Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT -TẬP 3 -9

Người nào tin có thế giới siêu hình là
người sống trong tưởng thức, phán xét bằng
tưởng tuệ, là người không trí tuệ, thường sống
trong ảo ảnh, mơ hồ, trừu tượng, thiếu thực tế,
thiếu khoa học. Còn người không tin có thế giới
siêu hình là người sống trong ý thức, người có
trí tuệ, người có óc khoa học, thích sống thực
tế.
Người sống trong tưởng tuệ thường bị
người khác lừa đảo, thường sống trong cảnh
khổ đau hơn người sống trong trí tuệ.
Bệnh tật, tai nạn xảy ra thì những người
sống trong tưởng thức, khổ đau nhiều hơn
người sống trong ý thức.
Người sống trong tưởng thức thường tốn
hao tiền của một cách ngu si, “tiền mất tật
mang”. Còn người sống trong ý thức khó ai lừa
đảo họ được.
Chính những nhà ngoại cảm, đồng, cốt,
các tôn giáo và các hệ phái tư tưởng mang màu
sắc siêu hình khác nhau, đều bị sự lừa đảo của
tưởng thức mà họ không hề hay biết.
 THẦN GIAO CÁCH CẢM
Câu hỏi của Đào Thị Vinh
Hỏi:Kính thưa Thầy, con có một ông
chú họ, có thể nói được tầm vóc và tính tình
của một người tương lai sẽ làm dâu của con.
Mặc dù chưa bao giờ gặp mặt. Đã ba năm rồi
khi con dâu con về nhà thì con suy ngẫm đúng
hệt như ông đã nói.
Vậy con kính bạch Thầy, Thầy dạy cho
con hiểu thêm.
Đáp: Đây cũng do tưởng ấm của ông chú
này đã giao cảm được với cô con dâu của con
mà chưa bao giờ biết mặt. Tất cả những sự việc
có vẻ siêu hình và mầu nhiệm, mà hiện nay
con người không thể giải đáp được, chỉ vì nó
vượt ra khỏi tầm hiểu biết của ý thức loài
người.
Chỉ có những người tâm không còn tham,
sân, si thì mới thấy được năng lực mầu nhiệm
của tưởng ấm loài người, thật là kỳ lạ và mầu
nhiệm. Nhưng khi một người đã chết thì thế
giới của tưởng ấm kia cũng không còn. Trong môi trường sống trên hành tinh
này, nó đầy đủ các duyên vận chuyển hợp tan
không bao giờ ngưng nghỉ. Do sự vận chuyển
hợp tan này mà vạn vật phải vô thường.
Sự vô thường này chia làm hai mặt:
1/ Sự vô thường về hữu hình.
2/ Sự vô thường về vô hình.
Sự vô thường về hữu hình thì ai cũng rõ,
đó là sự sanh diệt của vạn hữu. Còn sự vô
thường về vô hình thì ít ai biết đến. Và người
ta còn lầm chấp cho rằng thế giới vô hình thì
trường tồn vĩnh viễn.
Khi con người chết ở thế giới hữu hình thì
họ trở về thế giới vô hình vĩnh cửu. Ở thế giới
hữu hình còn chưa hiểu hết thì làm sao hiểu
được thế giới vô hình. Vì thế, người ta hiểu thế
giới vô hình chỉ là một sự “tưởng hiểu”. Tưởng
hiểu nên thế giới siêu hình không thật sự có.

 TƯỞNG ẤM
Câu hỏi của Đào Thị Vinh
Hỏi:Kính thưa Thầy, tưởng ấm là gì?
Tưởng ấm ở đâu?
Đáp: Tưởng ấm là một duyên trong thân
ngũ ấm. Thân ngũ ấm gồm có:
1/ Sắc ấm
2/ Thọ ấm
3/ Tưởng ấm
4/ Hành ấm
5/ Thức ấm
Năm ấm này hợp lại thành thân người. Vì
thế chia ra làm hai phần:
1/ Về phần hữu hình thì duy nhất chỉ có
sắc ấm.
2/ Về siêu hình gồm có bốn ấm kia: Thọ
ấm, hành ấm, tưởng ấm và thức ấm.
