Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

đường về xứ phật - tập 2-8

ý muốn, nhưng đến giờ phút cuối cùng không
thành công thì sự đau khổ không biết là dường
nào.
Ví dụ: Như người buôn bán lỗ lã, người
nông phu làm mùa thất bại, người học trò thi
rớt, v.v.. thì khổ sở và cay đắng biết là bao
nhiêu, nói sao cho cùng.
“Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng nám mùi dâu!”
(Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều).
Muốn mau làm giàu, nhiều người tìm mọi
cách gian xảo lừa đảo lường gạt người, nhưng
mưu gian chước lận, ăn lo hối lộ đổ bể, tài sản
bị tịch thu, bản thân bị tù tội, gia quyến bị
nhục nhã xấu hổ, không dám nhìn mọi người,
thật đau đớn và khổ sở.
Trong cuộc đời nói về tình ái, biết bao
nhiêu người tình duyên trắc trở, đưa đến sự
quyên sinh vì thất vọng thất tình. Trên đây là
những sự cầu mong mà chẳng đạt được thành
ra bao nhiêu thứ khổ.
7/ Oán tằng hội khổ: “Thấy mặt kẻ thù
như kim đâm vào mắt; ở chung với người
nghịch như nếm mật nằm gai”. Lời nói này
không sai, vì gần những người thù oán thì tâm mình khổ sở vô cùng, cho nên kinh gọi là oán
tằng hội khổ rất đúng vậy.
Người trong một gia đình anh em dòng họ
quyến thuộc vì tranh chấp một lí do nào đó,
sanh ra bất hòa với nhau, khi nhìn thấy mặt
nhau cũng là rất khó chịu, hằng ngày phải thấy
mặt nhau, vì là tình thân quyến thuộc, ghét
không ưa mà cứ gặp nhau là rất khổ tâm, muốn
tránh mà tránh không được, ở gần có ngày
phải đụng chạm to tiếng và có thể xảy ra án
mạng, tù tội hoặc đi nằm nhà thương, bởi vì
thù oán nhau thì phải có ngày đi đến chỗ khổ
đau lớn, đó là Oán tằng hội khổ.
8/ Ngũ ấm xí thạnh khổ: Thân ngũ ấm
của chúng ta gồm có: sắc ấm, thọ ấm, tưởng
ấm, hành ấm và thức ấm, năm ấm ấy luôn luôn
sống trong động theo luật chi phối của nhân
quả. Vả lại, năm ấm này được sanh ra từ vô
minh, nên mỗi sự hoạt động của nó thúc giục
theo lòng ham muốn nên tạo ra biết bao nhiêu
điều ác khiến cho mình khổ và người khác khổ
vô lượng vô biên.
Thân ngũ ấm bị luật vô thường chi phối,
từng giây từng phút khiến cho sự thay đổi liên
tục, từ trẻ đến già, từ mạnh đến ốm, từ bệnh đến chết, luôn luôn lúc nào cũng làm cho con
người khổ sở buồn phiền, lo lắng, sợ hãi.
Sáu trần lôi cuốn, thất tình lục dục đắm
say, khiến cho thân tâm khổ lụy vô cùng tận.
Vọng tưởng điên đảo, chấp trước dính mắc
đủ thứ vật chất thế gian, nên chấp có ta, của ta
và bản ngã của ta, do đó mới thấy còn , mất,
khôn, dại, chấp có, chấp không, vì vậy mà sanh
ra rầu lo, đau khổ buồn phiền.
Thân ngũ ấm đi, đứng, ngồ i, nằm nhiều
quá, chịu cũng không nổi, vì mỏi mệt tê đau
nhức, cho nên phải có lúc đi, lúc nằm, lúc đứng,
lúc ngồi, thân ngũ ấm bắt buộc phải động đậy
liên tục như vậy thì mới thấy dễ chịu, cái dễ
chịu của sự động thì làm sao mà được an vui,
thanh tịnh chân thật? Nên đó là những sự khổ
đau của thân ngũ ấm.

Thân ngũ ấm là một khối năm duyên hợp
lại trong môi trường sống, nhưng hành động
đều do nghiệp lực nhân quả tạo tác nên mỗi
con người sanh ra, đều phải chịu theo qui luật
nhân quả thiện ác khổ vui mà thọ hưởng hoặc
chịu lấy sự khổ vui nhiều ít là tùy theo những
hành động thiện ác, chứ không có một kẻ nào
ban phước giáng họa cho loài người được. Chỉ vì sự mê lầm chấp đắm vật chất, cho
rằng người nào có nhiều vật chất là hạnh phúc
nên mỗi hành động luôn luôn kèm theo sự ích
kỉ, nhỏ hẹp cho cá nhân của mình, thường
không những làm khổ người mà còn làm khổ
mình.
