Thứ Năm, 27 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT TẬP 4 -7



phải  gieo nhân tu như  thế  nào? Và  làm  sao để được như nguyện?
Đáp: Phải sống đúng giới luật, đời sống phải ba y một bát, đi xin ăn, sống không nhà cửa,  không  gia  đình,  tâm  hồn  luôn  luôn  phải giữ  gìn  trắng  bạch  như  vỏ  ốc,  phóng  khoáng như hư không, đó là gieo nhân chứng quả A La Hán  Toàn  Giác.  Nhờ  gieo  nhân  như  vậy  tâm mới ly dục ly ác pháp, tâm có ly dục ly ác pháp thì tâm  mới  có  vô  lậu.  Nếu  đời  sống,  không sống đúng như vậy thì muôn đời ngàn kiếp chẳng bao giờ chứng quả A la Hán Toàn Giác.
Làm  sao để  đạt  được  như  nguyện?  Muốn đạt  được  như  nguyện  thì phải  tu  tập  bảy  nẻo trong  Đạo  Đế,  có  nghĩa  là  phải  tu  tập  hằng ngày bốn loại định ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp trên bảy nẻo của Bát Chánh Đạo tức là: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh  Tấn, Chánh Niệm.
Có sống như trên đã nói, có tu tập hằng ngày  như  vậy  thì quả  A La  Hán  Toàn  Giác  sẽ đạt được như ý nguyện.


MỘT VỊ A LA HÁN CÓ VÀO SANH
RA TỬ ĐỂ ĐỘ CHÚNG SANH KHÔNG?
Câu hỏi của sư Thông Vân
Hỏi: Kính thưa Thầy! Một người đã chứng quả A La Hán Thanh  Văn cũng như một người chứng quả A La Hán Độc Giác có thể thị hiện vào sanh ra tử hành Bồ Tát Đạo để thành tựu  quả  A La  Hán  Toàn  Giác  (như  kinh  sách phát  triển  nói)  không?  Hay  người  đã  chứng  A La  Hán  Thanh  Văn  Giác  mà  thôi,  có  nghĩa  là chỉ   thành  Phật   Thanh   Văn  Giác.   Độc  Giác cũng   vậy,   chứ   không   thể   thành   Phật   Toàn Giác.
Kính  thưa Thầy, con có lòng tin  nơi Thầy, kính  xin Thầy chỉ dạy cho con tất cả sự thật và hỗ trợ cho con để tương lai con thành một vị A La Hán Toàn Giác, làm lợi ích rộng lớn như huyễn cho tất cả chúng sanh.
Đáp:  Ở    đây  con  phải  phân  biệt  cho  rõ ràng:
1. Pháp tu chứng
2. Quả tu chứng
 3. Năng lực tu chứng

• Pháp tu chứng như thế nào?
- Tự tìm pháp tu, chứng quả vô lậu, có đầy đủ năng lực như Phật, nên tên gọi là Độc Giác A La Hán hay là Độc Giác Phật
- Nghe Phật  dạy hoặc  đọc  kinh  sách thấu hiểu lời dạy của đức Phật mà tu tập chứng quả vô  lậu,  có  đầy  đủ  năng  lực  như  Phật,  nên  tên gọi là Thanh  Văn A La Hán hay là Thanh  Văn Phật.
• Quả tu chứng như thế nào?
Quả  tu  chứng  là  tâm  vô  lậu  tên  gọi  của tâm vô lậu là A La Hán.
Nếu tự tìm pháp tu mà tâm vô lậu thì gọi là chứng quả A La Hán Độc Giác còn nếu nghe Phật  dạy  hay  đọc  kinh sách  lời  dạy  của  đức Phật  mà  tu  chứng  thì gọi  là  chứng  quả  A  La Hán Thinh Văn.
Nếu quả vô lậu chưa tròn đủ có nghĩa tâm vô lậu từng phần, vô lậu từ ít đến nhiều, vô lậu từ  thô  đến  tế,  vô  lậu  từ  từ.  Vô  lậu  như  vậy không được  gọi  là  vô lậu  trọn vẹn. Và  như vậy không được  gọi là  vô lậu  bậc  A La Hán. Ví dụ: Một người tu tập vô lậu được 99 phần trăm, chỉ còn một phần trăm li ti nữa, thì cũng chưa được gọi là vô lậu trong đạo Phật. Mà chưa được gọi là vô lậu trong đạo Phật thì cũng chưa được gọi là chứng quả A La Hán. Phật giáo phát triển không hiểu vô lậu như thế nào, nên quá xem thường quả A La Hán vô lậu của Phật giáo.  Do vì không biết tầm mức vô lậu của bậc A La Hán như thế nào, nên đặt ra có nhiều quả A La Hán để  dễ đánh lận người  khác và  còn dùng câu  để che mắt mọi người: “Chứng quả A la Hán mà còn  thấy  mình  chứng  quả  A  La  Hán  là chưa chứng quả A La Hán”.
• Năng lực tu chứng như thế nào?
Năng  lực  tu  chứng  của  Phật  như  thế  nào thì năng  lực  tu  chứng  của  các  bậc  A  La  Hán cũng  như  vậy  có  nghĩa  là  Phật  có  10  lực  và minh, hạnh đầy đủ thì các  bậc A La Hán cũng có được như vậy. Phật có gì thì họ cũng đều có nấy. Họ chỉ thua Phật là vì Phật là người sáng lập  ra đạo  Phật  mà  thôi.  Tại  sao năng  lực  tu chứng lại giống nhau như vậy?
Bởi vì pháp tu của Phật giúp cho tâm mọi người thanh tịnh, vô  lậu, chứ  không phải pháp tu tập để tạo ra năng lực có cao có thấp, vì thế tâm  mọi  người  thanh  tịnh,  vô  lậu  thì giống nhau, từ tâm thanh tịnh vô lậu lưu xuất ra bảy năng  lực  Giác  Chi.  Bảy  năng  lực  Giác  Chi  tạo
 ra Bốn Thần Túc. Do đó, người tu sĩ nào tu tập tu  chứng  đạt  chân  lí đều  có  Tứ  Thần  Túc, nên năng lực phải giống nhau.
Xin các bạn đừng hiểu rằng năng lực là do độ chúng sanh mà có, hiểu như vậy không đúng các bạn ạ! Bồ Tát Hạnh chẳng qua đó là trả nợ cơm ăn áo mặc cho đàn na thí chủ chứ chẳng có công đức gì cả.
Người  tu  Bồ  Tát  Đạo  hành  Bồ  Tát  Hạnh là  người  mang  nợ  đàn  na thí chủ  nhiều  nhất, nên phải trả nợ, chứ không phải tu Bồ Tát Đạo hành  Bồ  Tát  Hạnh là  có  nhiều  công  đức  và năng  lực.  Người  tu  sĩ  tu  Bồ  Tát  Đạo  hành  Bồ Tát  hạnh  là  những  người  tu  chưa  chứng  của Phật giáo phát triển. Còn người tu theo Phật giáo đã chứng đạt chân lí, thực hành Bồ Tát Hạnh là  để  trả  nợ  cơm áo  của  đàn  na thí chủ hoặc tạo duyên mới để độ mọi người nên gọi là hóa duyên độ chúng sanh.
Khi tâm  thanh  tịnh  (Vô  lậu)  thì từ  nơi tâm thanh tịnh đó lưu xuất ra năng lực mà chúng  tôi  đã   nói  ở  trên,  chứ  không  phải  do pháp tu hành tạo ra năng lực.
Một người tập pháp môn thiền định để mong nhập được định thì định ấy là tà định không phải chánh định.
 Người  muốn  tu  tập  thiền  định  để  được nhập  chánh định, thì phải  tu  pháp  môn ly dục ly ác pháp. Khi tâm đã ly dục ác pháp sạch thì tâm  thanh  tịnh  (hết  tham,  sân,  si).  Tâm  hết tham  sân  si  thì lưu  xuất  ra 7 năng  lực  (thất giác chi) để tự điều khiển thân tâm nhập định, chứ không phải do pháp tu mà nhập định được. Nhập định như vậy mới gọi là chánh định.
Muốn hành Bồ Tát Đạo thực hiện Bồ Tát Hạnh thì phải  nên  tu  chứng  quả  A  La  Hán xong thì mới đi độ chúng sanh, còn tu tâm chưa vô  lậu  thì đừng  mơ  ước  độ  chúng  sanh.  Vì chúng sanh nghiệp chướng sâu dày, không độ được chúng sanh mà chúng sanh lại xỏ mũi, dắt mình  theo danh và lợi thì rất uổng phí một đời tu  hành  của  một  kiếp  người.  Bằng  chứng  các nhà tu hành theo Phật giáo phát triển, các vị Thiền  sư  đang  bị  chúng  sanh  xỏ  mũi  trong danh lợi  chức  phẩm, tiền bạc, ăn ngủ phi  thời, chùa to Phật lớn v.v..