Nhưng dù thế giới hữu hình hay siêu hình
đều hoạt động do phần sắc ấm, phần sắc ấm
rất quan trọng nhất là bộ óc của con người. Thế
giới hữu hình và thế giới siêu hình cũng do nó chỉ huy. Vì thế, khi sắc thân hoại diệt thì bộ
óc cũng hoại diệt theo. Bộ óc hoại diệt thì thế
giới siêu hình cũng hoại diệt theo.
Cho nên, đức Phật dạy: “Khi một người
chết thì toàn thân ngũ ấm đều hoại diệt
không còn một ấm nào cả”.
Như vậy tưởng ấm chỉ là một duyên của
thân ngũ ấm và nó ở trong thân ngũ ấm. Đó là
thế giới siêu hình của quý vị, mong quý vị hãy
bỏ đi, đừng có vô minh, tự làm khổ mình mà
không biết.
Thế giới siêu hình chẳng có ích lợi gì mà
còn tai hại cho đời sống của quý vị.
Hãy bỏ xuống! Hãy bỏ xuống! Đó là một
ảo ảnh, một hình bóng của thế giới hữu hình
của con người.

THÂY MA
Câu hỏi của Đào Thị Vinh
Hỏi:Kính thưa Thầy! Con đã được đọc
quyển Vanga của Bungari.Bà Vanga này là một người mù. Bà nói gần đúng như Thầy. Nhưng
có khác Thầy là Bà Vanga nói rằng: Bà ấy
nhìn thấy ma, và ai đến xem về người âm Bà
Vanga có thể nói về người chết đó hiện nay
đang mặc quần áo gì, và đang đứng trước mặt
Bà ấy. Vậy con kính thưa Thầy giải thích cho
con được rõ thêm.
Đáp: Bà Vanga là một nhà ngoại cảm,
trường hợp tưởng thức của bà Vanga giao cảm
với những từ trường của những người chết hay
nói cách khác là tưởng thức của bà bắt gặp từ
trường tưởng thức của người chết còn lưu lại
trong không gian những hình ảnh, âm thanh và
hành động. Khi bắt gặp như vậy thì Bà Vanga
thấy người chết nói chuyện với Bà, và kể lại tất
cả những sự việc đã xảy ra. Vì thế, Bà thấy ma
và còn nói chuyện với ma, đó là năng lực tưởng
thức của Bà tạo ra con ma để kể lại cho Bà
nghe, và Bà nói lại cho người khác nghe, chứ
con “ma tưởng” của Bà không thể nói cho người
khác nghe được mà mượn thân miệng Bà nói
lại. Trường hợp này cũng giống như lên đồng,
nhập cốt, nhưng lên đồng, nhập cốt thì thân lúc
lắc hoặc ợ, ngáp, v.v.. còn Bà Vanga thì rất tự
nhiên, vì Bà bị mù mắt, nên Bà thường sống
với tưởng thức của mình nhiều hơn ý thức. Ở đây chúng ta nên hiểu, tưởng của Bà
giao cảm với người chết rồi mượn thân miệng
bà nói lại cho người khác biết.
Ví dụ: Thân miệng của Bà làm thông ngôn
cho tưởng ấm của Bà để nói lại cho chúng ta
biết những gì đã xảy ra của một người đã chết
từ lâu hay mới chết, chứ không phải có con ma
thật nào nhập vào Bà.
Do đó, Đức Phật đã xác định: “Thế giới
siêu hình là thế giới của “tưởng tri” chứ
không phải là “liễu tri”. Vậy các con hãy tin
theo lời Phật dạy: Thế giới siêu hình không
bao giờ có chỉ là tưở ng tri của con tạo dựng ra.
Các con nên cảnh giác đừng để mắc lừa người
khác.

NĂNG LỰC CỦA TƯỞNG
Câu hỏi của Đào Thị Vinh
Hỏi:Kính thưa Thầy, người ta vì bốc
mả người chết mà đổ nước vào trong quan tài
khấn vài câu, xương nổi lên mặt nước hết vì
sao? Xương bốc bỏ vào tiểu đầy không hết, đậy nắp không được, nhưng nếu khấn vài câu tự
nhiên xẹp xuống và đậy nắp kín. Con kính
mong Thầy giải thích cho con được rõ?