Đức Phật dạy: “là con người chứ không
phải là con thú vật thì phải làm thiện,
làm thiện không có nghĩa làm việc từ
thiện, mà làm việc thiện ở đây có nghĩa là
không làm khổ mình, khổ người”, như vậy
các hành trong thân ngũ ấm mới không còn
khổ đau nữa, chứ làm việc từ thiện theo kiểu hệ
phái phát triển phước đâu thì không thấy, mà
bị kẻ khác lợi dụng thì có, cho nên, tai họa
bệnh tật khổ đau thường viếng thăm những
người làm thiện này.
Trong kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy:
“Các hành là vô thường, là khổ”. Nhưng
chúng ta học đạo đức nhân bản – nhân quả
không làm khổ mình, khổ người của đạo Phật
nên các hành đều thực hiện nhân quả thiện,
mà các hành đã làm thiện thì quả là phước mà
quả phước thì thân con người thanh thản, an
lạc và vô sự, thân tâm thanh thản, an lạc và vô
sự đó là thân tâm thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh tức là thiền định, thiền định thì thân tâm
bất động, thân tâm bất động tức là các hành
ngưng hoạt động, các hành ngưng hoạt động
tức là chấm dứt sự vô thường và khổ đau, chấm
dứt sự vô thường và khổ đau là phước vô lậu,
là cảnh giới Niết Bàn tại thế gian.
Tóm lại, người tu Định Vô Lậu câu hữu
với Khổ Đế tức là quán xét ba khổ: khổ khổ,
hoại khổ, hành khổ để chúng ta rõ thấu và cố
gắng tránh không làm khổ mình, khổ người và
điều đó khiến cho thân tâm chúng ta vô lậu,
mà mục đích của đạo Phật là phải đạt tâm vô
lậu.

CHÂN LÝ THỨ HAI “TẬP ĐẾ”
Định Vô Lậu câu hữu với Tập Đế, tức là
chúng ta quán xét nguyên nhân sanh khởi sự
khổ đau của con người để thấu rõ nó, có thấu
rõ nó, chúng ta mới cố gắng ngăn chặn diệt trừ
và đoạn dứt.
Vậy Tập Đế là gì?
Chữ Tập có nghĩa là nơi tập hợp mọi sự
đau khổ, phiền não của con người. Tập còn có nghĩa là nơi chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày
một nhiều hơn.
Chữ Đế có nghĩa là sự thật, đúng đắn
không sai. Tập Đế là một nguyên nhân của mọi
sự khổ đau đã chứa nhóm và tích trữ lâu đời
nhiều kiếp trong mỗi chúng sanh. Nói một cách
khác hơn đó là cội gốc sanh tử luân hồi của loài
người.
Cội nguồn sanh ra mọi sự đau khổ phiền
não của con người gồm có 10 phiền não gốc là:
1/ Tham: Có nghĩa là lòng tham lam như
Hoà Thượng Thiện Hoa dạy: “Tánh tham có
động lực bắt ta phải dòm ngó, theo dõi những
cái gì nó ưa thích, như tiền tài, danh vọng,
miếng ăn, chỗ ở, v.v.. rồi nó xui ta lập mưu
nầy, chước nọ để tìm kiếm cho được những thứ
ấy. Điều tai hại nhất là lòng tham không đáy,
thâu góp bao nhiêu cũng không vừa; được một
muốn có mười, được mười muốn có trăm. Tham
cho mình chưa đủ, và còn tham cho bà con
quyến thuộc và xứ sở của mình. Cũng vì tham
mà ăn không ngon, ngủ không yên; cũng vì
tham mà cha mẹ vợ con xung đột; cũng vì tham
mà bè bạn chia lìa; cũng vì tham mà đồng bào
trở lại xung đột, xâu xé nhau; cũng vì tham mà
chiến tranh tiếp diễn, giết hại không biết bao sanh linh. Tóm lại, cũng vì tham mà nhân loại
và chúng sanh chịu không biết bao nhiêu điều
thống khổ”.
Lòng tham đã mang đến không riêng cho
chúng ta khổ mà còn cả mọi người, không
những trong quá khứ, hiện tại mà còn có thể
kéo dài trong tương lai nữa.
2/ Sân: Có nghĩa là nóng giận, Hoà
Thượng Thiện Hoa dạy: “Khi gặp những cảnh
trái ý nghịch lòng, như lòng tham không được
toại nguyện, thì sân nổi lên, như một ngọn lửa
dữ đốt cháy lòng ta. Thế là mặt mày đỏ tía hay
tái xanh, bộ dạng thô bỉ, nói năng hung dữ, có
khi dùng đến võ lực hay vũ khí để hạ kẻ làm
trái ý, phật lòng mình. Vì nóng giận mà cha
mẹ, vợ con, anh em xa lìa, bạn bè ly tán; vì
nóng giận mà mọi người trở nên thù địch,
nhân loại đua nhau ra chiến trường; vì nóng
giận mà kẻ bị tàn tật, người vào khám đường,
kẻ mất địa vị, người tan sự nghiệp. Kinh dạy:
“Nhất niệm tâm sân khởi, bách vạn chướng
môn khai” có nghĩa là một niệm nóng giận nổi
lên thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở
ra. Sách xưa dạy: “Nhất tinh chi hỏa, năng
thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn”, có nghĩa
là một đóm lửa giận, có thể thiêu đốt sạch muôn mẫu rừng công đức. Thật vậy, lửa sân
hận đã bừng cháy lên giữa lòng nhân loại và
đã đốt thiêu không biết bao nhiêu công lao, sự
nghiệp mà con người đã tố n biết bao nhiêu mồi
hôi nước mắt mới tạo ra được”.