 MỤC ĐÍCH CON MUỐN XUÇT GIA VỚI THỈY
Lời trần tình của NC
Nam  mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Kính  bạch Thầy!
Dẫu biết rằng: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng” nhưng con vẫn quý chuộng sự thật. Ghét những gì hoa mị, giả dối, hình  thức.
Dòng  họ  bên  nội  con  tuy  đạo  Cao  Đài, nhưng  riêng con lại  thích tìm hiểu, nghiên cứu kinh sách về đạo Phật. Con tu học theo Phật giáo phát triển 10 năm nhưng theo Thầy  chỉ 5 năm thôi.
Con cũng biết đường lối, quan điểm của Thầy   không   đồng   nhất   với   Phật   giáo   phát triển. Vốn tính hiếu kỳ con đứng giữa cả hai để xem lời  nhận  xét  của  Phật  giáo  phát  triển  nói về Thầy là đúng hay sai?
“Thầy Thông Lạc tu theo pháp môn Nguyên Thủy hành xác cực độ, Thầy chủ trương thọ dụng thực phẩm không thấy, không  nghe,   không  nghi  chẳng  khác  gì Nam  Tông.  Thầy  viết  kinh sách  cố  ý  đâm
 thẳng Phật giáo phát triển gây chia rẽ tôn
giáo với mưu đồ định  làm “bá chủ”.
Đây vừa là lời lên án vừa là lời kết tội Thầy.  Họ  dựa  trên  cơ sở  Thầy  quá  khắt  khe việc giữ giới ăn ngày một bữa và lời chỉ trích thẳng  thắn  của  Thầy  trong  kinh sách  khi đề cập đến Phật giáo phát triển.
Tuy nhiên, họ đã quên rằng ăn ngày một bữa là giới luật Phật đưa ra, chứ không phải Thầy  đưa ra. Nếu  nói  pháp  môn  Thầy  tu  quá khổ hạnh hành xác thì tại sao vẫn có nhiều người  tu  theo  Thầy  trong  số,  có  cả  cụ  già  và tầng lớp giới trẻ như chúng con? Nếu ai đã một lần đến tu  viện Chơn Như  hãy quan sát  tất  cả tu  sinh  xem có  phải  ai  cũng  gầy  còm,  ốm  yếu, lực kiệt trí mòn không? Hay tu sinh đang sống trong  cảnh  giới  Phật.  Trong  trạng  thái  tâm thanh thản, an lạc và vô sự?
Còn việc thọ dụng thực phẩm  không thấy, không nghe, không nghi có nghĩa là được phép ăn mặn như Nam Tông. Có ai thấy Thầy Thông Lạc thọ dụng thực phẩm động vật bao giờ?
Tu  theo  Thầy  thời  gian  ngắn  con  hoàn toàn phủ nhận lời lên án của Phật giáo phát triển. Còn lời kết tội “Thầy viết kinh sách cố ý  đâm  thẳng  Đại  Thừa  gây  chia  rẽ  tôn
 giáo  với  mưu đồ  định  làm  bá  chủ”, nói như thế chẳng khác nào Thầy Thông Lạc dùng bút như  dùng  cung bắn  từng  tu  sĩ  ngoại  đạo,  tâm danh lợi cao ngút ngàn với “mưu đồ định làm bá chủ”.

Nghe  điều  này  con cũng  suy tư:  Nếu  như Đại Thừa thực sự tốt thì sợ gì người ta nói xấu? Thầy vạch lỗi, chỉ trích Đại Thừa ở những lỗi nào, điều nào mà so ra thực tế có đúng như vậy không hay là Thầy Thông Lạc cố ý bịa chuyện, cố tình gây chia rẽ tôn giáo?
Có người bảo rằng: Tu tập phải có đạo lực để làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi. Phải nhập được Bốn Thiền, phải có cõi Cực Lạc, phải có  Phật  tánh,  phải  biết  ngày  giờ  chết,  sống chết ra đi  tự tại  v.v.. Nghĩ  như vậy các bạn đã đi lạc đề, đối với Phật giáo các bạn không thể nghĩ như  vậy.
Nghĩ như vậy vô tình các bạn biến Phật giáo thành một tôn giáo thần thông; nghĩ như vậy  vô  tình các  bạn  biến  Phật  giáo  thành một tôn giáo để làm gạch nối giữa con người và thế giới siêu hình,  thành một bản thể thường hằng vĩ  đại  của  vạn  hữu;  nghĩ  như  vậy  nên  vô  tình các  bạn  lý  luận  đưa ra những  triết  lý  cao siêu tuyệt  đỉnh  của  trí tuệ  bát  nhã  (Tánh  không),
 biến Phật  giáo thành một  triết  học  vi diệu  cao siêu để tranh luận hơn thua với các hệ phái khác, tôn giáo khác và cũng chính để lý luận đánh lừa mọi người.
“Kính thưa  các bạn! Phật giáo không phải là tôn giáo; không phải một đế quốc, lợi dụng thần quyền cai trị thế giới. Phật giáo chỉ là một nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người.  Phật   chỉ   nhắc   lại  những  gì  của  con người  đã  có  sẵn,  chứ  không  sáng  tạo  ra cái  gì mới cả mà cũng không bịa đặt ra và thêu dệt những chuyện ảo  tưởng, hư cấu  và  cũng không sử  dụng  quyền  năng  siêu  việt  của  bản  thân mình  để  lừa đảo  mọi  người  khuyến dụ  họ theo tôn  giáo  mình.  Cho nên,  những  điều  của  Phật dạy qua ngôn ngữ thay vì hiểu nghĩa rất tầm thường, giản dị và bình dân thì các nhà học giả Đại Thừa lại hiểu một cách cao siêu, ảo tưởng, hư  cấu  thành  sai  nghĩa”. (Trích  lời nói đầu trong Văn Hóa Phật Giáo tập IV trang 10)
Con đồng ý với quan điểm của Thầy vì bất cứ  tôn  giáo  nào,  hệ  phái  nào  cũng  đều  khuyên con người ngăn ác, hành thiện, cũng đều công nhận  Tứ  Diệu  Đế  của  đạo  Phật  là   chân  lí. Người nói thế giới Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn  mà  lại  chưa đặt  chân  đến  cõi  đó  lần  nào thử  hỏi  làm  sao con tin?  Người  lúc  sống  tạo
 nhiều điều ác đến khi chết con cháu bỏ tiền thỉnh Tăng, Ni cầu siêu thoát, vãng sanh về cõi giới lành thì còn gì là luật nhân quả?
Con không  phải  người  nhẹ  dạ, cả  tin khi nghe điều  gì ngoài  sự  hiểu  biết của mình,  vượt qua khỏi ý thức sang vô thức.
Chính  vì  thế,  khi nghe  người  ta  kết  tội Thầy con không chỉ  tìm đọc  hết  kinh sách của Thầy mà còn tìm cách gần gũi, về tu viện Chơn Như Thọ Bát Quan Trai với mục đích là dò xét, tìm hiểu.
NHỮNG GÌ  CON ĐÃ THẤY

1)   Đó  là  những  trang  tiểu  sử  kể  về  cuộc đời  tu  hành  quá  vất  vả  gian  truân  của  Thầy trên  mạng   Internet   (nguyên  thủy  chơn  như
nét).

2)   Đó  là  lời  thỉnh  cầu  Thầy  khoan  vội nhập  Niết  Bàn  của  HT.  Thanh  Từ,  lời  ca ngợi sư huynh  Thông Lạc  “Đại  tinh tấn”  của Thầy Chân Quang trong quyển Người Chiến Thắng tập 1.
3)   Đó  là  cái  cốc  đơn sơ Thầy  ở,  3 y vải thô  Thầy mặc, đôi  dép  lào  giản dị Thầy mang, một lối sống thanh bần đúng nghĩa “Khất sĩ” của Thầy. Là  một  Thầy viện chủ  đa đoan công việc,  thế  mà  sáng  nào  cũng  cầm  cây  chổi  ra
 quét  sân.  Có  mấy  ai  quan hệ,  cư xử  với  chúng thương yêu và bình đẳng như Thầy ?
NHỮNG GÌ  CON ĐÃ NGHE?
1)   Lời giảng dạy pháp ôn hòa, từ  tốn, lời góp  ý  khuyên  nhủ  tế  nhị  của  Thầy  những  lần con sai phạm phá hạnh độc cư.
2)   Nhưng  tiếng reo vui của bao người khi được gặp Thầy, gặp chánh pháp chan hòa với dòng lệ ngân dài trên đôi má.
3)   Sự khẳng định cương quyết chấp hành đúng  giới  luật,  không  xem  thường  những  lỗi nhỏ nhặt của Thầy mà đức Phật đã từng dạy: “Giới  luật  còn  là  đạo  Phật  còn,  giới  luật mất là đạo Phật mất”.
NHỮNG GÌ  CON ĐÃ BIẾT

