Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT - TẬP 3 -12

- Nghe xong, cô Khang nói: Chị nói cho em
biết cái mộ ở gốc đa nếu là một nữ du kích mà
nhận là chị thì còn được, đằng này lại không
phải nữ du kích, sao ngộ nhận như thế được!
Còn Chử Thị Dung, chính bố cô ấy đã kể với
chị rằng em đã đến tìm gặp cô ấy. Ông ấy nhờ
chị nói với em nhắn giùm cho cô ấy đến tìm bố.
Bố cô ấy cũng nằm ở đây.
- Rồi cô chỉ chỗ ngôi mộ, ngay dưới chân
cái hố sắp đào. Đó chính là ngôi mộ người đàn
ông bị bắt từ Hải Dương về (Sau này Hằng kể
lại người đàn ông lúc ấy cũng đứng bên cạnh
cô Khang nói lại, cháu mới nghe thấy, khi cô
chỉ ngôi mộ, cháu nhìn xuống thì thấy hài cốt
không có đầu).
- Đến đây cháu Hằng nói: Xin phép cô cho
bắt đầu.
- Đào hết lớp đất vượt thổ thì Hằng bảo
thợ ngừng đào. Cháu nhảy xuống hố, lấy dầm
gạt nhẹ từng lớp cát đen. Chỉ hơn một gang tay
thì vướng vào thanh củi mục, nạy lên, thả vào
nước thì nhận ra đó là một khúc tre già, thịt
tre đã bị phân hủy hết, nhưng xơ tre và đốt tre
thì vẫn còn nguyên. Khúc tre dài hơn một gang tay, đường kính tương đối lớn, không thể tra
vừa bất cứ một loại xẻng hay cuốc nào, chỉ có
thể tra vừa cái thuổng hình lưỡi mai (mặt
phẳng bề ngang nhỏ hơn lưỡi xẻng, nhưng dài
hơn lưỡi xẻng).
- Mọi người đều kinh ngạc khi biết thông
tin về cái thuổng đã được báo trước. Riêng tôi
thì mừng khôn xiết. Vì đây là dấu hiệu đáng
tin cậy nhất để nhận biết nấm mộ này đích
thực là mộ em gái tôi. Cái cán thuổng đã bị vùi
dưới đất cách đây 50 năm, người đời không ai
ngụy tạo ra nó được. Dấu hiệu đó lại được linh
hồn mách bảo cho tôi chính ngày trước khi
khai quật. Người đời không ai nhìn thấy mà
mách bảo được. Còn sự chính xác thì đạt đến
mức chi tiết. Thú thật, khi nghe anh tôi nói
đến cái cán thuổng, tôi nghi ngờ : Hoặc là anh
tôi nhận định sai, hoặc là cháu Hằng dịch sai.
Vì người đào huyệt phải dùng mai, xẻng cuốc,
chứ sao lại dùng thuổng? Lúc ấy tôi chỉ nghĩ
đến loại thuổng thông dụng nhất loại có lưỡi
hình vũm để đào gốc cây, chứ không nghĩ đến
loại thuổng hình lưỡi mai để đào đất, tác dụng
giống như cái mai nhưng khỏe hơn cái mai.
Loại thuổng này cũng còn nơi gọi là mai. - Sau khi tìm thấy cái thuổng, chỉ gạt vào
lớp cát mỏng là thi hài em tôi hiện ra. Khi
chôn, người ta đã đặt em tôi nằm nghiêng,
người hơi cong, mặt hướng ra vụng Quạ, đầu về
hướng Tây Bắc, chân về hướng Đông Nam.
Trùm lên sọ là một mảng tóc đen nhánh, rồi
đến những đốt xương cổ nhìn rất rõ. Nhưng khi
bốc lên thì tóc rụng ra ngay, những đốt xương
nguyên vẹn gãy ra như những chiếc bánh bích
quy thấm nước. Cháu Hằng hỏi cô Khang:
Răng cô ở đâu, để cháu mang đi đãi. Cuối cùng
tìm được 5 chiếc răng. Tôi xem thì đúng là
răng trắng, nhưng do ngâm lâu trong bùn nên
ngả sang màu xám và đen xỉn. Theo đúng
mệnh lệnh của anh Sơn, chúng tôi bốc tất cả số
bùn đất theo hình người nằm cong, bỏ vào túi
mang về. Cháu Hằng tìm mãi không thấy chiếc
còng sắt. Cháu hỏi cô Khang, cô cũng không
chỉ được. Tôi nhận định: có thể là nó đã rỉ đất
qua 50 năm trong bùn.
