Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT TẬP 5 -3



tảng vững chắc của đạo Phật, một nền tảng đạo đức  thật  sự  của loài  người. Nếu  ai  bỏ  nền tảng đạo  đức  vững  chắc  này,  dù  tu  tập  có  tu  đúng thiền định của  đạo  Phật  thì cũng  trở  thành  tà thiền, tà định.
Tại sao vậy?

Tại  vì, khi đã  lìa khỏi  pháp  môn căn bản của  đạo  Phật,  tức  là  giới  luật,  một  pháp  môn đầu   tiên  trong  ba  pháp   môn  vô   lậu   “Giới, Định,  Tuệ”   thì người  đó  dù  có  tu  theo  đạo Phật, nhưng vẫn là tu tà đạo.
Bởi  vậy,  nhìn   tu  sĩ  Phật  giáo  hiện  giờ, biết Phật giáo suy hay thịnh, mất hay còn. Không phải ở số đông tu sĩ Phật giáo, không phải ở chỗ Phật giáo được chấp nhận là quốc giáo; không phải Giáo Hội Phật Giáo được tổ chức  như  một  quốc  gia  có  tổ  chức  hẳn  hoi,  có các  trường  học  từ  sơ, trung,  cao đẳng  để  tu  sĩ học tập có cấp bằng cử nhân, tiến sĩ, v.v.. Cũng không  phải  ở  chỗ  xây  cất  chùa  to,  tháp  lớn, kiến  trúc  kiên  cố  vĩ  đại  mà  ở  chỗ  tu  sĩ  phải sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ giới bổn, đầy đủ  uy  nghi  chánh  hạnh,  thấy  sự  nguy  hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt. Nói tóm lại, vị Tỳ Kheo phải giữ gìn giới luật nghiêm túc thì Phật giáo

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP V


mới còn và hưng thịnh, còn chúng Tỳ Kheo phá giới thì Phật giáo mất và không hưng thịnh.
Lời  di  chúc  năm  xưa  của  đức  Phật  còn vang mãi trong tai chúng ta “giới  luật  còn  là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất”.
Hỡi  quý  vị  Tăng,  Ni và  Cư Sĩ!  Quý  vị  có muốn Phật giáo trường tồn với loài người trên hành  tinh này  chăng?  Hay  để  cho Phật  giáo mai  một  suy tàn  chìm  mất  trong  lớp  bụi  mù dày  đặc  của  tà  pháp  ngoại  đạo  đang phủ  trùm che khắp.
Nếu muốn Phật giáo được trường tồn và hưng thịnh mãi mãi, đem lại hạnh phúc an vui cho loài người và mọi người trên hành tinh này không còn làm khổ mình, khổ người nữa, thì người  cư sĩ  đệ  tử  Phật  tại  gia  hãy  giữ  gìn giới luật  của  người  cư sĩ  mà  đức  Phật  đã  dạy, phải nghiêm túc khi thọ Tam quy, Ngũ giới và Thập thiện,  phải  lấy  nó  phòng  hộ  cuộc   sống  của mình,   giữ  gìn  đầy  đủ  oai  nghi  chánh  hạnh, thấy  sự  nguy  hiểm  trong  các  lỗi  nhỏ  nhặt, không  làm  khổ  mình,  khổ  người  thì Phật  giáo sẽ còn với quý vị, với loài người trên hành tinh này.



Còn  Tỳ  Kheo  Tăng  và  Tỳ  Kheo  Ni đệ  tử xuất  gia  của  đức  Phật,  nếu  muốn  Phật  giáo được trường tồn, làm ngọn đuốc sáng soi đường đạo đức cho mọi người trên quả địa cầu này và để  có  hướng  đi  tìm chân  lý  giải  thoát,  thoát khỏi  kiếp  sống  khổ  đau của loài  người  và  cũng chính   ngay  bản  thân  của  quý  vị.  Quý  vị  có muốn làm  chủ  bốn sự  khổ đau sanh, lão, bệnh, tử đang tấn công quý vị hằng giây, hằng phút không?  Nếu  quý  vị  lơ  đễnh  thì ô  hô!  uổng  một kiếp người.
Nếu muốn làm chủ bốn sự khổ đau này thì quý  vị  đã   thọ  cụ  túc  giới  phải  nghiêm  chỉnh sống đầy đủ giới hạnh đầy đủ giới bổn, không được  bẻ  vụn  giới  luật  như  các  Tổ  đã  làm,  mà quý vị đang chịu ảnh hưởng rất nặng, sống phá
giới.

Quý vị hãy bỏ xuống những gì của các Tổ mà   phải   trở   lại   sống  đúng  như  Phật,   sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ và tu học các học giới.



