
4/ Duyên Danh Sắc
5/ Duyên Lục Nhập
6/ Duyên Xúc
7/ Duyên Thọ
8/ Duyên Ái
9/ Duyên Hữu
10/ Duyên Thủ
11/ Duyên Sanh
12/ Duyên Bệnh Tử Ưu Bi.
Mười hai duyên này, kết hợïp lại thành
một thế giới khổ đau, do duyên vô minh chỉ
đạo, nói một cách khác cho dễ hiểu hơn, là một
môi trường sống có 12 duyên hợp lại tạo thành
một thế giới khổ đau của muôn loài sanh linh
trên hành tinh này.
Quán 12 nhân duyên này, để phá tan cái
thế giới đau khổ của chúng sanh nói chung và
nói riêng là diệt lậu hoặc của con người. Trong
Giáo Án Đường Lối Tu Tập của đạo Phật chúng
tôi đã giảng trạch đầy đủ, ở đây xin giảng để đi vào thực hành ngắn gọn, nhưng sẽ giúp cho
chúng ta biết được lộ trình đi đúng vào quỹ đạo
giải thoát của đạo Phật qua 12 duyên này.
Ở đây, chúng tôi xin nhắc nhở thêm, trong
12 nhân duyên, Vô Minh là duyên thứ nhất.
Vậy muốn phá Vô Minh thì phải có Minh,
muốn có Minh thì phải đi ngõ nào vào đây?
Nếu lấy sự học làm Minh thì đó là sở tri
chướng, mà sở tri chướng thì không thể nào là
Minh được.
Nếu lấy chỗ thiền định để phát triển trí
tuệ làm Minh thì đó là không đúng, vì tâm
chưa ly dục ly ác pháp làm sao có thiền định
được, còn nếu ức chế tâm để hết vọng tưởng gọi
đó là thiền định thì sai, đó chẳng qua chỉ là
một trạng thái ức chế ý thức ngưng hoạt động
để tưởng thức hoạt động và sự phát triển hiểu
biết do ức chế đó gọi là tưởng tuệ, tưởng tuệ
không thể nào gọi là Minh được. Trong kinh
Sonananda đức Phật đã xác định trí tuệ rất rõ
ràng: “Trí tuệ ở đâu là giới luật ở đó, giới
luật ở đâu là trí tuệ ở đó. Trí tuệ làm
thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh
tịnh trí tuệ”. Lời dạy trên đây rất rõ ràng.
Trí tuệ là giới luật, giới luật là trí tuệ, như
vậy chúng ta chọn giới luật làm trí tuệ, chọn giới luật làm trí tuệ tức là chọn đời sống phạm
hạnh, chọn đời sống phạm hạnh thì phải buông
xả tất cả, buông xả tất cả thì duyên sanh
không còn; duyên Sanh không còn thì duyên
Thủ diệt, duyên Thủ diệt thì duyên Hữu diệt;
duyên Hữu diệt thì duyên Ái diệt; duyên Ái diệt
thì duyên Thọ diệt; duyên Thọ diệt thì duyên
Xúc diệt; duyên Xúc diệt thì duyên Lục Nhập
diệt; duyên Lục Nhập diệt thì duyên Danh Sắc
diệt; duyên Danh Sắc diệt thì duyên Thức diệt;
duyên Thức diệt thì duyên Hành diệt; duyên
Hành diệt thì duyên Vô Minh diệt; duyên Vô
Minh diệt thì Minh sanh.
Như vậy, muốn có Minh thì chúng ta bắt
đầu vào giới luật, sống đúng giới luật chứ
không thể ngoài giới luật đi tìm Minh mà có
được, cho nên đi tìm Minh bằng sự học, bằng
thiền định thì không thể có được.
Nhờ có Minh mà chúng ta nhập được
Chánh Định, nhờ có Chánh Định chúng ta mới
thực hiện được Tam Minh, nhờ có Tam Minh
chúng ta mới quét sạch lậu hoặc, do đó mới gọi
là Định Vô Lậu câu hữu Thập Nhị Nhân
Duyên.
 TU BAO LÂU NỮA MỚI DIỆT ĐƯỢC TẦM TỨ
Hỏi:Kính thưa Thầy! Con tu như vậy
còn bao lâu nữa mới diệt được tầm và tứ ? Vậy
mong Thầy chỉ dạy.
