Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT - TẬP 3 -4

CON CÁI LÀ NHỜ ĐỨC CHA MẸ
Câu hỏi của Từ Đức
Hỏi:Kính thưa Thầy! Theo tục lệ ông
bà nói: “Con cái là nhờ đức cha mẹ”. Như cha
mẹ hiền đức thì con cái cũng nhờ đó ăn theo
phải không thưa Thầy?
Đáp: Câu nói này rất đúng: “Con cái nhờ
đức của cha mẹ” vì có nhân quả thiện mới sanh
vào nhà hiền đức, nhờ gương hạnh hiền đức của
ông bà cha mẹ, nên con cái cũng trở thành
hiền đức, nhờ hành động hiền đức của con cái
mà nó được hưởng phước, nếu hành động nó
làm ác hiện thời, khi nó thọ hết phước của đời
trước đã gieo (vào nhà hiền đức) thì nó phải
thọ lấy tai ương của hành động hiện tại.
Ví dụ: Những đứa con được sanh vào nhà
giàu có nhưng lại thích ăn chơi trác táng, rượu
chè, bài bạc, xì ke, ma túy, v.v.. không thích
học hành, những đứa con này không thể lấy
phước đức của ông bà cha mẹ mà che chở chúng
được, do đó suy ra chúng ta biết phước báo là
phải do chính con cái tạo ra, chứ không phải do
phước đức của ông bà cha mẹ mà nó hưởng được,... nó chỉ hưởng được ảnh hưởng tốt của
ông bà cha mẹ mà thôi, còn nó được chia gia
tài của cải hoặc làm ăn khá giả đều do phước
báo đời trước của nó nên mới sanh vào nhà
giàu có và hiền đức.
Tóm lại, nếu một người được tái sanh vào
nhà hiền đức là do tiền kiếp khéo tu thiện
pháp, nếu trong kiếp hiện tại không theo
gương đức hạnh của cha mẹ ăn hiền ở lành thì
ngay trong kiếp hiện tại đó cũng phải gặt hái
những tai ương, họa khổ, vì chính hành động
bất thiện của con cái dù cha mẹ có hiền đức
nhưng con cái vẫn phải thọ khổ. Vì thế , có
những gia đình hiền đức mà con cái chẳng hiền
đức chút nào, thường nghiện ngập, xì ke, ma
túy, rượu chè, bài bạc, v.v.. Đây là môi trường
tốt nhưng hạt giống xấu.
Ngược lại, có những gia đình không hiền
đức mà những đứa con ngoan tốt… chăm học,
không tham lam trộm cắp, không rượu chè bài
bạc, hút xách, không xì ke ma túy… Đây là môi
trường xấu mà hạt giống tốt.
Con cái nhờ đức của cha mẹ là nhờ cái
gương đức hạnh để làm tốt theo, chứ không
phải nhờ vào đức hạnh của cha mẹ mà thọ
hưởng sự giàu sang phú quý. Theo luật nhân quả ai làm thiện thì hưởng
phước báo, ai làm ác thì phải chịu quả khổ,
không ai giúp cho ai được. Dù là cha mẹ có

thương con cách nào cũng không giúp được, nếu
chính bản thân nó không ăn hiền ở lành, sống
đời sống thiếu đạo đức thì nó phải chịu lấy hậu
quả xấu. Dù cha mẹ có ở hiền đức gì cũng
không cứu nó được, chỉ trừ cha mẹ thiếu nợ
nhân quả của nó, nên nó đến nó đòi, bằng cách
phá của cải tài sản của cha mẹ tiêu tan.
Cho nên câu nói: “Con cái nhờ đức của cha
mẹ”, nếu không khéo hiểu thì câu này trở
thành lời nói phi đạo đức nhân quả, khiến cho
con cái dựa lưng vào cha mẹ mà không tự lực
vươn lên trong nền đạo đức nhân bản nhân
quả, thì cuộc đời của nó chỉ là một cuộc đời khổ
đau, tiêu cực.
 Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
LỠ TAY LÀM CHÚNG SANH
CHẾT THÌ PHÂI LÀM SAO?
Câu hỏi của Diệu Tịnh
Hỏi:Kínhthưa Thầy! Thầy đã dạy
chúng con tu tập trau dồi lòng từ, bi, hỷ, xả,
trong công việc làm hàng ngày lỡ tay làm
chúng sanh đau khổ hoặc chết.