1)   Nếu  Thầy là  người  thực sự tham  danh thì Thầy đã phơi bày những thần lực siêu phàm của A La Hán để thu hút Phật tử về phía mình cớ chi phải đuổi hết những đệ  tử đòi theo Thầy học  thần thông sang Tây Tạng mà  học. Cớ  chi Thầy chịu nhọc  nhằn, ghi từng lời  dạy đạo đức làm  người; cớ  chi  Thầy giữ  bất  động tâm trước những lời lên án và kết tội vô căn cứ của Đại Thừa.
 2)   Pháp  môn  tu  của  Thầy  đưa đến  giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết – bốn nỗi khổ của kiếp người.
3)   Để  Phật  tử  vững  chắc  niềm  tin nơi Thầy,  nên  con xin  Thầy  kể  rõ  tiểu  sử  để  con viết   bài   “Những   sự   thật   về   Thầy   Thông Lạc”.  Thầy  từ  chối  lời  thỉnh  cầu  của  con cũng như  của  M.H   xin  Thầy  được  viết  tiếp  người Chiến Thắng tập 2, Thầy bảo: “Các con làm thế  thì đời  sẽ  hiểu  lầm  Thầy  là  người  tu mà  còn  tham danh  lợi.  Nếu  con muốn  ghi tiểu sử của Thầy thì hãy đợi sau này Thầy tịch  rồi viết”.
Lời  thỉnh  cầu  thiết  tha  của  con  tuy  bị Thầy  từ  chối  nhưng  con rất  vui  vì  biết  được Thầy  mình  không  phải  là  người  có  tâm  danh lợi  ngút  ngàn  như  các  học  giả  phát  triển  bàn
tán.
Sau  thời  gian  dài  tầm  đạo  con  đã   cảm thấy chán nản và mỏi mệt. Nay con quyết định dừng  chân  tại  tu  viện  Chơn  Như.  Con  muốn được  xuất  gia  làm  đệ  tử  của  Thầy.  Kính   xin Thầy xót thương mà thâu nhận con.
Mục đích con muốn xuất gia với Thầy không  cầu  học  thần  thông  làm  A  La  Hán  mà
 con chỉ  cầu  học  nền  đạo  đức  nhân  bản  - nhân quả không làm khổ mình,  khổ người.
Kính  bạch Thầy!
Ngày 23 tháng 8 con cùng đoàn từ thiện TP.HCM  đến  cứu  trợ  đồng  bào  miền  Trung  bị hạn hán. Con nhìn cảnh sống của người dân Hơrê, Bana ở  đây chẳng khác  nào  tại  địa ngục thế gian: trời nắng gắt thật oi bức, khó chịu thiếu nước, thiếu lương thực trầm trọng, cỏ cây khó  vươn  mình   giữ  mầm  xanh  sự  sống,  con không thể cầm lòng trước cảnh đói khổ của họ. Nếu  có  thể  con xin  được  đưa vai  gánh  thay  họ những nỗi khổ đau đó.
Đối   với   con  niềm   vui   của   chúng   sanh chính  là  niềm  vui  của  con, nỗi  khổ  của  chúng sanh  chính   là  nỗi  khổ  của  con.  Những  thực phẩm  con chu cấp  cho họ  bất  quá  chỉ  cứu  khổ họ  trong  một  tháng  chẳng  bằng  khuyên  họ sống   thiện,   làm   thiện   đặng   chuyển   nghiệp nhân quả  –  cứu  khổ  họ  đời  đời. Nhưng  hai  con người, hai thế giới, hai tiếng nói khác nhau con biết giúp họ làm sao đây?
Xe lăn bánh trở về thành phố mà lòng con nhói  đau, nước mắt  con tuôn trào  vì từ  nhỏ  tới lớn con chưa từng nhìn  thấy cảnh người ta sống khổ sở như thế này Thầy a!
 Mục đích con muốn xuất gia theo Thầy trước cứu  độ mình,  sau cứu  độ  người  thực hành theo hạnh nguyện tự lợi lợi tha. Con thiết nghĩ: Nếu đời này con không quyết tâm tu tự giải thoát  cho mình  thì làm  sao con thấu  suốt  lộ trình giải thoát để dẫn dắt cho người?
Con  muốn  sống  một  cuộc  đời  đạo  đức  –
đạo đức thực sự.

Con  muốn  đem  đến  niềm  an  vui  hạnh phúc cho muôn loài.
Con muốn nhân loại đối xử với nhau bằng tình người đừng tranh đấu sát hại lẫn nhau, đừng làm khổ nhau.
Con sẽ phá tan cõi Địa Ngục tại Ta Bà. Con dám đánh đổi cả mạng sống của mình
để đạt thành tâm nguyện đó. Nhưng  đứng giữa
muôn ngàn cái khó Thầy có thể từ bi trợ duyên giúp con không?
Con đề cao đạo đức, ca ngợi đạo đức và chỉ muốn mình  là một con người sống có đạo đức.
Kính  xin  Thầy  xót  thương  mà  hóa  độ  cho con.
 TP HCM,  ngày 27/8/ 2005
Kính  bút
N.C
 SÓNG GIÓ CHƠN NHƯ
Sóng gió Chơn Như là một giai đoạn chuyển mình  tiến lên để chấn chỉnh Phật giáo tốt  hơn.  Nhờ  đó  mới  có  nhiều  phương  án  xây dựng  chương  trình giáo  dục  đào  tạo  đạo  đức nhân  bản  –  nhân  quả  của  Phật  giáo  đến  với mọi người.
Kính  thưa quý Phật tử, quý Thầy, quý Sư đang tu  tập  tại  tu  viện  Chơn  Như  hãy  giữ  gìn tâm  bất  động  trước  mọi  biến  cố  để  tu  viện Chơn Như chuyển mình  qua một giai đoạn mới. Hãy lo tu tập quét sạch tâm trên bốn chỗ thân, thọ,  tâm,  pháp,  để  tâm  lúc  nào  cũng  thanh thản an lạc và vô sự. Còn mỗi việc lớn nhỏ đều có Thầy. Đừng vì một lý do gì mà quý Phật tử, quý Sư, quý Thầy bỏ cuộc tu hành quá uổng. Tu là  xả  tâm  trước  các  ác  pháp.  Vậy  mà  khi gặp các ác pháp đến thì quý vị dao động tâm, muốn bỏ cuộc, như vậy quý vị tu hành như thế nào?
Mục đích tu tập theo Phật giáo là ngăn ác diệt   ác   pháp,   sinh  thiện  tăng  trưởng  thiện pháp trong tâm của mỗi người. Ngăn và diệt ác pháp  là  giúp  cho thân  tâm  quý  vị  thanh  thản, an lạc và vô sự, tức là hết khổ đau.
 Người tu tập được như vậy có hai phương pháp mà quý vị cần phải nhớ kỹ:
1/ Bất động trước các ác pháp trong cuộc sống hằng ngày.
2/ Bất động từng tâm niệm trên thân, thọ, tâm, pháp của mình.
Ở đây Thầy xin giảng nói về: “Bất động trước các ác pháp trong cuộc sống hằng ngày”.
Như đã nói ở trên bất động trước các ác pháp  trong cuộc  sống hằng ngày thì phải dùng tri kiến giải  thoát. Muốn có  tri kiến giải thoát thì quý Sư, quý Thầy và quý Phật tử phải quán sát, tư duy từ tâm, bi tâm, hỷ tâm, xả tâm, luật nhân quả, thân ngũ uẩn, mười bảy kiết sử, ngũ triền   cái,   năm   dục   trưởng   dưỡng,   mười   hai nhân  duyên  và  quán  xét  thấu  rõ  thật  sự  các pháp vô thường, vô ngã, khổ và không có pháp nào còn tồn tại mãi trên thế gian này.
Nếu hằng ngày rèn luyện, tư duy, quán xét các  pháp  như  vậy  thì tri kiến  giải  thoát  càng lớn mạnh. Tri kiến giải thoát này lớn mạnh thì không  có  một  ác  pháp  nào  làm  dao động  tâm quý vị được.
 Như vậy, chánh tri kiến giải thoát của quý vị  đã  trở  thành  một  bức  tường  thành  kiên  cố bảo  vệ  thân  tâm  của  quý  vị  trong  cuộc  sống, biến tâm quý vị bất động im lặng như Thánh.
Do chỗ bất động tâm này mà đức Phật dạy có  tám  pháp  duy  nhất,  chỉ  cần  tu  một  pháp cũng đi đến cứu  cánh giải  thoát  hoàn toàn. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Thánh Định.
Do tư duy quán xét tu tâm từ mà ông Phú Lâu  Na  và  em trai  ông  Cấp  Cô  Độc  đã  chứng quả A La Hán.
Vậy quý vị hãy lắng nghe đức Phật trắc nghiệm ông Phú Lâu Na tu tập từ tâm vô lượng và cuối cùng đức Phật phải chấp nhận Ông chứng quả A La Hán.
Một  hôm  ông  Phú  Lâu  Na  xin  Phật  đến một  đất  nước  khác  để  hướng  dẫn  dạy người  tu
tập.
Đức  Phật  bảo:  “Dân  nước  đó  ác  độc  lắm,
họ sẽ mắng chửi ông”.
Ông Phú Lâu Na đáp: “Dân  nước  đó  mắng chửi  con, nhưng  họ còn thương  con, vì họ chưa đánh con”.
Đức Phật bảo: “Họ đánh con”.
 Ông   Phú   Lâu   Na   đáp:   “Họ   đánh   con, nhưng  họ còn thương con, vì họ chưa dùng dao, mác, vũ khí giết con”.
Đức  Phật  bảo:  “Dân  xứ  đó  sẽ  dùng  dao, mác, vũ khí giết con”.
Ông Phú Lâu Na đáp: “Dân xứ đó dùng vũ khí  giết  con, nhưng  họ  còn  thương  con, vì  họ biết con còn mang thân này có nhiều tai nạn, bệnh tật, già yếu thường khổ đau”.
Đức Phật bảo: “Thôi đủ rồi! Ông cứ đi!  Đi!
 Đi!”
 Chỉ có quán xét tư duy làm cho tâm từ lớn
 mạnh thì quý vị sẽ được tâm bất động. Mặc dù quý vị đang sống trong các ác pháp bủa vây, nhưng  có  tri kiến  giải  thoát  thì ở  đâu,  bất  cứ chỗ nào cũng được giải thoát.
Như vậy đạo Phật tu hành đâu phải khó khăn, khó khăn là ở chỗ lòng yêu thương chân thật  của  quý  vị  chưa có?  Chánh  tri kiến  giải thoát bắt nguồn từ lòng yêu thương chân thật của  mình   mà   không  một  ác  pháp  nào  xâm chiếm và làm động tâm quý vị được.
Đó là các bạn tu tâm xả bằng từ tâm vô lượng. Vậy từ đây các bạn hãy noi theo gương ông  Phú  Lâu  Na  mà  tu  tập  lòng  yêu  thương.
 Chỉ  có  lòng  yêu  thương  mà  được  giải  thoát hoàn toàn; chỉ có lòng yêu thương mà các bạn chứng quả  vô  lậu  A La Hán. Xin các  bạn lưu  ý cho trên đường tu tập.
Chỉ  có lòng yêu thương mà sóng gió  Chơn Như trở thành bất động, bất diệt của đạo Phật trong   lòng   của   mọi   người;   chỉ   có   lòng   yêu thương mà  tất cả  ác  pháp  đều  được  chuyển đổi thành  ly nước  mát  dịu,  đem  lại  sức  sống  cho mọi người; chỉ có lòng yêu thương mà chuyển hóa được nhân quả, chấm dứt sanh tử luân hồi; chỉ  có  lòng yêu  thương mà  đạo đức  nhân bản  - nhân quả mới thực hiện được trọn vẹn sống không  làm  khổ  mình,  khổ  người.  Vì  thế,  đạo Phật được gọi là “ĐẠO TỪ BI”.
Tu việân Chơn Như ngày nay được chấn chỉnh với lòng yêu thương đối với mọi người thì tu  viện mới  hưng thịnh. Nếu  nơi  đây không có lòng yêu thương, chỉ có toàn sự tị hiềm, ganh ghét thì tu việân sẽ đi vào bóng đen âm u trong những đêm dài vô tận.
Trước hoàn cảnh như vậy, người tu sĩ Phật giáo  không  đầu  hàng  mà  phải  vượt  qua nhân quả  của  chúng  sanh,  chuyển  đổi  nhân  quả  ác, tạo phước, gieo duyên lành để trở thành nơi tu hành  tốt  đẹp  hơn. Cho nên,  cần  phải  có  nhiều
 tu viện Chơn Như hơn nữa để quét sạch những đám  mây  mù  đang bao trùm  lấy  tu  viện  Chơn Như hiện nay. Phải không quý vị?
Ngày 27 tháng 8 năm 2005
Kính  ghi
Thầy của các con