Đáp: Từ nhỏ còn bé cho đến hôm nay tuổi
Thầy đã gần đất xa trời mà chưa có một lần đi
bốc mả, vì miền Nam không có tục lệ như miền
Bắc. Do đó, Thầy không có dịp trực tiếp quan
sát những sự việc xảy ra khi bốc mộ, nhưng
theo sự suy tư của Thầy có hai trường hợp xảy
ra:
1/ Về khoa học xương người chết, nước và
không khí có tác dụng khoa học, khiến xương
nổi lên và xẹp xuống.
2/ Về phần tâm linh thuộc về tưởng ấm.
Khi tâm thành khấn thì năng lực tưởng của
người khấn phát tác, khiến cho xương nổi lên
và xẹp xuống đậy kín nắp tiểu.
Ở đây, chúng ta đừng hiểu theo kiểu mê
tín có linh hồn người chết khiến cho xương nổi
lên, xương nổi lên cần gì phải đổ nước vào quan
tài? Nếu khấn mà linh thiêng thì khấn cho tất
cả xương đều bay vào tiểu, cần gì người ta phải
lượm xương chất vào tiểu.
Tất cả những sự việc trên đây mà con hỏi
cũng đã khiến cho người ta phải tin rằng có thế giới siêu hình có thật. Vì không ai hiểu và giải
thích được của một năng lực tưởng của người
còn sống siêu thời gian và không gian.
Vì thế, chỉ có những người tu hành đúng
chánh pháp của Phật vượt không gian và thời
gian thì mới thấu rõ được năng lực của tưởng
của người còn sống thật là vi diệu.
Từ xưa đến nay, loài người và các tôn giáo
đều không hiểu rõ năng lực của tưởng nên lầm
lạc cho đó là thế giới siêu hình. Vì thế, mà thế
giới siêu hình được duy trì và tồn tại sống mãi
đến ngày hôm nay. Mặc dù dân trí của loài
người nhờ khoa học nâng lên tầm hiểu biết khá
sâu rộng, tuy chưa hoàn chỉnh nhưng cũng tiến
bộ rất xa... Sự tiến bộ này đã bắt đầu làm rung
chuyển thế giới siêu hình. Cho nên, một số hệ
phái Phật giáo phát triển sẽ không còn lừa
phỉnh được ai.
Rồi đây, thế giới siêu hình hoàn toàn bị
triệt tiêu trên hành tinh này do các nhà khoa
học và đạo đức học. Và loài người không còn bị
lừa đảo bởi thế giới siêu hình này nữa.
 CÂU CHUYỆN LIÊU TRAI
Câu hỏi của Đào Thị Vinh
Hỏi:Kính thưa Thầy, người ta bảo trần
sao âm vậy. Vì người ta từng đi “tem” qua chỗ
tha ma người ta thấy họ cũng họp chợ lao xao
tiếng nói như người. Vậy như thế nào? Xin
Thầy dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Đây là câu chuyện Liêu Trai mà
người ta đã chịu ảnh hưởng tư tưởng của Bồ
Tùng Linh. Những chuyện Ma của Bồ Tùng
Linh là một tư tưởng phi không gian và thời
gian có nghĩa là không có sự chết mà chỉ có
một sự hiện hữu trong cuộc đời này bằng hai
mặt: sắc và vô sắc.
Với đôi mắt của Bồ Tùng Linh thế giới
hữu hình và thế giới siêu hình chỉ là một, chứ
không hai. Do thế một tiểu thư con gái nhà
quan đã chết hơn trăm năm mà vẫn thành
chồng vợ với một cậu thư sinh mới mười tám
tuổi.
Vì thế, sự họp chợ ngoài nghĩa địa tha ma
là một sự tưởng tượng phi không gian và thời
gian của nhà văn Bồ Tùng Linh. Chúng ta phải đứng trong góc độ của ý
thức xây dựng cho mình mộ t nền đạo đức chân
thật để mang hạnh phúc an vui cho mình cho
người, đừng nên sống trong sự tưởng tượng của
Bồ Tùng Linh, nó không lợi ích thiết thực mà
chỉ là một giấc mơ ảo huyền, đôi khi còn ám
ảnh tâm hồn của chúng ta trong thế giới ma.