- Lúc này thì Hằng không dịch, nhưng
hôm sau, cháu nói với tôi: Lần này đi tìm mộ
cô Khang, cháu thương cô quá. Lúc tìm được
răng rồi, mấy người ở trên miệng hố nhắc cháu
tìm móng tay. Cháu bèn hỏi cô: Móng tay của
cô ở chỗ nào cô chỉ cho cháu. Cô giơ hai bàn tay lên trước mặt cho cháu, nói: Chúng nó rút
hết móng tay của cô rồi, còn đâu mà tìm!

- Tôi vô cùng kinh ngạc, vì điều này chỉ
mình tôi biết. Sau khi em tôi bị giặc sát hại.
Huyện ủy Phù Cừ gửi riêng cho tôi bản báo cáo
gửi lên cấp trên (Trước đó, tôi là phó bí thư
tỉnh ủy Hưng Yên, có nhiều gắn bó với Huyện
Phù Cừ) kể rõ em tôi bị bắt, bị tra tấn và bị
giết như thế nào. Trong những cực hình mà
địch sử dụng, có việc dùng kìm rút hết móng
tay rồi cắm kim vào đó, dí điện vào hai đầu vú,
thọc gậy vào âm hộ, treo ngược lên cành cây mà
đấm đá. Tôi không muốn một ai khác trong gia
đình phải chịu đựng những nỗi thương xót như
tôi, vì vậy đã giấu kín những tin này. Nay được
cháu Hằng kể lại, tôi tin chắc người nằm dưới
mộ đích thực là em gái tôi.
- Cháu Hằng lúi húi tìm kiếm và chỉ đạo
mấy người giúp việc, thỉnh thoảng lại nhô đầu
lên nói chuyện với những người ngồi trên
miệng hố. Bỗng Hằng nói: Có một cụ cứ tủm
tỉm ngồi nhìn, không biết có phải là cụ Giám
không? Rồi Hằng cất giọng, lễ phép nói :
- Cháu chào cụ ạ. Cụ cho phép cháu được
biết quý danh của cụ. Lắng nghe hồi lâu, Hằng nói như reo
lên:
- Cụ An!
Rồi Hằng tự giới thiệu mình cùng gia
đình đi tìm hài cốt cô Khang, đề nghị cụ giúp
đỡ.
Cụ An nói: Tôi là hàng xóm, nhà tôi ở vệ
đê, bên kia đầm, lần nào các bác về đây mà tôi
chả biết. Tôi nhớ, đêm hôm ấy, vào lúc gà gáy
canh hai, ông Giám qua nhà tôi, hỏi mượn tôi
cái mai. Tôi hỏi để làm gì? Ông Giám: Suỵt!
Để chôn người chết trôi. Tôi nhìn ra thì thấy
một cái xác cụt đầu, biết ngay là cán bộ cách
mạng. Ở chỗ kia kìa có cái rãnh nước, ông
Giám kéo mấy cái xác vào rãnh nước, đến đây
là chân ruộng mạ. Ông Điển mới ra ở đây thôi,
chứ ngày ấy là ruộng mạ, thuộc chủ khác.
Cháu Hằng đưa ảnh cô Khang, hỏi cụ có
nhận ra người chết được không? Cụ An nói: Bà
này là thân nhân của ông cán bộ trước là tỉnh
ủy ở đây. Nhưng chôn cất như thế nà o thì cả
tôi, cả ông Yền, ông Trọng đều không biết gì
đâu. Chỉ có ông Giám là biết thôi. Để tôi đi tìm
giúp ông Giám. Một lúc lâu cụ An đi cùng với cụ Giám về.
Hằng nói nhỏ: Cụ này già thế nhỉ! Rồi Hằng tự
giới thiệu và nêu ra đề nghị: nhận diện người
chết qua tấm ảnh cái còng sắt nằm ở chỗ nào?
Cụ Giám nói: Đêm tối, tôi chỉ thấy loáng
thoáng thôi. Xác ngâm lâu đã trương lên rồi,
mặt mũi thì nhìn không rõ. Tóc thì không vấn
như thế này đâu, mà cắt ngang gáy như cô bây
giờ, nhưng xõa xượi dưới nước. Lần ấy tôi đem
về đây không phải một người, mà ba người cơ.
