Thứ Năm, 27 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT - TẬP 4-6



nuôi  dưỡng  một  giáo  lý  không  chân  chánh  để biến Phật giáo thành ma giáo.
Ví dụ: Hiện giờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất  hiện  dạy  đạo  bảo  rằng  Phật  giáo  phát triển  là  giáo  pháp  mê  tín,  phi   đạo  đức  của ngoại   đạo,   Thiền   Đông   Độ   là   thiền   tưởng không đúng là thiền của  Phật  thì người  ta vẫn chê  đức  Phật  Thích  Ca Mâu  Ni là  lỗi  thời  và không ái ngữ.
Những lý luận che đậy, bưng bít, dụ dỗ, hù dọa  trong  sách  phát  triển  đầy  dẫy.  Sau khi tu hành  thành  đạo,  đức  Phật  đã   tự  xưng  mình thành  chánh  đẳng,  chánh  giác.  Thì  chẳng  ai dám   nói:   “Còn   thấy   tu  chứng   là   chưa chứng”. Còn chúng ta ngày nay ai nói chứng quả  A  La  Hán,  hoặc  thành  chánh  giác,  thì người  ta  bắt  chước  trong  kinh sách  phát  triển nói: còn thấy chứng là chưa chứng.
Ví dụ: Không lẽ tâm chúng tôi hết tham, sân,   si   mà   chúng   tôi   không   biết   hay   sao? Không  lẽ  chúng  tôi  có  Tam  Minh  mà  không biết  hay  sao?  Không  lẽ  chúng  tôi  nhập  định, làm chủ sự sống chết mà không biết hay sao? Không lẽ ngày chúng tôi ăn một bữa mà không biết   hay  sao?  Phải   không   các   bạn?   Tất   cả những kết quả tu tập này chúng tôi đều biết rất
 rõ, biết rất rõ không phải chúng tôi chứng hay sao? Còn thấy mình  chứng là chưa chứng đó là lối  lừa  đảo  để  cho mọi  người  không  nhận  ra được   “chứng   hay  không   chứng”   người   tu hành  phải  biết.  Còn  tu  chứng  mà  không  dám nói  mình   tu  chứng,  tức  là  tu  chưa  chứng,  vì mình  tu chưa chứng, đó là lối xảo trá khéo che đậy,  bưng  bít để  lừa  đảo  người  khác  để  được sống  trên  mồ  hôi  nước  mắt  của  Phật  tử,  làm giàu trên xương máu của người khác.
Tội  lừa  đảo  người  khác  là  tội  rất  nặng. Còn  chúng  tôi  nói  thật  rõ  ràng  để  mọi  người hiểu biết Phật giáo có tu được hay không, chứ không  thể  dùng  ngôn  ngữ  tránh  né  trườn  uốn như con lươn: “Vô  sở  đắc,  còn  thấy  tu chứng là  chưa chứng  đắc”.  Sở  dĩ  có  những  lời  nói này  là  vì  pháp  môn  phát  triển  và  thiền  Đông Độ không có tu chứng. Chúng tôi nói chứng đắc của đạo Phật là có sự thật chứng đắc giải thoát, từ sự chứng đắc khi sắp mới bước chân vào đạo tu tập cho đến chứng đắc  cao hơn khi nhập Tứ Thiền,  Tam  Minh  làm  chủ  sanh,  già,  bệnh, chết. Do có sự chứng đắc giải thoát thật sự như vậy,  nên  chúng  tôi  mới  làm  sống  lại  nền  đạo đức  nhân  bản  của  Phật  giáo  đã  bị  dìm  mất  từ xưa. Nền đạo đức đó giúp cho mọi người sống có nhân  bản  đạo  đức,  nhờ  thế  mới  đem lại  sự  an vui, hạnh phúc chân thật cho mọi người. Sự an vui, hạnh phúc cho mọi người, đó là sự chứng đắc  giải thoát  chân thật của đạo Phật giúp cho con người không còn khổ đau nữa.
Còn  chúng  tôi  chỉ  là  một  tu  sĩ  thiểu  dục, tri túc, ba y, một bát, sống đời sống trắng bạch như vỏ ốc, không hề tham, sân, si; không hề có những vật dụng như người đời.
Có người nói rằng: “Thầy bảo: Thầy làm chủ  được  hơi  thở  thì  họ  đâu  có  tin  Thầy.  Họ bảo  rằng  Thầy  phải  tịnh  chỉ  hơi  thở  cho họ xem thì họ mới tin.  Phải không?”.
Nhưng  khi Thầy  thực  hiện  tịnh  chỉ  hơi thở thì người ta theo Thầy tu hành rất đông, nhưng  tu  để  tịnh  chỉ  hơi  thở,  chứ  không  phải để tu học đạo đức giải thoát. Phải không? Đó là những người muốn tu thuận theo Thầy, còn những người có tà kiến, ác kiến với Thầy thì họ bảo  rằng:  “Thầy   dùng   tà   thuật   mạ   con   mắt người ta”.
Bây giờ người ta thấy Thầy dùng thần thông bay lên trời, phóng hào quang, thì người ta  theo  Thầy  tu  hành  rất  đông  và  cúng  dường cho Thầy rất nhiều tiền, để tu theo thần thông của  Thầy,  chứ  không  phải  họ  tu  theo  Thầy  để
 tìm chỗ  tâm  bất  động  giải  thoát?  Đó  là  những người không có ác kiến với Thầy, còn những người  có  ác  kiến  với  Thầy  thì bảo  rằng:  “Thầy dùng bùa chú hay trò ảo thuật lừa gạt người”.
Hầu   hết   hiện  giờ   người   ta  tu   hành  là nhắm  vào  mục  đích thần thông, danh, lợi,  nên khi khép vào giới luật thì nhìn  lại không còn ai dám  tu  theo  Phật  giáo. Hầu như tu  sĩ  hiện giờ không  có  người  nào  sống  đúng  giới  luật  của Phật.
Thầy nghĩ rằng: Lấy thật dạy thật, không thể lấy giả  (phương tiện)  mà  dạy thật  được.  Vì thế, Thầy sống đúng giới luật đức hạnh của bậc Thánh  Tăng,  thì Thầy  dạy người  đạo đức.  Còn nếu  đem thần thông dụ dỗ để  họ  theo mình  tu hành rồi dạy họ đạo đức thì không bao giờ dạy được, vì tâm họ ham mê thần thông, chứ không ham mê đạo đức. Chính  đạo đức mới có sự giải thoát, còn thần thông chẳng có sự giải thoát. Muốn có thần thông thì phải có đạo đức, chính đạo đức mới xác định thần thông chân chánh. Thầy xin bảo đảm điều này. Chỉ có đạo đức mới đi đến sự giải thoát, còn thần thông chỉ là một trò  ảo  thuật  chẳng  có  ích  lợi  gì  cho đời  sống con người,  chỉ  có  đạo  đức  mới  đem lại  lợi  ích cho mình  cho người mà thôi.
 Nếu Thầy không nỗ lực, không nhiệt huyết, không có lời sách tấn của Hoà Thượng Thanh  Từ thì chắc chắn không bao giờ Thầy sẽ tu  được  như  thế  này.  Bởi  vì  phải  có  đủ  duyên mới hợp lại thành, HT Thanh  Từ sách tấn cũng là một nhân duyên. Thầy thích sống trong giới luật Phật cũng là một nhân duyên đời trước. Sống trong giới luật không hề vi phạm. Thấy ai sống  phạm  giới là  Thầy không bằng lòng. Đến chùa nào ăn ba bốn bữa là Thầy không chấp nhận. Tại sao vậy? Tại vì Thầy đã huân tạo thành nghiệp thanh tịnh của giới luật. Nhờ đức giới  cuối  cùng  duyên  may  giúp  Thầy  đi  vào hướng  giáo  pháp  Nguyên  Thủy.  Nhưng  không theo các sư Nguyên Thủy mà tự thực hiện được đến làm chủ sanh tử.
Thời  đức  Phật  có  1250 vị  Tỳ  Kheo là  đều tu chứng quả A La Hán. Điều này không đúng, chỉ  có  một  số  ít người  chứ  không  phải  chứng quả A La Hán hết. Trong kinh Đức Phật đã xác định: “Một  hôm  có  người  hỏi  Đức  Phật:  Trong
500  vị  Tỳ  Kheo  đang  theo  Phật  tu  hành  có chứng  quả  hết  chưa?  Đức  Phật  đáp:   Có  90 người chứng Tam Minh; có 90 người chứng đạt thiền  định, còn  lại  bao nhiêu  đều  chứng  giới
 luật”. Như vậy thì đâu thể nào gọi là chứng quả
A La Hán hết được.
Phật nhập diệt hơn 2500 năm đến bây giờ không có một người nào làm sống lại giáo pháp của  đức  Phật.  Chỉ  vì  chúng  sanh  không  đủ duyên và không có lòng tha thiết với đạo Phật, mong muốn để làm sống lại đạo Phật, để làm sống  lại  nền  đạo  đức  nhân  bản  của  đạo  Phật. Vì vậy, cho đến giờ này cũng vẫn chưa có người xuất  hiện  cứu  lấy  đạo  Phật.  Chỉ  vì không  dám nói  thẳng nói  thật, nói  mạnh vì sợ  người khác cho mình  không có ái ngữ.
Tóm lại, người tu chứng là người biết dùng ái ngữ đúng lúc, đúng thời, đúng pháp, đúng người, chứ không phải lúc nào cũng dùng ái ngữ để  trở  thành  những  người  vô  minh  không  biết sai đúng, chỉ còn biết a dua, nịnh bợ, hèn nhát ve  vãn  vuốt  đuôi  để  được  gọi  là  “ái  ngữ”  dung hợp theo kiểu hòa đồng tôn giáo.
Lời nói thẳng nói mạnh của Thầy như những nhát búa chém mạnh vào  những tà kiến của Phật giáo phát triển  và Thiền Tông, khiến cho ai kiến chấp nó, thì bị những nhát búa này chém thẳng vào đầu, nên phải la hét kêu gào trước khi tà kiến đó bị chết.