Đúng vậy những lời dạy trên đây rất thực
tế và cụ thể để răn nhắc cho những ai còn
mang đầy ắp tâm sân hận là một nỗi khổ đau
tận cùng của kiếp người khi tâm sâ n khởi ngút
ngàn.
3/ Si: Có nghĩa là si mê, mờ ám, biết
không rõ, không chính xác, không đúng, Hoà
Thượng Thiện Hoa dạy: “Si như là một tấm
màn dày đặc, đen tối trùm lên trí tuệ của ta,
làm cho ta không thể nhìn thấy được sự thật,
phán đoán được cái hay cái dở, cái tốt, cái xấu.
Do đó ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi,
làm hại mình hại người mà không hay. Vì si
mà lòng tham trở thành không đáy, bởi vì nếu
người sáng suốt thấy cái tai hại của lòng tham,
thì người ta đã kềm hãm được một phần nào
tánh tham. Vì ngu si mà lửa giận bùng cháy;
nếu người sáng suốt biết cái tai hại của lửa sân
thì không để cho nó hoành hành như thế.
Người xưa dạy: “Bất úy tham sân khởi, duy
khủng tự giác tri”. Có nghĩa là không sợ tâm tham và sân, mà chỉ sợ tâm si mê. Nếu tâm
tham sân nổi lên mà có trí tuệ sáng suốt ngăn
chặn lại, thì lòng tham sân phải bị dập tắt,
không còn làm gì được cả. Cho nên, đạo Phật
lấy trí tuệ làm đầu, nếu đã có trí tuệ sáng suốt
thì lòng tham sân không thể tồn tại được , cũng
như khi đã có ánh sáng mặt trời lên thì bóng
tối tất nhiên phải tan biến”.
Đức Phật thường gọi tham, sân, si là ba
độc, nó thường làm đau khổ chúng sanh và
phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân hồi, đọa vào
ba cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
4/ Mạn: Có nghĩa là ngã mạn, kiêu căng,
tự đắc. Hòa Thượng Thiện Hoa dạy: “Là nâng
cao mình lên và hạ người khác xuống; tự thấy
mình là quan trọng mà khinh rẻ mọi người; ỷ
mình có tiền của, tài trí, có học thức, có cấp
bằng Cao học như Tiến sĩ hay có quyền thế mà
sanh tâm dương dương tự đắc, mục hạ vô nhân,
khinh người già cả, hỗn láo với người đức hạnh,
chà đạp người dưới, lấn lướt người trên”.
Vì lòng ngã mạn tự kiêu tự đại cho mình
là hơn hết nên chẳng chịu học hỏi thêm những
điều hay lẽ phải. Do đó, làm nhiều điều lầm lẫn
sai quấy, gây ra bao nhiêu tội ác, phước lành tổn giảm, tộâi lỗi càng tăng, cho nên phải chịu
sanh tử luân hồi muôn đời ngàn kiếp.
- Mạn có bảy thứ:
a) Mạn: Nghĩ mình hơn người.
b) Ngã mạn: Ỷ mình hay giỏi mà lấn lướt
người.
c) Quá mạn: Mình bằng người mà cho là
hơn người, người hơn mình mà cho là bằng.
d) Mạn quá mạn: Người hơn mình nhiều
mà cho mình hơn người.
e) Tăng thượng mạn: Chưa chứng Thánh
quả mà cho mình đã chứng.
f) Ty liệt mạn: Mình thua người nhiều mà
nói mình thua ít.
g) Tà mạn: Người tu về tà mạn được chút
ít thần thông, hoặc hiểu biết đôi chút việc quá
khứ, vị lai, rồi khinh lướt người khá c xem trời
đất không còn ai.
5/ Nghi: Có nghĩa là lòng nghi ngờ, ngờ
vực, không tin. Hoà Thượng Thiện Hoa dạy:
“Người nghi ngờ không làm được việc gì hết.
Đối với người thân trong gia đình, họ không tin
cậy giao phó công việc; đối với bạn bè, họ nghi
ngờ tất cả mọi thiện chí. Ngay đối với họ, họ cũng không tự tin nữa. Đã không tự tin, họ còn
gây hoang mang cho người chung quanh, làm
cho người ta ngã lòng thối chí”.
Đối với đạo lý chân chánh như đạo Phật
có một nền đạo đức nhân bản giải thoát tuyệt
vời mà họ cũng không tin, nhưng họ lại tin
theo tà giáo và những pháp môn mê tín, trừu
tượng của kinh sách phát triển.
