trong khi
hành hạnh khất thực, ai cho gì ăn
nấy kể cả
thức ăn mặn. Có phải vậy không
thưa Thầy?
Đáp: Trai
là một danh từ chữ Hán.
Chay là
một danh từ chữ Việt.
Nghĩa của
“trai” và “chay” thì đồng nghĩa,
có nghĩa
là không ăn thịt chúng sanh. Vì thế
mới có
“nguyệt trai”, “nhật trai”.
Nguyệt trai
là một tháng ăn chay (không
ăn thịt
chúng sanh), như: tháng giêng, tháng
bảy và
tháng mười.
Nhật trai
là ngày ăn chay (không ăn thịt
chúng sanh)
như:
1- Nhị trai
2- Lục trai
3- Thập
Trai
- Nhị trai:
Gồm có ngày rằm và ngày 30
Âm lịch.
- Lục trai:
Gồm có ngày 8, 14, 15, 23, 29,
30 Âm lịch.
- Thập
trai: Gồm có các ngày như: 1, 8,
14, 15, 18,
23, 24, 28, 29, 30 Âm lịch.
Theo chữ
nghĩa thì Bắc Tông Đại Thừa
hiểu chữ
trai là “ăn chay”. Nam Tông Tiểu Thừa hiểu chữ trai là “giới cấm”, cho
nên mới
có Thọ
Bát Quan Trai, ngọ trai.
Nhưng nói
đến giới cấm thì không nói đến
chay và
mặn, mà chỉ nói đến thiện và ác. Vì
vậy, trong
giới luật của Phật mới có “Giới thứ
nhất dạy
chẳng sát sanh”, nghĩa là cấm không
cho giết
hại chúng sanh, không bảo, không xui
bảo người
khác giết hại.
Ở đây, có
nghĩa giới luật cấm các vị Tỳ
Kheo không
được ăn thịt động vật, vì ăn thịt
độâng vật
tức là bảo người khác giết hại chúng
sanh.
Cho nên,
chữ trai bên Nam Tông Tiểu
Thừa cũng
có nghĩa là ăn chay, nhưng các sư
biến chữ
trai thành nghĩa khác như HT Thích
Thanh Từ
giảng như vậy là để tùy thuận với
các sư Nam
Tông, nuốt trôi những miếng thịt
động vật.
ỨC CHẾ
TÂM
Câu hỏi
của Liễu Thiện
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Theo sự hiểu biết
của con,
thì ức chế vọng tưởng là do những
niệm khởi
lên mà ta không tỉnh thức quán xét
xem là
thiện hay ác pháp, để xả bỏ. Vội vàng
đoạn diệt
không cần truy cập nó thuộc về lậu
hoặc nào.
Vả lại,
ức chế tâm còn do sự ham muốn
dục lạc,
khi dục lạc ham muốn khởi lên ta cũng
không quán
xét lợi hay hại để xả bỏ mà chỉ có
nhẫn chịu,
vì thế, nếu có dịp nó sẽ bung ra. Có
phải vậy
không thưa Thầy?
Đáp: Đúng
vậy, sự ức chế tâm có hai cách:
1- Chịu
đựng mọi sự giận hờn, căm tức,
phiền não,
sợ hãi, lo rầu, v.v.. mà không bao
giờ nói ra
cho một ai biết. Sự chịu đựng này gọi
là kham
nhẫn.
Ví dụ:
Trong gia đình có người chồng độc
tài luôn
luôn bắt vợ con phải tuân theo lệnh
của mình,
sai bảo đâu làm đó, không được làm
trái.
Những người bị bắt buộc như vậy gọi là chịu đựng, những người chịu
đựng là nhữn g
người ức
chế tâm.
Sức chịu
đựng sẽ đến một mức độ nào đó,
thì không
còn chịu đựng được nổi. Khi không
còn chịu
đựng nổi thì thần kinh hưng phấn,
thần kinh
hưng phấn thì người ấy bị rối loạn
thần kinh,
bị điên khùng, bị tẩu hỏa nhập ma,
v.v..
