Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT - TẬP 3 -6

Nơi đâu có Chánh kiến thì nơi đó có tâm
hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Và vì vậy, nơi
đó có sự giải thoát của đạo Phật.

SAU KHI NHẬP DIỆT CHƯ PHẬT
CỊN TRỞ LÄI THẾ GIAN NỮA KHƠNG?
Câu hỏi của Từ Tuệ
Hỏi:Kínhthưa Thầy! Đức Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni và các vị Phật xưa kia, sau
khi nhập diệt từ bỏ xác thân có trở lại thế gian
nữa không?
Đáp: Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni sau
khi nhập diệt từ bỏ sắc thân không còn trở lại
thế gian nữa.
Trong kinh Nguyên Thủy thuộc tạng kinh
A Hàm, Đức Phật Thích Ca đã xác định điều
này rất rõ ràng. “Ta chỉ còn một kiếp này
nữa thôi”. Tại sao Phật không tái sanh lại cõi
thế gian này nữa?
Chư Phật không tái sanh lại cõi thế gian
này nữa, vì cõi thế gian đầy rẫy các ác pháp, con người trên thế gian này có việc gì thì ăn
thua đủ, không biết nhẫn nhịn, hung dữ, chửi
mắng, mạt sát lẫn nhau, gian xảo, lừa đảo, điêu
ngoa, xảo quyệt, giả dối, nhiều chuyện, gian ác,
hiểm độc, v.v..
Phật không dám tái sanh lại cõi thế gian
này nữa, là vì khí hậu thời tiết khắc nghiệt, lúc
nắng, lúc mưa, gió bão bất thường, lại thêm bão
lụt, động đất, thủy tai, hỏa hoạn, giặc giã, trộm
cướp, giết người chẳng chút lòng xót thương,
v.v..
Phật không dám tái sanh lại cõi thế gian
này nữa, là vì mang thân tứ đại này giống như
ở tù chung thân đi đâu cũng không được tự tại,
tự do rất là khổ sở.
Phật không dám tái sanh lại cõi thế gian
này nữa là vì tâm Phật hết tham, sân, si. Tâm
Phật hết tham, sân, si thì không còn tương ưng
với chúng sanh thì không thể nào tái sinh lại
được, dù Phật muốn sinh làm người lại nhưng
không làm sao được nữa.
Phật không dám tái sanh lại cõi thế gian
này nữa, là vì mang thân tứ đại này như ở
trong ổ bệnh, nóng nực quá chịu không nổi,
lạnh quá chịu cũng không xong, mỗi mỗi đều có
thể xảy ra gây thương tích làm đau nhức không xiết kể. Thân tứ đại lại vô thường nên thường
xảy ra bệnh tật, khi bệnh tật thì khổ đau vô
cùng, vô tận. Vì thân tứ đại vô thường, nên
không tránh khỏi sự già nua, mà hễ già nua thì
tay chân run rẩy, đi đứng không vững vàng, thì
thật là khổ sở vô cùng. Vì thân tứ đại vô
thường nên sự hoại diệt chắc chắn phải đến,

đến trong sự đau khổ tử biệt sanh ly.
Cho nên, khi một đức Phật nhập diệt
không tránh khỏi cả một trời đau thương phải
không hỡi các con?
Khi còn là một học Tăng, Thầy đọc kinh
Niết Bàn, trước giờ phút đức Phật nhập diệt cả
Trời Người đều khóc thương thảm thiết, khiến
Thầy cũng xúc động khóc theo. Đây không phải
là sự đau khổ tận cùng của sự chia ly hay sao?
Cho nên, đức Phật ra đi, bỏ báo thân này
thì không bao giờ trở lại làm thân người nữa,
không phải chư Phật sợ khổ đau làm thân
chúng sanh, mà chính duyên chúng sanh đã
hết. Nếu còn duyên với chúng sanh thì đức
Phật không bao giờ nhập Niết Bàn, Ngài sẽ
phục hồi sự sống rất dễ dàng, muốn sống bao
lâu cũng được. Trong kinh Niết Bàn đã nói điều
này rất rõ ràng. Hết duyên với chúng sanh, có nghĩa là
duyên nhân quả đã hết. Mục đích của một
người tu theo đạo Phật là phải trả sạch nhân
quả, có nghĩa là không còn nợ nhân quả; không
còn nợ nhân quả tức là một người sống toàn
thiện, vì sống toàn thiện là thoát khổ, cho nên
không còn nghiệp lực nhân quả đi tái sanh;
không còn nghiệp lực nhân quả đi tái sanh, thì
lấy cái gì để đi tái sanh, cái đi tái sanh đã bị
diệt rồi và nợ nhân quả cũng hết rồi thì còn
duyên nghiệp gì, để Phật đi tái sanh nữa.