- Trong sự nghi ngờ có ba phương diện:
a) Tự nghi: Có nghĩa là nghi mình. Chẳng
hạn như đọc kinh sách đức Phật dạy: “Tu hành
sẽ được giải thoát”, nhưng lại tự nghĩ rằng:
“Chẳng biết mình tu có được không?”. Vì lòng
do dự nghi ngờ ấy, nên không chịu tu hành.
b) Nghi pháp: Có nghĩa là nghi phương
pháp mình đang tu. Chẳng hạn như nghe kinh
Tứ Chánh Cần dạy: “Ngăn ác, diệt ác pháp,
sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp” thì sẽ được
giải thoát ngay liền hay như trong kinh Pháp
Cú dạy: “Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng
hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật giáo”. Do sự
nghi ngờ lời dạy này không biết kết quả có
đúng hay không? Nên không tu tập.
c) Nghi nhân: Có nghĩa là nghi người dạy
mình, không tin ông Thầy dạy mình, nghi pháp mình đang tu không đúng là chánh pháp
của Phật. Khi chánh pháp của Phật dạy mà
mình nghi là không phải pháp của Phật thì đó
là mình đã đánh mất pháp chân chánh. Còn
Thầy dạy mình tu học mà mình nghi Thầy
mình là mình đã bị đứt đầu, không còn cách
nào cứu chữa được. Ở tại tu viện Chơn Như
chúng tôi có một số đệ tử ham mê thần thông,
nhưng chúng tôi không thể hiện thần thông,
nên chúng mất niềm tin và không theo tu tập
với chúng tôi nữa. Mục đích tu viện của chúng
tôi hướng dẫn tu tập xả tâm ly tham đoạn diệt
các ác pháp để đạt được tâm giải thoát không
còn phiền não, khổ đau, không còn tham sân,
si, mạn, nghi nữa, giúp cho con người có một
đời sống đạo đức không làm khổ mình, khổ
người, đấy là hạnh phúc giải thoát chứ không
phải ngồi thiền nhập định năm bảy ngày hoặc
kiến tánh thành Phật, hoặc tụng kinh niệm
chú cho có thần thông phép lạ hoặc niệm Phật
cầu vãng sanh Cực lạc Tây phương, v.v.. Ở đây,
chúng tôi dạy đúng theo đường lối tu tập của
đạo Phật là hằng ngày không có tụng niệm lần
chuỗi ngồi thiền ức chế tâm, mà chỉ có sống
đúng giới luật và theo như những lời dạy trong
kinh Tăng Chi tập 3 trang 30: “Ở đây này các
Hiền giả, Tỳ Kheo ưa công việc, thích thú công việc; ưa nói chuyện, thích thú nói
chuyện; ưa ngủ nghỉ, thích thú ngủ nghỉ,
chuyên tâm ưa thích ngủ nghỉ; ưa hội
chúng, thích thú hội chúng, chuyên tâm
ưa thích hội chúng, ưa liên lạc giao thiệp,
thích thú liên lạc giao thiệp, chuyên tâm
ưa thích liên lạc giao thiệp; ưa hý luận,
thích thú hý luận, chuyên tâm thích hý
luận. Như vậy, này các Hiền giả, Tỳ Kheo
sống nếp sống như vậy, khi lâm chung
không được hiền thiện, khi mệnh chung
không được hiền thiện. Này các Hiền giả,
đây gọi là Tỳ Kheo ái lạc có thân, không
từ bỏ có thân để chân chánh chấm dứt khổ
đau”. Đây là lời dạy chân chánh của đức Phật,
muốn tu theo đạo Phật thì phải tu đúng pháp,
sống đúng pháp như lời dạy thì mới có sự giải
thoát, còn tổ chức gia đình Phật tử này , Đạo
tràng nọ thì chỉ là một hình thức sinh hoạt
Phật giáo theo kiểu giáo pháp phát triển, chứ
tu tập chẳng có kết quả gì chỉ là một trò giải
trí lành mạnh như bao nhiêu trò giải trí lành
mạnh khác của xã hội, đó là những người đi
tìm ái lạc của thân vì họ là những người dư
thừa thời gian không biết làm gì cho hết tuổi
đời. Nếu không từ bỏ những trò giải trí này thì không bao giờ chân chánh chấm dứt sự khổ
đau. Nếu quý vị không tin lời chúng tôi nói thì
nên đọc lại đoạn kinh trên rồi suy ngẫm và xét
lại từ xưa đến nay biết bao nhiêu Đạo tràng và
gia đình Phật tử họ đã được giải thoát những gì
với con đường giải thoát này. Đối với đạo Phật
thời gian sinh hoạt của quý vị rất là uổng phí
khi: “Được thân người là khó”, nên đức Phật
đã nhắc nhở:
“Tấc bóng thời gian một tấc vàng
Tấc vàng tìm được không gì khó,
Tấc bóng thời gian khó hỏi han”.