Suốt thời
gian chịu đựng thì người ấy là
người khổ
đau tận cùng của cuộc đời mình.
2- Người
dùng một đối tượng, một pháp
môn để ức
chế tâm để không khởi niệm vọng
tưởng, đó
là loại ức chế có phá p môn, có phương
cách.
Loại ức
chế tâm này có đường lối, có
phương pháp
để dẫn tâm vào thế giới tưởng
như: Thiền
xuất hồn, Thiền Yoga, Thiền Đại
Thừa,
Thiền Đông Độ, Thiền Lục Diệu Pháp
Môn, Mật
Tông, Tịnh Độ Tông, v.v..
Cho nên,
các pháp môn này đều xây dựng
cho mình
một thế giới siêu hình mơ hồ, trừu
tượng, ảo
giác, khiến cho con người phải mê
mệt với
nó, nhưng không ích lợi thiết thực cho
đời sống.
Chỉ riêng có thiền của Phật giáo Nguyên
Thủy thì
xả tâm “ly tham đoạn ác pháp”. Do
đó, người
tu hành sẽ không bị ức chế tâm và
đạt được
kết quả giải thoát làm chủ sanh, già,
bịnh,
chết, chấm dứt tái sanh luân hồi.
KINH NĂM BA
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Trong kinh
Trung Bộ,
phẩm kinh Năm Ba con không hiểu
rõ lắm,
xin Thầy giảng tóm tắt ý nghĩa cho con
được không?
Đáp: Bài
kinh Năm Ba là bài kinh đức
Phật dùng
để bài bác 62 luận thuyết của tà
giáo ngoại
đạo, tức là 62 pháp môn của các tôn
giáo đương
thời trong đất nước Ấn Độ. Và cuối
cùng đức
Phật đưa ra giáo thuyết của mình, tức
là bốn
chân lí: “Khổ, Tập, Diệt, Đạo” để giải
quyết sự
khổ đau của con người trên hành tinh
này rất
thực tế và cụ thể.
“Ở đây,
này các Tỳ Kheo, vô thượng
tịch tịnh
tối thắng đạo này được Như Lai
chánh đẳng
giác, nghĩa là sau khi như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị
ngọt
và nguy
hiểm của sáu xúc xứ, có sự giải
thoát không
chấp thủ”.
Tất cả
giáo lý của đạo Phật không ngoài
bốn chân
lí: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Nó là một
chân lí
của loài người để con người rèn luyện tu
tập thoát
ra khỏi bản chất loài cầm thú, để trở
thành con
người thật sự là con người và cao
hơn nữa để
trở thành những bậc Thánh nhân.
Ngoài bốn
chân lí này, nếu còn có giáo
pháp nào
khác, thì coi chừng đó là tà giáo
ngoại đạo
xen vào trong Phật giáo. Chúng ta là
những hàng
đệ tử của Phật phải đề cao, cảnh
giác và
loại trừ chúng ra khỏi.
Bốn chân
lý của đạo Phật là dựng lại một
nền đạo
đức nhân bản nhân quả cho loài người,
khiến cho
con người trên hành tinh này sống
không làm
khổ mình, khổ người và khổ tất cả
chúng sanh,
biến hành tinh này trở thành Cực
Lạc, Thiên
Đàng.
Bài kinh
Năm Ba là bài kinh xác định
giáo pháp
của đức Phật và giáo pháp của ngoại
đạo không
có giống nhau một chút xíu nào cả,
khiến cho
người Phật tử tinh ý sẽ không thể
lầm lạc
được. Thế mà hiện giờ người ta đã lầm lạc lấy
giáo pháp
của ngoại đạo làm giáo pháp của
Phật để tu
hành và còn khinh thường giáo
pháp của
Phật là Tiểu Thừa, thật là đau lòng.
Phải không
con?