Nếu chúng ta không hiểu ý nghĩa của Bồ
Tùng Linh thì cái thế giới tưởng siêu không
gian và thời gian này sẽ mang cho chúng ta
một sự mê tín rất lớn và còn đem tai hại cho
đời sống của chúng ta nhiều khổ đau hơn là
hạnh phúc.
Là một con người chúng ta phải sống chân
thật cho mình, đừng sống trong ảo tưởng, mà
phải sống trong nền đạo đức nhân bản - nhân
quả, không làm khổ mình, khổ người, để khắc
phục những nỗi khó khăn của kiếp làm người.
Những nỗi khó khăn đó đang chờ đợi chúng ta
ở phía trước.
 SỐNG LÀ TU
Câu hỏi của Liễu Thiện
Hỏi:Kính thưa Thầy, sống là tu, tu là
sống như thế nào?
Đáp: Thường người ta quan niệm tu hành,
khác với cuộc sống. Khi tu phải lìa xa cuộc sống
thế gian, không có sống chung với người thế
gian, nghĩa là khi đi tu thì phải cắt ái, ly gia,
bỏ vợ, bỏ con, bỏ cả sự nghiệp, lìa xa gia đình,
những người thân, ngay cả cha mẹ và anh em
dòng họ, v.v.. Người tu hành phải thực hiện các
pháp môn hằng ngày như: ngồi thiền, tụng
kinh, niệm chú, niệm Phật, lạy hồng danh chư
Phật, v.v..
Những pháp môn này không phải của đức
Phật dạy mà của ngoại đạo khéo lồng vào giáo
pháp của đức Phật để lừa đảo tín đồ Phật giáo.
Bước vào Đạo Đế tức là bước vào một chân
lý trong bốn chân lý của đạo Phật. Mà Đạo Đế
là pháp hành của đạo Phật dạy chúng ta để
sống trong cuộc sống với mọi người thì làm gì
có dạy chúng ta ly gia cắt ái, bỏ vợ, bỏ con, bỏ
cha, bỏ mẹ, bỏ gia đình sự nghiệp, v.v.. Khi bắt đầu vào tu theo pháp môn của đạo Phật thì
Ngài dạy chúng ta phải sống đúng chánh kiến,
nghĩa là hằng ngày chúng ta phải thấy và hiểu
biết: Cái nào thiện thì biết là thiện, cái nào ác
thì biết là ác; biết thiện thì tăng trưởng, vì
thiện không làm khổ mình, khổ người; biết ác
thì ngăn ngừa và diệt chúng để không làm khổ
mình, khổ người. Người thấy và biết sống như
vậy là tu tập chánh kiến.
Sống không làm khổ mình, khổ người là
tu, mà người tu tập phải sống có chánh kiến
như vậy, mà sống có chánh kiến như vậy tức là
tu tập. Như vậy đạo Phật không có dạy chúng
ta tụng kinh, ngồi thiền, trì chú, cúng bái, tế lễ
v.v.. mà dạy chúng sống đúng Chánh kiến,
sống đúng Chánh tư duy, sống đúng Chánh
ngữ, sống đúng Chánh nghiệp, sống đúng
Chánh mạng, sống đúng Chánh tinh tấn, sống
đúng Chánh niệm và như vậy chúng ta sẽ sống
đúng Chánh định tức là Chánh thiền định mà
Chánh thiền định, tức là bắt đầu từ Sơ Thiền
cho đến Tứ Thiền, mà Sơ Thiền tức là ly dục ly
ác pháp, mà ly dục ly ác pháp tức là Chánh
kiến.
Như vậy, không phải sống là tu hay sao?
Và tu là sống không làm khổ mình, khổ người thì có đúng không? Cho nên, thiền định là cuộc
sống mà tâm bất động trước các pháp và các
cảm thọ, chứ không phải thứ thiền định lìa
cuộc sống, “Ngồi thiền”.