 CÁI HAY CỦA ĐÄI THỪA LÀ
CÁI TƯỞNG CỦA BỒ TÁT LONG THỌ
Câu hỏi của PNT
Hỏi: Kính thưa Thầy! Trong một bài pháp Thầy Thông Huyễn (Chơn Quang) nói Đại Thừa cũng còn có những cái hay, cái hay đó là chỗ Đức Phật chưa nói ra. Sau này các Tổ triển khai trong kinh  sách Đại Thừa. Thầy Thông Huyễn lấy câu đức Phật nói: “Những pháp Ta chứng như những lá cây trong rừng, còn những pháp Ta dạy cho các con biết như nắm   lá   trong  tay”.   Như   vậy   phải   chăng những gì đức Phật thuyết chỉ có một phần nhỏ thôi  và  còn  rất  nhiều  pháp  mà  đức  Phật  chưa nói ra. Xin  Thầy dạy cho chúng con được rõ.
Đáp:    Các  nhà  học  giả  tu  hành  chưa tới đâu mà dám cả gan muốn hơn Phật, dám nói những  gì đức  Phật  không  cần  nói.  Trình độ  tu chứng  của  các  Tổ  chỉ  loanh  quanh  trong  kiến giải  như  con kiến  bò  miệng  lu,  thiền  định thì lọt vào thiền tưởng thì không thể nào hơn Phật được  mà  dám  nói  những  điều  Phật  đã  không nói,  Phật  đã  không  nói  là  vì  nói  ra không  có
 ích  lợi  cho loài  người,  còn  các  Tổ  thì nói  ra bằng  tưởng  thì sai  hết  phải  không?  Tại  vì  các Tổ  chưa chứng  như  Phật  mà  dám  nói  những điều Phật chứng. Chính  Phật còn chưa dám nói ra. Những  điều  Phật  nói  ra mà  chúng  ta  chưa hiểu  hết,  chưa  tu  hết  mà  nói  ra những  điều Phật  chưa nói thì Thầy e rằng những người đó là  Ma  Ba Tuần.  Nói  ra những  điều  vô  hạn  đó, có lợi ích gì cho con người. Bởi vì trình độ kiến thức  của  con  người  còn  trong  hữu  hạn,  chưa hiểu  được  những  điều  vô  hạn  đó  mà  nói  ra thì họ  sẽ  sống  trong  tưởng  và  như  vậy  là  nói  láo, nói  không  thật.  Trong  kinh Tương  Ưng  Phật dạy:  “Ta  nói  những  điều  mà  chúng  sanh chưa hiểu được, như  vậy là Ta nói láo. Còn chúng  sanh  hiểu  được  thì Ta  nói  và  như vậy  là  Ta không  có  nói  láo”.  Và  như vậy  là Tổ đúng hay Phật đúng?
Phật   nói:   “thân   ngũ   uẩn   hoại   diệt không   còn   một   uẩn   nào   cả”;  các  Tổ  nói: “thân  ngũ uẩn hoại diệt còn có Phật tánh, thần thức”. Và như vậy Tổ đúng hay Phật đúng?
Như vậy, Phật nói láo hay Tổ nói láo?
Như vậy, Phật lừa đảo chúng sanh hay Tổ lừa đảo chúng sanh?
 Thầy Thông Huyễn ở  trong tưởng giải lừa đảo của kinh sách phát triển mà cho rằng hay, chứ nào có hay gì đâu, chỉ sống trong ảo không thực tế. Nếu bảo rằng hay thì phải có sự tu chứng,  có  sự  làm  chủ  sanh tử  luân  hồi  thì mới hay.  Còn  kinh sách  các  Tổ  viết  nói  quá  nhiều nhưng  tìm một  người  tu  chứng  thì tìm không ra. Như  vậy  là  hay  thì hay  chỗ  nào?  Các  Tổ muốn làm hay hơn đức Phật nói ra những điều Phật chưa nói.
Tại  sao lý  luận  hay  mà  không  có  người nào  tu  chứng,  làm  chủ  sanh,  già,  bệnh,  chết. Hay  chỉ  nói  láo  mà  thôi…  Sống phá  giới, phạm giới  để  rồi  nói  những  điều  ảo  tưởng,  phi  đạo đức như vậy sao?
Các Tổ nói được mà không làm được thì điều  này không hay ho gì đâu! Nói ra được  mà làm được thì đó mới là hay.
Các Tổ đưa ra lý luận Bát Nhã để làm hay hơn Phật. Do đó, người tu hành lấy cái hay của Tổ Long Thọ, hằng ngày tu sĩ tứ thời công phu đều  tụng  niệm  Tâm  Kinh  Bát  Nhã:   “Hành thâm  Bát  Nhã  Ba  La  Mật  đa  thời  chiếu kiến  ngũ  uẩn  giai không…”.  Thử  hỏi  có  ai tụng Bát Nhã Tâm kinh mà ngũ uẩn đã  không chưa?
 Vì chưa có  ai tụng Tâm Kinh Bát Nhã  Ba La Mật  mà  ngũ  uẩn đã  không thì đó  là  trí tuệ Bát Nhã tưởng của Ngài Long Thọ. Trí  tuệ này chỉ có thể áp dụng cho thế giới tưởng, còn áp dụng vào thế giới con người thì làm sao con người  tu  được.  Ai cũng  nói  ngũ  uẩn  giai  không chứ không ai làm cho nó giai không được. Hằng ngày  chùa  nào  cũng  tụng  tâm  kinh  Bát  Nhã hết. Nhưng chùa càng to, tháp càng lớn, xe hon đa, xe hơi, tủ lạnh đủ mọi thứ. Không thì chẳng thấy không, mà có thì có rất nhiều. Nếu nói không  thì nó  phải  quét  sạch  hết.  Phải  không? Lý luận của Tổ Long Thọ hay nhưng hay ở thế giới khác, thế giới tưởng, chứ không phải hay ở thế giới loài người. Chơn không diệu hữu là lý Bát  Nhã  của  Long  Thọ.  Nhiều  người  cứ  tu  tập giữ không tu mãi nó trở thành không ngơ như cây đá. Do tưởng không này mà cái chết của tổ Sư Tử rất oan uổng, bị vua Kế Tân giết.
Đó là những chỗ các Tổ luận, còn Thầy Thông Huyễn (Chơn Quang) cũng bắt chước dựa theo đó mà luận ra sợ người không tin nên bảo rằng  chỗ  Phật  chứng  mà  chưa thuyết  ra. Thầy Thông Huyễn có ý muốn làm hơn Phật.
Nhưng thử hỏi bây giờ Thầy Thông Huyễn sống có đúng đời sống như Phật chưa? Nhìn  lại
 đời sống của Thầy giới luật của mình  không ra gì. Mười  giới  Sa Di  chưa trọn  vẹn mà  dám  nói những  gì  Phật   chưa  nói.   Các   Tổ  ngày  xưa, chúng ta chưa sống đồng thời với các Ngài nên không biết các Ngài giới luật có nghiêm túc không hay cũng như Thầy Chơn Quang bây giờ. Dù không sống đồng thời với các Ngài, nhưng xét  qua tưởng  giải  của  các  Ngài  là  tưởng  giải phá giới, như vậy các Ngài đều sống phi  Phạm hạnh.
Riêng  Thầy  không  dám  giải  thích  những gì Phật chưa nói mà chỉ giải thích những gì đức Phật đã dạy khiến cho nó rõ ràng dễ hiểu, dễ hành. Thầy không dám dạy hơn những gì mà đức  Phật  đã  dạy cho chúng  ta.  Đọc  trong  sách của  Thầy,  Thầy  không  bao giờ  có  thêm  cái  gì mới mẻ cả. Đức Phật nói hoá sanh, lời dạy này cô đọng quá chúng ta không hiểu hoá sanh như thế nào? Có người nói hoá sanh như một con tò vò  tha  con sâu  bỏ  vào  tổ  và  bảo:  “Hóa!  Hóa”, từ  đó  con sâu  hóa  thành  ra con tò  vò.  Sự  thật đâu  phải.  Các  nhà  học  giả  phát  triển  họ  giải thích theo kiểu không thực tế, không có khoa học. Thật sự con tò vò làm tổ, đẻ trứng, rồi bắt con sâu  để  vào  tổ  cho con nó  nở  ra và  ăn  thịt con sâu  đó  để  sống  lớn  lên  thành  con tò  vò.
 Chứ đâu phải con sâu hóa ra con tò vò. Các học giả không hiểu và hiểu như vậy không đúng sự thật,  không  thể  chứng  minh  bằng  khoa  học được. Giải thích như vậy vô tình dẫn dắt người ta không hiểu lại càng không hiểu hơn.
Tóm lại, chỗ Phật tu chứng mà  không dạy cho chúng ta, tức là chỗ thừa không ích lợi cho loài người, chỉ là hý luận suông của tưởng, nó không phải là chân lý của con người. Vì thế, trước  khi nhập  Niết  Bàn đức  Phật  đã  nói:  “Ta tự  biết  trong đại  chúng  này,  dù  có  một  vị Tỳ Kheo nhỏ nhất cũng thấy được dấu đạo, không còn đọa vào đường ác”. Lời nói này đức Phật  đã  xác định: “Ta đã  dạy  giáo  pháp giải   thoát   vừa   đủ,   không   thiếu,   không thừa cho loài người. Những điều được Ta nói là Ta không có nói láo”.
Với giáo pháp chân chánh này chúng ta tu tập còn chưa hết, sống còn phạm giới, phá giới. Thế  mà  các  nhà  học  giả  xưa và  nay tưởng giải ra những pháp cao siêu trừu tượng, ảo tưởng khác,  khiến  cho người  tu  hành  đời  sau lạc  vào tà kiến, tà pháp. Như vậy, các nhà học giả phát triển  triển  khai  những  gì  đức  Phật  chưa nói, đều  là  các  Tổ  sống  trong  tưởng  nói  ra, lý  luận theo ảo tưởng mà Thầy Thông Huyễn lại cho là