Thế mà quý vị sinh hoạt như vậy gọi là tu,
tu như vậy có giải thoát được không? Quý vị cứ
nhìn lại bản thân của quý vị thì quý vị sẽ thấy,
nếu chúng tôi nói thẳng thừng thì quý vị không
ưa chúng tôi, nhiều khi chúng tôi thấy quý vị
như một con cờ dùng để cho người khác sử dụng
nước cờ tôn giáo, chứ quý vị tu như vậy dù tu
một triệu năm nữa cũng chưa thấy và hiểu biết
sự giải thoát như thế nào?
Chúng tôi dạy đúng như lời Phật dạy cấm
không cho tu sĩ và cư sĩ tập họp nói chuyện thì
họ không thích, họ muốn tu tập theo kiểu giáo
pháp phát triển, sinh hoạt như các Đạo tràng và các gia đình Phật tử, họ khoái hội họp,
thích vui chơi, thích nói chuyện, thích ca hát,
ngâm thơ, thích tụng kinh niệm Phật.
Chỗ tu hành của chúng tôi là chỗ tu tìm sự
giải thoát, làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp
người sanh, già, bệnh, chết và chủ động đi vào
con đường hoá sanh, chứ không chấp nhận chịu
bó tay sanh nơi dâm dục bất tịnh, ô trược, bẩn
thỉu, hôi thúi và khổ đau. Vì thế, ai muốn tu
được thì hãy sống đúng như lời đức Phật đã
dạy, như chúng tôi đã dạy, nếu không sống
được thì đừng nên theo đạo Phật tu hành,
chẳng có ích lợi gì mà còn làm cho kẻ khác phỉ
báng Phật giáo.
Đạo Phật không cầu mong có nhiều người
tu mà phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới, vô đạo
đức làm người, làm Thánh. Thàø chỉ cần ít người
hay một người tu đúng pháp có giới đức hẳn
hoi, có một đời sống phạm hạnh của bậc Thánh
Tăng thì Phật giáo mới còn rực rỡ trên thế
gian này, dù chỉ có một người còn hơn đi đâu
cũng gặp tu sĩ và cư sĩ mà đời chẳng đời, đạo
chẳng đạo, họ sống với những nghề nghiệp lừa
đảo thiên hạ thật là đau lòng cho Phật giáo
ngày nay. Giữa ban ngày thắp đuốc lên đi tìm
một bậc giới đức khắp trên thế gian này không bao giờ có, toàn là những tu sĩ và cư sĩ phá
giới, phạm giới, bẻ vụn giới, v.v..
Nếu quý vị thấy sống không kham nổi
trong giới luật của Phật, thì quý vị đi tu làm gì,
để phạm giới, phá giới như vậy, có ích lợi gì
cho quý vị và cho người khác, nếu quý vị sống
không kham, thì quý vị ra đời mà sống, sống
trong chùa mà bày ra những trò mê tín, dị
đoan, cúng bái, tế lễ, xin xăm bói quẻ, v.v.. đó
là đi ngược lại Phật giáo, cũng như quý vị
thuyết giảng hý luận trừu tượng mơ hồ bằng lối
chơi chữ để lừa đảo những người nhẹ dạ dễ tin
để cầu được sự cúng dường.
Tóm lại, quý vị muốn tu theo đạo Phật thì
quý vị phải nghiên cứu Phật giáo cho kỹ, nếu
thấy chúng tôi dạy đúng thì xin vào tu, còn nếu
thấy chúng tôi dạy không đúng thì quý vị đừng
xin vào tu thử, vì sự tu thử sẽ làm quý vị phí
thì giờ vô ích mà còn sanh tâm nghi ngờ chánh
pháp của Phật, tạo thêm tội lỗi như quý thầy:
Thầy Chơn Đức, Thầy Từ Minh, Thầy Minh
Tông, Thầy Thiện Thiền, v.v.. họ đã trở thành
những người đệ tử bất nghĩa muôn đời ngàn đời
để lại tiếng đời không tốt cho mai sau.
Tánh nghi ngờ làm cản trở sự tiến triển
tu hành cũng như những sự việc khác, làm ngăn ngại mọi công tác hữu ích cho mình, cho
xã hội và cũng vì tâm nghi ngờ khiến cho cuộc
đời không vượt khỏi cảnh tối tăm khổ sở.
6/ Thân kiến: Có nghĩa là vì không rõ
nên lầm chấp thân ngũ uẩn tứ đại giả hợp này
cho là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Hòa
Thượng Thiện Hoa dạy về thân kiến: “Vì cái
chấp sai lầm ấy, nên thấy có một cái ta riêng
biệt, chắc thật không biến đổi, thấy cái ta ấy là
riêng của ta, không dính dấp đến người khác,
và xem nó là một thứ rất quý báu. Vì tưởng lầm
như vậy, nên kiếm món ngon vật lạ cho ta ăn,
may sắm quần áo tốt đẹp cho ta mặc, lo xây
dựng nhà cao cửa rộng, chùa to Phật lớn v.v..
cho ta ở, thâu góp thật nhiều của cải, đất ruộng
để dành cho ta dùng, kiếm công danh chức
tước, địa vị cho ta hãnh diện với mọi người. Do
sự quý chuộng cung phụng cho cái ta ấy, biến
Phật giáo thành tà giáo mê tín; gây mê muội và
lạc hậu. Do sự quý chuộng cung phụng cho cái
ta ấy mà tạo ra lắm điều tội lỗi, chà đạp lên
bao nhiêu cái ta khác, làm cho họ đau khổ vì
ta. Và thế giới trở thành một bãi chiến trường
cũng vì cái ta”.