Trước cảnh đau khổ và chết của chúng
sanh, con phải làm như thế nào để tránh sự
trạo hối trong tâm con? Nhất là con đã xuất
gia, để khỏi bị khuyết giới và nhân quả?
Đáp: Xưa, Đức Thế Tôn là người đi kinh
hành nhiều nhất, ngay cả ban đêm, vì thế làm
sao không vô tình giẫm đạp lên chúng sanh.
Giới luật dạy không giết hại chúng sanh,
tức là dạy không cố tình giết hại chúng sanh,
chứ không phải dạy vô tình.
Tứ vô lượng tâm là dạy từ, bi, hỷ, xả là để
đối trị tâm tham, sân, si, ngã mạn, nghi, chứ
không phải dạy vô tình sát sanh.
Chánh niệm tỉnh giác định là dạy chúng
ta tỉnh thức trong mọi hành động để tránh sự vô tình sát sanh. Có tỉnh thức làm sao vô tình
sát sanh, chỉ thiếu tỉnh thức say mê công việc,
hoặc làm cho rồi việc thì mất tỉnh thức nên
mới có trường hợp xảy ra vô tình sát sanh.
Người đi tu có tỉnh thức không bao giờ vô
tình sát sanh.
Người làm mọi công việc có tỉnh thức cũng
không vô tình sát sanh.
Chỗ nào có chúng sanh nhiều chúng ta
nên tránh, dưới cỏ, dưới đất, ta rất ý tứ nhưng
không thấy lỡ tay làm cho chúng đau khổ hoặc
chết, khi làm lỡ tay như vậy, trước thể xác
chúng sanh con hãy chấp tay lên trước ngực và
xin ước nguyện cho chúng sanh đang chết được
sanh làm người, được gặp Phật pháp, được gặp
Minh sư, được tu hành đến nơi đến chốn, đừng
sanh làm loài chúng sanh nữa.
Một hạt gạo, một củ khoai, một trái cây,
chúng ta ăn để sống hàng ngày, đều có sự gián
tiếp giết hại chúng sanh trong đó.
Người nông dân sản xuất gạo và thực
phẩm cho sự sống của con người, họ phải giết
hại các loài sâu bọ, côn trùng mà còn phải giết
các loài chim, chuột và các loài cầm thú khác
để bảo vệ thực phẩm mùa màng. Tuy chúng ta không trực tiếp giết hại,
nhưng chúng ta ăn thực phẩm là đã gián tiếp
giết hại, bởi vậy có thân này là thân nhân quả
nghiệp báo không thể nào thoát khỏi nhân quả,
tuy là vô tình nhưng cũng phải đền nợ máu.
Đời sống chúng ta không còn cách nào khác
hơn khi ta đã là con người và chúng sanh đã là
con vật. Nợ máu xương trong tiền kiếp, kiếp
này gặp nhau tuy vô tình cũng phải trả vay,
vay trả.
Đạo Phật dạy chúng ta những gì chưa
thấu hiểu, phải thấu hiểu. Có thấu hiểu lý của
Đạo ta mới vững tâm tu hành, nếu không thấu
lý của Đạo, tưởng chừng như không thể nào tu
hành nổi.
Mới nghe giới luật đạo đức hiếu sinh của
đạo Phật chúng ta chỉ còn có nước nhịn ăn,
nhịn uống, treo chân, treo tay, chẳng còn dám
làm gì cả. Nhưng, tội do đâu mà có?
- Do tâm mà có tội.
- Tâm do đâu mà có?
- Do dục mà có.
- Dục do đâu mà có?
- Do tham, sân, si mà có. Mục đích tu tập của đạo Phật là đoạn dứt
tham, sân, si, chứ không phải đoạn dứt sự vô
tình sát sanh.
Khi nào tâm tham, sân, si hết là tâm đã
bất động, mà tâm đã bất động thì còn hoàn
cảnh, đối tượng và sự việc nào làm họ đau khổ
thì làm sao gọi là có tội.
“Tánh tội vốn không do tâm tạo
Tâm bất động rồi tội có được không?”