hay,  như  vậy  rõ  ràng  trí tuệ  của  Thầy  Thông Huyễn chỉ là trí tuệ học giả còn hạn cuộc trong trí hữu hạn.
Tóm lại, đức  Phật  thuyết  giảng pháp môn tu hành cho chúng ta là vừa đủ để tu hành giải thoát  ra khỏi  sanh  tử  luân  hồi.  Còn  những  gì các  Tổ  nói  là  giáo  pháp  của  ngoại  đạo, của  Bà La Môn được lồng vào giáo pháp của Phật. Mục đích là để dìm Phật giáo, nhưng sợ tín đồ Phật giáo  không  tin nên  mượn  câu:  “Ta tu  chứng như  rừng lá cây mà dạy chúng sanh tu tập như nắm  lá  cây”.  Câu  này  người  ta  không hiểu nghĩa của nó, nên giải thích một cách lầm lạc. Do trí hữu hạn Thầy Chơn Quang cũng không hiểu nghĩa của câu này.
Câu  nói  này  có  nghĩa  là:  “Chứng”  là  có thể  thấy  biết  hiểu  rộng  nhiều  sự  việc  khắp trong  vũ  trụ  này  (như  rừng  lá  cây),  nhưng  nói ra mọi  người  không  hiểu  nên  đức  Phật  không nói  mà  chỉ  nói  những  điều  chúng  sanh  hiểu được (như nắm lá cây trong lòng bàn tay). Còn giáo  pháp  tu  chứng  thì chỉ  có  một,  chứ  không có nhiều giáo pháp. Chân lý của con người cũng vậy chỉ có một, chứ không thể có hai ba chân lý được.
 Vì thế, khi đức Phật tu chứng, Ngài quỳ xuống đảnh lễ giáo pháp mà Ngài đã  thực hiện được  sự  giải  thoát.  Như  vậy,  đạo  Phật  chỉ  có một  giáo  pháp  chứ  không  có  nhiều  giáo  pháp, đó là “Giới,  Định, Tuệ”.  Nhiều giáo pháp như kinh sách  phát  triển  và  Thiền  Đông  Độ  tức  là
84 ngàn  pháp  môn,  đó  toàn  là  giáo  pháp  của
ngoại  đạo  được  kết  hợp  lại  để  đánh  lừa  tín đồ
Phật giáo.
Cho nên,  ai  dám  nói  những điều  tu  chứng của  Phật  là  phải  tu  chứng  như  Phật,  còn  tu chưa chứng như Phật mà nói là tưởng nói.

 CHÍNH ĐỨC PHẬT DẠY
THẾ GIỚI SIÊU HÌNH  KHÔNG CÓ
Câu hỏi của PNT
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Cũng  trong cái  ý hướng  đó,  Thầy  Chân  Quang  nói  rằng:  khi Thầy viết bộ sách Đường Về Xứ Phật là Thầy xiển  dương  chánh  pháp   của  đức   Phật.  Nếu Thầy từ chối thế giới siêu hình  mà trong khi ở kinh  điển Nikaya  có nói thế giới siêu hình.  Thì như  vậy  Thầy  cũng  không  đi đúng  với  đường lối của đức Phật.
Đến điều thứ nhì: Thầy Chân Quang dẫn chứng lại ngài Ca Diếp và Ngài Phú Lâu Na tranh cãi nhau về những giới cần phải bỏ. Điều đó  chứng  tỏ  rằng  hai  vị  A  La  Hán  chưa  có thông  suốt.  Trong khi  đó  Thầy  Chân  Quang nói rằng hàng chư thiên còn đồng ý với nhau được, huống chi quý vị A La Hán không đồng ý với  nhau  cho nên  các  vị  đó  còn  sai,  còn  lậu hoặc,  còn  đủ  các  thứ  lậu.  Kính  xin  Thầy  chỉ
dạy.
Đáp:  Trong  kinh Trung   Bộ,  thuộc  tạng kinh Nikaya, bài kinh Pháp Môn Căn Bản đức
 Phật  đã  xác  định  33 cõi  Trời  là  cõi  tưởng  tri chứ  không  phải  liễu  tri và  như vậy  trong  tạng kinh Nikaya  dù  có  bài  kinh nào  đức  Phật  nói đến cõi Trời nào đi nữa thì chúng ta cũng phải hiểu là cõi tưởng mà thôi. Do lời dạy của đức Phật  và  kinh nghiệm  nhập  định, vượt  qua thế giới  tưởng  của  Thầy,  thì Thầy  cũng  không  tìm thấy thế giới siêu hình  ở đâu cả, nên Thầy xác định như Phật, thế giới siêu hình  không có, chỉ là  một  thế  giới  tưởng  do năng  lực  của  tưởng uẩn  tạo  thành.  Còn  nếu  nhập  vào  định tưởng thì tất cả thế giới siêu hình  đều có ở đó.
Tóm  lại,  việc  làm  của  Thầy  hôm  nay  là việc làm của đức Phật ngày xưa. Vì đức Phật ngày xưa đã bác thế giới siêu hình,  để xây dựng nền  đạo  đức  nhân  bản  - nhân  quả.  Thầy  bác thế  giới  siêu  hình  để  phá  vỡ  những  sự  mê  tín, lạc  hậu, để  làm  sống lại  nền đạo đức  của Phật giáo không làm khổ mình,  khổ người.
Còn Thầy Chân Quang hiểu như thế nào cũng được, nhưng đừng đem thế giới siêu hình gây  nhiều  điều  mê  tín cho loài  người, làm  mất nền  đạo  đức  nhân  bản  -  nhân  quả,  thì con người phải chịu nhiều khổ đau. Trên hành tinh đã một lần bị giáo pháp phát triển và Thiền Đông  Độ  dìm  mất  nền  đạo  đức  này.  Nên  hơn 25  thế  kỷ  loài  người  chịu  thiệt  thòi  quá  lớn. Đến giờ này đạo đức con người đang xuống dốc trầm trọng, thế mà nỡ tâm nào Thầy muốn làm sống  lại  thế  giới  siêu  hình.  Để  rồi  sự  khổ  đau trên hành tinh này mãi mãi không bao giờ dứt.
Tóm lại, thế giới siêu hình  là đức Phật bài bác, chứ không phải Thầy bài bác. Thầy biết chắc  chắn  thế  giới  siêu  hình   không  có,  nên chấp  nhận  và  dựng  lại  những  gì của  đức  Phật đã bị ngoại đạo ném bỏ, ngày nay thầy Chân Quang làm sống lại thế giới siêu hình để theo dấu  chân  của  các  Tổ  dìm  mất  giáo  lý  chân chánh của Phật giáo. Thật là một việc làm tội lỗi,   ngày   mai   sẽ   không   tránh   khỏi   quả   ác nghiệp này.
Còn nói ngài Ca Diếp và ngài Phú Lâu Na tranh  cãi  nhau  về  những  giới  cần  phải  bỏ. Đoạn  kinh này không  đúng  do người  sau thêm vào  để  phỉ báng đệ tử  của Phật mà  trong kinh Duy Ma Cật và kinh Pháp Hoa đã có ý đồ này.
Ngài  Ca Diếp  và  ngài  Phú  Lâu  Na là  hai vị Đại đệ tử của Phật đều từ giới sinh ra, chứng quả A La Hán. Lẽ đâu từ giới sinh ra rồi lại bài bác giới luật, đó là một cách vô lý. Phải không các bạn?



Trong kinh sách Nguyên Thủy thường có những  đoạn  kinh rất  mâu  thuẫn  với  những  lời Phật  dạy:  như  Phật  ăn  nấm  bệnh  kiết  lị  mà chết,  như  kinh  Vô  Não,  bỏ  những  giới  nhỏ nhặt,  Ca  Diếp  và  Phú  Lâu  Na  v.v..  đều  do người sau thêm vào, nếu quý vị không tin thì có bạn nào đi với chúng tôi vào Niết Bàn hỏi Phật cho ra lẽ.
Kính  thưa các  bạn! Các  bạn  tu  hành chưa chứng  đạt  Chân  lí, chưa có  Tam  Minh  thì xin các  bạn  đừng  dùng  tri kiến  hạn  hẹp  mà  nói chuyện đến các  bậc  A La Hán Thánh Tăng thì lỗi  của  các  bạn  lớn  lắm.  Các  bạn  biết  gì về  A La Hán mà nói  đến các bậc A La Hán, chỉ  khi nào  các  bạn  chứng  quả  A La  Hán  thì các  bạn mới  nói  A  La  Hán.  Biết  thì thưa  thốt  không biết  thì dựa  cột  mà  nghe,  chứ  đừng  dùng  tri kiến hạn hẹp mà luận những điều mình  không thấy,  không  biết  là  để  lộ  sự  ngu dốt  của mình cho mọi người thấy.
Tóm lại, những gì các bạn chứng ngộ được thì hãy  nói  còn  những  gì chưa chứng  ngộ  được thì xin các bạn hãy im lặng mà nghe.