Mục đích phải đạt của một vị tu sĩ là tu
thành Phật, thành Phật để chấm dứt duyên
nghiệp tái sanh luân hồi. Khi chấm dứt rồi thì
còn lấy cái gì đi tái sanh. Mầm tái sanh đã bị
diệt ngay từ lúc hướng tâm đến Lậu Tận Minh.
Mầm tái sanh làm người đã dứt thì nợ
nhân quả đã hết, nợ nhân quả đã hết thì duyên
chúng sanh đã hết, duyên chúng sanh đã hết,
thì dù có muốn tái sanh cũng không làm ích lợi
cho con người. Vì hết duyên, có thuyết giảng, có
dạy đạo chúng sanh cũng chẳng nghe.
Ví dụ: Hiện giờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni
có tái sanh trở lại dạy người tu hành thì người
ta vẫn phỉ báng rằng đức Phật Thích Ca Mâu
Ni dạy pháp điên, dạy lỗi thời, dạy không đúng giáo pháp Đại Thừa và Thiền Đông Độ, dạy cho
những người sơ cơ còn có chứng, có đắc, còn
pháp môn hiện giờ vô chứng, vô đắc, tự tại, vô
ngại đói ăn, khát uống, không chấp giới luật.
Do những điều trên đây mà chư Phật nhập
diệt rồi thì không bao giờ trở lại cảnh giới thế
gian này nữa.

KHI NHẬP DIỆT ĐỨC PHẬT
ĐÃ TRỞ THÀNH SĨNG ÁNH SÁNG?
Câu hỏi của Từ Tuệ
Hỏi:Kính thưa Thầy! Cóphải các vị
Phật đã trở thành ánh sáng (sóng ánh sáng).
Ánh sáng này mang năng lượng tỉnh giác, trí
tuệ, không phải ánh sáng do mặt trờ i chiếu?
Đáp: Khi nhập diệt, bỏ sắc thân này tức
là chấm dứt tái sanh luân hồi, chấm dứt tái
sanh luân hồi tức là chấm dứt sự đau khổ của
muôn vạn kiếp làm chúng sanh. Khi chấm dứt tái sanh luân hồi, thì không
trở thành ánh sáng (sóng ánh sáng), mang
năng lượng tỉnh giác trí tuệ.
Khi vào Niết Bàn bỏ xác thân này, thì chư
Phật luôn luôn lúc nào cũng ở trong trạng thái
thanh thản, an lạc và vô sự, chỗ tâm không còn
ái dục. Lúc còn sống khi tu xong chư Phật đều ở
trong Niết Bàn này, cho đến khi chết thì trạng
thái này vĩnh viễn không bao giờ mất. Chứ
không trở thành sóng ánh sáng như người khác
tưởng mà là một từ trường trong muôn vạn từ
trường khác nhưng nó lại thanh thản, an lạc
và vô sự.
Trong không gian có một từ trường thanh
thản, an lạc và vô sự, vì thế người tu hành giữ
gìn tâm không phóng dật là ở trạng thái từ
trường đó, nên tâm chúng ta và từ trường đó là
một. Nếu trong không gian mà không có từ
trường đó, thì chúng ta không tu tập có được
tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Cũng như có tứ đại bên ngoài, thì thân tứ
đại của chúng ta mới tồn tại, hay nói cách khác
cho hiểu rõ ràng hơn. Có tứ đại bên ngoài thì
mới nuôi sống thân tứ đại của chúng ta. Nếu
bên ngoài không có tứ đại, thì thân tứ đại của
chúng ta cũng không có. Cho nên, trạng thái thanh thản, an lạc và
vô sự bên ngoài không có thì tâm chúng ta
cũng không giữ gìn được thanh thản, an lạc và
vô sự.