THỌ HÀNH TỨ NIỆM XỨ
Câu hỏi của Mỹ Linh
Hỏi: Kính thưa  Thầy! Sau khi được đọc “bức  Tâm  thư”  Thầy  gửi  cho  các  cụ,  các  bác. Mặc   dù   thư   dạy   người   lớn   tuổi,   nhưng   vô thường  không  phân  biệt  ai,  nên  con cố  gắng thực hành theo lời Thầy dạy là: “luôn giữ tâm thanh thản, an  lạc và vô sự”.
Thưa Thầy trong việc tu tập Tứ Niệm Xứ suốt   ngày,   sao  con  thấy   phần   thọ   và   pháp thường  tác  động  lên  thân  và  tâm.  Do đó,  con chỉ  tập  trung  lên  thân  và  tâm  để  quét  hết những  gì cần  quét,  để  trở  về  tâm  thanh  thản, an lạc và vô sự. Như vậy có được không thưa Thầy?
 Đáp: Được! Con tu tập như vậy cũng giống như ông Châu Lợi Bàn Đặc suốt ngày đêm ngồi quét tâm, đến khi nào quét hết chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm và pháp là tu xong. Ông Châu  Lợi  Bàn Đặc  khi quét  xong ông bèn ra lệnh cho thân ông biến ra một ngàn ông Châu Lợi Bàn Đặc ngồi đầy rừng.
Còn chướng ngại trên bốn chỗ thân, thọ, tâm  và  pháp  thì còn  tu  tập,  nếu  hết  chướng ngại  pháp  là  con đã  tu  xong. Muốn  quét  sạch các chướng ngại thì phải biết dùng pháp như lý tác  ý  và  phải  tập  an  trú  cho được  trên  thân hành nội và thân hành ngoại. Tác ý phải đúng đối tượng của nó thì nó mới đi, còn tác ý không đúng đối tượng thì nó không đi.
Tu tập  như  vậy  gọi  là  tu  tập  chánh  niệm Tứ Niệm Xứ, con hãy lắng nghe Đức Phật dạy: “Và này các Tỳ Kheo, thế nào là Tỳ Kheo chánh  niệm?  Ở   đây  này  các  Tỳ  Kheo,  Tỳ kheo trú quán thân trên thân nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham  ưu ở  đời; trú quán thọ trên các thọ nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham  ưu ở    đời;  trú  quán  tâm  trên  tâm  nhiệt  tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham  ưu ở   đời;  trú  quán  pháp  trên  các  pháp  nhiệt
 tâm   tỉnh   giác   chánh   niệm   nhiếp   phục tham  ưu  ở   đời.  Như  vậy,  này  các  Tỳ  Kheo là Tỳ Kheo chánh niệm”.
Ở  đây, chúng ta phải hiểu chữ “chánh niệm”. Chánh niệm trên Thân, thọ, tâm và pháp  của  chúng  ta  là  niệm  thanh  thản,  an lạc và vô sự. Còn tà niệm trên thân, thọ, tâm và pháp như thế nào?
Tà niệm trên thân, thọ, tâm và pháp là chướng  ngại  pháp,  là  đau khổ,  là  buồn  rầu,  lo sợ, là giận hờn, thương ghét v.v..
Đức   Phật   thường   nhắc   nhở   chúng   ta “Phải  khắc  phục  tham ưu ở  đời”. Vậy muốn khắc  phục  tham  ưu ở  đời  chúng  ta  phải  tu  tập như thế nào?
Nếu thân chúng ta có những bệnh khổ đau thì chúng  ta  nên  áp  dụng  pháp  Thân  Hành Niệm  nội  hay ngoại  bằng  phương pháp  như  lý tác  ý.  Đây  pháp  Thân  Hành  Niệm  nội:  “An tịnh thân  hành  tôi  biết  tôi  hít vô,  an  tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Nếu ai khéo thiện  xảo  dùng  pháp  này  cộng  với  tưởng  cảm thọ  của  thân  bệnh  theo  hơi  thở  đi  ra thì thân sẽ hết đau. Khi tâm chúng ta phiền não hay tức giận một điều gì thì chúng ta cũng áp dụng như
 trên  nhưng  thay  vào  “chữ  thân  hành  bằng chữ tâm hành”.
Đây  là  Thân  Hành  Niệm  nội,  khi bị  hôn trầm, thùy miên, vô ký, hôn tịch, ngoan không v.v.. thì chúng ta áp  dụng phương pháp  như lý tác  ý  theo  hơi  thở  ra, hơi  thở  vô  như câu  dưới đây:  “Với  tâm  định tỉnh  tôi  biết  tôi  hít vô, với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”.
Còn đây là pháp Thân Hành Niệm ngoại để đối trị hôn trầm, thùy miên, vô ký, hôn tịch, ngoan không  v.v..  thì nên  áp  dụng  pháp  môn như lý tác ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa  tay  ra, an  tịnh thân  hành  tôi  biết  tôi đưa tay vô”.  Nếu ai khéo thiện xảo dùng pháp này  cộng  với  tưởng  cảm  thọ  của thân  bệnh  thì theo cánh tay đưa ra đưa vô ra thì thân sẽ hết bệnh. Khi tâm chúng ta phiền não hay tức giận một điều gì thì chúng ta cũng áp dụng như trên nhưng thay  vào  “chữ  thân  hành  bằng  chữ tâm hành”.
Trong lúc tu tập pháp môn chánh niệm Tứ Niệm Xứ thì chúng ta phải thiện xảo về câu tác ý cũng như về thân hành, có khi thì dùng thân hành nội, nhưng cũng có khi phải dùng thân hành  ngoại.  Tu  tập  như  thế  nào  khắc  phục những tham ưu trên thân, thọ, tâm và pháp mà
 không còn chướng ngại thì đó là tu đúng chánh pháp.
Ở    đây  chúng  ta  đừng  hiểu  chánh  niệm theo kiểu kiến giải của học giả phát triển là dùng  thân  hành  ức  chế  tâm,  có  nghĩa  là  chỉ biết duy nhất có thân hành nội hay ngoại mà không có một niệm nào khác xen vào, đó là chánh niệm sai.