Ở đây chúng ta đã hiểu được lý của Đạo
nhưng còn tu hành phải như thế nào?
Tùy mọi hoàn cảnh, mọi việc làm, mọi đối
tượng, cẩn thận, ý tứ, tỉnh thức để tránh vô
tình sát sanh được ở mức nào tốt mức nấy.
Đừng làm đại, làm đùa cho xong việc, mà hãy
lấy việc làm thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm,
tránh vô tình giết hại bằng sức tỉnh thức và
pháp hướng tâm để quét sạch tâm tham, sân, si
(vô lậu).
Người đời không biết tu, dù họ có tránh
sát sanh hoặc vô tình sát sanh bằng mọi cách,
nhưng tội khổ họ vẫn phải chịu.
Người tu biết cách diệt ngã, xả tâm, ly
dục, ly ác pháp, dù tội họ có chất ngập cả không gian này, tâm họ bất động vẫn không
thấy có tội. Tại sao vậy?
Tại vì có tâm động mới có tội.
Mục đích tu hành là lo diệt ngã, xả tâm,
chứ không đoạn dứt sự vô tình sát sanh nhưng
phải cẩn thận, ý tứ, từng hành động để tránh
sự vô tình sát sanh, đó là một hành động tu
tỉnh thức tốt nhất.
Trước sự quằn quại đau thương của chúng
sanh dưới bàn tay vô tình của mình, chúng ta
không thấy thương tâm sao?
Người tu sĩ Phật giáo phải lấy tứ vô lượng
tâm thực hiện định chánh niệm tỉnh giác, nhờ
đó mới đạt được tâm “vô lậu” và nhập được “Tứ
Thánh Hiện Tại An Lạc Trú Định” một cách dễ
dàng, không còn khó khăn nữa.
Đừng tu tập theo kiểu Tịnh Độ một cách
giả dối gian ác và lừa đảo mọi người. Tay cầm
dao cắt cổ gà miệng đọc chú vãng sanh: “Nam
Mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ...”. Đọc
thần chú này khi con gà bị chết, linh hồn sẽ
được về Cực Lạc Tây Phương, để được sanh làm
người, thật là lừa đảo, dối người. Những người tu theo Tịnh Độ với việc làm
như vậy được xem là thực hiện Tứ Vô Lượng
Tâm “Từ, Bi, Hỷ, Xả” ư!
Thời nay, người xuất gia làm nhiều việc
không phải việc của người xuất gia, nên thường
phạm tội lỗi, nhất là tội sát sanh, ngày xưa
người xuất gia chỉ duy nhất có một nghề khất
thực, vì nghề đi khất thực nên ít phạm lỗi lầm,
do đó tập tu Tứ Vô Lượng Tâm rất dễ dàng, chỉ
cần tỉnh thức trên từng bước đi của mình là đã
thực hiện được tâm từ, bi, hỷ, xả.

BẰNG CÁCH NÀO KIẾP SAU
GẶP ĐƯỢC CHÁNH PHẬT PHÁP
Câu hỏi của Diệu Tâm
Hỏi:Kính thưa Thầy! Nếu kiếp này con
không tu giải thoát được, nhưng có hiểu chút ít
chánh pháp, làm thế nào để kiếp sau con vẫn
nhớ và ngộ đạo được sớm hơn (6,7 tuổi) đi tu? Đáp: Nếu muốn kiếp sau gặp được chánh
pháp tu hành, thì kiếp này mỗi tháng con nên
chọn một ngày Thọ Bát Quan Trai.
Thọ Bát Quan Trai là phương pháp học
làm Phật một ngày, chỉ một tháng có một ngày
làm Phật thì đó là gieo duyên với chánh Phật
Pháp để kiếp sau còn có duyên gặp được Chánh
Phật Pháp, đức Phật ví dụ như cây cổ thụ kia,
nó nghiêng về hướng nào thì bóng nó nghiêng
về hướng nấy.
Thọ Bát Quan Trai là phương pháp tu tập
giữ gìn giới đức Thánh Tăng, nếu một ngày tu
tập Thọ Bát Quan Trai, chịu khó con tư duy lại
xem có phải ngày ấy là một ngày con ly dục ly
ác pháp chăng? Có phải ngày ấy là ngày con
sống cho con phải không ? Nếu ngày ấy con tu
hành đúng pháp của Phật thì con tìm thấy
được một ngày giải thoát hoàn toàn.