Vì thế, khi một đức Phật đã nhập Niết
Bàn thì không bao giờ trở lại tái sanh đời này
nữa, chỉ có những người tu chưa xong nên còn
mầm tái sanh và nợ nhân quả chưa dứt, tức là
còn duyên với chúng sanh. Còn duyên với
chúng sanh tức là còn tâm tham, sân, si. Còn
tâm tham, sân, si tức là còn tương ưng với
chúng sanh, vì chúng sanh còn tâm tham, sân,
si. Do đó, còn đi tái sanh luân hồi, làm con của
những người khác. Thật là khổ đau vô cùng, vô
tận từ kiếp này đến kiếp khác.

CĨ PHÂI PHẬT LÀ TRÍ TUỆ
CỦA MỘT VỊ MINH SƯ KHƠNG?
Câu hỏi của Từ Tuệ
Hỏi:Kính thưa Thầy! Có phải Phật là
trí tuệ của vị Minh sư, vị A La Hán đang tại
thế không? Đáp: Đúng vậy, Phật là trí tuệ của vị
Minh sư, vị A La Hán đang tại thế.
Nhưng phải biết phân biệt vị Minh sư và
vị A La Hán là bậc sống đúng giới hạnh (Phạm
hạnh), không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào.
Chính những bậc này là trí tuệ của Phật, của
bậc A La Hán. Vì thế, Phật là trí tuệ của họ.
Vì đức Phật đã xác định trí tuệ ở đâu là
giới luật ở đó, giới luật ở đâu là trí tuệ ở đó.
Cho nên, Phật là trí tuệ của vị Minh sư, nhưng
vị Minh sư sống phạm giới, phá giới thì vị
Minh sư ấy không phải là trí tuệ của Phật, họ
chỉ là một học giả mà thôi.
Phật tử chỉ cần xét vị Minh sư của mình
qua giới luật của Phật, thì sẽ rõ thấu vị Minh
sư hay là vị ám sư, nếu là Minh sư thì giới luật
nghiêm chỉnh, còn ám sư thì phạm giới, phá
giới, thường sống trong chùa to Phật lớn; sống
theo dục lạc thế gian; sống như người giàu sang
thế tục; sống ăn uống phi thời; sống cất giữ
tiền bạc, châu báu, ngọc ngà; sống xem tivi, ca
hát, nhạc kịch, phim ảnh, v.v.. Đó là những vị
ám sư chứ không phải Minh sư.
Vị Minh sư luôn luôn lúc nào cũng lấy giới
luật làm hạnh sống của mình, lấy giới luật làm
thước đo tâm ly dục ly ác pháp của mình, lấy giới luật làm tiêu chuẩn xét lại tâm mình có
định hay chưa có định, lấy giới luật làm bản
đồ, để chỉ hướng đến con đường giải thoát, mà
không sợ lạc lối, không sợ lầm đường; lấy giới
luật để làm ngọn đuốc sáng cho mọi người soi.
Vì thế, mỗi ngày tu là nghiệm thấy kết quả
giải thoát ngay liền.

ÁNH SÁNG TRÍ TUỆ
Câu hỏi của Từ Tuệ
Hỏi:Kính thưa Thầy! Vị Minh sư tỏa
sáng đều khắp cho chúng sanh. Chúng sanh
nào có tâm ly dục trở nên trong sáng sẽ được
hưởng ánh sáng nhiều và ngược lại.
Đáp: Vị Minh sư luôn tỏa ánh sáng trí tuệ
đều khắp cho chúng sanh. Chúng sanh nào có
đủ duyên với Phật pháp, nên khi gặp được ánh
sáng trí tuệ đó, liền đặt trọn lòng tin kiên cố ở
vị Minh sư, nhiệt tâm thực hiện lời dạy của
Người, sống đúng, tu tập đúng, nhờ đó tâm ly
dục ly ác pháp. Ngày ngày tâm trở nên trong sáng hơn và thụ hưởng áng sáng trí tuệ đó
nhiều hơn.
Ánh sáng trí tuệ Phật luôn luôn tỏa khắp
trong không gian, như không khí mà quý vị
đang hít thở, nếu quý vị khởi một niệm thiện
pháp thì ánh sáng đó trở thành trí tuệ của quý
vị, tức là quý vị đang hành động một đạo đức
nhân bản không làm khổ mình, khổ người.
Vì thế, kẻ nào sống trong thiện pháp biết
ngăn ngừa ác pháp, là đang sống trong trí tuệ
của Phật, trí tuệ của vị Minh sư, ngược lại sống
không biết ngăn ác, diệt ác pháp, sống phạm
giới, phá giới là sống xa lìa trí tuệ Phật, không
hưởng được ánh sáng của vị Minh sư, tức là
sống xa lìa sự giải thoát của đạo Phật.