Tôi kéo người phụ nữ lên trước, cứ thấy vướng.
Thì ra tay trái cô ấy xích vào tay phải người
đàn ông. Khi chôn, chẳng lẽ lại chôn hai người
một hố, tôi tuột tay một người ra khỏi cái vòng.
Tôi chôn người phụ nữ ở đây, còn người đàn
ông thì ở chỗ kia. Sức tôi cũng chỉ kéo được
đến thế. Khi tôi chôn thì xác bị trói đã cứng,
không nắn thẳng ra được, đành đặt hơi
nghiêng, mặt hướng ra sông cho mát mẻ. Còn
người phụ nữ nữa, tôi chôn ở góc kia (cụ chỉ ra
phía gốc nhãn) nhưng bây giờ thì đã tụt xuống
ao rồi hình như lúc bị chết bà ấy đang có chửa.
Tân Cương nói: Một số người không thể
hiểu được xác chết trôi sông lại có thể vào được
đến đây. Một lúc lâu cụ An đi cùng với cụ Giám về.
Hằng nói nhỏ: Cụ này già thế nhỉ! Rồi Hằng tự
giới thiệu và nêu ra đề nghị: nhận diện người
chết qua tấm ảnh cái còng sắt nằm ở chỗ nào?
Cụ Giám nói: Đêm tối, tôi chỉ thấy loáng
thoáng thôi. Xác ngâm lâu đã trương lên rồi,
mặt mũi thì nhìn không rõ. Tóc thì không vấn
như thế này đâu, mà cắt ngang gáy như cô bây
giờ, nhưng xõa xượi dưới nước. Lần ấy tôi đem
về đây không phải một người, mà ba người cơ.
Tôi kéo người phụ nữ lên trước, cứ thấy vướng.
Thì ra tay trái cô ấy xích vào tay phải người
đàn ông. Khi chôn, chẳng lẽ lại chôn hai người
một hố, tôi tuột tay một người ra khỏi cái vòng.
Tôi chôn người phụ nữ ở đây, còn người đàn
ông thì ở chỗ kia. Sức tôi cũng chỉ kéo được
đến thế. Khi tôi chôn thì xác bị trói đã cứng,
không nắn thẳng ra được, đành đặt hơi
nghiêng, mặt hướng ra sông cho mát mẻ. Còn
người phụ nữ nữa, tôi chôn ở góc kia (cụ chỉ ra
phía gốc nhãn) nhưng bây giờ thì đã tụt xuống
ao rồi hình như lúc bị chết bà ấy đang có chửa.
Tân Cương nói: Một số người không thể
hiểu được xác chết trôi sông lại có thể vào được
đến đây. Một lúc lâu cụ An đi cùng với cụ Giám về.
Hằng nói nhỏ: Cụ này già thế nhỉ! Rồi Hằng tự
giới thiệu và nêu ra đề nghị: nhận diện người
chết qua tấm ảnh cái còng sắt nằm ở chỗ nào?
Cụ Giám nói: Đêm tối, tôi chỉ thấy loáng
thoáng thôi. Xác ngâm lâu đã trương lên rồi,
mặt mũi thì nhìn không rõ. Tóc thì không vấn
như thế này đâu, mà cắt ngang gáy như cô bây
giờ, nhưng xõa xượi dưới nước. Lần ấy tôi đem
về đây không phải một người, mà ba người cơ.
Tôi kéo người phụ nữ lên trước, cứ thấy vướng.
Thì ra tay trái cô ấy xích vào tay phải người
đàn ông. Khi chôn, chẳng lẽ lại chôn hai người
một hố, tôi tuột tay một người ra khỏi cái vòng.
Tôi chôn người phụ nữ ở đây, còn người đàn
ông thì ở chỗ kia. Sức tôi cũng chỉ kéo được
đến thế. Khi tôi chôn thì xác bị trói đã cứng,
không nắn thẳng ra được, đành đặt hơi
nghiêng, mặt hướng ra sông cho mát mẻ. Còn
người phụ nữ nữa, tôi chôn ở góc kia (cụ chỉ ra
phía gốc nhãn) nhưng bây giờ thì đã tụt xuống
ao rồi hình như lúc bị chết bà ấy đang có chửa.