Đáp: Qua sự trình bày tu tập “Định Niệm
Hơi Thở của con”. Có lúc con nhắc một, hai câu
đầu rồi nương theo hơi thở cho đến hết 30 phút
đó là con đã diệt tầm và tứ trong con rồi,
nhưng con phải hiểu đó là con ức chế tâm diệt
tầm tứ chứ chưa phải diệt tầm tứ chân thật. Vì
ức chế tâm diệt tầm tứ như vậy thì con sẽ rơi
vào định tưởng và con sẽ gặp các trạng thái hỷ
tưởng xuất hiện rởn ốc, rùn mình, cảm giác
mát mẻ, xây xẩm chút ít, thấy trong mình
nặng nặng, chảy nước mắt, thấy màu đỏ, thấy
ánh sáng, cảm giác rát rát ở thân, nhột nhộ t
như ruồi hay kiến bu, kiến bò ở mặt, ở tay ở
lưng, nhưng khi rờ phủi thì không có gì hết, có
khi bị mất ngủ, có khi thân mình lúc lắc,
nghiêng qua nghiêng lại, có khi hất tay hất
chân như lên đồng, có khi thấy thân mình
đang ngồi bay lên không, có khi gục tới gục lui,
có khi xây qua xây lại, có khi há miệng, có khi
miệng nói lầm thầm, v.v.. Diệt tầm tứ bằng cách ức chế tâm thì rất
là nguy hiểm, tất cả những trạng thái trên đây
đều do thiền ức chế tâm mà ra, những người
hành thiền không đúng đường lối của đức Phật
đã dạy thì phần đông đều rơi vào những trạng
thái ma tưởng này, cho nên trong thời đại này
người tu thì đông nhưng chẳng có người nào tu
tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết được, tâm
luôn luôn còn tham, sân, si, phiền não, chỉ vì
cứ lo tu tập cho hết vọng tưởng mà không lo xả
tâm tham, sân, si, cứ thích ngồi cho nhiều giờ
kéo dài trạng thái không vọng tưởng nhưng có
ích lợi gì cho mình cho người, tâm nào cũng
còn tật nấy. Ngồi cho nhiều diệt tầm tứ sạch
mà giới luật chẳng ra gì, còn đắm chìm trong
dục lạc ăn ngủ, còn thọ những bệnh tật khổ đau
sống bằng thuốc bằng gạo lức muối mè hay
phải nhịn ăn để trị bệnh. Tu mà không có pháp
làm chủ sự sống chết, cứ ngồi thiền cho nhiều ,
tầm tứ không có, nhưng sống chết không làm
chủ được thì ngồi nhiều và diệt tầm tứ có ích
lợi gì. Tu như vậy cuộc sống không làm chủ
được tâm, tâm luôn luôn bị động trước các
chướng ngại pháp, thì tu diệt tầm tứ để làm gì?
Cho nên, con đừng lo diệt tầm tứ mà hãy
lo xả tâm và nhập cho được Bất Động Tâm Định, hãy cố gắng hằng ngày hướng tâm: “tâm
như cục đất” để tâm con trở thành cục đất thật
sự, thì lúc bây giờ con đã nhập được Bất Động
Tâm Định, nhập được Bất Động Tâm Định con
sẽ đạt được lợi ích rất lớn không làm khổ
mình, khổ người, tâm hồn con lúc nào cũng
thanh thản, an lạc và vô sự, đó là một hạnh
phúc rất lớn cho con, con hãy cố và cố gắng
hơn thì sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết sẽ đến
với con trước mắt và lúc chết con biết nơi con
về.

LÀM VIỆC BIẾT LÀM VIỆC
CĨ XẢ TÂM KHƠNG?
Hỏi:Kính thưa Thầy! Tại sao vừa làm
việc, vừa suy tư để buông xả tâm mình, nhưng
con lại tu không được hay chính hành động con
làm là buông xả chăng? Có đúng như vậy
không?
Đáp: Vừa làm vừa suy tư để buông xả tâm
mình là tu Định Vô Lậu câu hữu Thân Hành Niệm tức là tỉnh thức trong hành động làm
việc để xả tâm.
Vừa làm, vừa không suy tư chỉ biết hành
động đang làm là tu Chánh Niệm Tỉnh Giác
Định. Chính hành động đang làm mà biết đang
làm là tỉnh thức, chớ không phải buông xả, có
tỉnh thức mới biết cái đúng cái sai, mới biết
nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng mà buông xả.
Buông xả là tu Định Vô Lậu.
Tâm tỉnh thức trong hành động làm, tức
là tâm biết mình đang làm công việc đó, không
có niệm khởi hoặc tùy miên trong niệm hoặc vô
ký tức là quên, quên hành động làm, thì đó mới
chỉ là tỉnh thức, chứ chưa xả niệm. Con nên
phân biệt Định Vô Lậu và Định Chánh Niệm
Tỉnh Giác (Thân Hành Niệm) khác nhau nhưng
rất hỗ trợ cho nhau trên đường tu tập giải
thoát, nếu biết kết hợp lại.