Phật lúc nào cũng sống bên chúng sanh,
còn chúng sanh thì lúc nào cũng sống xa Phật.
Tại sao vậy?
Vì chúng sanh thường sống trong ác pháp,
còn Phật thì sống trong thiện pháp. Nếu chúng
sanh biết sống trong thiện pháp thì đó là trở
về với Phật, còn chúng sanh sống trong ác
pháp, là xa lìa Phật, dù muốn gần Phật cũng
không được, dù hết lòng cầu khẩn cũng không
được. Cho nên, đạo Phật rất đơn giản nhưng
người không biết tu tập sai pháp như: ngồi
thiền, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, bắt ấn,
đọc thần chú, bái sám, lạy hồng danh chư Phật,
cầu an, cầu siêu, v.v.. đều là những việc làm đi
ngược lại với Phật giáo. Gây tạo ra nhiều màu
sắc mê tín, dị đoan, ảo giác, trừu tượng... Phần
nhiều sống trong ảo mộng. Xét lại, tất cả các
tôn giáo hiện có mặt trên hành tinh này đều có
sự giống nhau, không rơi vào hình thức mê tín
này, thì lại rớt vào hình thức mê tín khác. Đó
là vì chịu ảnh hưởng chung trong một bối cảnh
siêu hình của tưởng tri.
Vì thế, khi đức Phật nhập diệt các tu sĩ
ngoại đạo cố gắng lồng thế giới siêu hình vào
đạo Phật, để biến Phật giáo giống như các tôn
giáo khác, để dễ bề chúng phát triển thế giới
siêu hình.
Nếu đạo Phật giẫm lại lối mòn của các tôn
giáo khác, thì đạo Phật không còn ý nghĩa tự
lực của đạo giải thoát nữa.
Nhìn chung toàn bộ kinh sách Đại Thừa
đều là một kho giáo lý góp nhặt những tưởng
tri của các nhà triết học tôn giáo và thế tục. Lý luận nghe rất siêu, nhưng áp dụng vào
đời sống con người thì ích lợi không bao nhiêu
mà tai hại thì rất nhiều.

DIỆT NGÃ
Câu hỏi của Từ Tuệ
Hỏi:Kính thưa Thầy! Thầy dạy: “Đạo
Phật là Đạo diệt ngã”. Con hiểu rằng muốn
diệt ngã là phải tu đức nhẫn nhục, tùy thuận,
bằng lòng là để không gặp đối kháng trong đời,
để khỏi hao phí lực.
Đáp: Đúng vậy, con đã hiểu đúng ý Thầy
dạy phần thứ nhất (không hao phí lực).
Phần thứ hai: nhẫn nhục là tu tâm từ bi;
tùy thuận là tu tâm xả; bằng lòng là tu tâm hỷ.
Do thế tâm hồn con mới được an lạc thanh
thản và giải thoát.
Phần thứ ba: nhẫn nhục, tùy thuận, bằng
lòng là giúp con tu tập ly dục, ly các ác pháp; ly
dục ly các ác pháp, tức là diệt ngã. Cho nên ,
người tu sĩ không ly dục ly ác pháp, thì không
bao giờ diệt ngã được, nhưng ly dục ly ác pháp phải có những pháp hành đúng đắn, nếu không
có pháp hành đúng đắn thì sẽ bị phí sức, đôi
khi còn lạc vào thiền ức chế tâm, đã không có
được giải thoát mà còn sanh bệnh tật rất nguy
hại và hiểm nghèo.
Sự tu tập theo Phật giáo phải có thiện hữu
tri thức (người đã tu xong), hướng dẫn thì sự tu
tập diệt ngã xả tâm không có phí sức.
Bởi vì, tu theo giáo pháp của đức Phật, rất
nhẹ nhàng, không có khó khăn không có mệt
nhọc, không có phí sức.
Còn tu sai không đúng pháp thì phí sức
nên sanh ra lười biếng, hôn trầm, thùy miên,
trạo cử, mệt nhọc, tinh thần thiếu sáng suốt, lờ
đờ, không tỉnh giác, hay quên trước, quên sau,
lẫn lộn, v.v..