PHƯƠNG PHÁP
TU TẬP CHO NGƯỜI GIÀ
Câu hỏi
của Liễu Thiện
Hỏi:Kính
thưa Thầy, ở ngoài này có bác
Hạnh
Nghĩa, rất nỗ lực tu học, nhưng chưa biết
cách thức
tu học cho phù hợp với bản thân và
gia cảnh.
Bác có hỏi con nhưng con không biết
trả lời ra
sao, mà chỉ góp ý với bác hãy sống
đúng giới
hạnh của người cư sĩ đó là nhẫn
nhục, tùy
thuận, bằng lòng. Kính xin Thầy từ
bi chỉ dạy
cho Bác (Bác năm nay gần 70 tuổi,
Nhưng vẫn
khỏe mạnh và bình thường).
Đáp: Con
nên chỉ dạy cho bác cách tu tập
giữ tâm
thanh thản, an lạc và vô sự.
Dạy cho
bác câu pháp hướng tâm: “Tâm
như đất,
lìa tham, sân, si là hết khổ”, để
hằng ngày
bác huân tập câu pháp này sẽ có hiệu quả giải thoát trong những
ngày cuối cùng
của đời
bác.
Lúc bệnh
tật khổ đau cũng như lúc gặp
các ác
pháp thì con nên dạy bác nhắc tâm:
“Tâm phải
bất động trước các ác pháp,
không được
sợ hãi, hãy bình tĩnh, hãy gan
dạ, tất
cả đều là do nhân quả”.
Cuối cùng,
con nên dạy bác mỗi tháng
nên Thọ
Bát Quan Trai một ngày. Ngày ấy là
ngày tập
làm Phật.
TU TẬP GIỚI
CHƯA ĐỦ
Câu hỏi
của Liễu Thiện
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Tại sao trong
một câu
nói: Tất cả những ai từ bỏ sát sanh, từ
bỏ lấy
của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các
dục, từ
bỏ nói láo, từ bỏ nói lưỡi hai chiều, từ
bỏ sân, tâm
có chánh kiến, sau khi thân hoại
mạng chung
họ đều sanh vào thiện thú, thiện
giới, cõi
đời này. Như vậy, Ta không chấp
nhận cho
vị ấy . - Còn câu nói: Ta đã thấy ở đây có người
từ bỏ sát
sanh, từ bỏ lấy của không cho... như
trên. Như
vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy.
Đáp: Cùng
một câu nói, một ý nghĩa như
nhau, mà
được Đức Phật chấp nhận và không
chấp nhận.
Chỉ vì, người thực hiện pháp đó lại
khác nhau
(người tu sĩ và người cư sĩ).
Người tu
sĩ mà thực hiện pháp thiện đó
chưa đủ để
giải thoát, chỉ mới được sanh vào
thiện thú,
thiện giới ở cõi đời thì Đức Phật
không chấp
nhận.
Còn người
cư sĩ tại gia thực hiện pháp
thiện đó
để được sanh vào thiệ n thú, thiện giới
ở cõi đời
này thì Đức Phật chấp nhận.
Tóm lại,
câu này Đức Phật xác định tu tập
Giới luật
chưa đủ để giải thoát hoàn toàn, mà
phải tiếp
tục tu tập Định và Tuệ.
DUYÊN
NHÂN QUÂ
Câu hỏi
của Đào Thị Vinh
Hỏi:Kínhthưa
Thầy, vợ chồng lấy
nhau, người
ta bảo rằng, đều có số định cả, có
nghĩa là
người này phải lấy người mà có số
định với
mình, không được lấy người nào khác.
Có phải
vậy không thưa Thầy ?
Đáp: Không
phải số định mà cũng không
phải số
mệnh mà là duyên nhân quả nợ vay
trong thuận
cảnh, cũng như trong nghịch cảnh.
Ví dụ:
Kiếp trước chúng ta đối xử với
những
người làm công cho mình quá khắc
nghiệt,
đánh đập, chửi mắng, trả tiền công ít,
v.v..