 ĐẠI THỪA CĨ Ý ĐỒ DIỆT  PHẬT GIÁO
Câu hỏi của PNT
Trong kinh Đại  Thừa Duy Ma Cật  ngoại đạo  viết  kinh  này  đã  có  ý  đồ  diệt  Phật  Giáo bằng cách hạ bệ các bậc A La Hán hàng đại đệ tử  của  đức  Phật.  Ông  Xá  Lợi  Phất  được  đức Phật  xem là  người  đệ  tử  đệ  nhất  trí tuệ.  Thế mà  trong  kinh Duy  Ma  Cật  xem  ông  Xá  Lợi Phất chẳng ra thứ gì.
Bây  giờ  đến  Thầy  Chân  Quang  cũng  đi theo lối mòn của các Tổ, muốn dùng lý luận học giả  để  hạ  bệ  hai  vị  đại  đệ  tử  A  La  Hán  của Phật: Ông Ca Diếp và ông Phú Lâu Na. Thầy Chân Quang không hiểu những bài kinh do các giáo  sĩ  Bà  La  Môn  lồng  vào  trong  kinh sách Phật để diệt Phật giáo.
Như  chúng  ta  biết  hai  vị  A La  Hán  ngài Ca Diếp và ngài Phú Lâu Na là hai vị đại đệ tử của Phật. Tu hành đã chứng quả A La Hán hẳn hoi.  Giáo  sĩ  Bà  La  Môn  bịa  đặt  ra câu  chuyện bỏ những giới nhỏ nhặt, chứ giới luật là thiện pháp, là đạo đức giúp người tu ly dục ly ác pháp để tâm bất động trước các ác pháp, để được tâm
 giải  thoát  hoàn  toàn,  để  tâm  nhập  Sơ Thiền. Và  như  vậy  thì có  giới  nhỏ  nhặt  nào  phải  bỏ, chỉ có một số Tỳ Kheo chạy theo dục lạc, mới a dua theo Bà La Môn mà tuyên bố bỏ những giới nhỏ nhặt.
Đối với hai vị A La Hán này thì sự giải quyết  bỏ  những giới  nhỏ  nhặt  đâu  phải  là việc khó. Vì họ có đủ Tam Minh nên nhập vào Niết Bàn sẽ hỏi đức Phật bỏ những giới nào? Tại sao hai  vị  A  La  hán  có  đầy  đủ  thần  thông,  mà không làm điều này lại  còn tranh cãi  với nhau không khác  gì phàm phu. Phật giáo  phát triển có thủ đoạn nhưng không khôn ngoan, lồng những đoạn kinh này để lừa đảo tín đồ Phật giáo. Trí  tuệ học  giả tưởng giải của Thầy Chân Quang lọt vào cạm  bẫy của Bà  La Môn nên đã vô tình nối giáo cho Phật giáo phát triển hạ bệ những vị đại đệ tử của đức Phật một cách quá đáng. Hai  vị  đại  đệ  tử  này đều  từ  giới  luật  mà đạt  được  quả  vị  A  La  Hán.  Không  do giới  thì làm  sao các  ông  có  được  thiền  định,  có  được Tam  minh,  chứng  quả  A La  Hán.  Sao các  ông lại bỏ những giới luật nhỏ nhặt? Điều vô lý hết sức.
Các bậc A La Hán đều do giới sanh ra, cho nên  Đức  Phật  nói:  “Ta nói  giới  luật  là  Ta
 nói  tâm  ly dục,  ly ác  pháp”.  Nếu tâm không ly dục  ly ác  pháp  thì làm  sao chứng  quả  A La Hán  được.  Phải  không  quý  vị?  Cho  nên,  các nhà  Phật  giáo  phát  triển  đã   dìm  Phật  giáo xuống một cách trắng trợn, Thầy Chân Quang không hiểu  bắt  chước  ngoại  đạo diệt  Phật  giáo một  lần  nữa.  Cho  các  bậc  A  La  Hán  Thánh Tăng của Phật giáo như kẻ phàm phu không bằng chư Thiên. Đó là một lời phỉ báng Phật giáo   tận   cùng,   sau  này   Thầy   Chân   Quang không  thể  tránh  khỏi  quả  báo  này.  Các  bậc Hòa Thượng   tôn túc chỉ có vô tình xương minh Phật  giáo  phát  triển  mà  còn  chịu  nghiệp  quả khổ đau tận cùng. Các vị A La Hán này, sống một đời sống Phạm hạnh, giới luật nghiêm chỉnh  mà  lại  tranh chấp  bỏ  những  giới  nhỏ nhặt.  Trong  khi đức  Phật  dạy:  “Phải  sợ  hãi trong các  lỗi  nhỏ  nhặt”.  Như  vậy,  Phật  dạy bỏ hay các Tổ bỏ?
Kính  thưa các bạn! Bây giờ các bạn xét tất cả tu sĩ Phật giáo sẽ thấy không có một vị Hòa Thượng  nào  sống  bằng  các  vị  A  La  Hán  đó được, các vị ấy là những bậc Thánh Tăng, thế mà Thầy Chân Quang dám phỉ báng những bậc A  La  Hán  như  vậy,  để  rồi  quý  vị  hãy  xem
 những kẻ phỉ  báng bậc  A La Hán Thánh Tăng đệ tử của đức Phật.
Dám phỉ báng những bậc A La Hán như ngài  Ca Diếp  và  ngài  Phú  Lâu  Na là  phỉ  báng Phật giáo. Đức hạnh của ngài Phú Lâu Na và ngài Ca Diếp khó có ai sánh kịp.
Một  hôm,  Ngài  xin  Phật  để  đi  độ  chúng sanh ở xứ Sunaparanta thì đức Phật hỏi Ngài:
- Độc ác, thô bạo, này Punna là người xứ Sunàparanta nếu người xứ đó chửi bới nhiếc mắng ông, ở  đây ông nghĩ thế nào?
-  Nếu   người   xứ   đó   chửi   bới   nhiếc mắng con, ở  đây con sẽ nghĩ: “Thật là hiền thiện là người xứ đó. Vì những người đó không lấy tay đánh đập con”.
- Nếu  như  người  xứ  đó  lấy  tay  đánh đập ông, thì ông nghĩ sao?
-  Nếu  người  xứ  đó  lấy  tay  đánh  đập con thời  con sẽ  nghĩ:  “Thật  là  hiền  thiện. Vì những  người  xứ  này  không  đánh  đập con bằng cục đất”.
-  Nhưng nếu  họ  đánh  đập  ông  bằng cục đất, thì ở đây ông nghĩ thế nào?
 - Vậy con sẽ nghĩ: “Thật là khéo hiền thiện.  Vì những người  xứ  này không đánh đập con bằng gậy”.
- Nhưng nếu họ đánh đập ông bằng gậy thời ông nghĩ thế nào?
- Vậy con sẽ nghĩ: “Thật là khéo hiền thiện,  vì những  người  xứ  này  không  đánh đập con bằng kiếm”.
- Nhưng nếu những người này đánh ông bằng kiếm, thì ông nghĩ như  thế nào?
- Con sẽ nghĩ: “Thật là hiền thiện, vì những  người  này  không  đoạn  mạng  con với cây kiếm sắc bén”.
- Nếu họ đoạn mạng ông với cây kiếm sắt bén, thì ông nghĩ như  thế nào?
- Vậy con sẽ  nghĩ:  “Thật  là  hiền  thiện vì người xứ đó vẫn còn thương con”.
Câu chuyện trên đã nói lên được đạo hạnh của một vị Thánh Tăng không thể lường được.
Đến  mức  độ  người  ta  giết  ông.  Ông  vẫn còn  thương  người  ta.  Một  người  như  vậy  là người  đã  ly dục,  ly ác  pháp  hoàn  toàn  thì làm gì  còn  tranh  chấp  những  việc  nhỏ  nhặt  đó. Phải  không hỡi  các  bạn?  Mà  ly dục  ly ác pháp thì đâu phải ly bằng ngôn ngữ được. Mà phải ly bằng giới luật.
Đọc  lại  một  đoạn  tiểu  sử  của  Ngài  Phú Lâu  Na,  chúng  ta  thấy  rõ  ràng  Ông  Phú  Lâu Na là bậc Thánh Tăng. Không lẽ một vị Thánh Tăng  mà  lại  tuyên  bố  bỏ  những  giới  nhỏ  nhặt như vậy  thì thật  là  vô  lý.  Đúng là  lý  luận  này của ngoại đạo để diệt Phật giáo.
Tóm lại, việc phỉ báng bậc Thánh Tăng A La Hán đại đệ tử của đức Phật là một việc làm tội lỗi rất lớn đối với Phật giáo, đối với loài người.