Tân Cương nói: Một số người không thể
hiểu được xác chết trôi sông lại có thể vào được
đến đây. Cụ giám nói: Cái con mẹ Tiến nó cứ mồm
năm miệng mười, chứ làm sao mà nó biết được
bằng tôi. Ở ngoài kia nước cả, không đem vào
đây thì vùi làm sao được? Cụ nói tiếp: Điều này
thì tôi chỉ nghe phong phanh thôi. Tụi lính
đóng ở đồn nó bảo người phụ nữ bị giết đêm
hôm ấy là bà bé của tay xếp bót.
Cụ An cãi lại: Ông thì chỉ được cái ăn no
vác nặng, chẳng có hiểu biết gì. Có lần ông
chôn một anh bộ đội, ông lại bảo thằng lính
dõng. Tôi thì không được kéo xác như ông,
nhưng việc này thì tôi biết rõ. Có một người
phụ nữ du kích bị bắt, thằng xếp Bách dụ làm
vợ bé không được, nó đã giết đi. Ở bót này có
một thằng quan tư là quan thầy người Pháp,
còn thằng Bách tuy là tay sai nhưng cũng được
gọi là (thằng Bách lấy vợ người La Tiến, dân
đều biết rất rõ về nó).
Trời đã xế chiều. Mọi người hối hả thu
dọn.
Hằng nói: Bác Sơn bảo: Còn cái chân của
cô, moi sâu vào mà bốc. Bác bảo cứ bình tỉnh!
Từ sáng, bác đã rải quân canh phòng từ đầu
làng rồi, không cho phép quấy rối. (Tôi không
biết thực hư thế nào, nhưng lần nào bới trước
có cả trăm người vây vòng trong vòng ngoài, còn hôm nay thì chỉ có mấy đứa trẻ) . Bác bảo:
Được bà chị xuống với em, chẳng giúp được việc
gì, chỉ ngồi khóc!
Tân Cương tưởng anh tôi nói về cô em dễ
xúc động của tôi, liền chêm vào: sáng nay bà ấy
cứ nhất định đòi đi.
Hằng cải chính - Bác Sơn nói là nói đến
bà chị - Bác Nghĩa. Từ nãy, bà già cứ ngồi một
chỗ khóc: Nhà có sáu chị em gái, ai nấy đều có
phận, đâu đến nỗi nào, riêng em tôi giỏi giang
xinh xắn nhất nhà thì thế này ! Không tìm đượïc
xác em tôi, tôi chết cũng không nhắm được
mắt. Bây giờ tìm được em thì mình cũng đã ra
người thiên cổ rồi!
Bất chợt nghe thấy con số 6, tôi vội bấm
đốt ngón tay: 6 hay 5 nhỉ ? đúng là 6.
Bác Sơn (như hiểu ý anh Tân Cương) nói:
Cho cái cô Nam nhà tôi xuống đây thì chỉ được
cái bù lu bù loa, chẳng cho ai làm gì. Tính cái
con ấy nó vậy!
Cô Khang nói: Sau lần gặp cô em, ông anh
tôi đã về bốc cát lập ngay 7 bát hương, mỗi
người một bát! Đúng là một cuộc cách mạng với
ông anh tôi! Em Khang cảm động khi nhận
tấm lòng của anh Phương, chị Thủy. Cụ An nói: Bà cô là liệt sĩ, sao không làm
lễ truy điệu rồi hãy mang về quê?
Bác Sơn nói: Hôm nay cập rập quá, gia
đình chuẩn bị không kịp. Hôm nào đưa về
nghĩa trang liệt sĩ của huyện, sẽ làm lễ truy
điệu.
Cô Khang nói: Cậu Quỳnh còn giữ những
giấy tờ, bằng khen của chị không? (Quỳnh đáp:
Bằng khen và huân chương của chị em vẫn
giữ). Hôm nào làm lễ truy điệu chị ở nghĩa
trang liệt sĩ, cậu nhớ mang theo.
Tôi thật không ngờ; người chết đã 50 năm
mà vẫn quan tâm đến những vinh dự của mình
nơi trần thế!
Hằng nói: Cô cười bảo: Cụ Giám ạ! Cụ nói
oan quá, đã được làm bé ngày nào đâu? (mọi
người cùng cười). Nhưng cụ nói đúng đấy. Ngày
xưa ai cũng gọi là cô Khang tóc dài, nhưng khi
bị bắt, nó đã cắt cụt hết tóc. Trong việc chôn
cất các liệt sĩ ở đây, cụ là người có công nhất:
Chúng tôi rất biết ơn cụ.