Con nên phân biệt khi làm việc biết mình
làm việc nhưng phải nhớ dùng pháp hướng tâm
như lý tác ý: “Tâm như đất, không còn tham,
sân, si nữa; tham, sân, si là khổ đau là ác pháp
phải viễn ly phải xa lìa, phải đoạn diệt không
được để trong tâm nữa, nếu không xa lìa các ác
pháp đó tức là ngu si”. Vừa làm việc, vừa tỉnh
thức trong động, vừa làm việc cũng vừa thỉnh thoảng hướng tâm, nhắc tâm; hướng tâm, nhắc
tâm càng nhiều càng tốt trong việc Chánh
Niệm xả tâm.
Mục đích tu hành xả tâm tham, sân, si là
phải tỉnh thức để xả tâm nhờ pháp hướng, nếu
tâm đang thanh thản, an lạc và vô sự thì pháp
hướng là một vai chánh trong sự tu tập xả tâm
và ác pháp, chứ không phải tâm con biết hành
động làm là buông xả mà chính pháp hướng
tâm là buông xả. Còn khi tâm có niệm chướng
ngại pháp khởi sanh thì con phải tỉnh ngay
niệm khởi đó để dùng Định Vô Lậu quán xét
cho thấu suốt niệm khởi đó để hoàn toàn đẩy
lui khỏi tâm con thì mới gọi là xả tâm.

KHƠNG CHỐNG ĐỐI VA CHẠM
Hỏi:Kính thưa Thầy, câu “không chống
đối va chạm”, va chạm là như thế nào? Nếu
sống riêng một mình, không tiếp xúc, không va
chạm thì tu hành có được không? Trong cảnh động muốn tránh va chạm thì
phải sống như thế nào? Có phải giữ gìn thân,
khẩu, ý hay không?
Đáp: “Không chống đối va chạm” không
có nghĩa là sống một mình.
Không chống đối tức là nhẫn nhục; không
va chạm tức là tùy thuận.
Sống chung đụng với nhau biết nhẫn nhục,
tùy thuận là sống không chống đối va chạm.
Giữ gìn thân, khẩu, ý tức là tu tập hạnh
nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng.
Nếu sống riêng một mình không chống
đối, không va chạm với ai thì tu hành dễ dàng
không khó, nhưng phải hiểu rõ các pháp tu và
còn phải biết cách tu tập cho đúng pháp, chỉ
cầân tu sai một tí là lọt vào thiền ức chế tâm rất
là nguy hiểm, hoặc sống không đúng cách cũng
có thể rơi vào sự ức chế tâm.
Cho nên, sự tu hành có va chạm, có chống
đối thì ít bị ức chế tâm. Tại sao vậy?
Tại vì có đối tượng nên thấy được tâm
mình còn tức giận hay hết tức giận rõ ràng.
Nếu thấy được tâm mình còn phiền não giậân
hờn hay tức tối thì cố gắng xả ly đẩy lui các
chướng ngại pháp đó để tâm được thanh thản, an lạc, còn nếu không đẩy lui các chướng ngại
pháp đó mà cứ để trong tâm ôm ấp, đó chỉ là
những người chưa biết cách tu, người chưa học
đạo đức làm người, người còn vô minh, ngu si,
dại dột, cứ để ôm ấp sự đau khổ đó trong lòng,
người không trí tuệ thường sống ngược lại với
người biết tu, người có trí tuệ đạo đức nhân bản
nhân quả, họ chẳng ngu gì mà để ôm ấp sự đau
khổ trong tâm như vậy, họ luôn luôn sáng suốt
và nhất định dù một giây một phút cũng không
để ác pháp trong tâm.
Trong cảnh động muốn tránh va chạm thì
phải sống phòng hộ khẩu hành, nghĩa là phải
giữ gìn miệng lưỡi, không được nói chuyện
phiếm, chuyện tào lao, chuyện người khác,
không có ý kiến trong tất cả mọi việc, ai làm gì
mặc họ, mình chỉ biết giữ gìn tâm và ý của
mình lúc nào cũng thanh thản, an lạc, vô sự,
ngoài chuyện thanh thản, an lạc của tâm, nhất
định mình không để ý chuyện gì khác như lời
đức Phật đã dạy: “Chuyện mình, mình biết
chuyện người, người hay”. Biết chuyện người
thì tâm bất an tức là tâm phóng dật, biết
chuyện mình là để xả tâm ly dục ly ác pháp, ly
dục ly ác pháp là tâm thanh thản, an lạc, đó là
một trạng thái tâm giải thoát không còn khổ đau tức là tâm không phóng dật, tâm không
phóng dật tức là tâm thiền định.