Ngày Thọ Bát Quan Trai mà con biết
buông xuống hết những gì đang trói buộc trong
con, thì con tìm thấy một chân trời hạnh phúc
tại ngay đó.
Ngày Thọ Bát Quan Trai là ngày con gieo
nhân với chánh Pháp của Phật, ngày ấy không
bao giờ mất. Ngày Thọ Bát Quan Trai là ngày con thắp
sáng ngọn đèn trí tuệ giải thoát trong con, và
ngọn đèn trí tuệ ấy cháy mãi cho đến khi con
hoàn toàn chấm dứt sanh, tử, luân hồi vào Niết
Bàn.
Như vậy ngày Thọ Bát Quan Trai là ngày
quan trọng nhất của đời người cư sĩ của các con,
nó là một mốc quan trọng quyết định cho cuộc
đời tu hành theo Chánh Phật Pháp. Các con
hãy ghi nhớ những lời dạy trên đây, nhưng các
con cũng phải đề phòng, vì có những loại Thọ
Bát Quan Trai giả, lừa đảo mà không đúng
chánh pháp của Phật.
Ví dụ: Thọ Bát Quan Trai bằng cách tụng
kinh, niệm Phật, trì chú, ngồi thiền nghe
thuyết pháp... đó là Thọ Bát Quan Trai của Bà
La Môn.
Thọ Bát Quan Trai đúng cách của Phật
giáo thì không được tập trung đông người vào
Thiền đường, Tổ đường, Đại hùng bảo điện, mà
chỉ mỗi người ở riêng một cái thất, sống độc cư,
phòng hộ sáu căn và tu tập Tứ Niệm Xứ đẩy lui
các chướng ngại pháp trên bốn chỗ: thân, thọ,
tâm, pháp, khiến cho thân tâm thanh thản, an
lạc và vô sự suốt ngày hôm ấy, giống như Phật
và chúng Tỳ kheo Tăng và Tỳ kheo Ni ngày xưa trong thời Phật còn tại thế. Có tu tập đúng
như vậy mới gieo duyên với Chánh Pháp. Nhờ
đó, muôn đời ngàn kiếp không sợ mất chánh
pháp.

NHẬ tìm thấy sự an ổn bất động của tâm. Chỉ khi
nào chứng Lậu tận minh thì lậu hoặc mới thật
sạch, chừng đó mới chấm dứt được sự tái sanh
luân hồi.
Khi nhập Tứ Thiền nơi đây có hai ngõ
diệt sạch lậu hoặc, một ngõ đi về Tam Minh và
một ngõ đi về Diệt thọ tưởng định, nếu đi về
ngõ Diệt thọ tưởng định thì thân tâm như cây
đá, thân giống như người chết nhưng không
hoại diệt, nhờ từ trường định của diệt thọ bảo
vệ thì trong lúc nhập Diệt Thọ Tưởng Định
không có lậu hoặc.
Đi ngõ Tam Minh thì thân tâm giống như
người sống bình thường nhưng bất động trước
các ác pháp, tâm luôn lúc nào cũng thanh tịnh
và thanh thản, an lạc, vô sự. Sống, chết, bệnh,
đau là việc vô thường của nhân quả không tác
động được thân tâm họ. Họ sống một đời sốn g
còn lại những ngày an vui tuyệt vời.
NHẬP TAM THIỀN
CĨ HẾT LẬU HOẶC CHƯA?
Câu hỏi của Diệu Tâm
Hỏi:Kínhthưa Thầy! Khi một vị Tỳ
Kheo nhập được Tam Thiền có thể hết lậu hoặc
chưa (không còn tham, sân)?
Đáp: Trong kinh dạy một vị Tỳ Kheo
nhập được Tam Thiền mới đoạn dứt năm hạ
phần kiết sử còn năm thượng phần kiết sử chưa
đoạn, vì thế lậu hoặc chưa hết. Một người nhập
Tam thiền mà chưa có Tứ Thần Túc là người
nhập Tam thiền của ngoại đạo , riêng kinh
nghiệm bản thân của Thầy, một vị Tỳ Kheo
nhập được Sơ Thiền là ly được “tâm dục”, còn
nhập được Tam Thiền là ly được “tưởng dục”,
tuy gốc lậu hoặc chưa quét sạch, nhưng cũng tìm thấy sự an ổn bất động của tâm. Chỉ khi
nào chứng Lậu tận minh thì lậu hoặc mới thật
sạch, chừng đó mới chấm dứt được sự tái sanh
luân hồi.