Công việc thu vét hài cốt xong xuôi thì
mặt trời sắp lặn. Mọi người vây quanh gốc cây
vải, nơi đặt bàn thờ tạm. (Sau này Hằng kể lại:
Suốt ngày cô Khang và bác Sơn quanh quẩn ở đó, buổi chiều thì bác Nghĩa cũng ngồi ở đó ôm
lấy tấm ảnh, cụ An và cụ Giám thì ngồi ở xa
hơn, về phía tường hoa).
Cô Khang nói lời cảm ơn đối với gia đình
bác Điển, bác Đạt, nhờ bác Điển chuyển lời
thăm hỏi đến chị Nhương, chị Tiến.
Nay tôi về Mỹ Hào quê tôi, về với anh tôi.
Nằm tại đây còn một bộ hài cốt, gia đình người
ta cũng sẽ đến bốc về. Chỉ còn chị Bê, hài cốt
không còn gì. Nhờ bác Điển hương khói cho
vong hồn chị, chị sẽ phù hộ cho. Hồi đi hoạt
động lấy tên là Nguyễn Thị Bê, nhưng tên thật
của chị là Nguyễn Thị Út (Mấy người làng ồ
lên: bà Út! Thế mà tìm kiếm mãi!)
Cuối cùng cô dặn: Nhờ bác Điển đem
mâm lễ phát lộc cho các cháu.
Chúng tôi đưa hài cốt em tôi về nhà, và 2
hôm sau, đưa về nghĩa trang liệt sĩ của huyện,
có mặt đông đủ họ hàng nội ngoại. Sự xúc
động được đón người thân sau 50 năm cách
biệt xen lẫn với niềm tự hào về người con gái
của dòng họ đã hiến cuộc đời mình cho cuộc
sống hạnh phúc ngày hôm nay”.
 MỊ TÌM TRONG BÍ ẨN
NHỮNG THƠNG TIN ĐÁNG TIN CẬY
“Từhôm gặp anh Nhã đến hôm bốc
được hài cốt là một hành trình mò lần trong bí
ẩn. Những thông tin do anh Nhã đưa ra, đối
với chính anh cũng là điều bí ẩn: trúng hay
trật, chính anh cũng không biết. Còn linh hồn?
Chỉ có cháu Hằng nhìn thấy và nghe thấy.
Cháu nói lại những điều cháu nghe được, còn
thực hư thế nào cháu đâu có biết.
Cuộc hành trình đầy bí ẩn đã buộc tôi mò
đến hai nhà ngoại cảm nổi tiếng, mỗi người
một phương pháp: vẽ mộ và gọi hồn. Cả hai
phương pháp đều dẫn tôi đến cùng một kết
quả.
Hai mươi bốn ngày mò tìm trong bí ẩn,
chỉ đến ngày cuối cùng “ngày bốc mộ” mới kiểm
chứng được các thông tin. Tập hợp lại các
thông tin, tôi có được một hệ thống thông tin
mà tôi cho là đáng tin cậy, một số có thể xem
như vật chứng bằng chứng. Những thông tin
thu được qua các linh hồn.
1- Điều đầu tiên đặt ra với tôi: Có đúng là
những linh hồn người thân đang nói với tôi không? Cháu Hằng nhận dạng được các linh
hồn, cả những lúc cười cả vẻ mặt buồn hay vui.
Linh hồn cô Khang và anh Sơn đã được cháu
Hằng nhận diện qua tấm ảnh, còn tôi không
nhìn thấy, tôi kiểm tra qua những điều mà linh
hồn nói ra.
Hôm đầu tiên gọi hồn, lòng đầy nghi ngờ,
tôi thủ sẵn trong túi tấm ảnh của anh Sơn,
định bụng sẽ đưa ra hỏi linh hồn. Nhưng, ngay
khi nhìn thấy cô Khang, cháu Hằng đã báo cho
tôi: có một người đàn ông, thanh niên đi cùng
với cô. Nếu là một cô đồng gà mờ bịp bợm thì
dại gì mà “đẻ số” cho mình như thế? Tiếp đến,
cô Khang nói ngay: Người thanh niên đi cùng
với em chính là anh Sơn đấy. Vậy là tôi đã
kiểm tra được linh hồn cô Khang qua anh Sơn,
và không những thế, đã nhờ cháu Hằng nhận
diện cả hai linh hồn qua ảnh.