Kiếp này
họ làm vợ hoặc chồng hoặc con
cái trong
nhà, họ phá tán của cải tài sản và
còn chửi
mắng đánh đập, khiến cho gia đình
đau khổ
bất an.
Cho nên,
kiếp trước gieo nhân nào thì
kiếp này
phải trả quả nấy. Tình nghĩa vợ
chồng con
cái đều do nhân quả, chứ không phải
do số mệnh
duyên nợ tiền định. Vì không có tiền định. Tiền định là cái vật
gì? Ô ng gì? Ông
Ngọc Hoàng
Thượng Đế ư ?
Vì không
hiểu môi trường sống nên người
ta đặt ra
những câu hỏi để có hỏi mà không có
trả lời:
“Con người từ đâu sanh ra? Chết đi về
đâu?”.
Do không
hiểu, người ta dùng tưởng tri,
tạo ra một
Đấng Vạn Năng, một ông Ngọc
Hoàng, một
ông Trời, một ông Tạo Hóa sanh ra
vạn vật
trên hành tinh này. Lại có thuyết cho
rằng từ
trong Đại ngã vạn vật sanh ra và mỗi
vật được
sanh ra là tiểu ngã. Những thuyết này
mơ hồ và
trừu tượng không thể trả lời hai câ u
hỏi trên.
Và vì vậy, hai câu hỏi trên vẫn còn
đóng kín
cửa.
Duyên tiền
định giữa đôi vợ chồng cũng là
sự tưởng
tri của con người đặt ra, chứ không có
số định,
số mệnh.
Theo đạo
Phật con người từ nhân quả
sanh ra,
chết trở về nhân quả, chứ không từ
đâu đến và
chết cũng không đi về đâu.
Còn duyên
vợ chồng, con cái đều là do vay
nợ của
nhân quả theo định luật của nhân quả
“Vay thì
phải trả”. Vậy, chồng vợ có số mệnh là không đúng,
mà có nợ
nhân quả ác hay thiện với nhau là
đúng.
Nhìn cuộc
sống của họ chúng ta có thể
biết chắc
chồng nợ vợ hay vợ nợ chồng một
cách cụ
thể và rõ ràng.
Vì thế,
trong cuộc đời này vợ chồng
thường làm
khổ cho nhau nhiều hơn là đem lại
hạnh phúc
an vui cho nhau. Họ sống với nhau
phần đông
là chịu đựng.
HỒN VỀ NHẬP
CƠ ĐỒNG
Câu hỏi
của Đào Thị Vinh
Hỏi:Kính
thưa Thầy, con đi gọi hồn, cô
đồng nói
đúng được tên tuổi người trong gia
đình con,
thưa Thầy như vậy là thế nào?
Đáp: Cô
đồng dùng tưởng thức của mình
giao cảm
với tưởng thức của con, nên nói đúng
tên họ
tuổi người trong gia đình con, chứ không
phải có
linh hồn người chết trong gia đình con
về nhập cô
đồng. Người chết, đó là danh từ chỉ cho các
duyên nhân
quả đã tan hoại hết, tức là thân
ngũ uẩn
đã tan rã không còn sót một duyên
nào, thì
còn đâu có linh hồn người chết.
Trong thân
người đâu có linh hồn, linh
hồn là
một danh từ chỉ cho một hình ảnh ảo
tưởng do
năng lực tưởng tạo ra. Trong thân
người chỉ
có năm duyên như: sắc, thọ, tưởng,
hành,
thức, mà trong kinh Phật gọi là thân
ngũ uẩn.
Khi người chết các duyên tan rã, đâu
còn một
duyên nào thì làm sao gọi là người
chết còn
có linh hồn, như trên chúng tôi đã nói.
Cái mà
người chết còn lại là hành động
thiện ác,
hành động thiện ác, tức là nhân quả.
Khi người
chết là nhân quả trở về với nhâ n
quả. Vì
thế Đức Phật dạy: “Chết trở về nhân
quả”. Như
vậy là đã trả lời câu hỏi thứ hai của
các con.