Khi nhập Tứ Thiền nơi đây có hai ngõ
diệt sạch lậu hoặc, một ngõ đi về Tam Minh và
một ngõ đi về Diệt thọ tưởng định, nếu đi về
ngõ Diệt thọ tưởng định thì thân tâm như cây
đá, thân giống như người chết nhưng không
hoại diệt, nhờ từ trường định của diệt thọ bảo
vệ thì trong lúc nhập Diệt Thọ Tưởng Định
không có lậu hoặc.
Đi ngõ Tam Minh thì thân tâm giống như
người sống bình thường nhưng bất động trước
các ác pháp, tâm luôn lúc nào cũng thanh tịnh
và thanh thản, an lạc, vô sự. Sống, chết, bệnh,
đau là việc vô thường của nhân quả không tác
động được thân tâm họ. Họ sống một đời sốn g
còn lại những ngày an vui tuyệt vời. Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
NGƯỜI GIÂNG THIỀN THÂM SÂU
CĨ PHÂI VƯỢT QUA NĂM ẤM CHƯA?
Câu hỏi của Diệu Tâm
Hỏi:Kính thưa Thầy! Một vị Tỳ Kheo
thuyết giảng thiền rất thâm sâu, tâm vượt năm
ấm tường tận, có phải vị ấy đã trải qua kinh
nghiệm tu mà nói lên?
Đáp: Một vị Tỳ Kheo nhập Tam Thiền
không thể vượt qua năm ấm được, chỉ có nhập
Diệt thọ tưởng định mới vượt qua năm ấm.
Một vị Tỳ Kheo thuyết giảng thiền rất
thâm sâu về lý, nhưng không trải qua kinh
nghiệm tu hành mà nói lên, nên phần nhiều
lạc vào tưởng pháp do tưởng tuệ. Sự giảng kinh
thuyết pháp rất hay, nhưng xét cho cùng chỉ là
một lý thuyết suông ở đầu môi chót lưỡi, nên
pháp hành tu tập không thông, tu tập sai pháp,
không có kết quả. Vì thế, họ chưa bao giờ nhập
định được.
Trong kinh sách Phật có dạy sáu loại
tưởng: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tưởng,
người tu thiền định lạc vào định tưởng, pháp tưởng triển khai, luận thiền, luận đạo rất là
thâm sâu về lý, nhưng pháp hành không vững.
(Thiếu kinh nghiệm bản thân chỉ vay mượn
trong kinh sách nói hoặc tưởng theo chữ nghĩa
giảng dạy ra có khi đúng nhưng cũng có khi
sai). Những gì của các nhà học giả giảng ra
theo tưởng giải thì không thể nào tu tập được
vì thiếu kinh nghiệm tu.
Thiền Đông Độ và kinh sách Đại Thừa
đều do tưởng giải của người xưa nên chúng ta
tu tập không đưa đến kết quả rốt ráo được,
định cũng không ra định, tuệ cũng không ra
tuệ, cuối cùng chỉ trở thành một trò hý luận,
chứ chẳng thấy có ai làm chủ sanh, già, bệnh,
chết cụ thể.
Bởi vì, các thiền sư thời đại của chúng ta
nói nhiều, mà bệnh đau thì đi nằm nhà thương,
bác sĩ trị, thì thử hỏi làm sao chúng ta tin
miệng họ được.
Người tu thiền Đông Độ sống vì danh, vì
lợi nên luôn luôn tranh luận hơn thua và còn
dùng những danh từ nói xấu kẻ khác, trong khi
đó tu hành chỉ có hình thức mà chẳng có ai
nhập định làm chủ sanh, già, bệnh, chết được.
Xưa, đức Phật từng đã nhắc nhở chúng ta:
“Đừng có tin... đừng có tin... mà hãy tin những gì chúng ta thực hiện có lợi ích không làm khổ
mình, khổ người”. Cho nên, người ta thuyết
giảng hay chưa hẳn họ đã làm được hay.