THIN PHÁP
 Câu hỏi của Mỹ Linh
 Hỏi: Và cuối câu pháp hướng con đều có
thêm ba chữ “Tăng trưởng thiện” để tóm tắt nhắc  con  “Tứ Chánh  Cần”.  Con  cảm nhận  rằng thiện pháp đúng là vũ khí sắc bén trợ lực cho tâm xả. Có đúng như vậy không thưa Thầy?
Đáp:  Đúng!  Dùng  câu  tác  ý  thiện  pháp vừa để chuyển ác pháp bên ngoài (nhân ác) vừa để chuyển ác pháp trong tâm (quả ác). Cho nên đức Phật dạy: “Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ  kheo, có như  lý tác ý lậu


hoặc chưa  sinh thì không sinh, đã sinh thì
bị diệt mất”.
Nhớ lời dạy này của đức Phật ta nên áp dụng  vào  cuộc  sống  hằng  ngày,  nếu  ác  pháp chưa sinh thì ta nên tác ý ly tham, sân, si. Còn ác pháp đã sinh thì ngay trên ác pháp mà tác ý thiện pháp như ông Phú Lâu Na xin Phật đi độ chúng sanh ở một nước khác. Đức Phật hỏi:
-  “Người dân ở  nước đó, họ sẽ chửi mắng ông. Ông nghĩ thế nào?
-   Con  sẽ  thấy  người  dân  ở    nước  đó còn  thương  con, chưa  đến  đổi  lấy  đá  ném
con.
-           Họ  lấy  đá  ném  ông.  Ông  nghĩ  thế nào?
-           Con  sẽ  thấy  người  dân  ở    nước  đó còn  thương  con, chưa  đến  đổi  lấy dao giết con
-  Họ lấy dao giết ông. Ông nghĩ thế nào?
-   Con  sẽ  thấy  người  dân  ở    nước  đó còn  thương  con, họ  lấy  dao  giết  là  vì con còn  mang   cái  thân  nghiệp  có  nhiều  khổ đau”.
 Đấy  các  con thấy đức  hạnh  giải  thoát  của ông Phú Lâu Na chưa? Luôn luôn thấy thiện pháp, chứ không thấy ác pháp, luôn luôn thấy người tốt chứ không bao giờ thấy người xấu. Có đúng như vậy không các con? Vì vậy pháp của Phật  bao  giờ  cũng  là  thiện  pháp,  thấy  mọi người bao giờ cũng là thấy người tốt, là người thương mình,  là người giúp mình  v.v..
Đoạn kinh trên đây là để trả lời những ai đã   hiểu  lầm  về  Phật  giáo  Nguyên  Thủy,  cho Phật  giáo  Nguyên  Thủy là  Tiểu  Thừa,  là  cỗ  xe nhỏ tự độ không có lợi tha. Đoạn kinh trên đây có ba nghĩa:
-  Nghĩa  thứ  nhất  người  ta  cho  người  tu theo  Phật  giáo  Nguyên  Thủy,  chỉ  tu  cho mình, ích kỷ,  cá  nhân,  nên  gọi  là  Tiểu  Thừa,  không độ chúng sanh như Đại Thừa vừa tu vừa độ.
Theo đức Phật chủ trương người tu chứng đạo mới  được  giảng đạo, còn tu chưa chứng thì không được dạy đạo. Tạo sao vậy?
Tu chứng  mới  có  kinh nghiệm  dạy người, còn tu chưa chứng thì biết gì mà dạy người, giống  như  Đại  Thừa  tu  chưa  chứng  mà  dạy người  cũng  như  người  mù  dẫn  một  đám  người mù đi.

- Nghĩa thứ hai đoạn kinh trên đây là một phương pháp xả tâm, xả tâm bằng một phương pháp nhìn  đời toàn thiện pháp, toàn sự tốt đẹp, thương  yêu,  chứ  không  nhìn  đời  bằng  đôi  mắt ác  pháp,  bằng  sự  xấu  xa, tức  giận,  căm  ghét, thù hận v.v..
- Nghĩa thứ ba bài pháp trên đây không những chỉ cho người tu chứng sống với tâm bất động, thanh thản, an lạc  và  vô sự mà  người tu chưa chứng  vẫn  phải  lấy  nó  làm  pháp  xả  tâm rất  tuyệt  vời. Cho nên, các con hãy lấy nó làm vũ  khí  chống  lại  bất  cứ  một  pháp  ác  nào  tác động trên thân tâm.
Ở  đây mọi người về tu viện tu tập, ai cũng biết  Tứ  Chánh  Cần  là  pháp  ngăn  ác  diệt  ác, luôn luôn sinh thiện tăng trưởng thiện, thế mà mọi người ai cũng hiểu và cũng nói được, nhưng dưới mắt Thầy thì không ai làm được. Cho nên gặp  cô  Diệu  Quang cho một  trận  tá  hỏa  tam tinh thấy  toàn  là  ác  pháp,  còn  thiện  pháp  thì chạy  mất.  Vì  thế,  27  năm  trôi  qua  biết  bao nhiêu  người  về  tu  viện  tu  tập,  nhưng  chỉ  một vài  giây  phút  trắc  nghiệm  thì bao nhiêu  công lao tu tập đều đổ sông, đổ biển.
Gương hạnh ông Phú Lâu Na còn đó, nó là một bài học đạo đức giải thoát tuyệt vời, nó dạy cho chúng  ta  cách  thức  đạo  hạnh  không  làm khổ mình,  khổ người mà được cô Diệu Quang là một đối tượng trắc nghiệm. Tu Phật mà được có người trắc nghiệm tức là tu có đối tượng.
Có  như vậy mới  biết  mình  tu  tập  tới  đâu; có  như vậy  mới  biết  mình  tu  tập  có  giải  thoát hay không giải thoát; có như vậy mới biết mình tu đúng tu sai. Phải không các con?
Tại  sao Thầy  lại  nhắc  nhở  các  con tu  tập như ông Phú Lâu Na nhiều lần?
Vì đạo Phật là ĐẠO TỪ  BI,  nhờ lòng từ bi mà các con chứng đạt chân lí tức là tâm thanh thản,  an  lạc  và  vô  sự;  nhờ  lòng  từ  bi  mà  các con mới  sống  không  làm  khổ  mình,  khổ  người và khổ cả hai; nhờ lòng từ bi mà quả A La Hán trong  lòng  bàn  tay  của  các  con.  Vì  thế,  mà Thầy  thường  nhắc   đến  vị   Thánh  Tăng  này nhiều lần, nhất là trong tập sách Đường Về Xứ Phật tập IV này.

 MƯỜI NĂM TRONG THẤT  KHÔNG BẰNG TU MỘT NĂM TRONG ĐỘNG
Câu hỏi của Mỹ Linh
Hỏi:  Về  Pháp  môn  Thân  Hành  Niệm, nghe lời  Thầy  và  Út  con tu  tập  rất  ít chỉ  một hai  vòng. Nhưng  khi  tâm  con được  thanh  thản trước mọi hoàn cảnh mọi đối tượng, con hết sức biết  ơn Thầy  và  cô  Úùt  đã  khéo  léo  rèn  luyện cho chúng con. Con hằng mong sao 100% thiền sinh  của  tu  viện  Chơn  Như  đều  ý  thức  cao ở “giai đọan ly dục ly ác pháp”  mà tự giác xin cô  Út  dạy  cho cách  thực  hành,  thì  may ra mới có  điểm  tựa,  mới  có  nền  móng  tiến  xa  hơn, nhập vào Tứ Thánh Định. Con có cái suy nghĩ như  vậy  có  đúng  không  thưa  Thầy?  Con  còn nhớ năm nào Thầy dạy: Mười năm trong thất không bằng một năm tu trong động.
Đáp: Đúng vậy, mười năm trong thất không bằng một năm tu trong động. Tu trong động có hai phần rất rõ nét:
1-        Ức chế tâm chịu đựng
2-        Xả tâm ly tham ly ác pháp
 •   Ức  chế  tâm  chịu  đựng  có  nghĩa  là  khi gặp những chuyện bất toại nguyện, bị người khác vu oan, nói  xấu hoặc bị chửi  mắng, mạ lị, mạt   sát   v.v..  tâm   sinh   ra  tức   giận,   nhưng không  dám  nói  thẳng  ra, cứ  ấm  ức  trong  lòng, tâm  hồn  buồn  bã,  khóc  than,  khi gặp  ai  nói theo  thì đem  dòng  tâm  sự  nói  ra  cho  người khác nghe để vơi bớt nỗi khổ trong lòng. Khi dòng tâm sự tuôn trào thì thường nói những lời phê phán và kết án người khác ác độc, làm sai không  đúng,  có  khi lại  nói  xấu  kẻ  khác  để  hả cơn giận, để trả đũa lại. Điều này tất cả mọi người tâm  còn phàm phu thì không tránh khỏi những điều ác pháp này. Vì thế, đức Phật dạy:
“Không nên nhìn lỗi người Người làm hay không làm Nên tự nhìn thân ta
Có làm hay không làm”
(Kinh  Pháp Cú)
Lời khuyên ấy rất tuyệt vời, nhưng người đời có mấy ai biết lời khuyên dạy quý báu này, nếu  biết  áp  dụng  vào  đời  sống  hằng  ngày  thì tâm  thanh thản, an lạc  và  vô  sự, thật  là hạnh phúc biết bao.
 Trong   đời  tu  hành  của  chúng  ta  tại  tu viện,  có  được  một  người  như  cô  Diệu  Quang cũng rất hiếm. Cô dùng tất cả những ngôn ngữ để tận tình giúp đỡ chúng ta tu tập mau giải thoát,  còn  nếu  tu  tập  không  buông  xả  thì chỉ còn có nước là rút lui êm ái, nhưng lúc nào tâm cũng tức giận oán ghét cô Út không nguôi.
• Xả  tâm  ly tham,  ly ác  pháp  có  nghĩa  là sống và  tu tập  như ông Phú  Lâu  Na, luôn luôn thấy  mọi  người  đều  tốt,  đều  thương  mình.  Vì nghĩ  mọi  người  khác  đều  tốt,  đều  thương  yêu mình  nên  tâm  mình  không  có  đau khổ,  không có phiền não, luôn luôn tâm thanh thản, an lạc và  vô  sự.  Do tâm  thanh  thản,  an lạc  và  vô  sự nên tâm không tức giận, phiền não. Không tức giận  phiền  não  nên  không  nói  xấu  người.  Vì thế,  mới  gọi  là  xả  tâm,  ly dục  ly ác  pháp, mới gọi là sinh thiện tăng trưởng thiện pháp.