Hành động
nhân quả không thể gọi là
linh hồn
được. Thế sao có linh hồn nhập đồng
nhập cốt?
Không có
linh hồn nhập đồng, nhập cốt,
mà chỉ có
tưởng thức của đồng, cốt giao cảm rồi
tự xưng
mình là ông này, bà kia chết oan, chết
ức, chết
tức, chết tối, v.v.. nhập vào. Người
không có
trí tuệ vô hạn, không hiểu biết được, nên vội tin theo lời của đồng,
cốt cho là có linh
hồn người
chết về nhập, báo cho gia đình biết
mọi sự
xảy ra đúng như thật.
Nhờ báo
lại những sự việc xảy ra cách 5
năm hay 10
năm đều đúng như thật, mà các
nhà khoa
học không sao chứng minh được, nên
cũng phải
đành tin theo và cho rằng có thế giới
siêu hình,
có sự sống sau khi chết.
Như chúng
tôi cũng thường nói: Chỉ duy
nhất trên
thế gian này có một người không
chấp nhận
thế giới siêu hình, đó là đức Phật.
Ngài cho
rằng: “Có thế giới siêu hình thì
con người
không bao giờ tu hành giải
thoát khổ
đau được và Phật giáo cũng
không có
mặt ở trên đời này”.
Bởi vì,
thế giới của chúng ta đang sống là
do các
duyên hợp, cho nên các pháp không có
bản thể
thường hằng. Các pháp chỉ là vô
thường thay
đổi liên tục, tan hợp không dừng
nghỉ.
Cho nên,
các con đừng tin có linh hồn, tin
có linh
hồn là mê tín. Linh hồn chỉ là một sản
phẩm của
tưởng thức tạo ra. Đối với trí tuệ hữu
hạn của
loài người không thể hiểu được năng
lực của
tưởng, nếu lý giải như khoa học thì không thể lý giải được, nhưng có
thể lý giải ở
góc độ
khác mà khoa học thì chưa đến, nên
chưa chứng
minh được.
XIN QUẺ
Câu hỏi
của Đào Thị Vinh
Hỏi:Kính
bạch Thầy, mấy năm con bị
ốm đau.
Đầu năm con đến chùa xin quẻ thẻ.
Quẻ thẻ
cho biết suốt cả năm, nó nói đúng 60%.
Thưa Thầy
trong đó có câu ghi như sau:
“Đất ở
nhà ngươi có người Thần
Ta về mau
đi mới được yên”.
Con xin thêm
vài quẻ thẻ đầu năm đều
nói lên như
vậy. Con làm cơm canh cúng cũng
không thấy
khỏi. Sau đó con phải đến nhờ cô
đồng gọi
hồn xem con ốm vì sao?
Kính bạch
Thầy, sau đó hồn lên nói con bị
ốm bệnh
về âm, vì có ông Thần đất ngay nhà
con ở, ông
ấy làm cho con ốm. Sau đó cô đồng
bảo con về
làm lễ tại nhà và rước vong xuống
thờ điện
nhà cô đồng, rồi cô rước vong đi chùa Hương. Cho họ ăn lộc chùa Hương,
vì ông Thần
này là
người Tàu chết cách đây 387 năm thành
ông Thần
Hoàng .
Kính bạch
Thầy, sau con cũng về làm
đúng như
vậy thì thấy bệnh có đỡ và các năm
sau đó con
cũng xin quẻ thẻ mà không thấy quẻ
thẻ nói
gì về ông Thần đó nữa. Con kính bạch
Thầy, xin
Thầy giải thích cho con biết.
Đáp: Tất
cả những quẻ thẻ đều ghi những
sự việc
xảy ra chung chung trong đời người,
không xác
định cụ thể, giống như lời sấm. Chỉ
có thể
đúng 50 đến 60 phần trăm.