Còn tu đúng pháp thì thân tâm nhẹ
nhàng, an lạc, thoái mái, dễ chịu, thích tu,
siêng năng tinh tấn, không lười biếng, nhất là
lúc nào tâm hồn cũng thanh thản, an lạc, hân
hoan và vô sự.
Tu đúng pháp thì sức khỏe dồi dào, ít
bệnh tật. Tuy rằng, ngày ăn một bữa cơm,
không ăn uống lặt vặt, phi thời nhưng sức khỏe
không bị tổn giảm. Cho nên, tu theo pháp của đức Phật liền
có sự giải thoát nơi thân tâm, nếu không có
giải thoát ngay liền, thì đó là chúng ta đã tu
sai, cần nên tu sửa trở lại cho đúng cách.
Người tu theo đạo Phật không sợ lạc lối,
không sợ tu sai pháp. Vì đạo Phật xây dựng
giáo lý của mình trên nền tảng đạo đức làm
người, không làm khổ mình, khổ người. Vì thế,
mỗi hành động thân, khẩu, ý đều xuất phát đầy
đủ trọn vẹn thiện pháp.
Người sống trọn vẹn đầy đủ thiện pháp, là
người hạnh phúc nhất thế gian, do đó không
còn sự khổ đau nào xâm chiếm tâm hồn họ
được.
Vì vậy khi bắt đầu tu, là phải sống trong
thiện pháp, một thiện pháp được sống và tăng
trưởng thì một ác pháp được đẩy lui và diệt trừ.
Một ác pháp được đẩy lui và diệt trừ, thì ngay
đó chúng ta có tìm thấy sự giải thoát không?
Chắc chắn là có, như vậy chúng ta tu tập theo
Phật giáo làm sao sợ sai pháp được? Làm sao
đi lạc lối được? Có tu là có giải thoát, có sống là
có đạo đức làm người, không làm khổ mình,
khổ người. Phải không hỡi các con?
 THIỂU DỤC TRI TÚC
Câu hỏi của Từ Tuệ
Hỏi:Kính thưa Thầy! Thiểu dục, tri túc
như con hiểu là để bớt công sức tạo ra vật chất
bồi đắp cho mình và bớt công sức tiêu hao vật
chất mà mình thu nhận vào thân.
Đáp: Đúng vậy, con đã hiểu được phần
thứ nhất thuộc về phần tiết kiệm công sức của
thân và tâm. Còn phần thứ hai, thứ ba và thứ
tư thuộc về tâm khiến cho tâm con buông xả
mọi vật chất (các pháp trần), dù trong hoàn
cảnh nào, tâm vẫn thấy đủ, đó là cách thức xả
tâm, diệt ngã.
1- Phần thứ nhất là tiết kiệm công sức, để
vun đắp năng lực cho sự xả tâm, ly dục, ly ác
pháp.
2- Phần thứ hai cũng thuộc về tâm, nhờ
sống ít muốn biết đủ nên tâm dần dần ly dục,
ly ác pháp, không còn ham muốn vật chất thế
gian (các pháp), nên lúc nào tâm cũng thanh
thản, an lạc và vô sự.
3- Phần thứ ba thiểu dục tri túc là một
Thánh hạnh, một đức hạnh buông xả giải thoát mà người phàm phu không thể sống nổi, không
thể làm được. Nhất là hạnh thiểu dục tri túc,
ba y một bát của một vị Tỳ Kheo đệ tử của đức
Phật thì ít có ai sống và làm được.
Nói đến hạnh thiểu dục tri túc là nói đến
một tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng
khoáng như hư không. Trên đời này, không còn
có một vật gì ràng buộc tâm hồn của họ được.
Đi hay ở tùy thích, không có chùa to, Phật lớn,
không có nhà cao cửa rộng. Nhất là họ đã thoát
ra khỏi kiếp nô lệ tiền bạc, vì họ không cất giữ
tiền bạc. Trên đời này khó mà có ai sống như
họ được. Có như vậy mới gọi là hạnh thiểu dục
tri túc, ba y một bát.
Nếu một người tu theo Đạo Phật mà
không sống hạnh thiểu dục tri túc, không ba y
một bát thì cuộc đời tu hành của những người
này không bao giờ tìm thấy sự giải thoát chân
thật, dù trong một phút, một giây cũng không
có. Tâm hồn họ còn nặng nề và đang bị trói
buộc bởi các pháp thế gian (dục và ác pháp).