 NIỆM PHẬT KHƠNG PHÂI LÀ PHÁP MƠN XÂ TÂM
Câu hỏi của Mỹ Linh
Hỏi: Con nghe những người tu Tịnh Độ nói: “Niệm Phật cũng là phương pháp xả tâm”.   Có   phải   như   vậy   không   thưa   Thầy? Những  người  tu  Tịnh Độ  dẫn chứng  rằng:  Khi đang giận, buồn, tức một điều gì đó thì  cứ nhớ niệm Phật là cơn tức giận buồn lo sẽ biến mất. Những  người   tu   Tịnh  Độ   còn   cho   biết:   “Cứ niệm  Phật  mãi,  niệm  mãi”  đến  một  ngày  nào đó nó sẽ “vỡ ra” thì sẽ được tâm rỗng rang  sáng
suốt.
Đáp: Niệm Phật là một phương pháp ức chế  tâm, chứ  không phải  niệm  Phật là  phương pháp xả tâm, nhưng mọi người đã hiểu lầm ức chế và xả tâm. Chính  ngay những vị Thầy dạy về pháp môn Tịnh Độ họ cũng chẳng biết pháp môn  đó  là  pháp  môn  ức  chế  tâm  huống  là những tín đồ. Vậy ức chế tâm như thế nào? Và xả tâm như thế nào?
 • Ức chế tâm có nghĩa là nén tâm, chịu đựng, ép buộc hay bắt buộc làm cho tâm không khởi niệm (vọng tưởng) v.v..
Pháp ức chế tâm gồm có: Niệm Phật A Di Đà, niệm thần chú, biết vọng liền buông, chẳng niệm  thiện  niệm  ác,  chăn  trâu,  ưng vô  sở  trụ nhi  sanh  kỳ  tâm,  Lục  Diệu  Pháp  Môn,  Thiền Minh  Sát  Tuệ,  tham  thoại  đầu,  tham  công  án v.v..  Tất  cả  những  pháp  tu  trên  đây  đều  là những pháp ức chế tâm. Người tu Tịnh Độ hiểu lầm  nên  cho ví  dụ:  Khi đang  giận,  buồn,  tức một điều gì đó thì cứ nhớ niệm Phật là cơn tức giận  buồn  lo  sẽ  biến  mất.  Đó  là  cách  thức  ức chế tâm bằng câu niệm Phật  mà người tu Tịnh Độ  không  biết  cho rằng  xả  tâm.  Tu theo  Tịnh Độ dù tu một ngàn kiếp cũng chẳng bao giờ hết tham, sân, si, chỉ vì ức chế tâm.
•   Xả  tâm  có  nghĩa  là  trước  khi xả  một niệm nào trong tâm phải có sự tư duy suy nghĩ cho thấu đáo nghĩa lý của niệm đó và còn phải biết  áp  dụng  đức  hạnh  của  giới  luật  vào  niệm đó  để  chuyển  hóa  niệm.  Sự  chuyển  hóa  niệm gọi là xả tâm, cho nên Đức Phật bảo: “Tri kiến ở    đâu  thì đức  hạnh  giới  luật  ở    đó,  đức hạnh giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến  làm  thanh tịnh   đức  hạnh  giới  luật”.
 Lời dạy trên đây là cách thức xả tâm rất tuyệt vời  của  kinh sách  Nguyên  Thủy,  còn  toàn  bộ kinh sách  phát  triển  đều  dạy ức  chế  tâm,  nên chẳng cần tư duy theo niệm, chỉ cố ức  chế  tâm vượt qua những lúc tâm giận hờn phiền não mà thôi.  Khi ức  chế  tâm  thấy  tâm  sân  không  còn tưởng là  xả  tâm  vì vậy tâm  sân không bao giờ hết.
Nếu  bảo  rằng  niệm  Phật  xả  tâm  phiền não  được,  thì niệm  Phật  cũng  xả  được  các  cảm thọ,  như  khi bị  bệnh  đau  nhức  nơi  thân  thì niệm  Phật  phải  hết  đau.  Hết  đau  sao người niệm  Phật  lại  đi bác  sĩ  nằm  nhà  thương nhiều như vậy?
Các cảm thọ nơi thân là do bị bệnh đau nhức, đó là niệm thọ khổ của thân. Vậy niệm Phật  có  xả  niệm  thọ  khổ  của  thân  có  không? Hay lại phải đi bác  sĩ, vào bệnh viện như trên đã nói.
Trong  thân  chúng  ta có  bốn  chỗ  để  xả: 1- Thân; 2- Thọ; 3- Tâm; 4- Pháp. Nếu niệm Phật xả tâm được thì xả thân được; xả thân được thì xả thọ được; xả thọ được thì xả pháp được. Như vậy các bạn có làm được chưa? Nếu chưa làm được  như  vậy  thì các  bạn  chỉ  ức  chế  tâm  mà thôi.
Trên  đời  ai  nói  gì  cũng  được  nhưng  làm cho được  thì không  phải  dễ,  nhất  là  hiểu  sai chữ nghĩa thì làm sao tu hành đúng được. Phải không các bạn?
Từ  xưa đến nay người  ta đã  hiểu  sai  Phật pháp nên chẳng có ai tu chứng làm chủ bốn sự đau khổ. Đến giờ này các Phật tử cũng còn hiểu sai  là  do các  Thầy  Tổ  khéo  léo  bưng  bít che đậy, hướng dẫn một cách sai lầm.
Người ta không biết pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn ảo tưởng nên bị các thầy lừa đảo như câu nói này: “Cứ niệm Phật mãi, niệm mãi đến một ngày nào đó nó sẽ “vỡ  ra”  thì sẽ được tâm rỗng rang sáng  suốt”. Theo lời dạy này thật là mơ hồ trừu tượng thiếu thực tế, không khoa học.
Tôi xin hỏi các bạn, các bạn cứ thành thật trả  lời.  Vậy  “vỡ  ra”  là  vỡ  ra cái  gì?  Tâm  rỗng rang sáng suốt để làm gì?
Những  danh  từ  “vỡ   ra”   và  “tâm   rỗng rang sáng  suốt”  là những danh từ   của Thiền Tông  mà  Tịnh Độ  Tông  đã  chịu  ảnh  hưởng  rồi vay mượn, chứ Tịnh Độ Tông có biết vỡ ra là vỡ ra  cái  gì  không?  Như  trên  đã   nói.  Còn  tâm rỗng rang là tâm như thế nào? Trong  khi pháp
 môn Tịnh Độ dạy: “Thất nhựt nhất tâm bất loạn  chuyên  trì danh hiệu  A  Di  Đà  Phật”. Vậy thì làm sao mà rỗng rang được, thật là phi lý,  bắt  chước  mà  không  hiểu  nghĩa  cũng  giống như người mù rờ voi, cũng giống như người ăn bánh mà không biết mùi vị.
Tu hành với mục đích là phải làm chủ bốn sự  khổ  đau  của  kiếp  người:  sanh,  già,  bệnh, chết,  chứ  tu  hành  đâu  phải  mục  đích  để  tâm rỗng rang sáng suốt. Tâm  rỗng rang sáng suốt để làm gì?
Pháp  môn Tịnh Độ là  pháp  môn ảo  tưởng nên tu hành không làm chủ sanh, già, bệnh, chết, nên các Tổ Tịnh Độ chỉ còn biết cầu nguyện:
“Cầu cho tôi chết biết ngày,
Biết giờ, biết khắc, biết rày tánh linh
Cầu cho bệnh khổ khỏi mình.
Y như thiền định  họ Bàng thuở xưa”
Đây, các  bạn có  thấy những câu  sám  trên đây  là  một  sự  cầu  nguyện  và  hy  vọng,  chứ không  đủ  niềm  tin vào  pháp  niệm  Phật  của mình.  Vậy  mà  bảo:  “niệm  mãi,  niệm  mãi  nó sẽ  “vỡ  ra”  thì sẽ  được  tâm  rỗng  rang sáng suốt”.  Đó  là  bắt  chước  Thiền  Tông  nói  một
 cách mơ hồ không thực tế. Ngược lại, pháp môn Tứ  Niệm  Xứ  của  Phật  giáo  Nguyên  Thủy  rất thực tế đẩy lui các sự khổ đau trên bốn chỗ: Thân,  thọ,  tâm,  pháp:  “Này  các  Tỳ  Kheo, ở đây  này  các  Tỳ  Kheo,  Tỳ  kheo  trú  quán thân trên thân nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở  đời;  trú quán thọ trên các thọ nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở  đời;  trú quán tâm trên tâm nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở  đời;  trú quán pháp trên các pháp nhiệt tâm tỉnh giác chánh  niệm  nhiếp  phục  tham   ưu  ở    đời. Như   vậy,   này   các   Tỳ   Kheo  là   Tỳ   Kheo chánh niệm”.
Đoạn kinh trên đây chứng tỏ  đạo Phật  có những  phương  pháp  để  khắc  phục  những  sự khổ đau của đời người, chứ không phải cầu nguyện.
So sánh giữa hai pháp môn Tịnh Độ và Tứ Niệm Xứ chúng ta thấy pháp môn niệm Phật của kinh sách phát triển giống như một người mù dẫn một số người mù đi thật là nguy hiểm, tốn  công  sức,  tốn  của  cải  tài  sản  một  cách  vô ích. Chỉ sống trong ảo tưởng, mộng mơ, làm gì
 có  sự  làm  chủ  sự  sống  chết  và  chấm  dứt  luân hồi.
Tóm lại, pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn  tưởng,  pháp  môn  dạy  mê  tín, pháp  môn lừa đảo.