Chúng ta hằng ngày chịu nhiều đau khổ
cũng chính vì Thân kiến tức là cái kiến chấp về thân. Nó là một trong bảy kiết sử trói buộc và
sai sử chúng ta như mộ t tên nô lệ rất khó mà
bứt bỏ, nếu không có pháp như lý tác ý của đức
Phật dạy thì khó có pháp nào diệt thân kiết sử
này được, nếu hằng ngày chúng ta không siêng
tu pháp như lý tác ý thì chẳng bao giờ chúng ta
bứt được sợi dây thân kiết sử này, cho nên, đức
Phật thường nhắc đi nhắc lại câu pháp hướng
này: “Thân này không phải là ta, không
phải của ta, không phải bản ngã của ta”.
Câu này quý vị nên nhớ mà hướng tâm hằng
ngày đừng nên biếng trễ và xem thường, đó là
lời tâm huyết mà đức Phật đã dạy cho chúng ta
vì thương tưởng chúng ta vô minh mà lầm chấp
thân kiến chịu khổ muôn đời.
7/ Biên kiến: Có nghĩa là chấp một bên,
nghiêng về một phía, đó là những thành kiến
rất cực đoan. Biên kiến có nhiều lối chấp sai
lầm lớn nhất là:
a) Thường kiến: Có nghĩa là một loại
luận thuyết mơ hồ trừu tượng, cho rằng người
chết còn linh hồn, cho rằng có thế giới siêu
hình, có bản thể vũ trụ, có tiểu ngã, đại ngã, có
thần thức, có Phật tánh, có Thiên đàng, có địa
ngục, có Ngọc Hoàng Thượng Đế, có Chúa Trời,
có Thần, quỷ, ma, v.v.. Những người chấp thường kiến là những
con người thường sống trong mê tín, lạc hậu,
sống trong mộng tưởng, xây dựng cảnh giới
siêu hình thường cầu cúng lễ bái và ước vọng
làm những điều thiện để khi chết được sanh
lên Cực lạc, Thiên đàng của cõi Trời, cõi Niết
bàn hay cảnh giới chư Phật, Thiền Tông, Mật
Tông đều thuộc về thường kiến.
b) Đoạn kiến: Đoạn kiến là một loại luận
thuyết chết cứng, khô cằn, chết là hết không
còn gì cả, loại luận thuyết này, khiến cho con
người mất hết niềm hy vọng về tương lai. Cho
nên, người ta đặt ra câu hỏi: “Tương lai không
có thì hiện giờ làm để làm gì?”. Ngày mai chết
là hết, vì vậy con người chấp đoạn kiến thì làm
bao nhiêu ăn bấy nhiêu , chẳng còn biết nghĩ
đến ai cả, sống chỉ quay cuồng trong dục lạc, ăn
uống vui chơi trụy lạc, xì ke, ma túy, rượu chè
bê bết, sống theo kiểu hiện sinh không có ngày
mai. Hòa Thượng Thiện Hoa dạy: “Đối với hạng
người chấp đoạn kiến, thì hễ tắt thở là không
còn gì tồn tại nữa; tội cũng không mà phước lại
cũng chẳng có. Họ không tin nhân quả luân
hồi, nên mặc tình làm các điều tội lỗi. Họ tự
bảo: “Tu nhân tích đức già đời cũng chết; hung
hăng bạo ngược tắt thở cũng không còn”. Vì chấp đoạn kiến, có người đứng trước
cảnh thất tình, thất vọng, hoặc gặp cảnh buồn
lòng nghịch ý, tưởng rằng chết là hết đau khổ,
là giải thoát tất cả khổ, nên họ không ngần
ngại mượn chén thuốc độc, hay dòng sông sâu
hoặc sợi dây oan trái để kết liễu đời mình. Họ
đâu có ngờ rằng chết rồi vẫn chưa hết! Họ đâu
biết rằng luật nhân quả nghiệp báo là một vật
thường hằng bất biến của môi trường sống,
ngoài những hành động ác thiện của loài động
vật ra khi chết, không có gì còn lại cảù. Chính
vì những hành động của loài đôïng vật là một
tác nhân tạo ra nghiệp, cho nên đức Phật dạy:
“Nghiệp là cha đẻ ra con người, con người
là thừa tự nghiệp”. Như thế làm sao gọi là
đoạn kiến. Khi chết trong ác nghiệp khổ đau
thì nghiệp khổ đau ấy vẫn phải tiếp tục tái
sanh trong nghiệp nhân quả đau khổ kế tiếp.