Khi người
đến chùa hay đến điện thờ của
ông đồng,
bà cốt xin thẻ đều là những người có
tâm trạng
bất an, ý thức không còn chủ động,
thường
sống trong tưởng. Khi đó, người lắc
hoặc rút
thẻ do tưởng giao cảm khiến cho quẻ
thẻ rút ra
hoặc lắc được giống như tâm trạng
của mình
đang bị ảnh hưởng truyền thống mê
tín ông
Thần này, bà Chúa kia, linh hồn nọ,
v.v..
Căn bệnh của
con thuộc về loại bệnh tinh
thần (tinh
thần bệnh thì thân bệnh), vì thế con
tự cúng
lễ thì không hết bệnh mà nhờ có cô
đồng rước
vong vị thần đó về chùa Hương để hưởng lộc chùa. Cô đồng đã giải
tỏa được tâm
bệnh của
con, cho nên bệnh con hết.
Tóm lại,
vì ảnh hưởng mê tín thế giới siêu
hình có
ông Thần này, bà Chúa nọ, oan hồn
kia, v.v..
đã mang đến cho con người biết bao
nhiêu là
sự khổ đau về thế giới này “THẾ GIỚI
TƯỞNG”,
thế giới không có thật, chỉ vì tưởng
của mình
và tưởng của người khác giao cảm mà
biết đúng
những sự việc xảy ra của mình, do đó
nên dễ bị
kẻ khác lừa đảo, khiến cho mình khổ
lại càng
khổ hơn. Mình dại khờ tự mình làm
khổ cho
mình mà không biết, chứ quỷ Thần
làm sao
làm khổ mình được.
Người ta
đâu biết rằng sự khổ đau hay
hạnh phúc
đều do hành động nhân quả thiện
ác của
chính bản thân mình tạo ra.
Cho nên đức
Phật dạy: “ngăn ác diệt ác
pháp, sanh
thiện tăng trưởng thiện pháp”
là để
chúng ta dừng những hành động nhân
quả ác.
Dừng những hành động nhân quả ác có
nghĩa là
dừng những điều đau khổ cho chính
mình và
mọi người, chứ không có Thần, Thánh,
quỷ, ma
bắt con người đau bệnh và làm ra tai
nạn khổ
ách.
Về sau con
xin quẻ thẻ không có nói đến
vị Thần
đó nữa, là vì bệnh tinh thần tưởng của con đã khỏi hẳn, nên tưởng
của con không còn
giao cảm
với những quẻ thẻ nói đến Thần, chứ
không phải
vị Thần ấy đã đi khỏi nhà con.
Hiện giờ,
những người mê tín là những
người sống
trong tưởng ấm, sống trong ảo giác,
sống trong
trừu tượng, mơ hồ, hư hư, thực thực.
Những hạng
người này dễ bị kẻ khác lừa đảo
trong thế
giới siêu hình.
Trong một
cuộc cách mạng mê tín, nếu
không giải
thích được những hiện tượng siêu
hình khiến
cho con người càng mê tín lại càng
mê tín hơn.
Muốn quét
sạch những truyền thống mê
tín, dị
đoan, lạc hậu thì phải có cơ sở giải thích
những hiện
tượng siêu hình kỳ lạ thì mới có
thể phá
và quét sạch chúng. Còn nếu chưa có cơ
sở vững
chắc thì không nên động đến chúng.
Động đến
chúng mà không giải thích được thì
sự mê tín
càng phát triển mạnh.
Cuối tập 3
Đường Về Xứ Phậ t, quý bạn sẽ
được đọc
một bài viết về thế giới siêu hình của
một nhà
trí thức học giả miền Bắc. Với mục
đích viết
bài này là một sự nghi ngờ quá lớn,
tác giả
thuật lại những hiện tượng siêu hình
xảy ra qua
trung gian của những nhà ngoại
cảm, là
để dựng lại hay nói cách khác là yêu cầu các nhà khoa học chứng
minh, làm sáng tỏ:
“có sự
sống sau khi chết”, trong cuộc đi tìm hài
cốt liệt
sĩ của em mình.