TỨ BẤT HỘI TỊNH
Câu hỏi của Mỹ Linh
Hỏi: Kính bạch Thầy! “Tứ Bất Hoại Tịnh” là gì? Ngưỡng mong Thầy dạy lại cho chúng con được thấu suốt hơn.
Đáp: Tứ  Bất  Hoại  Tịnh là  một  pháp  môn tu  tập  làm  cho  thân  tâm  không  hư  hoại  sự thanh  tịnh.  Tứ  Bất  Hoại  Tịnh  chính  là  pháp môn niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới của Phật giáo Nguyên Thủy, nó không giống pháp môn niệm  Phật của Phật giáo phát triển (Tịnh Độ Tông) chuyên niệm hồng danh Phật suông.
Kính  thưa các bạn! Theo như kinh Nguyên
Thủy đức Phật dạy:
 1/   Niệm   Phật   là   sống   như   Phật,   chứ không phải niệm danh hiệu Phật (Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật).
2/   Niệm Pháp là sống đúng như pháp, tu tập đúng như pháp, chứ không phải tụng kinh.
3/   Niệm Tăng là sống hòa hợp như chúng Tăng,  không  chống  trái  nhau,  chứ  không  phải trai tăng cúng dàng lạy lễ các vị Tăng để cầu phước báu.
4/  Niệm Giới là sống đúng Phạm hạnh, không  hề  vi phạm  một  giới  luật  nào  và  không phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, chứ không phải hằng  tháng  vào  ngày  30  và  ngày  rằm  cùng nhau tụng giới.
Bởi không tu hành nên trên chữ nghĩa các nhà học giả kiến giải niệm Phật, niệm Pháp, niệm  Tăng,  niệm  Giới  thì giải  thích  niệm  là đọc lầm thầm trong ý như câu: “Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni  hay Nam  Mô Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều   Ngự   Trượng   Phu,   Thiên   Nhân   Sư Phật, Thế Tôn”. Hay niệm Nam Mô A Di Đà Phật.  Niệm  như  vậy  là  niệm  theo  kiểu  Phật giáo  phát  triển,  niệm  ức  chế  tâm  không  có nghĩa lý gì cả, không có sự giải thoát gì cả. Ở đây, đức Phật dạy niệm tức là sự tư duy Phật, Pháp,  Tăng  và  Giới   để  chúng  ta  thấu  triệt Phật, Pháp, Tăng và Giới hàm nghĩa giải thoát như thế nào, để chúng ta noi theo đó mà thực hiện sống và tu  tập  đúng như Phật, như Pháp, như  chúng  Thánh  Tăng  và  như  Giới  luật  đã
dạy.
Bài  pháp  Tứ  Bất  Họai  Tịnh này  được  tu học  và  rèn  luyện  trên  lớp  Chánh  Kiến.  Do tu học  trên lớp  Chánh Kiến, nên phải  dùng nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn mà tu tập.
Có  hiểu biết  và  tu  tập như vậy thì mới  có giải  thoát  thật  sự,  còn  niệm  danh  hiệu  Phật, tụng  kinh, cúng  dường  trai  Tăng,  đảnh  lễ  chư Tăng  và  tụng  Giới,  dù  có  niệm  Phật,  niệm Pháp,  niệm  Tăng  và  niệm  Giới  như  vậy  cho đến muôn kiếp ngàn đời thì cũng chẳng có giải thoát  được  chút  nào.  Người  ta  đã   lầm,  niệm như vậy là để nhất tâm bất loạn tức là niệm không  có  vọng  niệm  xen vào,  chỉ  duy nhất  có câu  niệm  Phật  mà  thôi  thì sẽ  được  vãng  sanh Tịnh Độ, đó  là  hiểu  theo  kiến giải  lầm  lạc  của Tịnh Độ Tông (Thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên trì danh  hiệu A Di  Đà Phật dữ chư Thánh  chúng  hiện  tại  kỳ   tiền).  Còn  hiểu
 theo  nghĩa  Thiền  Tông  thì nhất  tâm  bất  loạn tức là chẳng niệm thiện niệm ác, chẳng niệm thiện  niệm  ác  bản  lai  diện  mục  hiện  tiền  là thiền  định,  là  Phật  tánh,  nhưng  tất  cả  những sự  tu  tập  như  vậy  đều  sai  hết  các  bạn  ạ!  Chỗ nhất  tâm  bất  loạn  của  các  bạn  sẽ  rơi  vào  thế giới  tưởng  của  tưởng  uẩn,  nơi  đây  là  mê  hồn trận  của  tà  giáo  ngoại  đạo.  Các  bạn  tu  hành cần  nên  cảnh  giác  nơi  hang  hùm  nguy  hiểm này. Nếu tu tập đến đây các bạn coi chừng ức chế tâm quá độ thì sẽ bị rối loạn thần kinh trở thành nguy hiểm tánh mạng của các bạn. Sự tu sai  lạc  này,  các  bạn  trở  thành  những  bệnh thần  kinh,  người  điên  khùng,  người  mất  trí v.v.. khi cười,  khi khóc  hay làm  ra vẻ  sống  kỳ lạ không giống ai hết.
Đến đây các  bạn đã  hiểu sơ sơ về  bài  học của lớp  Chánh kiến  “TỨ  BẤT  HOẠI  TỊNH”.  Sau này có dịp các bạn sẽ gặp lại chúng tôi trên những giáo trình tu học của lớp này thì còn thú vị hơn nhiều.
Thân  ái  chào  các  bạn,  chúc  các  bạn  dồi dào sức khoe tu tập xả tâm tốt.

 TU LÀ  SỬA, CHỨ KHÔNG PHÂI TỤNG KINH,  NIỆM  CHÚ,
NIỆM PHẬT, CÚNG BÁI, NGỒI THIỀN
Câu hỏi của Mỹ Linh
Hỏi:  Những  Lời  Phật  Dạy  được  Thầy triển  khai  minh   bạch,  logic  và  khoa  học  làm sao gửi  đến  giáo  hội  cấp  cao để  cùng  nghiên cứu  lại,  cùng  nhìn   nhận  sự  thật  để  kịp  thời chấn chỉnh lại  Phật giáo. Con hằng  mong ước: Ngày Đại hội Phật giáo sẽ là ngày thanh  lọc lại những gì đạo Phật nên duy trì và những gì cần loại  bỏ  (mê  tín)  thì  may  ra mới  còn  giữ  đúng nghĩa  chữ  “tu”.  Vì  tu  là  sửa.  Mà  giáo  pháp không  sửa  đúng,  cứ  cố  chấp  bảo  thủ  mãi những  giáo  pháp  không  đúng  của  Phật  giáo, thì  làm sao thực hành theo giáo pháp ấy mà thành tựu đạo quả.
Đáp: Phải tùy duyên con ạ! Phước chúng sanh chưa đủ, dù chúng ta có muốn cũng không làm được.
Không phải thời mạt pháp, mà chỉ vì con người sống trong ác pháp, phóng xuất vô lượng
 từ trường ác  trong bầu khí  quyển, làm cho môi trường sống xấu đi, từ đó chánh pháp của Phật bị chôn vùi dưới lớp bụi mù kiến giải của những nhà học giả và của ngoại đạo.
Một Phật giáo truyền thừa đã sai lệch từ mấy  ngàn  năm  qua, đã  ăn  sâu  vào  tâm  tư  của mọi  người,  một  truyền  thống  văn  hoá  mê  tín lạc  hậu  của  Tịnh Độ  Tông,  của  Mật  Tông, một trạng thái ảo tưởng mơ hồ lầm lạc của Thiền Tông. Muốn gội rửa những  tư  tưởng này không thể  một  thời  gian  ngắn  mà  được,  phải  có  thời gian con ạ! Vậy chúng ta phải kiên gan bền chí lần lượt từng giờ, từng phút, từng giây để chấn chỉnh lại những kinh sách, những giới luật, những đạo đức làm Người, làm Thánh của Phật giáo.   Và   còn   mạnh   dạn   thẳng   thắn   chỉ   rõ những   chỗ   sai   lầm,   những   kiến  giải   không đúng, những giáo pháp của ngoại đạo đang trộn lẫn vào chánh pháp của Phật, khiến cho tín đồ Phật  giáo  không  biết  pháp  môn  nào  là  của Phật, pháp môn nào là của ngoại đạo. Ngơ ngác trước một rừng pháp môn của kinh sách phát triển.
Trên  đường  chấn  chỉnh  lại  Phật  giáo  là một  sự  cam  go  và  đầy  gian  nan  thử  thách. Nhưng  con người  có  ý  chí  thì dời  núi  và  lấp
 biển cũng không phải là khó khăn. Khó là vì chúng  ta  không  đoàn  kết,  chỉ  biết  sống  cho cá nhân  của  mình,  chỉ  vì  danh  lợi  hão  của  riêng mình,   chỉ  vì  tham  mê  tiền  tài  vật  chất  vô thường,  muốn  cho mình  có  nhiều,  không  thấy sự ích lợi chung cho mọi người, không thấy nền văn hoá tôn giáo mê tín lạc hậu đã làm suy yếu đạo đức nhân bản của loài người.
Phải  chờ  đợi  con ạ!  Chúng  ta  mọi  người đều ý thức được sự đời là một cuộc sống vô thường,  một  cuộc  sống  không  có  ý  nghĩa gì cả, sự an vui đâu là bao, toàn là sự khổ đau nhiều. Phải không con?
“Các pháp thế gian Là pháp vô thường Các pháp vô thường Là pháp khổ đau”
Do  ý  thức  được  điều  này  nên  mỗi  người
trong  chúng  ta  phải  nỗ  lực  tu  tập  xả  tâm  cho thật  rốt  ráo,  nhờ  có  xả  tâm  rốt  ráo  chúng  ta mới sống đúng đời sống đạo đức không làm khổ mình,  khổ người. Đó là chúng ta đã chấn chỉnh lại Phật giáo con ạ! Chúng ta đã  làm cho Phật giáo  sống  bằng  thân  giáo  của  chúng  ta,  bằng đạo  đức  nhân  bản  –  nhân  quả,  bằng  một  tâm
 hồn  thanh  thản,  an  vui  trước  các  ác  pháp  và các cảm thọ.
Đừng mong đợi vào ai và cũng đừng mong đợi  vào  tập  thể  nào  cả  mà  hãy  mong  đợi  nơi chính  mình.  Mong đợi nơi chính  mình  thì phải cố gắng xả tâm, làm một điều thiện là con đã chấn chỉnh lại Phật giáo rồi đấy con ạ!