Ngày đầu tiên hai linh hồn đã nhắc đến 5
người trong gia đình tôi, với sự hiểu biết rất
chính xác về tính cách của từng người. Ngày
thứ hai tức ngày 17, hai linh hồn đã nhắc đến
10 người trong gia đình tôi, cũng với sự hiểu
biết chính xác như thế. Cách xưng hô cũng thể
hiện rất đúng vị thế, thái độ và tình cảm của
người nói đối với những người được nhắc đến. Các con tôi, có ý kiến nói: Bích Hằng đã
điều tra gia đình mình từ trước rồi. Sự nghi
ngờ đó, tôi biết là vô căn cứ, nhưng dù có điều
tra đi nữa, cũng không thể đặt vào miệng người
nói những câu như thế mà không phạm sai
lầm.
Ngoài những người trong gia đình, cô
Khang còn nhắc đến chị Tiến, chị Nhương là
những người quen biết cũ, nhắc đến cả anh
Cương, anh Đạt là những người không quen
biết nhưng đã góp sức vào việc tìm mộ gần đây.
Ngày 17 xuất hiện thêm 4 linh hồn nữa.
Lần này thì không có ảnh để nhận diện.
Nhưng qua những điều mà linh hồn nói ra thì
phải thừa nhận đúng là những người đã chết
đang nói. Bà già ngồi một chỗ khó c than, kể lể
về sáu chị em gái, đúng là chị cả của chúng tôi
chị Nghĩa. Cụ An là người cho mượn cái mai và
chứng kiến việc chôn cất, cụ Giám là người
chôn cất, mỗi cụ nói ra những điều thể hiện
đúng tư cách của mình. Còn linh hồn người
đàn ông họ Chử tuy nói không nghe rõ, nhưng
đã nhờ cô Khang nói với chú Quỳnh nhắn giùm
cho con gái ông ấy ở Vũng Tàu. Khớp lại
những điều mà các linh hồn nói ra thì đều xác
nhận hài cốt đã được bốc lên đúng là em tôi. 1- Cái cán thuổng là một vật chứng xác
nhận thông tin mà linh hồn em tôi cung cấp,
đồng thời xác nhận ngôi mộ: đúng là mộ em
tôi.
2- Răng trắng chuyển sang màu đen xỉn là
một vật chứng xác nhận thông tin của linh hồn
em tôi, đồng thời xác nhận hài cốt đúng là em
tôi.
3- Thông tin của em tôi về chị Nguyễn Thị
Bê, khi được biết tên thật là Nguyễn Thị Út, đã
được xác nhận. Chị nằm trong danh sách liệt sĩ
của xã.
4- Thông tin của em tôi về cái còng sắt
khóa tay em tôi với tay người đàn ông đã được
xác nhận qua lời kể của cụ Giám, tuy hiện vật
thì không tìm thấy có thể nó đã rỉ thành đất.
5- Thông tin của em tôi về vị trí ngôi mộ
cách cái hố đào lần trước ba bước chân xoải dài
ra phía bờ ao đã được xác nhận trên thực tế.
Thông tin của em tôi về 3 ngôi mộ sát gần
nhau, gần như nằm trên một đường thẳng,
trong đó mộ em tôi nằm giữa, điều này khớp
với chỉ dẫn của cụ Giám.
6- Thông tin của em tôi về người dân đã
vớt xác, thực ra cũng là dân phòng giả dạng thôi, điều này khớp với bằng khen về thành
tích kháng chiến mà cụ Giám nhận được, đồng
thời khớp với lời kể của cụ Yền về vai trò mà
làng giao cho cụ Giám.
7- Buổi sáng ngày 17, khoảng 10 giờ cô
Khang nói rằng: Người vớt xác là cụ Đặng
Đình Giám, thì buổi chiều khoảng 3 giờ, chính
cụ Giám xuất hiện kể về việc cụ đã vớ t và chôn
như thế nào.
8- Buổi sáng cô Khang kể về việc cụ Giám
dừng lại bảo, khi nào nhà ông An lên hương thì
vào mà xin lộc, thì buổi chiều, cụ An xuất hiện
nói về việc cụ Giám vào mượn cái mai, rồi kéo
xác qua cái rãnh nước đến chân ruộng mạ như
thế nào.