TAM MINH
Câu hỏi của Diệu Tâm
Hỏi:Kính thưa Thầy! Trong băng Thầy
phủ nhận không có Lục Thông và Tam Minh.
Qua suốt giáo án chúng con ngầm hiểu Thầy có
được những điều ấy. Tại sao Thầy không nhận
để nó là linh hồn, là niềm tin vững chắc của
giáo án? Con nhớ Phật còn bảo: Ta đã chứng
được Tam Minh, lậu tận ta đã hết.
Đáp: Thầy phủ nhận Tam Minh, Lục
Thông là vì thần thông không phải là mục đích
tu hành giải thoát của đạo Phật. Một người tu
hành làm chủ được sự sống chết và chấm dứt
luân hồi thì Tam Minh, Lục Thông họ phải đầy
đủ, nhưng vì nó không phải mục đích, nếu dùng
nó thì người ta đến với đạo Phật sẽ sai mục
đích, mà đã sai mục đích thì không bao giờ làm
chủ sanh, già, bệnh, chết được. Nếu không làm chủ sanh, già, bệnh, chết được thì Tam Minh,
Lục Thông cũng chẳng bao giờ có, và nếu có thì
cũng chẳng có nghĩa lý gì cả.
Phật là đấng giáo chủ, Ngài tuyên bố thần
thông như vậy là để đối phó với ngoại đạo. Các
đệ tử của Ngài không được tuyên bố như vậy.
Kinh Đại Thừa dạy: “Còn thấy mình chứng
quả A La Hán là chưa chứng quả A La
Hán”. Đó là lối lý luận lừa đảo của Đại Thừa
che đậy khi tu hành chưa đến nơi đến chốn.
Còn Phật giáo Nguyên Thủy tu đến đâu chứng
đến đấy, tâm có tham thì biết tâm có tham,
tâm không tham thì biết tâm không tham; tâm
có sân thì biết tâm có sân; tâm không sân thì
biết tâm không sân; tâm có Tam Minh, Lục
Thông thì biết tâm có Tam Minh, Lục Thông;
tâm không có Tam Minh, Lục Thông thì biết
tâm không có Tam Minh, Lục Thông. Và biết
sử dụng đúng thời, không bị lợi danh làm mờ
tâm trí, do đó Thầy phủ nhận không tự xưng
mình có Tam Minh, Lục Thông mà chỉ biết có
sự giải thoát mà thôi.
Thầy không dụ dỗ người theo Thầy tu
hành bằng thần thông, ai thấy con đường tu
hành của Thầy là phương pháp sống đạo đức
giải thoát không làm khổ mình, khổ người thì theo, còn không muốn sống đạo đức nhân bản -
nhân quả thì Thầy không ép, không mời,
không lôi cuốn bằng những kinh sách nói láo,
bằng sự mê tín, bằng bùa chú thần thông, v.v..
Trên đường tu tập thiền định để đi đến sự
cứu cánh thì phải đi ngang qua Lục Thông Tam
Minh nên biết nó rõ ràng nhưng không phải vì
tu để chứng nó. Nó không phải là mục đích để
chúng ta chứng, mục đích tu chứng là tâm bất
động.
Xay lúa, có gạo và trấu, gạo chúng ta lấy,
trấu chúng ta bỏ.
Thần thông ví như vỏ trấu còn tâm bất
động là gạo, cho nên tu tập theo Phật giáo tâm
không được tham đắm thần thông, còn tham
đắm thần thông là không bao giờ tâm ly dục ly
ác pháp được, tâm không ly dục ly ác pháp thì
không bao giờ nhập chánh định được mà không
nhập được chánh định thì không bao giờ có Lục
Thông, Tam Minh.
Người chưa ly dục ly ác pháp mà nhập
được định đó là tà định, vì thế, họ có Ngũ
Thông chứ không được Lục Thông, Tam Minh
như người tâm ly dục ly ác pháp. Người tâm chưa ly dục ly ác pháp dù họ có
Ngũ Thông, có nhập định để lại nhục thân,
nhưng không làm chủ sanh, già, bệnh, chết và
chấm dứt luân hồi được.