ĐỨC PHẬT VÀ CHÚNG THÁNH  TĂNG ĐỀU
ĂN NGÀY MỘT BỮA MÀ ĐÃ CHỨNG ĐÄO
Câu hỏi của PNT
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Thật  tình  chúng con  rất   mến   mộ   Thầy   Chân   Quang,  chính chúng  con đã  kêu  gọi  bạn  bè  đóng  góp  tiền  để in quyển sách Luận Về Luân Hồi Nhân Quả. Thậm  chí  những  cuộn  băng  của  thầy  Chân Quang chúng con rất quý. Nhưng  từø khi chúng con  nghe   được   cuộn   băng   mà   Thầy   Chân Quang nói  về  Thầy  Thông Lạc, có những điểm mà  trước  đây  chúng  con nghe qua những  cuốn sách,  băng  của  Thầy  giảng  viết  thì   khác  có những điểm như thế này. Ví dụ: Thầy Chân Quang nói rằng Thầy không có đồng ý với sư ông  (Thầy  Chân  Quang  đang  nói  chuyện  với các  đệ  tử  nên  gọi  là  sư ông).  Nói  rằng  sư Ông Thông Lạc còn những điểm mà Thầy không đồng ý là ăn uống không đủ chất bổ, ăn uống không  đủ  chất  bổ  thì   không  thể  nhiếp  tâm được,  thậm  chí mình  ăn no đi,  ăn  thật  no nữa là  chỉ  cần  đi kinh  hành  một  chút  xíu  thì  bắt chân lên ngồi là nhiếp tâm được liền, còn ăn uống  thiếu  thì   nó  hại  đến  não  thì   làm  cho mình  bệnh  hoạn  này  kia.  Đó  là  Sư  ông  ở  tu viện Chơn Như  bệnh nặng lắm. Xin  Thầy từ bi chỉ dạy cho.
Đáp:  Để  xác  định điều  này  quý  cư sĩ  về đây  trực  tiếp  gặp  Thầy,  có  thấy  Thầy  bệnh nặng không?
-  Dạ không, Thầy không có bệnh nặng.
Thầy làm việc suốt đêm từ 7 đến 12 giờ đêm, rồi Thầy chỉ đi nghỉ chút xíu, khuya Thầy dậy  tọa  thiền  phục  hồi  sức  khỏe  để  ngày  hôm


sau làm  việc  nữa.  Trong  một  thời  gian  ngắn chưa đầy 3 năm bộ sách Đường Về Xứ Phật nhiều tập và các tập sách khác trên 5000 trang giấy  được  Thầy  soạn  thảo  ra. Một  khả  năng làm  việc  phi  thường  như  vậy  thì các  Phật  tử cũng đủ biết Thầy làm việc rất nhiều. Và Thầy còn  tiếp  tục  soạn  thảo  bộ  sách  đạo  đức  làm người  nhiều  tập. Trong lúc  ấy Thầy vừa trả  lời thư  các cư sĩ  bốn phương và  cũng vừa làm việc trên  máy  vi tính để  in thành  sách  với  những trang   sách   có   mỹ   thuật   như   người   chuyên nghiệp, nhằm để hoàn tất một cuốn sách đẹp, chứ không in bừa bãi thiếu mỹ thuật. Thầy làm việc như vậy quý Phật tử phải thấy được sức khoẻ của Thầy không kém thua những người còn  trẻ.  Trong  lúc  tuổi  Thầy  đã   78.  Nhất  là Thầy chỉ ăn ngày một bữa. Ăn ngày một bữa không thiếu sức khỏe, không bị bệnh đau. Ăn ngày  một  bữa  ít bệnh  đau hơn người  ăn  nhiều bữa. Đau bệnh phần lớn là tâm phiền não, giận hờn lo lắng, khổ đau, thương ghét v.v.. Kế đó là do ăn  uống  không  điều  độ,  ăn  uống  quá  nhiều, ăn uống phi  thời, ăn nhiều bữa, ăn uống không vệ sinh v.v..? Ăn uống nhiều sanh ra dục tầm liên  hệ  giữa  nam  nữ  phạm  cấm  giới  làm  hư hoại Phật pháp, còn ăn ngày một bữa đủ sống không sanh dục, không hôn trầm, dễ tu hành.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Trong  giới  luật  của  Phật  đã   cấm  không cho tu  sĩ  ăn  uống  phi  thời.  Người  mới  vào  tu như một Sa Di  Tăng hay Sa Di  Ni, thọ 10 giới thì giới thứ 9 cấm ăn phi thời, còn Tỳ Kheo thì thọ  250 giới. Giới thứ  37 cấm  ăn phi  thời, giới này thuộc giới đọa địa ngục (Ba dật đề).
Lý luận của Thầy Chân Quang ở trên là lý luận của người phá giới để chạy theo tham dục về  ăn  uống.  Những  lý  luận  của  Thầy  Chân Quang, tức là Thầy Chân Quang không hiểu thiền của đạo Phật, Thầy giẫm lại lối  mòn của các Tổ nên bảo: “Ăn  thật  no  chỉ  cần  đi kinh hành một chút xíu thì bắt chân lên ngồi là nhiếp  tâm  được  liền”.  Như  quý  Phật  tử  đã biết  thiền  của  Phật, là  phải  lìa  tâm  tham  diệt ác pháp, chứ không phải ngồi bắt chân lên là nhiếp  tâm  không  vọng  tưởng.  Thiền  của  Phật là  ngăn  ác  diệt  ác  pháp  tức  là  ly dục  ly ác pháp, cho nên còn tham ăn, tham dục mà gọi là thiền  định  thì đó  là  tưởng  thiền,  thiền  Đông Độ, thiền Đại Thừa v.v…
Tóm   lại,   ngày   xưa  đức   Phật   và   chúng Thánh Tăng ăn ngày một bữa, tu hành chứng đạo  làm  chủ  sự  sống  chết,  chấm  dứt  luân  hồi sanh tử, còn bây giờ tu sĩ ăn uống phi thời, cho bổ khỏe, phá giới luật Phật tận cùng. Sống đời sống phi  Phạm  hạnh.  Vì thế,  chẳng có  vị tu  sĩ nào chứng quả giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết chấm dứt luân hồi sanh tử được. Rất uổng  phí  một  đời  tu  hành,  đời  chẳng  ra đời, đạo chẳng ra đạo.
Thầy Chân Quang dựa vào các ông Thầy nhập  định tưởng, các  nhà  ngoại  cảm  lên đồng, nhập  cốt  mà  cho rằng  họ  tu  chứng,  tu  chứng như vậy không phải của đạo Phật. Bởi vì đức Phật  đã  xác  định: “Giới  luật  còn  thì đạo Ta còn,  giới  luật  mất  thì đạo  Ta mất”.  Những ông  thầy  nhập  định  tưởng  và  các  nhà  ngoại cảm  lên  đồng,  nhập  cốt  đều  sống  phi  Phạm hạnh, sống phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới, thì những vị  này đâu  xứng đáng là  người tu chứng của đạo Phật.

 PHƯỚC CHÚNG SANH CHƯA ĐỦ
TÌM MỘT VỊ A LA HÁN RẤT KHÓ
Câu hỏi của PNT
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Thầy  nói  đợi  cho có  10 vị  A  La  Hán,  mà  bây  giờ  kiếm  một  vị cũng không ra. Nếu không có 9 vị như Thầy thì họ  không  chịu tin,  mà  đợi  cho có  đủ  chín  vị nữa, thì  con coi bộ khó quá, đợi chừng nào mới có vị thứ nhì?
Đáp: Một người tu chứng trong giai đoạn này  làm  Phật  sự  khó  có  người  tin được.  Bởi vậy,  cần  phải  có  10 người  tu  chứng  để  chỉnh đốn lại  kinh sách Phật, thì mọi  người  mới  tin. Vì  thế,  một  người  không  thể  chỉnh  đốn  lại được.
Phước  của chúng  sanh chưa đủ,  vì thế  các vị A La Hán chưa xuất hiện, chứ không phải chúng  ta  tìm một  vị  A La  Hán  khó.  Chúng  ta cứ  sống  đúng  đức  hạnh  giới  luật  của  Phật  thì các bậc A La Hán sẽ xuất hiện. Chỉ vì chúng ta sống không đúng đức hạnh giới luật của Phật nên  chúng  ta  tìm một  vị  A  La  Hán  rất  khó. Giới  luật  là  mẹ  sanh  ra A  La  Hán.  Cho nên,
 nếu tất cả Tăng, Ni giới luật  nghiêm  chỉnh thì không những 10 vị A La Hán mà có hàng trăm vị  A  La  Hán  xuất  hiện.  Giới  luật  ở  đâu  là  có bậc A La Hán ở đó. Bậc A La Hán ở đâu là giới luật ở đó. Như vậy, bậc A La Hán đâu phải khó tìm. Phải không quý vị?
Bậc A La Hán từ con người mà có, chứ không phải ngoài con người mà tìm được bậc A La  Hán.  Con người  giữ  giới  nghiêm  chỉnh,  tu tập đúng pháp ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện, sống không làm khổ mình, khổ người  là  bậc  A La  Hán.  Xưa, đức  Phật  còn  tại thế Ngài đã  xác định: “Giới  luật  còn  là  Phật Pháp   còn,   giới   luật   mất   là   Phật   Pháp mất”.  Câu nói này có nghĩa là: “Giới luật còn là  còn  bậc A La  Hán,  giới  luật  mất  là bậc A La Hán mất”.
Quý Phật tử đừng bảo rằng: Một vị A La Hán  khó  kiếm,  chỉ  vì  Tăng,  Ni không  giữ  gìn giới  luật  nghiêm  chỉnh nên bậc  A La Hán khó kiếm.
Tóm lại, bậc A La Hán xuất hiện ra đời là vì chúng sanh có đủ phước báo thọ hưởng phước vô lậu.