Người chấp đoạn kiến là những người
không thông suốt môi trường sống hợp duyên
của các pháp. Trong môi trường sống này
không có một vật gì sanh ra mà đơn điệu toàn
là các pháp hợp lại tạo thành.
Ví dụ 1: Không thể có một người đàn ông
cũng như một người đàn bà đơn điệu tự một
mình sanh ra con được, mà phải có hai người nam nữ lấy nhau tạo duyên ngũ uẩn hòa hợp
mới thành ra con người.
Ví dụ 2: Không thể lấy một cây cột, lấy
một tấm tôn, một miếng vách mà bảo rằng vật
đó là cái nhà được, một cái nhà phải có các vật
hợp lại như: cột, kèo, vách, tôn, cửa lớn, cửa
nhỏ rồi tạo dựng ra cái nhà. Đó là các pháp
trong môi trường sống này đều do duyên hợp
mà thành, nhưng bảo rằng khi hoại diệt thì
không còn gì hết là sai (đoạn kiến) mà bảo
rằng còn thì cũng sai (thường kiến), đó là hai
cái sai của những lý luận này.
c) Vừa thường vừa đoạn kiến : Có một
luận thuyết cho rằng các pháp trong thế gian
này vừa có vừa không như Ngài Long Thọ: “Sắc
tức thị không, không tức thị sắc”, đó là lối lý
luận trườn uốn như con lươn, để rồi Ngài đẻ ra
trí tuệ Bát Nhã Chơn Không thành ra thường
kiến, cuối cùng Ngài cũng như các nhà thường
kiến khác, nhưng giỏi khéo lý luận để che mắt
thiên hạ, chứ kỳ thực Chơn Không của Ngài
đâu có khác gì thần thức, linh hồn, đại ngã,
Phật tánh, bản thể vạn hữu, chỉ có khác là
danh từ mà thôi.
Do những lý luận này đã biến những tu sĩ
Phật giáo thành những nạn nhân, bỏ biết bao nhiêu công lao sức lực tu hành, cuối cùng chẳng
ra gì, khổ đau cũng hoàn khổ đau, chẳng có ai
làm chủ sanh, già, bệnh, chết cả.
8/ Kiến thủ: Có nghĩa là chấp chặt sự
hiểu biết sai lầm của mình có ba trường hợp:
a) Kiến thủ vì ảnh hưởng tư tưởng của
người khác. Khi học hiểu một điều gì do lý luận
của các nhà tư tưởng như tưở ng Chơn Không,
Phật Tánh,v.v.. Cũng như thấy những hiện
tượng nhập đồng nhập cốt do cô cậu hoặc linh
hồn người chết oan nhập vào nói đâu trúng đó,
rồi cho đó có linh hồn người chết, có thế giới
siêu hình rồi chấp chặt ai nói gì cũng không
tin. Không ngờ thế giới siêu hình là do tưởn g
uẩn tạo thành chứ không có thế giới siêu hình
thật sự. Do sự chấp chặt này họ phải chịu thiệt
thòi nhiều mặt về sự tu hành cũng như về đời
sống.
b) Kiến thủ vì không ý thức được sự sai
lầm của mình. Hòa Thượng Thiện Hoa dạy:
“Hành vi của mình sai quấy, ý kiến của mình
sai lầm, nhưng vì không đủ trí sáng suốt để
nhận thấy, nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của
mình, tự cho mình là hay là giỏi, ai nói gì cũng
chẳng nghe”. c) Kiến thủ vì tự ái hay vì ngoan cố cứng
đầu. Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy
là không đúng, lỡ lời, nhưng vì tự ái cứ bảo thủ
cái sai, cái không đúng của mình, không chịu
thay đổi, không chịu sám hối, xin lỗi, không
chịu từ bỏ, xa lìa.
Ví dụ: Như trước kia ông bà đã lỡ theo tà
giáo, ngoại đạo, nay con cháu vẫn biết đó là tà
giáo nhưng cứ theo mãi không dám bỏ, cho đó
là tôn giáo truyền thống của tổ tiên, ông bà để
lại không được bỏ, mặc tôn giáo đó dạy những
điều phi đạo đức, phi nhân quả, thường dạy
những điều cầu cúng, mê tín, lạc hậu, v.v.. Có
người còn nói một cách liều lĩnh, ngu si: “Xưa
sao nay vậy” hay “Xưa bày nay làm”. Cũng như
cha mẹ trước là nghề nghiệp ác chài lưới, săn
bắn hoặc làm nghề đồ tể, bán thịt sống, thịt
chết, mãi dâm, bán rượu, thuốc phiện, xì ke ma
túy, v.v.. đó là những nghề ác độc tội lỗi, đến
con cháu vẫn cứ bảo thủ nghề ấy, không chịu
thay đổi nghề khác.