9- Khi xem ảnh, cụ Giám bảo người phụ
nữ mà cụ chôn cất không để tóc dài như trong
ảnh, mà cắt tóc đến gáy như Bích Hằng. Cô
Khang xác nhận là đúng, chính bọn địch đã cắt
cụt tóc cô. Mớ tóc trùm lên sọ mà chúng tôi tìm
thấy cũng là mớ tóc ngắn.
10- Cụ Giám tả lại khi chôn, cụ đã đặt cái
xác hơi nghiêng vì không nắn thẳng ra được,
mặt hướng ra sông cho mát mẻ. Trước đó
chúng tôi đã tìm thấy hài cốt ở tư thế ấy. 11- Cô Khang kể với cháu Hằng về móng
tay của cô. Điều này đối với tôi là một bằng
chứng vô cùng quý giá để khẳng định hài cốt
đúng là em tôi.
12- Cô Khang khoe với mọi người về việc
ông anh bốc cát lập bát hương. Điều này tuy
chỉ là tiểu tiết, nhưng chứng tỏ linh hồn em tôi
đã biết việc tôi làm, kể cả việc nhồi cát vào 7
bát hương mấy ngày trước đó.
Nhìn lại cái trận đồ bát quái của anh
Nhã. Với những thông tin đáng tin cậy thu
thập được qua các linh hồn, kết hợp với những
thông tin do dân làng cung cấp qua cuộc điều
tra của chúng tôi, tôi nhìn lại cái trận đồ bát
quái của anh Nhã. Mọi thông tin anh cho tôi
đều đúng, nhưng do sắp xếp không theo một
trật tự lôgíc nên khó hiểu, rối mù như một trận
đồ bát quái. Bây giờ việc đã thành, tôi hiểu nó
như sau:
1- Trước tiên phải tìm đến một cái vụng
xoáy. Chính ở cái vụng này. Xác em tôi khi còn
chìm dưới đáy sông, đã bị cuốn vào. Cuối tháng
6 đang là mùa nước, mực nước sông Luộc khi
chưa đến mức báo động, thường cách mặt đê
chỉ vài mét. Lúc xác nổi lên gặp lúc triều cường
thì không trôi tuột đi mà dạt vào một khúc quanh của con đê. Cái vụng xoáy chính là vụngï
Quạ. Khúc quanh của con đê cũng ở đó.
Vào mùa nước thì dải đất bãi ngoài đê, kể
cả cây cối, đều ngập bỉm dưới nước, không thể
chôn trên đất bãi được, mà phả i kéo xác qua đê
vào trong đồng. Nhưng dưới chân đê lại là một
vùng ruộng trũng. Tháng 6 đang là mùa mưa,
ruộng trũng đang bị ngập nước, vì thế phải kéo
xác vào vùng chân mạ, cao hơn.
2- Ông Giám đã kéo 3 cái xác qua đê
không khó khăn gì, vì mặt nước gần sát mặt
đê. Nhưng nhà ông ở mãi cuối làng, cách đó
một cây số, ông phải tạt vào nhà ông An để
mượn cái mai. Khi dừng lại, ông đã nói với xác
chết về việc xin lộc, ông An mà anh Nhã nói
không phải là anh An - con đã tiếp chúng tôi,
mà là ông An - bố tức là cụ An, cụ đã mất cách
đây 40 năm. Cái quán ông An không phải là
cái nhà anh An bây giờ, anh chị mới ra ở đó
chừng 10 năm nay thôi. Bố mẹ anh vẫn ở cách
đó 300m, sát mép cái đầm sen về phía Tây.
Ông làm nghề chở đò ở bến La Tiến, còn bà
làm hàng xáo và bán bánh đúc. Cái nhà tranh
lụp xụp của ông bà đồng thời là cái quán bán
bánh đúc. 3- Mượn được mai rồi, ông Giám đi trên
con đường bờ vùng, còn xác thì kéo trên cái
lạch nước gần nhà ông An, đến cái cống ở cửa
chùa để đến vùng chân mạ mà nay là đất ở của
cụ Nhờ và ông Điển. Con đường bờ vùng và cái
lạch nước nay đã biến mất trong lòng cái đầm
sen. Cái cống lấy nước từ lạch vào vùng ruộng
mạ thì nay vẫn còn, nhưng đường làng đã ngăn
cách nó với đầm sen, nó không còn tác dụng
lấy nước vào vùng ruộng mạ nữa.