 PHÁP SAI CHỨ NGƯỜI KHÔNG SAI
Câu hỏi của PNT
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Con thấy  có  một số  quý  Tăng,  Ni khi  thuyết  pháp  với  tấm  lòng rất  tốt.  Nhưng  vì pháp  mà  quý  vị  đó  học  được qua Thầy Tổ ngày xưa như thế nào, thì  học hỏi như  thế  đó. Chưa hẳn là  quý  vị  có  tâm  ác, lừa đảo Phật tử đâu. Kính  xin Thầy giảng dạy.
Đáp: Pháp sai chứ người không sai, người không sai thì phải có trí tuệ, có trí tuệ thì mới nhận ra pháp sai, pháp sai tức là pháp lừa đảo, dối gạt người, nhận ra pháp sai, mà cứ hành pháp sai, tức là lừa đảo, lường gạt người.
Vì thế, người mới  vào  tu  là  người  tốt. Sau một  thời  gian  tu  học  pháp  sai  biến  họ  trở thành người xấu, hằng ngày phải làm nghề lừa đảo (cúng bái, tụng niệm, cầu siêu, cầu an v.v..). Cầu siêu, cầu an là một cái nghề làm giàu có nhiều  tiền  một  cách  dễ  dàng.  Cho  nên  biết pháp sai, nhưng các thầy không bao giờ bỏ.
Người mới vào tu thì nghèo đến nỗi một đồng  xu dính  túi  còn  không  có.  Nhưng  sau khi tu lâu có những kiến giải, họ đứng vào vị trí trụ
 trì, giảng sư, thì tiền bạc nhiều, danh vọng lớn nên họ không thể bỏ những pháp sai, vì nhờ những pháp sai lừa đảo này mà họ sống trên nhung lụa. Thế nên làm sao họ bỏ được.
Chúng  ta  không  thể  lường  được  những  tu sĩ  mượn  tôn  giáo  để  kinh  doanh  buôn  bán,  có khi còn  buôn  đồ  lậu  thuế.  Những  người  này  là những người không những buôn bán tôn giáo, mà còn buôn bán đồ trái pháp luật. Chỉ có một thời  gian  năm,  ba năm  sau, là  họ  cất  chùa  rất đẹp,  họ  sắm  xe  hơi  nhà  lầu  đàng  hoàng,  tủ lạnh, ti vi cái gì ngoài đời có là họ cũng có hết.
Tóm  lại,  pháp  sai  dẫn  người  đi  vào  chỗ sai, pháp lừa đảo, dối gạt người sẽ dẫn người đi vào chỗ lừa đảo, dối gạt. Cho nên, kinh sách phát  triển  làø  kinh sách  kiến  giải  của  các  nhà học giả xưa và nay, là những kinh sách mà mọi người cần phải được lưu ý. Vì đó là những kinh sách phi đạo đức, lừa đảo, dối gạt người. Biến người tốt thành người xấu, bằng chứng rõ ràng những tu sĩ Phật Giáo hiện giờ từ người tốt trở thành người xấu và đang hành nghề phi pháp.

 ĂN NGÀY MỘT BỮA
Câu hỏi của PNT
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Thầy  bắt  đầu  ăn một bữa chừng bao lâu rồi?
Đáp:  Sau hạ  năm  1970 Thầy  rời  khỏi  Tu Viện  Chân  Không,  tìm nơi  nhập  thất  tu  hành, cuối năm 1970 vào đầu tháng 10 sống ngày một bữa, không ăn uống phi  thời. Nhất định sống y như Phật, làm như Phật. Nhưng vẫn giữ pháp môn “tri vọng” của Hòa Thượng Thanh Từ tu tập. Thầy tu pháp đó chín năm trời liên tục. Nhưng kết quả chỉ là những thiền định tưởng, tuệ tưởng, thần thông tưởng, v.v..
Tóm lại, Thầy ăn ngày một bữa vào đầu tháng 10 năm 1970 và từ đó không còn ăn uống phi thời nữa.


 ĂN NGỌ
 Câu hỏi của PNT
 Hỏi: Kính thưa Thầy! Gia đình  con mọi
người bận đi làm công việc này, việc kia  thành ra muốn  ăn  ngày  một  bữa  phải  lấy  giờ  nào? Thay  vì  giờ  ngọ,  nhưng  chồng  và  các  con, ở trong văn  phòng  hay  ở  trong  xí  nghiệp  đang làm  việc  thì   không  về  được,  đến  chiều  mọi người  mới về  nhà. Như  vậy  chúng con làm  sao ăn ngọ được?
Đáp:  Mọi  người  hiểu  ăn  ngọ  là  ăn  đúng vào  giờ  ngọ,  tức  là  ăn  giữa  ngày.  Quan niệm như vậy Thầy e rằng không đúng. Ăn ngọ có nghĩa  là  ăn  một  bữa  trong  ngày,  ăn  để  sống, tức là ăn vào thời gian nào cũng tốt, nhưng vì đức  Phật  ngày  xưa đi  khất  thực  nên  chọn  vào trưa  để  tiện  việc  đi  xin;  tiện  việc  cho người Phật tử cúng dường và tiện việc tu tập.
Một  cộng  đồng  tập  thể  của  gia  đình  có nhiều người.  Vì thế, sự  ăn uống không thể  nào riêng rẽ, riêng rẽ sẽ tạo cảnh buồn chán. Trong gia  đình  chỉ  có  giờ  ăn,  mọi  người  mới  có  sum họp.  Gia  đình  mình  sum họp  vào  giờ  nào,  là mình  chọn  lấy  giờ  đó  ăn  ngọ.  Ăn  cho vui  cửa vui nhà. Ăn như vậy mới chính  là ăn cơm ngọ. Còn  nói  tôi  ăn  cơm ngọ  là  phải  tới  giờ  ngọ  tôi mới  ăn,  còn  những  giờ  khác  thì tôi  không  ăn. Như vậy là người cố chấp, không đúng phương pháp  ăn  cơm ngọ  của  Phật.  Vì ăn  cơm cũng  là một   hành   động   sống,   sống   không   làm   khổ mình,  khổ người.
Nếu chấp giờ ngọ là phải đúng giờ trưa, nhưng 12 giờ trưa ở Việt Nam lại là 12 giờ đêm ở Mỹ. Như vậy tính mốc thời gian thì không đúng. Chỉ có lấy mốc đạo đức nhân bản là đúng nhất,  hợp  lý  nhất  và   rất  thích  hợp  với  Phật giáo.  Vì  Phật  giáo  chủ  trương  “ngăn  ác  diệt ác   pháp”   hoặc   “các   pháp   ác   không   nên làm,  nên  làm  các  pháp  thiện”  hay “ly dục ly ác pháp”.
Tóm lại, khi ăn cơm ngọ thì hãy chọn bữa ăn nào mà có mặt mọi người trong gia đình đầy đủ,  ăn  không  làm  khổ  mình,  khổ  người. Trong ngày chỉ duy nhất có một bữa ăn gọi là ăn cơm ngọ.


NÓI CAI SAI CỦA ĐẠI THỪA THIỀN ĐÔNG ĐỘ CÓ GÌ MÀ SÂN
Câu hỏi của PNT
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con xin  hỏi Thầy câu cuối cùng, vì bây giờ sắp tới giờ ngọ rồi, mà câu  này  cũng  rất  là  quan  trọng.  Người  ta nói: Khi Thầy nói, phê bình  về Phật giáo phát triển và  Thiền  Đông  Độ.  Giọng  nói  của  Thầy  hơi sân, có không thưa Thầy? Xin  Thầy...
Đáp: Thật  sự mà  nói  Thầy sân thì không đúng.  Vì  kinh  sách  phát  triển  và  Thiền  Đông Độ không có làm điều gì cho Thầy sân, vì nó là kinh sách,  là  lời  dạy  của  các  Tổ,  không  đúng như  lời  dạy  của  Phật,  nó  là  sản  phẩm  của những nhà học giả tu hành chưa tới nơi, tới chốn, chứ không phải của hành giả đạt đạo.
Thường người ta giận là giận con người, chứ có ai giận kinh sách bao giờ. Giọng nói của Thầy có “gằn mạnh” những từ dùng “thẳng thắn”, “mạnh  bạo”  như một dũng tướng xông trận,  nhưng  không  phải  vì  thế  mà  gọi  là  căm tức  giận  hờn  được.  Nếu  người  hiểu  biết  giọng nói  đó  là  tiếng  chuông  xé  nát  bầu  không  gian,
để  cảnh  tỉnh  mọi  người  đừng  quá  u mê,  đừng nghe  theo  giáo  pháp  phi  đạo  đức,  công  lý  và công bằng, giáo pháp đầy sự mê tín lạc hậu, lừa đảo mọi người v.v..
Giáo  pháp  đó  đã  giết  chết  biết  bao nhiêu Thầy  Tổ  của  chúng  ta  trải  qua hai  mươi  mấy thế  kỷ,  giờ  đây  đang giết  chết  chúng  ta  và  sẽ giết chết con cháu của chúng ta sau này.
Tiếng nói của Thầy là tiếng nói chung của nhiều   người,   từ   trong   tâm   trạng   đau  khổ. Những  ai  đã  thiết  tha  đi  tìm đường  giải  thoát của đạo Phật.
Thầy nói ra, không phải vì sân hận đâu. Giọng nói gằn mạnh của Thầy là để cho mọi người  hiểu  biết  mà  cố  tránh giáo  pháp  này. Vì giáo  pháp  này  sẽ  giết  chúng  ta  như trên  Thầy đã  nói.  Suốt  cả  cuộc  đời  tu  hành  của  chúng  ta, tu mà chẳng có gì hết.
Từ  khi đức  Phật  tịch,  giáo  pháp  của  Ngài đã   bị  dìm  mất.  Thay  thế  bằng  một  tà  giáo. Thầy Tổ của Thầy, tức là các Hoà Thượng như: là  Hoà  Thượng  Phước  Lưu,  Ngài  chết  rất  đau khổ vì bệnh bán thân. Hoà Thượng Thiện Hoà, Ngài  là  Thầy  đỡ  đầu,  trên  con đường  học  tập của Thầy, Ngài chết  cũng rất  đau khổ, vì bệnh bán thân.
 Vì kiến chấp giáo pháp Đại Thừa nên họ phỉ báng Thầy, nói Thầy sân. Nhưng  Thầy sân ai  bây  giờ?  Tại  sao Thầy  lại  sân  giáo  pháp  đó để làm gì?
Không những Thầy là nạn nhận của giáo pháp  đó  và  còn  biết  bao nhiêu  người  nữa,  bao nhiêu  thế  hệ  nữa.  Trong  sách  Thầy  đã   nói: Thầy là  nạn nhân của giáo pháp  phát triển  và Thiền Tông. Nếu Thầy không đủ phước Thầy cũng điên như Thầy Thông Vân, Thầy Thiện Thuận và rất nhiều người nữa.
Tóm  lại,  một  giáo  pháp  sai  giết  hại  biết bao nhiêu  thế  hệ  tín đồ  Phật  giáo,  mà  không dám  nói  thẳng, nói  mạnh thì ai  biết  nó  là  sai! Không biết giáo pháp đó sai thì ai biết đâu mà tránh! Phải không hỡi quý vị?
Biết  sai  nhưng  nó  đã   trở  thành  những phong tục tập quán thì bỏ rất là khó.