Sự tu tập của đạo Phật không lìa cuộc
sống, kẻ nào lìa cuộc sống ngồi thiền, tụng
kinh, v.v.. thì tu hành không bao giờ có sự giải
thoát. Xa lìa cuộc sống mà sống phạm giới, phá
giới, thì có khác gì cuộc sống của người thế
gian, thì người đó tu không đúng đạo Phật, mà
đang tu theo ngoại đạo. Tu theo ngoại đạo thì
sẽ rơi vào tà kiến, tà niệm, tà thiền, tà định,
thì đời đời kiếp kiếp sẽ trôi lăn trong sáu nẻo
luân hồi.

CON NGƯỜI TỪ ĐÅU SANH?
Câu hỏi của Liễu Thiện
Hỏi:Kínhthưa Thầy! Con người từ
nhân quả sanh ra là sao? Nghĩa như thế nào?
Sống trong nhân quả? Chết trở về nhân quả?
Nghĩa nó như thế nào? Xin Thầy giảng cho
chúng con được hiểu. Đáp: Con người từ nhân quả sanh ra có
nghĩa là con người được sanh ra từ những hành
động nhân quả thiện ác của môi trường sống.
Đức Phật dạy: “Vô minh” sanh “hành”,
“hành” sanh “thức”. Vậy “thức” có được là
nhờ “hành”, “hành” có được là nhờ “vô
minh”. Do vô minh mới có những hành động
lúc ác, lúc thiện; do hành động lúc ác, lúc thiện
mới có làm khổ mình, khổ người, do hành động
ác và thiện này mà sanh ra thức, do thức mới
có danh sắc.
Trên đây là nói theo kinh sách, nói theo
lời dạy của đức Phật, còn nói theo thực tế qua
cái nhìn hiểu biết của ý thức, thì con người từ
môi trường sống sanh ra. Trong môi trường
sống gồm có đất, nước, gió, lửa, các chất khí và
các từ trường, do sự vận hành của các chất khí
và các từ trường mà tạo ra sự biến dịch thay
đổi không ngừng của các vật thể, vì thế mà tạo
các duyên tan hợp, nhờ các duyên tan hợp này
mà vạn vật sanh ra.
Con người từ nhân quả sanh ra, chết
trở về nhân quả, chứ không từ đâu sanh
và cũng không về đâu. Đó là câu trả lời:
“Con người từ đâu sanh ra và chết đi về
đâu?”. Câu trả lời này rất cụ thể và dễ hiểu. Vì
con người từ cát bụi và không khí (môi trường
sống) sanh ra thì chết cũng trở về cát bụi và
không khí (môi trường sống).
Nếu không có môi trường sống thì con
người không thể sanh ra được, như mặt trăng,
mặt trời và các hành tinh khác không có sự
sống thì không có vạn vật sanh ra.
Sự sanh ra được vạn vật trong vũ trụ là
nhờ sự vận hành của các duyên lúc hợp lúc tan;
lúc hợp lúc tan, tức là có sự thay đổi. Sự thay
đổi ấy đức Phật gọi các duyên là vô thường, hay
các pháp vô thường đều có nghĩa này. Do các
pháp vô thường và biết chắc chắn như vậy nên
đức Phật xác định: “Mười hai nhân duyên
khi tan rã thì không còn duyên nào cả,
cũng như thân ngũ uẩn, khi một người
chết thì không còn uẩn nào cả”. Do đó, đức
Phật lại còn xác định thêm: “Nếu các duyên
dù còn một chút xíu như đất trong móng
tay Ta thì Đạo Ta không ra đời, vì không
giải khổ cho ai được hết”. Do tánh chất vô
thường thay đổi của các pháp, nên con người tu
hành giải thoát được.
Ví dụ: Một người chửi mắng chúng ta,
nhưng chúng ta không chửi mắng lại họ, không buồn tức giận họ, và còn khởi tâm thương họ,
thì ngay đó nó đã thay đổi các duyên của các ác
pháp đó trở thành các duyên cho các thiện
pháp. Do tánh chất các pháp vô thường thay
đổi như vậy nên chúng ta thấy được sự giải
thoát một cách cụ thể và rõ ràng. Nếu các pháp
không vô thường, cố định, hay nói cách khác là
các pháp có tánh chất thường hằng thì không
thể làm thay đổi được ác pháp thành thiện
pháp được.