Thần thông không phải cốt tủy và niềm
tin của đạo Phật. Vì Thầy tu hành có thần
thông nhưng Thầy xem nó là một trò ảo thuật
để dễ lừa đảo người khác.
Xưa, ông thân của Thầy là một tu sĩ Mật
Tông, ông lên núi Bà Đen và sang núi Cậu tu
luyện thần thông rất linh diệu và mầu nhiệm,
ông đã truyền lại cho Thầy tất cả mật chú,
nhưng Thầy không phải là kẻ lừa đảo và ác
độc, nên Thầy quyết tâm đi tìm đường tu tập
giải thoát ra khỏi mọi sự đau khổ của kiếp làm
người.
Chung quanh chùa nơi Thầy đang ở lúc
bấy giờ toàn là một hàng rào tre, đến mùa
măng mọc người chung quanh xóm nghèo khổ
lén vào cắt trộm măng, ông thân Thầy dùng
bùa chú yểm, khiến cho người vào đến ranh
giới chùa là bất động đứng như trời trồng, ông
thân của Thầy chỉ còn ra bắt và khuyên không
nên trộm cắp, nếu còn trộm cắp măng thì ông
thân Thầy sẽ đưa đến làng xã, khiến cho người
ta quá sợ. Bùa chú của ngoại đạo mà còn mầu nhiệm
như vậy huống là tâm ly dục ly ác pháp, thanh
tịnh hoàn toàn thì sự mầu nhiệm của tâm
không thể lường được, vì thế người tu sĩ Phật
giáo đi tu không cầu mong Lục Thông Tam
Minh mà vẫn có đầy đủ Lục Thông Tam Minh,
không tu luyện Lục Thông Tam Minh mà vẫn
có Lục Thông Tam Minh đầy đủ.
Người đi tu theo Phật giáo mà còn có tâm
cầu Lục Thông Tam Minh thì đã tu sai đường.
Hãy xa lìa và đoạn trừ tâm đó mà chỉ cố gắng
tu tập sống một đời sống ly dục ly ác pháp, thì
nơi đó là Niết Bàn, là hạnh phúc, là sự giải
thoát của một kiếp làm người, là đạo đức không
làm khổ mình, khổ người. Thế là đủ lắm rồi , có
còn mong muốn những điều gì hơn. Phải không
con?
Cho nên, Thầy biết đủ thứ thần thông,
nhưng Thầy không chấp nhận thần thông và
thế giới siêu hình, luôn luôn lúc nào Thầy cũng
muốn đem lại cho con người một nền đạo đức
nhân bản - nhân quả sống không làm khổ
mình, khổ người, đó là một sự lợi ích thiết
thực, còn thần thông chỉ là một trò lừa đảo,
làm khổ người. Chẳng hạn như ông thân của
Thầy, nếu ông thân của Thầy vắng mặt, không có ở chùa thì các con nghĩ sao? Khi người trộm
cắp măng này bị bùa chú bắt cứng mình thì họ
sẽ khổ biết dường nào!
Trên cuộc đời này, con có thấy những
người tu hành có thần thông, đem lại hạnh
phúc gì cho con người chưa? Hay chỉ là những
người có thần thông luôn luôn làm việc bất
chánh, làm khổ đau người “tiền mất tật
mang”.
Nếu Thầy không giải thích cho các con rõ,
mà nhận mình có thần thông là Thầy đã phỉ
báng Phật giáo, là Thầy đã hại Phật giáo. Vì
Phật giáo không phải là những tôn giáo tu tập
để có thần thông, dùng thần thông cám dỗ
người theo đạo mình, mà Phật giáo là tôn giá o
tu tập làm ích lợi cho mình, cho người.
Thầy không lấy thần thông cám dỗ các
con theo Phật giáo, mà chỉ lấy đạo đức dạy các
con đối xử với nhau, để không làm khổ mình,
khổ người, đó là các con thoát khổ.
Các con nên hiểu, có thần thông là không
có đạo đức, có đạo đức là không thực hiện thần
thông. Ai muốn tu theo Thầy để cầu sống một
đời sống không làm khổ mình, khổ người, để
tâm hồn được thanh thản an lạc và vô sự thì
theo, bằng cầu thần thông thì đi tìm nơi khác mà tu, chứ ở đây Thầy chẳng có thần thông để
dạy.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!