 HỌ CHẤP NHẬN THẦY THÌ CÓ LỢI GÌ CHO THẦY
Câu hỏi của PNT
Hỏi: Kính thưa Thầy! Họ nói: Nếu Thầy nói  câu  lời  nhẹ  nhàng  hơn  thì  may ra họ  còn chấp  nhận  được. Còn Thầy  quất mạnh  quá  thì họ không chấp nhận, họ không nghe.
Đáp: Họ bảo Thầy nói nhẹ nhàng thì may ra họ còn chấp nhận, nói như vậy tức  là họ  đã kiến  chấp  ngoại  đạo,  người  có  kiến  chấp  tà pháp ngoại đạo, dù chúng ta có nói như thế nào họ  cũng  chẳng  nghe, họ  là  những  người  không trí tuệ,  người  không  trí tuệ  là  người  không đáng đi theo Phật giáo. Phật giáo đòi hỏi người đi  theo  đạo  Phật  phải  là  người  trí tuệ,  biết phán  xét  pháp  sai  pháp  đúng,  pháp  có  lợi  ích cho mình  cho người.
Đối  với  đạo   Phật,  người  nào  theo,  làm đúng là có lợi ích cho người đó, chứ không phải làm  lợi  ích  cho  người  hướng  dẫn,  cho  người khác.  Vì  thế,  họ  chấp  nhận  hay  không  chấp nhận  có  lợi  ích gì cho Thầy  đâu?  Nếu  họ  chấp nhận thì Thầy phải  cực  khổ  chỉ  dạy cho họ  và
 còn phải gánh chịu trách nhiệm trong sự tu tập của họ. Trong lúc đời sống của Thầy chỉ có  3 y một bát chẳng có gì: danh không màng, lợi không tham.
Sau  khi tu  xong,  Thầy  quyết  tâm  nhập diệt  bỏ  thân này, vì xét  thấy tình đời  đen bạc, không có tình nghĩa gì cả, chỉ là một trò ảo tưởng  của  nhân  quả.  Về  Phật  giáo  phát  triển chỉ  có  những  người  vô  minh  mới  chìm  đắm trong đó, xe trước mắc lầy xe sau cứ tới mà chẳng biết lùi.  Chỉ  có  những người  kinh doanh tôn giáo mới chạy theo danh lợi đua đòi, không biết nhàm chán nên mới có chùa to Phật lớn, nên mới sống ăn uống phi  thời, phạm giới, phá giới  làm  cho  Phật  giáo  diệt  mất,  để  rồi  sản sanh ra một  thứ  giáo  lý  kỳ  lạ  đủ  màu  sắc  mê tín, huyễn hoặc, mơ hồ,  trừu  tượng  đã  giết  hại biết bao nhiêu tín đồ Phật giáo. Có những vị Hòa  Thượng  nào  đã  tu  giải  thoát  được  những gì?  Hay  chỉ  có  những  thần  thông  ảo  tưởng  để lừa đảo người khác.
Chấp nhận lời Thầy nói có ích lợi gì cho Thầy?  Hay  Thầy  phải  chịu  nhiều  sự  cực  nhọc. Ai biết?
Không  chấp  nhận  lời  nói  của  Thầy  thì
Thầy  có  sao?  Thầy  cũng  vẫn  là  người  tu  giải
 thoát, tâm  bất động như cục  đất, làm chủ được sự sống chết, chấm dứt được sự luân hồi. Quý vị không chấp nhận, Thầy có mất những điều này không?
Chấp  nhận  lời  Thầy  thì có  lợi  cho quý  vị, chứ chẳng có ích lợi gì cho Thầy, phải không?
Chỉ  vì  sự  đau khổ  của  con người,  của  tín đồ  Phật  giáo.  Sự  đau khổ  từ  thế  hệ  trước  cho đến thế hệ sau. Và từ đây về sau nữa kinh sách đó nếu còn, là còn đau khổ mãi, thì con cháu chúng  ta  sẽ  phải  khổ  biết  bao. Cho nên,  Thầy nói là ngăn chặn để con cháu chúng ta không lầm  những  giáo  pháp  này  nữa.  Cho nên,  dù  ai có  nói  Thầy  là  ngoại  đạo,  tà  giáo  đi  nữa,  thì Thầy cũng chẳng sờn lòng, chẳng chùn bước. Quyết  tâm  đem  lại  nền  đạo  đức  nhân  bản  - nhân  quả  của  Phật  giáo  cho  con  người  trên hành tinh này.
Chấp nhận hay không chấp nhận, lời nói của Thầy vẫn hùng hồn, mạnh mẽ như gió bão, thẳng thắn như roi quất mặt, hùng dũng như chiến sĩ xông trận.
Thầy nói như vậy là đụng chạm, là đập bể nồi cơm của Phật giáo phát triển, người ta sẽ giết Thầy. Thầy có chết nhưng lời nói của Thầy không chết, mãi mãi vẫn lưu lại muôn đời.
 Vì Phật pháp phải được trường tồn, vì con người  trên  hành  tinh này  cần  phải  có  đạo  đức nhân  bản  - nhân  quả.  Thầy  không  sợ  ai  nữa hết!  Đối  với  Thầy  cái  chết  là  một  sự  nối  tiếp cho sự sống, chứ có mất mát đi đâu mà sợ. Cho nên, từ khi bộ sách giáo án tu tập của đạo Phật ra đời,  Thầy  đã  quyết  định xây  dựng  nền  đạo đức không làm  khổ mình,  khổ người  trên hành tinh này và giúp cho mọi người không còn lầm đường  lạc  lối  đi  theo  con đường  của  Phật  giáo mê  tín, ảo  giác,  trừu  tượng.  Dù  cho khối  phát triển mạnh như thế nào, cấm ngăn như thế nào thì Thầy cũng nói thẳng mặt. Sai nói sai, đúng nói  đúng,  không  tư  vị  một  ai.  Còn  biết  những cái sai, tai hại cho con người mà im lặng không dám  nói  thì đó  là  hèn  nhát.  Không  xứng  đáng là  một  con  người.  Sống  trong  hiện  hữu  của mình  phải  có  lợi  ích cho loài  người.  Khi mình làm  được  điều  gì có  lợi  ích cho mình,  cho mọi người thì hãy làm. Thầy phải vạch ra cái đúng cái sai cho mọi người biết. Khi người ta biết sai thì Thầy mới dẫn dắt người ta đi vào đúng đường chánh pháp của đức Phật.
Biết   hy   sinh   tình  nghĩa   riêng   tư   giữa Thầy  và  Hòa  Thượng  Thanh  Từ  để  đem lại  sự lợi  ích cho muôn  người  và  Thầy  tin chắc  rằng
 Hòa  Thượng  thương  Thầy  và  hiểu  Thầy  hơn. Lúc nào Thầy cũng nhớ ơn Hòa Thượng, một vị ân sư.
Điều mà Thầy ước muốn đó là làm sao phổ biến “đạo đức làm người”, để đem lại hạnh phúc  cho  mọi  người  và  được  mọi  người  thực hiện đạo đức  này. Thầy tin rằng khi con người thực  hiện được  đạo đức  giải  thoát  này, thì tâm họ ly dục ly ác pháp.
Bộ  sách  đạo  đức  làm  người  phải  ra đời đúng lúc, đúng duyên của nó thì mới làm lợi ích cho con người, nếu  không đúng duyên đúng lúc thì chẳng có ích lợi gì hết.
Sách Thầy ra đời là đánh lên tiếng chuông cảnh tỉnh. Đánh lên tiếng chuông cảnh tỉnh để làm  gì?  Cảnh  tỉnh  là  để  cho có  những  người hiểu biết trợ giúp Thầy sau này làm sống lại Phật giáo chơn chánh. Nếu Thầy không viết sách  thì chẳng  ai  biết  Phật  giáo  đúng  sai  chỗ nào.  Còn  nếu  Thầy  im  lặng  không  viết  cuốn sách  nào  ra hết  thì người  ta  làm  sao biết  để ủng hộ con đường chánh pháp của Phật được.
Hôm nay quý Phật tử biết được và ủng hộ Thầy,   xây  dựng  con  đường  chánh  pháp  của Phật, là nhờ Thầy viết sách nói thẳng nói thật, vạch  cái  sai,  chỉ  cái  đúng.  Nếu  không  có  sách
 của Thầy viết thì hiện giờ các con vẫn tin kinh sách  phát  triển  là  đúng  và  lời  nói  của  Thầy Chân Quang là đúng. Phải không?
Kinh sách phát triển, kiến giải của Thầy Chân Quang và  lời  dạy của Thầy đúng hay sai đều không quan trọng, mà  quan trọng là ở  chỗ phải  đúng  lời  dạy  của  đức  Phật,  không  được thêm bớt và có lợi ích thiết thực cho loài người, có thực sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết hay không?