Ví dụ: Một người chửi mắng chúng ta thì
chúng ta phải tức giận và chửi mắng lại họ.
Nếu tánh chất các pháp thường hằng thì ác
pháp này không thể thay đổi được, nếu thay
đổi không được thì con người dù có tu hành
cũng không thể giải thoát được.
Nếu các pháp không thể thay đổi được thì
các pháp phải có bản thể thường hằng, nếu các
pháp có bản thể thường hằng thì con người
phải có đời sống sau khi chết, nếu có đời sống
sau khi chết thì con người phải có linh hồn, có
linh hồn thì thế giới siêu hình mới có.
Nếu thế giới siêu hình có thì phải có một
ông vua của thế giới này, và ông vua của thế
giới này thì phải là một đấng toàn năng, một
đấng tạo hóa, một đấng toàn thiện v.v.. Mà là đấng tạo hóa, toàn năng, toàn thiện khi tạo tác
ra con người và vạn vật thì con người và vạn
vật phải là hiền lành không bao giờ giết hại và
ăn thịt lẫn nhau.
Con người và vạn vật do đấng toàn thiện
sanh ra thì phải thương yêu nhau, đùm bọc lẫn
nhau, chứ có đâu giết hại lẫn nhau mà chẳng
hề xót thương chút nào...
Do thế, chúng ta không tin thuyết này vì
nó không thực tế, mơ hồ, trừu tượng, cho nên
những tôn giáo xây dựng thế giới siêu hình đã
lỗi thời, không thể còn lừa đảo được ai nữa, khi
trình độ hiểu biết của con người được nâng lên
theo sự tiến bộ của khoa học.
Cho nên, thuyết “nhân duyên” của Phật
giáo là phù hợp, là thực tế, cụ thể như khoa
học. Vì thế, không có một triết thuyết nào bài
bác nó được, nó là một sự thật hiển nhiên của
vạn vật trên hành tinh này đều do duyên hợp.
Mà đã do duyên hợp thì chỉ có môi trường
sống mới có sanh ra vạn vật, từ loài rong rêu,
cỏ cây cho đến các loài động vật nhỏ nhất như
vi trùng, vi khuẩn, v.v..
Con người cũng là một loài động vật như
bao nhiêu loài động vật khác nên cũng từ môi trường sống sanh ra. Vì thế , chúng ta khẳng
định: “Con người từ nhân quả sanh ra,
chết trở về nhân quả”.

TƯỞNG TRI VÀ THÊT TRI
Câu hỏi của Liễu Thiện
Hỏi:Kính thưa Thầy! Tưởng tri và thật
tri nghĩa như thế nào?
Đáp: Tưởng tri và thật tri khác nhau
không giống nhau. Tưởng tri là sự hiểu biết qua
tưởng thức, thật tri là sự hiểu biết qua ý thức.
Ví dụ: Một người chưa từng bao giờ thấy
ma, nghe người ta nói ma, họ diễn tả con ma
hình thù bằng cách này, bằng cách khác. Do sự
tưởng diễn tả những hình ảnh của ma. Từ đó
năng lực tưởng thức của chúng ta mô phỏng
theo hình dáng đó xuất hiện, khiến chúng ta
nhìn thấy con ma như thật. Cái thấy con ma
thật sự như vậy gọi là tưởng tri.
Cho nên, cái thế giới siêu hình cũng do từ
năng lực của tưởng tạo ra, chứ không phải có linh hồn người chết nhập vào người còn sống,
mà chính người còn sống mới có năng lực tưởng
tri của mình tạo ra. Chính năng lực tưởng tri
của người đó đã nói chuyện với người đó.
Vì thế, các nhà ngoại cảm vẫn thấy có
linh hồn người chết mượn xác thân mình nói
chuyện với người còn sống.
Những sự hiểu biết như vậy qua tưởng
thức như vậy gọi là tưởng tri.