CHẤN CHỈNH PHẬT GIÁO
Câu hỏi của Mỹ Linh
Hỏi: Con kính  bạch thầy! Sao trong thực tế:  tu  là  sửa.  Mà  người  đi tu  là  cả  một  sự nghiệp chuyển biến của tư tưởng từ nhận thức đến sự quyết tâm. Thế mà khi đã đi tu rồi còn có  đòi  hỏi  cả  một  nghị  lực  và  sự  bền  chí,  gan dạ mới thắng được từng tâm niệm tham, sân, si của  mình.  Có  người  tự  bỏ  cuộc,  có  người  lại chết khi chưa toại nguyện. Và rồi người chứng đạo  lại  càng hiếm  có  hơn. Đó  là  con muốn  nói cả  một  đời  tu  với  bao tâm  huyết.  Thế  nhưng đại  đa  số  người  cứ  tin   vào  sự  cầu  siêu  cho hương  linh được  về  Cực  Lạc  thì  điều  này  con
 thấy  lạ quá.  Làm  sao giúp  mọi người  tín đồ hiểu được điều này thưa Thầy? Vì khi còn sống khuyên đừng sát  sanh - không làm  được. Khuyên đừng uống rượu - không nghe. Khuyên sống hòa thuận - không làm. Khuyên xem sách đạo đức - lại làm ngơ. Thế mà cứ chết là cầu siêu? Làm sao siêu được!
Kính  bạch Thầy! Hay  là  trong Giáo  Hội hay pháp môn Tịnh Độ có cái nhìn,  cái lý luận đúng  như  thế  nào  mà  con  không  được  biết. Thậm chí các Thầy tụng kinh  niệm Phật  cũng ăn thịt chúng sanh, cũng uống rượu thì  còn độ ai vào cõi siêu  nào nữa!
Con  thật  không  biết  đến  bao giờ  mới  có được  những  ngày  huy  hoàng  là   Mặt Trận  Tổ Quốc  cấp cao (cơ quan nối liền các ngành), Giáo Hội Phật  Giáo   cấp  cao (cơ quan  đại diện  cho tiếng  nói  đúng  đắn  của  Phật  giáo).  Cùng  vì tương lai  của thế hệ  mai  sau, mà  cùng bàn bạc với  Thầy về  việc  xây  dựng  nền  đạo  đức  nhân bản  - nhân  quả  trong toàn dân.  Từ  ấy mới  bắt đầu dựng lại cuộc sống quốc thái dân an, ngày ấy  toàn   dân  được  học  và  hành  đạo  đức  nhân bản   -  nhân   quả   không   làm   khổ   mình,   khổ người.  Ngày  ấy   không  còn   cảnh  bận  rộn  cầu siêu,  cầu khẩn xin điểm lên lớp vậy v.v..
 Nếu  bản  thân  mọi  người  lo  học  tập  và hành đạo đức thì  ngày ấy giảm đi số người liều mạng phạm pháp và ngày ấy ngành công an được  nâng  cao tâm  trí được  rèn  luyện  chuyên môn để cùng nhẹ nhàng hỗ trợ nền đạo đức, hỗ trợ  cuộc  sống  toàn  dân  cao hơn  nữa  để  quân bình sự tiến bộ của khoa học và đạo đức.
Thầy ơi! Sao con thấy điều này quá cần thiết  và  cấp  bách  nhưng  biết bao giờ  mới  được thực  hiện?  Hay  là  nói  như  bao người  là  thời mạt pháp phải chịu nền đạo đức tồi tệ như thế để loài người đi đến diệt vong?
Lâu  lắm  rồi  con mới  viết  thư  trình Thầy. Con kính  mong Thầy chỉ dạy thêm cho con.
Đáp:  Đúng  vậy,  tu  theo  đạo  Phật  là  cả một  đời  tu  với  bao tâm  huyết  mới  diệt  được lòng tham, sân, si, cho nên nhiều  người  không ý   chí,  không  nghị   lực,   không   gan  da,  kiên cườngï  bền  chí  nên  bỏ  cuộc  tu  hành.  Vì  thế, Phật giáo phát triển biết rõ tâm lý của những người  này  nên  sinh  ra pháp  môn  Tịnh Độ  để lôi  họ  vào  mê  hồn  trận  ảo  tưởng  của  thế  giới siêu hình tưởng tri. Những người không ý chí, không nghị lực, không gan dạ, không kiên cường,  không  bền  chí,  lười  biếng  thì thích  tu theo pháp môn này. Do đó, Phật giáo trở thành Thần giáo mê tín lạc hậu làm mất chánh pháp của Phật.
Trước  cái  sai  của  Phật  giáo  quá  nhiều,  ai đã từng đọc sách đạo đức nhân bản làm người đều  có  sự  mong  ước  như  con, nhưng  làm  sao được hỡi con!
Tôn giáo là lãnh đạo tinh thần của mọi người, là truyền thống văn hoá đạo đức cho con người,  thế  mà  tôn  giáo  lại  dạy  người  mê  tín, phi mất đạo đức nhân bản - nhân quả như kinh sách  phát  triển  thì chúng  ta  hết  ý  kiến.  Pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn phi đạo đức. Tại sao pháp môn Tịnh Độ lại là pháp môn phi đạo đức?
 dạy:
 Con hãy  lắng  nghe lời  Đức  Phật  A Di  Đà
“Thiện nam tín nữ các người  Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra
Ta không rước ở  nước Ta
Thệ không làm Phật chắc đà không sai”
Trên  đây  là  một  lời  nguyện  trong  bốn mươi tám lời nguyện của đức Phật Di Đà, khi Ngài  phát  tâm  độ  chúng  sanh như vậy có  thật đúng  như  vậy  không?  Không  đúng  các  con ạ!
Một trăm lần không đúng. Tâm tham, sân, si một  bụng  mà  chỉ  niệm  có  mười  câu  Phật  mà được  rước  về  cõi  Cực  Lạc  Tây  Phương  thì sự việc đó không bao giờ có, thì lời nguyện của đức Phật Di Đà là lời lường gạt người là lời nói láo không thật.
Chỉ niệm 10 tiếng A Di Đà Phật là được Ngài  rước  về  nước  Cực  Lạc  mà  không  có  một điều  kiện  gì  cả.  Lờøi  dạy  này  có  đúng  không? Nếu  có  một  người  gian ác  cướp  của,  giết  người, hiếp dâm, phạm vào tội tử hình, lúc bây giờ người  này  chỉ  cần  niệm  Phật  A Di  Đà  thì đức Phật liền rước người này về cõi Cực Lạc. Ý nghĩ về  cõi  Cực  Lạc  này  thì con nghĩ  sao? Nếu  đức Phật A Di Đà mà rước người ác này về nước của mình  như  vậy,  thì đất  nước  này  sẽ  là  một  đất nước  trộm  cướp.  Một  người  còn  tham,  sân,  si mà tụng kinh Di Đà sẽ được siêu sanh Tịnh Độ, thật là lừa đảo vô đạo đức! Làm sao niệm Phật mà  hết  tham, sân, si  được. Cho nên pháp môn Tịnh Độ là pháp môn phi đạo đức lừa đảo người khác.
Khi nào những pháp môn mê tín này được quét sạch ra khỏi Phật giáo thì nền đạo đức nhân  bản  –  nhân  quả  mới  được  phổ  biến rộng khắp nơi. Nhưng tất cả đều do phước duyên của



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!