 TỴNH GIÁC
Câu hỏi của Từ Tuệ
Hỏi:Kínhthưa Thầy! Cẩn thận, kỹ
lưỡng, dè dặt, kín đáo như con hiểu là để quay
vào kiểm soát thân tâm, để khỏi bị đời lôi cuốn.
Tất cả để bảo tồn năng lượng, năng lực tự chủ,
để tới lúc đủ lực vút lên khỏi ngục tù xác thân?
Đáp: Đúng vậy, con đã hiểu được phần
thứ nhất về định lực, còn phần thứ hai, thứ ba
và thứ tư để Thầy sẽ giảng rõ cho con hiểu
thêm:
- Thứ hai là hạnh lực “Cẩn thận, kỹ
lưỡng, dè dặt, kín đáo”, đó là giữ gìn hành
động thân, hành động lời nói và hành động suy
nghĩ, làm cho oai nghi, tế hạnh của con nhẹ
nhàng, êm dịu, ôn tồn, nhã nhặn, những hành
động đó không thể vô tình, vô ý được. Vì vậy
khiến cho các con không làm khổ mình, không
làm khổ người khác nữa.
- Phần thứ ba là phần tỉnh thức. Khi có
cẩn thận, kín đáo, dè dặt, kỹ lưỡng thì phải có
sức tỉnh thức rất cao, nếu không tỉnh giác thì cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo chỉ là danh
từ suông.
Như con đã biết, về vấn đề tu tập hàng
đầu của đạo Phật là tu tập tỉnh giác, có tỉnh
giác mới phát hiện được ác pháp và lòng tham
đắm của mình, nếu không tỉnh giác mà nói tu
theo đạo Phật thì chỉ hoài công vô ích. Cho
nên, sự tu tập tỉnh thức là một vấn đề quan
trọng của đạo Phật.
- Phần thứ tư là phần chánh niệm , khi có
cẩn thận, dè dặt, kỹ lưỡng, kín đáo thì tâm
luôn luôn ở trong chánh niệm, không có tà
niệm xen vào, tức là không có niệm ác.
Tuy những danh từ đơn giản nhưng hiểu
ra để tu tập, trau dồi thân tâm là một công
trình tu tập, mà còn phải biết các pháp hành
đúng như pháp của Phật thì mới có kết quả tốt
đẹp.
Cho nên, người nào có tánh cẩn thận, kỹ
lưỡng, dè dặt, kín đáo thì ngoài đời làm ăn
cũng dễ thành công, trong đạo tu hành cũng dễ
thành tựu viên mãn.
Vì có cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo
thì sự tu hành dễ tỉnh thức, các chướng ngại
pháp ít xâm chiếm thân tâm. Người cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo mỗi tâm niệm thiện
hay ác khởi lên, người ấy dễ nhận thấy được
một cách dễ dàng.
Người không có tánh cẩn thận, kỹ lưỡng,
dè dặt, kín đáo, tánh tình thường thô lỗ, cộc
cằn, hung dữ thì tu hành rất khó khăn và đôi
khi sự tu hành chẳng đi đến đâu cả, chỉ mang
tiếng tu hành, chứ chẳng có ích lợi gì cho
mình, cho người.
Tánh cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo
rất quan trọng cho cả cuộc sống đời, lẫn cuộc
sống đạo.
Người tu tập tỉnh thức, tức là tu tập Thân
Hành Niệm, tu tập Thân Hành Niệm, tức là
tập luyện tánh cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín
đáo, chứ không phải sự tập trung tâm vào bước
đi hoặc mọi hành động của thân, để cho tâm
không khởi niệm vọng tưởng, đó là một sự tu
tập sai lầm của các cư sĩ và tu sĩ, họ đã từng tu
tập như vậy đã bao thế kỷ nay, mà chẳ ng có ai
đạt được ích lợi gì cho bản thân của mình và
cho người khác.
Còn tu tập rèn luyện tánh cẩn thận, kỹ
lưỡng, dè dặt, kín đáo thì ngay trong sự kỹ
lưỡng, dè dặt, cẩn thận, kín đáo đó trên mỗi
hành động thiện hay ác của họ, liền có sự giải thoát, khiến cho thân tâm được an lạc, thanh
thản và vô sự. Vì sự cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt,
kín đáo (tỉnh giác) trong thiện pháp (chánh
niệm) nên thường ngăn chặn và diệt trừ các ác
pháp (tà niệm).



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!