Còn thật tri là sự hiểu biết qua ý thức,
chắc quý vị ai cũng đều rõ. Khi chúng ta phân
biệt mọi vật trước mắt mà hiểu được mọi vật đó
một cách rõ ràng và cụ thể thì đó là thật tri.
Thật tri chính là ý thức của chúng ta đang
sử dụng hằng ngày trong cuộc sống. Đó là sự
hiểu biết phân biệt phải, trái, tốt, xấu, trắng,
đen, dơ, sạch, thiện, ác v.v..

PHẠM HẠNH
Câu hỏi của Liễu Thiện
Hỏi:Kính thưaThầy! Thân người do
tâm ham muốn (dục) mà có. Do ái dục mà có sanh y. Muốn bước lên quả vị Thánh thì phải
triệt tiêu ái dục, triệt tiêu ái dục thì phải triệt
tiêu sanh y. Vậy triệt tiêu sanh y như thế nào?
Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Muốn triệt tiêu sanh y, tức là phải
sống đúng đời sống giới luật của Phật, có nghĩa
là sống đúng Phạm hạnh của một vị Thánh
Tăng. Phạm hạnh của một vị Thánh Tăng như
thế nào?
Chúng ta hãy nghe kinh dạy: “Cạo bỏ
râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia
đình, không nhà cửa, thiểu dục, tri túc, ba
y một bát, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc,
phóng khoáng như hư không”. Đó là một lối
sống triệt tiêu sanh y, lối sống giới luật, có
sống đúng giới luật thì tâm mới ly dục ly ác
pháp, tâm có ly dục ly ác pháp thì mới đoạn
dứt sanh y, đoạn dứt sanh y thì tâm mới bất
động trước các ác pháp.
Như vậy chúng ta thấy rõ ràng, muốn làm
chủ sanh, già, bệnh, chết thì sanh y là cửa vào
của chúng ta. Muốn bước vào cửa sanh y thì
phải mở ống khóa giới luật. Cho nên , giới luật
là một pháp môn vô cùng quan trọ ng cho người
mới bắt đầu tu theo đạo Phật. Nếu tu hành theo đạo Phật mà không
nghiêm trì giới luật, thì tu hành chẳng ích lợi
gì và còn phí công vô ích, uổng một đời tu chỉ
có hình thức mà thôi.
Vì thế người cư sĩ tu theo đạ o Phật, muốn
làm chủ sanh, già, bệnh, chết thì phải Thọ Bát
Quan Trai, một tháng ít nhất cũng phải có một
ngày tu tập làm Phật, tức là một ngày giữ tám
giới trọn vẹn.
Một ngày giữ tám giới trọn vẹn là một
ngày lìa xa sanh y, lìa xa sanh y tức là lìa dục,
lìa ái dục tức là giải thoát.
Vậy, giới luật là một pháp môn quan trọng
nhất cho con đường giải thoát của đạo Phật,
nếu ai tu theo đạo Phật mà phạm giới, phá
giới, xem thường giới luật Phật, là tu theo
ngoại đạo, tu theo tà giáo thì con đường tu tập
để được giải thoát sẽ còn rất xa và xa biệt mù.
 THẾ GIỚI SIÊU HÌNH KHƠNG CĨ
Bài viết của giáo sư Trần Phương
Vào ngày 17 tháng 6 năm 2000 chúng
tôi có nhận được một tài liệu nói về thế giới
siêu hình do cô Minh Châu đưa về. Muốn làm
sáng tỏ vấn đề này thì chỉ có những người
nhập được Tứ Thánh Định và Tam Minh của
đạo Phật thì mới đủ khả năng giải thích cho
mọi người rõ.
Dưới đây là một bài viết của Giáo sư Trần
Phương ghi lại sự tìm kiếm hài cốt cô em gái
của mình (một liệt sĩ). Người muốn nói lên
những điều mắt thấy, tai nghe mà mình đã
chứng kiến trên bước đường tìm hài cốt đứa em
thân thương của mình, nhưng không sao giải
thích được, qua những việc làm của các nhà
ngoại cảm.
Phải chăng có sự sống sau khi chết?
Nếu có sự sống sau khi chết, thì thế giới
siêu hình là có thật. Và sự mê tín của con

người sẽ không còn là mê tín nữa.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!