Ø         À         Ù         Ä         Ä


BỐN ĐÐNH VƠ SẮC


Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Từ  lâu  con được nghe Thầy giảng dạy về Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Tứ Như Ý Túc, Tam Minh, v.v..  mà  chưa  hề  nghe  Thầy  dạy  Bốn Định Vô Sắc.
- Vậy Bốn Định Vô Sắc tu như thế nào?

- Tu  nó  có  làm  chủ  sanh, già,  bệnh,  chết hay không?
- Tu  nó  có  hại  gì cho cơ thể  và  tinh  thần không?
- Tại  sao trong kinh  sách Phật không dạy rõ cách thức tu nó?
Đáp: Bốn loại định vô sắc trong kinh Nguyên Thủy Phật dạy rất rõ, nếu muốn đạt được  Tam Vô  Lậu  Học  giải  thoát  thì phải  vượt
qua2  bốn  loại  định  tưởng  nhập  vào  Vô  Tướng



2  Vượt  qua có  nghĩa  là  bỏ  qua không  cần  phải  nhập  bốn định này, vì bốn loại định này Đức Phật đã được Ngài Kalama  dạy  nhập  Vô  Sở  Hữu  Xứ  Tưởng  Định  và  Ngài Lam  Phất dạy nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, những  loại  định  không  có  quả  giải  thoát,  nên  đức  Phật



Tâm  Định.  Từ  nội  Vô  Tướng  Tâm  Định này phải  tư  duy quán  xét  thì được  giải  thoát  khỏi lậu hoặc vì ở Định Phi Tưởng còn nỗi ưu phiền là sáu nhập duyên mạng, tức là duyên với thân mạng.   Người   ấy   muốn   giải   thoát   thì  phải thường  hằng  tuệ   tri hiểu   biết   về   sáu  nhập duyên mạng này, cho nên khi nhập vào Vô Tướng   Tâm   Định   thì  sáu   nhập   duyên  thân mạng mà không có lậu hoặc như:
1- Loại định này sáu nhập duyên mạng không có dục lậu.
2- Loại định này sáu nhập duyên mạng không có hữu lậu.
3- Loại định này sáu nhập duyên mạng không có vô minh lậu.
Bởi  vì  lục  trần  là  sắc,  thanh,  hương,  vị, xúc, pháp tác động vào thân ta, tức mạng sống của ta, nhưng không sanh khởi ba lậu hoặc là nhờ tâm đang ở trong Định Vô Tướng Tâm, Vô
Tướng  Tâm  Định  có  một  trạng  thái  tỉnh  thức




dẹp  bỏ,  chỉ  cần  nhập  Vô  Tướng  Tâm  Định  là  tìm thấy được  sự  giải  thoát  ngay liền.  Cho nên  nghĩa  vượt  qua ở đây là  ném bỏ  không cần thiết cho sự tu tập theo đường lối của Phật giáo.



cao độ, do thế mới tuệ tri được dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu để đẩy lui chúng ra khỏi tâm.
Vô Tướng Tâm Định không giống định Không Vô Biên Xứ Tưởng Định, là vì còn cái không phải không, tức là còn lục nhập duyên mạng nhưng lục nhập duyên mạng lại không có lậu hoặc nhờ có tuệ tri, nên tất cả các pháp đến đều không tác động được tâm, vì thế các pháp đều được xem là không có mặt ở đây, nên được gọi là không có, nhưng đối với cái còn lại là lục nhập  duyên  mạng  thì cái  kia  có,  cái  này  có, nhưng  cái  có  này  hoàn  toàn  không  điên  đảo hoàn  toàn  thanh  tịnh,  cho nên  cái  có  này  mà tâm không dao  động, vì thế gọi là “không tánh” chứ  không phải  theo  kiểu  Tánh không của ông Long Thọ.
Chỗ này là chỗ lầm lạc của các nhà Phật giáo phát triển, vì không có kinh nghiệm tu hành các Ngài tưởng giải Không Tánh hay là Chân Không còn gọi là Chân Không Diệu Hữu, vì  còn  tuệ  tri nên  các  nhà  Đại  Thừa  gọi  là  trí tuệ  Bát  Nhã.  Do  hiểu  như  vậy,  nên  các  nhà Phật giáo phát triển rất “quê” với kinh sách Phật.  Lỗi  ấy  là  do các  Tổ  không  tu  tập  chứng đạt  chân  lí nên  làm  sao hiểu  nghĩa  kinh Phật nổi.



Do bài kinh Tiểu Không này trong kinh Nguyên Thủy, Trung  Bộ  Kinh, tập  3 trang 291 các Ngài soạn thành một bộ kinh Đại Bát Nhã và cho rằng Đức Phật đã thuyết giảng kinh này
22 năm.