Nếu không
được giải thích rõ ràng thì sự
mê tín
càng lúc càng phát triển mạnh thì
những
người hiền lành dễ bị những thầy phù
thủy, đồng,
cốt và các nhà tôn giáo lừa đảo
bằng những
hiện tượng siêu hình kỳ lạ “Tiền
mất tật
mang”.
NHÀ NGOẠI
CÂM
Câu hỏi
của Đào Thị Vinh
Hỏi:Kính
thưa Thầy, ở Hà Nội bây giờ
có một ông
ở khu Kim Liên, người ta gọi là cậu
Liên (được
bộ công an quận chấp nhận). Ông có
khả năng đi
tìm mồ mả thất lạc và hài cốt của
liệt sĩ.
Kể cả những người con đang sống thất
lạc. Đây
là hiện tượng có thật. Cậu còn chữa
được cả
bệnh.
Vậy con
kính mong Thầy giải đáp cho
chúng con
được hiểu rõ hơn. Đáp: Con hãy đọc Đường Về Xứ Phật tập
3 đoạn
cuối: “Những hiện tượng các nhà ngoại
cảm đi tìm
hài cốt liệt sĩ” thì con sẽ rõ và cũng
trả lời
câu hỏi này của con.
SỰ LỪA ĐÂO CỦA
ĐỒNG CỐT
Câu hỏi
của Đào Thị Vinh
Hỏi:Kính
thưa Thầy, ở chùa làng con
thôn Cư
Đình, xã Việt Hưng. Vào ngày 3 tháng
3 Âm lịch,
hay đội bát nhang và hầu đồng.
Hôm ấy con
có đi dự, đến lúc có một bà đang
đội bát
nhang, tự nhiên hai tay cứ vả vào mặt
mình, các
đệ tử của bà cứ khẩn vái kêu van
mãi mới
thôi. Hỏi ra mới biết là bà ấy trước
đây có đội
bát nhang, sau bỏ mấy năm không
đội nữa,
đến nay đội lại nên bị Ngài phạt.
Đáp: Đó
là trò bịp, lừa gạt người khác của
các thầy
phù thủy, thầy bùa, đồng, cốt v.v.. Nếu
chúng ta đi
vào bề trái thế giới của những hạng
người này
thì chúng ta sẽ thấy được những sự
lừa đảo,
gian xảo, có nhiều thủ thuật và những
thủ đoạn
tinh vi để tạo ra sự mê tín. Nhờ có những người vô minh không rõ mánh
khóe gian
xảo, nên
những đồng cốt giả hiệu dễ bề lừa đảo,
cướp giựt
tiền của những người đang gặp tai
nạn hay
bệnh tật v.v.. Nhất là kiến thức còn
cạn cợt.
Có dịp
Thầy sẽ kể cho các con nghe,
những tội
ác gian xảo của bọn người lợi dụng sự
giao cảm
của tưởng thức làm tiền bất chánh mà
pháp luật
không bắt tội họ được.
Vả vào
mặt mình để tạo uy thế cho ông
Thần hay
Cô, Cậu rất hiển linh, khiến cho mọi
người phải
tin và cúng bái tiền bạc.
Con cũng
là một người bị lừa đảo trong số
người đến
dự ngày hôm đó.
Đối với
đạo Phật thì các con không nên
tin một
cách mù quáng về thế giới siêu hình
mà hãy tin
những gì có lợi ích cho mình cho
người; mà
hãy tin những gì mà ý thức con phán
xét thấy
như thật, biết như thật thì mới tin.
Đối với
đạo Phật thì các con nên tránh xa
những hạng
người bói khoa, đồng cốt, thầy phù
thủy, thầy
bùa, thầy ngải, thầy cúng bái, tụng
niệm v.v..