LÄY LỄ HỒNG DANH SÁM HỐI CHƯ PHẬT, LÀ TIÊU TRỪ
TỘI CHỨNG TAI QUA NẠN KHỎI
Câu hỏi của PNT
Hỏi: Kính thưa Thầy! Có người dạy: chúng  con phải  lạy  lễ  sám  hối  chư Phật  thì có nhiều  phước  báo,  tội  chướng  tiêu  trừ,  tai  qua nạn  khỏi  và  ngồi  thiền  hết  vọng  tưởng.  Như vậy  có  đúng  không.  Xin  Thầy  chỉ  dạy  chúng con được rõ.
 Đáp:  Câu  này  Thầy  đã  trả  lời  câu  hỏi  ở trên rồi, nhưng Thầy sẽ giải thích thêm để quý vị rõ hơn.
Nhiều  người  lạy lễ  sám  hối  nhưng  mà  rốt cùng họ cũng chẳng tiêu trừ, tội chướng, tai qua nạn khỏi. Họ lạy hồng danh chư Phật, cứ vào ngày rằm, ngày 30 là họ đến chùa lạy Phật. Niệm mỗi hồng danh Phật là họ lạy một lạy, tháng nào cũng vậy nhưng nhìn  lại gia đình  họ cũng  chưa hết  khổ  mà  còn  có  khổ  đau nhiều
hơn.
Những lời dạy này đi ngược lại lời dạy của đức  Phật.  Phật  dạy:  “Hãy  tự  thắp  đuốc  lên mà  đi”.  Thế  mà  bây  giờ  lại  nghe  các  nhà  tu hành Phật  giáo  phát  triển  Bà  La Môn dạy lạy lễ  hồng  danh  sám  hối  thì được  phước  báo  tiêu trừ  tội  khổ  và  ngồi  thiền  không  vọng  tưởng. Lời dạy này không đúng như trong kinh sách Nguyên  Thủy.  Phật  dạy:  “Ngăn   ác   diệt   ác pháp,  sanh thiện  tăng  trưởng  thiện  pháp” hay “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”.  Lời  dạy như vậy rất  thực  tế  và  cụ thể, đem lại  lợi  ích  thiết  thực  cho con người.  Còn dạy lạy  lễ  hồng  danh  sám  hối  thì quá  mơ hồ, trừu  tượng,  không  thực  tế,  thiếu  khoa học.  Lối
 dạy như  vậy  là  dạy mê  tín, dắt  con người  vào thế giới tưởng.
Có ông Phật nào dám ban phước ban lành cho họ  khi họ  làm  điều  ác. Phước  báo  hay tiêu trừ tội khổ đều do chính nơi họ, họ có làm lành thì họ sẽ hưởng được phước báo, còn họ làm ác thì họ phải lãnh những tai họa tội khổ.
Có  bao giờ  người  ta  lạy lễ  hồng  danh  chư Phật  mà  nhập  định được, chỉ có  kinh sách học giả mới dạy như vậy mà thôi. Lạy lễ hồng danh chư Phật nhập được là nhập đồng, nhập cốt, nhập cô, nhập cậu.
Tóm  lại,  những  lời  dạy lạy  lễ  hồng  danh chư  Phật   để   được   phước   báo,   tiêu   trừ   tội chướng, tai qua nạn khỏi và ngồi thiền nhập định, đó là những lời dạy không đúng lời dạy của đức Phật, nếu không cảnh giác lời  dạy này mà thực hành sẽ biến mình trở thành những người phi  đạo đức, mê tín, thì chỉ uổng phí cho một đời tu hành mà chẳng đến đâu cả.
Lạy lễ hồng danh chư Phật là để tỏ lòng biết ơn đối với những bậc cao quý này, chứ không  có  giải  quyết  vấn  đề  tiêu  trừ  tội  chướng tai  qua, nạn  khỏi  hoặc  nhập  thiền  nhập  định
v.v..

 A LA HÁN
Câu hỏi của sư Thông Vân
Hỏi: Kính thưa Thầy! Cho phép con xin được  hỏi:  Không có  quả  nào  cao hơn quả  A La Hán phải không?
Đáp:  Đối  với  đạo  Phật  chỉ  có  quả  A  La Hán là cao nhất. Mục đích của đạo Phật là phải đạt  được  tâm  vô  lậu  mà  quả  A La  Hán  là  quả Vô  lậu.  Nếu  ai  tu  hành  tâm  chưa vô  lậu  thì chưa chứng quả A La Hán. Ngoài quả A La Hán đạo  Phật  không  còn  có  quả  nào  khác  nữa,  nếu có quả vị nào khác nữa là do ngoại đạo bịa đặt ra để phá hoại đạo Phật.
Tâm vô lậu là tâm giải thoát hoàn toàn, là tâm toàn thiện, là tâm không làm khổ mình, khổ người. Mục đích tu hành của đạo Phật đến đây là xong, nếu ai bảo tu đến đây là tu chưa xong,  còn  phải  tu  tập  hay  phải  hành  Bồ  Tát đạo  thì người  ấy  chưa thông  hiểu  Phật  giáo, hay  nói  cách  khác  hơn  là  người  ấy  đang  bị Phật giáo phát triển lừa đảo.
Tóm  lại,  trong  đạo  Phật  không  quả  nào cao hơn  quả  A  La  Hán.  Quả  A  La  Hán  là  đệ nhất vô lậu.
 Thưa  các  bạn!  Đạo  Phật  là  một  tôn  giáo bình  đẳng  nên  không  có  nhiều  quả  vị,  chỉ  có một quả vị giải thoát mà thôi. Khi tu tập chứng đạt chân lí thì ai cũng như ai, Phật cũng như A La  Hán  đều  bình  đẳng  như  nhau,  chứ  không phải Phật có quả vị cao hơn A La Hán. Các bạn đừng nên tin kinh sách phát triển vì kinh sách phát triển là kinh sách phong kiến.

NHỮNG QUÂ A LA HÁN CỦA ĐÄI THỪA
Câu hỏi của sư Thông Vân
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Do nguyên  nhân nào, khi chứng quả A La Hán:
-           Có người chứng A La Hán Toàn Giác.
-           Có người chứng A La Hán Độc Giác.
-           Có  người  chứng  A  La  Hán  Thinh Văn
Giác?
Đáp:   A La Hán là quả vị vô lậu cao nhất trong đạo Phật, nhờ vô lậu nên tâm được thanh tịnh hoàn toàn. Tâm thanh tịnh hoàn toàn như nước  hồ  thu  trong  vắt,  vì  vậy  dưới  đáy  hồ  có
 những vật gì chúng ta đều thấy rất rõ  ràng. Sự thấy biết rất rõ ràng gọi là Toàn Giác.
Người chứng quả A La Hán nào, tâm cũng phải hoàn toàn vô lậu, tâm vô lậu thì người nào cũng giống như người nào, không có khác nhau. Cũng  như  nước  hồ  thu  trong  vắt,  thì nước  hồ thu nào trong vắt đều cũng giống như nhau. Nhưng vì trong sự tu hành đến với pháp tu có duyên khác nhau nên khi chứng quả A La Hán có tên gọi khác nhau.
Người chứng quả A La Hán Độc Giác là người tự mình  tìm ra pháp môn tu tập đạt được tâm vô lậu hoàn toàn, trên đời này chỉ có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người duy nhất, ngoài ra thì chúng ta không thấy có người thứ hai.
Ở    đây,  chúng  ta  phải  hiểu  quả  vị  A  La Hán Độc Giác là quả vị A La Hán toàn giác, không sai khác và không hơn kém nhau ở chỗ nào cả.
Người  chứng  quả  A  La  Hán  Thanh   Văn Giác  là  người  được  đức  Phật  dạy  cho  tu  tập theo  giáo  pháp  của  mình   đã  tu  chứng,  hoặc người ấy tự nghiên cứu trong kinh sách theo những lời  dạy của đức  Phật  mà  tu  tập  cho đến khi tâm vô lậu hoàn toàn. Do đó mới có tên gọi là A La Hán Thanh  Văn Giác.
 Người  chứng  quả  A  La  Hán  Thanh   Văn Giác  không  sai  khác  quả  vị  A  La  Hán  Toàn Giác, có nghĩa là mọi năng lực của người chứng quả A La Hán Toàn Giác và người chứng quả A La   Hán   Thanh   Văn   Giác   đều   giống   nhau, không hơn không kém.
Sự  phân  chia  ra hơn  kém  này  là  do các nhà học giả tu hành chưa tới nơi tới chốn. Đọc trong kinh sách phát triển chúng ta nhận thấy sự phân biệt này rất rõ ràng. Đó chứng tỏ các nhà sư phát triển tu chưa tới nơi tới chốn, dùng kiến  tưởng  giải  của  mình   phân  chia  ra  làm nhiều quả vị A La Hán Như vậy.
Xin quý vị lưu ý: Kinh sách phát triển không đáng cho chúng ta tin cậy lắm.

CHÍ NGUYỆN CHỨNG QUÂ A LA HÁN TỒN GIÁC
Câu hỏi của sư Thông Vân
Hỏi: Kính thưa Thầy! Nếu con có chí nguyện chứng quả A La Hán Toàn Giác thì  con



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!