Nhìn rộng ra xã hội bên ngoài, có một số
đông người, mặc dù thời đại của chúng ta hiện
giờ, con người đã có nhiều tiến bộ về khoa học
kỹ thuật hiện đại hóa đời sống, thế mà người
ta cứ vẫn giữ lại những lề lối cổ tục hủ bại, hễ trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng
kiếng, rước thầy chùa tụng kinh để cầu siêu
linh hồn trong khi ông thầy tụng chưa độ được
ông siêu, mà ông đi cầu siêu cho kẻ khác thì
việc làm đó là một điều ngu si, khi đưa đám
tang thì rải giấy tiền vàng mã; mỗi khi tuần tự
hay giỗ kỵ thì lại đốt giấy tiền vàng mã và
quần áo kho đụn phướng xá. Hằng năm cứ vào
ngày rằm tháng ba âm lịch thì Ban Tế Tự tập
họp dân chúng làm lễ kỳ an cúng tế tà Thần,
ác quỷ, v.v.. Làng xã chấp chặt những hủ tục
mê tín lạc hậu như thế mà còn cho đó là “Văn
hóa truyền thống của dân tộc” không được bỏ.
Những việc làm đó đều thuộc về kiến thủ.
9/ Giới cấm thủ: Có nghĩa là làm theo,
sống theo giới cấm của ngoại đạo, tà giáo,
những giới cấm của tà giáo ngoại đạo này phần
nhiều vô lý phi đạo đức, mê muội, dã man, v.v..
Những giới cấm này khiến cho con người bất
hiếu và tự làm khổ mình. Hòa Thượng Thiện
Hoa dạy: “Các giáo phái ngoại đạo ở Ấn Độ lấy
đá dằn bụng, đứng một chân giữa trời nắng,
nằm trên chỗ bẩn thỉu, leo lên cao nhảy xuống,
gieo mình vào lửa, nhảy xuống sông trầm mình
chịu lạnh lẽo để được phước, chặt hoặc đốt một lóng tay, có người chặt nguyên một cánh tay để
cầu pháp.
Những thứ cuồng tín như thế, không làm
cho cuộc đời sáng sủa, mà còn làm cho đen tối
và khổ đau thêm”.
Giới cấm thủ này chúng ta thấy trong
kinh Pháp Hoa Phẩm Tựa dạy cúng dường thân
mạng hoặc một phần thân mạng để cầu pháp
giải thoát, khiến cho những người cuồng tín
chặt hoặc đốt ngón tay, hủy hoại cơ thể của
mình không tật nguyền mà thành tật nguyền,
không khổ mà làm thêm khổ, đó là giới cấm
thủ hay còn gọi là những giáo điều của ngoại
đạo.
10/ Tà kiến: Có nghĩa là chấp chặt theo
lối không chân chánh, trái với sự thật, trái với
luật nhân quả, phi đạo đức như trong kinh
Pháp Hoa Phẩm Phổ Môn, Bồ Tát Quan Thế
Âm cứu khổ cứu nạn chúng sanh, đó là tà kiến
phi đạo đức, phi nhân quả, mê tín. Hòa Thượng
Thiện Hoa dạy: “Nói một cách khác, tà kiế n
nghĩa là mê tín, dị đoan, như thờ đầu trâu, đầu
cọp, bình vôi, ông táo, xin xăm, bói quẻ, buộc
tôm đeo niệt, coi sao, cúng hạn, v.v..”.
Nói rộng ra bốn món chấp trên đều thuộc
về tà kiến cả. Nghĩa là trên đời này cái gì ý thức không hiểu được mà dùng tưởng thức để
hiểu, hiểu như vậy là hiểu một cách mơ hồ,
trừu tượng, không rõ ràng, không thực tế,
không cụ thể đều được gọi là tà kiến.
Khi tu Định Vô Lậu câu hữu với Tập Đế
thì chúng ta sống trong thực tế, cái gì ý thức
hiểu biết cụ thể thực tế còn hoàn toàn ngoài ra
không tin một cái gì cả, phần nhiều người ta
thường hay sống trong tưởng thức nên người ta
phải chịu khổ.
Ví dụ: Người ta chửi mình đồ chó, trâu
mình tưởng ra mình là chó trâu, nên mình
sanh tức giận chửi mắng lại họ, cũng như người
ta chửi mình: “Tao đào mồ mả cha mày lên”,
mình tưởng rằng họ đào mồ mả cha mình chứ
sự thật họ đâu có đào, thế mà mình sống trong
tưởng rồi sanh ra tức giận chửi mắng đánh với
nhau, khiến làm khổ cho nhau, thật là tà kiến
điên đảo và sống không thực tế, tạo cảnh mình
khổ, người khác khổ chẳng có ích lợi gì cả.
Ví dụ: Người ta chửi mình là đồ ăn cắp, ăn
trộm mình tự ái sợ người khác không hiểu
mình, sanh ra nghi ngờ mình ăn cắp, ăn trộm
thì xấu hổ, cái tự ái sợ hãi người ta nghi ngờ
mình nên mình tức giận và buồn khổ trong

lòng mãi mãi, đó là mình số ng trong tưởng, chứ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!