4- Hồi cải cách ruộng đất vợ chồng bà
Nhờ được chia một mảnh ruộng mạ của địa chủ
mà nay là đất ở của bà và ông Điển. Năm
1960, trong phong trào hợp tác hóa, ông bà đã
góp ruộng vào hợp tác xã. Năm 1969, ông Điển
được hợp tác xã chia cho một mảnh ruộng là
đất ở. Mấy năm sau, bà Nhờ và nhiều nhà
trong vùng cũng được chia đất ở. Đó chính là
cái xóm mới, dân mới ra khoảng 20 năm. Mộ
nằm trên đất cô Nhường, đúng ra là trên đất
cô Nhờ, cái âm thanh mà anh Nhã nghe lơ lớ
như Nhường, Nhương, Nhượng, thực ra là Nhờ ,
một cái tên rất quê và cũng ít gặp.
5- Đường sá mà anh Nhã vẽ trên bản đồ
thì anh Đạt và cụ Yền nhận ra ngay, nhưng cụ Yền nhận xét: nó được vẽ theo đường ngày xưa,
ang áng như bây giờ thôi.
Tất cả những thông tin trên, đến với anh
Nhã đúng như đã diễn ra cách đây 50 năm
(Chính xác là 49 năm + 1 tháng), sớm nhất
cũng là 20 năm. Nhưng thông tin đến với anh
không theo trình tự thời gian và cũng chẳng có
mối liên kết giữa các hiện tượng, thành thử đã
có lúc tôi nghĩ nó chỉ là trận đồ bát quái do
anh bày ra.
6- Những dấu hiệu và tín hiệu khác cũng
rất đúng nhưng lại là những hiện tượng mới
xảy ra, đang xảy ra hoặc sắp xảy ra. Cái gốc
cây đổ là cây nhót mà ông Điển mới chặt,
nhưng chưa kịp đánh gốc. 5 cây cỏ lại có 10
bông hoa màu tím nhạt thì sớm nhất cũng chỉ
ra hoa được một tuần trước đó. Rồi bé gái mặt
áo hoa xanh, rồi con chó vàng nằm một chỗ
như ốm, rồi cái nhà mà bốn mặt đều sơn màu
trắng lốp, trước nhà đầy hoa đỏ ... tất cả đều
đúng, nhưng tại sao anh Nhã nói trúng như
thế, chính anh cũng không hiểu thì tô i làm sao
mà hiểu được?
7- Cái bản đồ do anh Nhã vẽ, sau này tôi
mới hiểu là chỉ có thể dùng để định hướng
thôi, không thể xem như một bản đồ địa chính. Có những chỗ rất đúng về chi tiết như: rẽ trái
60 mét, rồi rẽ phải 45 mét. Nhưng cái quán ông
An thì lại không nằm cạnh đường, mà nằm bên
kia cái đầm sen, cách nhà ông Điển chừng nửa
cây số; cái quán tạp hóa có cửa màu xanh
dương cũng không nằm cạnh ngã tư, mà nằm ở
bên kia một cái ao to, tuổi tác của cô Nhường,
của ông An, cũng chỉ áng chừng chứ không
thực chính xác.
8- Địa điểm ngôi mộ rất đúng, nhưng chỉ
đúng cho một hình vuông, có cạnh 5 mét.
Ngoài hình vuông đó sẽ chạm vào 2 ngôi mộ
khác. Trong khoảng diện tích 25m đó phải đào
một cái hố chỉ rộng 2,5 mét, quả là không dễ gì
trúng ngay được. Khi vẽ bản đồ anh ghi: Mộ
nằm cách gốc cây đổ 4 mét. Nếu đào đúng như
thế về hướng Đông - Đông Nam thì trúng.
Nhưng khi anh hướng dẫn tôi về hình tam giác
thì lại chỉ còn cách gốc cây đổ 1,5 mét. Khi
chỉnh mộ thì anh bảo phát triển về hướng
Nam, đúng ra là phải phát triển về hướng
Đông - Đông Nam. Lần thứ hai, với sự chỉ dẫn
của đôi bướm màu, thì tiến thêm về Đông Nam
là đúng hướng. Nhưng nếu đào thì phần cuối
của hố mới gần chạm đến đầu hài cốt. Phải

đào một cái hố thứ ba, xoay ngang theo hướng

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!