Người tu hành mà sống đúng cách, biết
phòng hộ sáu căn, giữ gìn tâm ý không tham
dự vào chuyện của ai cả thì người ấy sống độc
cư trọn vẹn. Sống độc cư mà không ức chế tâm
đó là đời sống của con tê ngưu một sừng. Suốt
ngày gặp mọi người mà không ai tác động được
vào tâm tư của mình đó là sống độc cư. Có
nhiều người hiểu độc cư là trốn tránh né mọi
người, riêng ở trong cảnh một mình không dám
gặp ai hết như lúc đức Phật tu tập hạnh độc cư
của ngoại đạo. Ngài ở trong một khu rừng
hoang vắng hễ thấy bóng dáng có người là
Ngài trốn chạy, chưa từng để cho ai gặp mình
cả, đó là độc cư ức chế tâm.
Tóm lại, sống chung với mọi người nhưng
không nói chuyện với ai cả, ai hỏi thì trả lời,
không hỏi thì không kiếm chuyện nói, sống mà
cứ lo giữ gìn tâm mình thanh thản, an lạc và
vô sự, đó là độc cư, độc bộ, độc hành, đó là im
lặng như Thánh. Suốt ngày sống với mọi người
mà chỉ có một mình, sống như vậy không bao
giờ có va chạm, đó là sống phòng hộ sáu căn
giữ gìn tâm ý. Người sống được như vậy thì sự
tu hành không bao lâu sẽ thành đạt, nghĩa là người ấy sẽ đạt được Thiền Định và Tam Minh
một cách dễ dàng không mấy khó khăn và mệt
nhọc.
Bởi vậy, người biết sống độc cư như vậy là
người tu đúng pháp, không bao giờ sợ sai pháp.
Sống độc cư được như vậy tức là đã biết ôm
pháp tu hành, lúc nào cũng không lìa pháp, vì
thế tâm hồn họ thanh thản, an lạc và vô sự, đó
là một trạng thái giải thoát của người tu theo
đạo Phật.

GIÁO ÁN TU TẬP QUÁ NHIỀU, KHƠNG
BIẾT PHÁP NÀO TU CHO KẾT QUẢ?
Hỏi:Kính thưa Thầy, giáo án tu tập thì
mênh mông, như hiện nay con thực hiện như
thế nào để đạt kết quả viên mãn trong cảnh
động.
Đáp: Trong cảnh động con nên tu tập,
nhưng cũng tùy theo đặc tướng của con hợp với
pháp nào nên lấy pháp ấy tu hành. Nghĩa là
pháp ấy có kết quả giải thoát rõ ràng đối với
bản thân của mình như: 1. Phòng Hộ Sáu Căn
2. Tứ Vô Lượng Tâm
3. Tứ Chánh Cần
4. Tứ Bất Hoại Tịnh
5. Thiểu Dục Tri Túc
6. Chánh Niệm Tỉnh Thức
7. Định Niệm Hơi Thở
8. Định Vô Lậu
9. Định Sáng Suốt
10. Trạch Pháp
11. Hướng Pháp
12. Quán Pháp
13. Đoạn Dứt Pháp
14. Viễn Ly Pháp
15. Tùy Pháp
16. Nhẫn Pháp
17. Tịnh Chỉ Pháp
18. Ức Chế Pháp
19. Xả Pháp
20. Từ Khước Pháp. Trong hai mươi pháp này Thầy sẽ chọn
cho con để con tu tập cho dễ dàng, về cuộc sống
thì con nên chọn bốn pháp như:
1. Phòng Hộ.
2. Thiểu Dục Tri Túc.
3. Nhẫn Pháp.
4. Từ Khước.
Về các pháp tu tập thì con nên chọn sáu
pháp như:
1. Tứ Chánh Cần.
2. Chánh Niệm Tỉnh Giác.
3. Định Niệm Hơi Thở.
4. Định Vô Lậu.
5. Định Sáng Suốt.
6. Pháp Hướng Tâm.
Trong sáu pháp này Thầy sẽ chọn gọn lại
cho con để con có một pháp duy nhất tu tập
hằng ngày đêm, đó là Định Vô Lậu câu hữu với
Thân Hành Niệm nội ngoại trên bốn chỗ thân,
thọ, tâm và pháp để ngăn ác diệt ác pháp và
không cho tâm con dính mắc vào các pháp ấy.
Nếu con quyết tâm tu hành để cầu giải

thoát thì các pháp duy nhất này sẽ giúp con

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!