Những hạng người này là những
hạng người
không tốt, họ có nhiều mánh khóe,
gian xảo,
lừa đảo, họ là những hạng người ác. Đức Phật thường dạy: “Làm bạn
với
thiện xa
lánh với ác”. Những lời dạy này con
nên ghi
nhớ: “Chọn bạn mà chơi, những người
hay nói
xấu kẻ khác là người ác, không nên
thân cận
với họ”.
TƯỞNG LỰC
Câu hỏi
của Đào Thị Vinh
Hỏi:Kính
thưa Thầy, con có một cô em
gái cũng
bị Ngài phạt, Ngài trói ghì cánh
khuỷu tay,
nhưng không có dây. Và trói đầu
chặt lắm
không gỡ ra được. Chính miệng cô em
con nói ra
như vậy. Chúng con là người vô
minh không
hiểu. Vậy chúng con tha thiết kính
xin Thầy
giảng giải cho chúng con hiểu rõ.
Đáp: Cô em
gái của con là người chịu ảnh
hưởng mê
tín nặng, nghe đâu thì dễ tin theo
đó, có nghĩa
là cô em của con rất tin có linh
hồn người
chết, do lòng tin ấy mà tưởng uẩn
của cô rất
bén nhạy, thường hoạt động thay cho
ý thức.
Vì thế, ý thức thường nhường lại cho
tưởng thức
làm việc, cho nên tâm tính cô em thường sống trong niềm tin hơn là sống
với lý
trí phân
biệt phán xét. Do đó , cô bị tưởng lực
của chính
cô tạo ra trạng thái như bị trói chặt
hai khuỷu
tay của cô.
Sự bị
trói hai khuỷu tay của cô em là một
trạng thái
tưởng của cô em và chính cô không
những cảm
giác và còn thấy mình đang bị trói
rất chặt.
Mọi người
bên ngoài không hiểu tưởng là
có (Thần
Tàu) bắt phạt cô em của con đã có sự
lầm lỗi
với Ngài.
Với trường
hợp này xảy ra khiến cho mọi
người ai
nấy đều tin có Thần, Thánh, ma, quỷ
và linh
hồn người chết thật sự. Nói chung là
nhờ có
những trạng thái của tưởng uẩn hoạt
động một
cách mầu nhiệm mà trí hữu hạn của
con người
không thấu rõ được. Do đó , thế giới
siêu hình
mới thành hình.
Thế giới
siêu hình không thể lấy ý thức
mà hiểu
nó được, không thể phân tích bằng
phương pháp
khoa học như khám phá phân
tích vạn
vật bằng phương pháp vật lý hoá học
của thế
giới hữu hình được. Cho nên, khoa học và trí hữu hạn của con
người phải
đành bó tay trước những hiện tượng
kỳ lạ của
tưởng uẩn (tưởng thức).
Cái kỳ lạ
của thế giới siêu hình, chứ sự
thật thì
không có kỳ lạ gì hết. Vì ý thức của
con người
bị hạn cuộc bởi thời gian và không
gian. Còn
tưởng thức thì không bị hạn cuộc bởi
không gian
và thời gian, nên nó mầu nhiệm với
ý thức,
mà không mầu nhiệm với tưởng thức,
với tâm
thức.
Sự linh
thiêng của thế giới siêu hình đối
với hạng
người tin nó, có những người không
tin thì
không có thiêng. Người sống trong trí
tuệ ý
thức thì không bao giờ tin có thế giới siêu
hình, là
những người sống không mê tín. Người
thường
sống trong trí tuệ tưởng thức là người
tin có thế
giới siêu hình, là những người mê
tín.
Vì thế
một người còn đang sống thì luôn
luôn có hai
thế giới hữu hình và vô hình, còn
khi chết
thì hai thế giới này cũng không còn.
Một người
chết là tất cả đều hết. Hành
động nhân
quả hằng ngày đều trả về nhân quả.
Và tất cả
những hành động nhân quả ấy tiếp
tục lại
luân hồi tái sanh làm chúng sanh khác,
thứ hai,
thứ ba và thứ vô lượng kiếp.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!