Chúng ta hãy đọc kỹ lại bài kinh Tiểu Không trong kinh Nguyên Thủy để thấy sự tưởng giải của các Tổ biên soạn ra bộ kinh Đại Bát  Nhã  vĩ  đại  đã  khiến  cho các  nhà  học  giả tốn  biết  bao nhiêu  giấy  mực  để  luận  thuyết  về “Tánh Không”.
Thiền Đông Độ lấy bộ kinh Kim  Cang Bát Nhã  làm  cốt  tủy  của  Thiền  Tông  và  lập  luận dung  hòa  để  tránh  khỏi  sự  tranh  chấp  giữa Thiền và Giáo, nhưng người sau không biết tưởng thiền là của Phật thuyết nên mới có sự kiện Thiền Giáo đồng hành ra đời.
“Lại nữa, này A Nanda vị Tỳ Kheo không  tác  ý  Vô  Sở  Hữu  Xứ  Tưởng,  không tác  ý  Phi Tưởng  Phi Phi Tưởng  Xứ,  tác  ý sự  nhất  trí do duyên  Vô  Tướng Tâm Định. Tâm vị ấy được thích thú hân hoan  an trú, hướng  đến  Vô  Tướng  Tâm  Định. Vị  ấy  tuệ tri  như   sau:   “Vô   Tướng   Tâm   Định   này thuộc hữu vi, do tâm tự tạo nên. Phàm cái gì thuộc  hữu  vi do tâm  tự  tạo  nên,  cái  ấy



là vô tướng, chịu sự đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy”.  Do  vị  ấy  tuệ  tri như  vậy,  thấy như  vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm   được  giải  thoát   khỏi  hữu  lậu,  tâm được  giải  thoát  khỏi  vô  minh lậu.  Trong sự  giải  thoát  là  sự hiểu  biết  rằng đã được giải thoát. Vị ấy tuệ tri sanh đã tận, phạm hạnh  đã  thành,  những  việc  nên  làm  đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa. Vị  ấy  tuệ  tri các  ưu  phiền  do  duyên  dục lậu không có mặt ở  đây; các ưu phiền do duyên hữu lậu không có mặt ở  đây; các ưu phiền do duyên vô minh lậu không có mặt ở   đây.  Và  chỉ  ở   một  ưu  phiền  này,  tức  là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này. Vị  ấy  tuệ   tri. “Loại  tưởng  này  không  có dục lậu vị ấy tuệ tri. Loại tưởng này không có hữu lậu. Vị ấy tuệ tri. Loại tưởng này không  có  vô  minh lậu.  Loại  tưởng  này  đã ly hết dục tưởng). Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này. Và cái gì không có mặt ở  đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy biết: Cái  kia có  cái  này  có.  “Này  A  Nanda, cái này   đối   với   vị   ấy   là   như   vậy,   thật   có,



không  điên  đảo,  sự  thực  hiện  hoàn  toàn thanh tịnh, không tánh”.
Qua   bài  kinh  Tiểu  Không  trên  đây, quý vị nhận xét kỹ sẽ hiểu không khác chúng tôi, chúng tôi cũng đã xác định ở trên họ dùng bài kinh Tiểu Không này lý luận thành lập hệ thống Bát Nhã, nhưng các   Tổ   đã   đi   quá   xa  thực   tế   nên   biến thành trí tuệ Bát Nhã trừu tượng “Chân Không”.
Một  cái  sai  lầm  nữa,  nếu  chúng  ta  nhận xét  không  kỹ  trong  bài  kinh  Tiểu  Không  này thì hành giả phải nhập Bốn Định Vô Sắc:
1-        Không Vô Biên Xứ Định

2-        Thức Vô Biên Xứ Định

3-        Vô Sở Hữu Xứ Định

4-        Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định

Và  cuối  cùng  cũng  phải  bỏ  các  loại  định này   để   trở   lại   nhập   vào   “Vô   Tướng   Tâm Định”.  Ở  bài kinh trên đức Phật xác định: “Không cần phải  tác ý  nhập  Bốn Định Vô Sắc, mà   chỉ   cần   tác   ý   nhập   “Vô   Tướng   Tâm Định”.   Ở   trạng  thái  định  này  hành  giả  dùng tuệ tri quán xét dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu



để  tự  kiểm lại tâm mình  khi lục  trần tác động vào thân mà không thấy có lậu hoặc, như vậy chỗ lục trần tác động mà không có các lậu hoặc khởi lên, tức là không có ưu bi sầu khổ tham muốn, chỗ  này tức  là  lục  trần duyên mạng, lục trần  duyên  mạng  là  cái  còn  lại  của  ý  thức  vô dục  chứ  không  phải  của tưởng  thức  dục, nhưng hoàn toàn thanh tịnh vô dục, nên không có lậu hoặc,  do đó  đức  Phật  gọi  là  không  tánh  của thức, tức là “Vô Tướng Tâm Định”.
Đức  Phật  dạy:  “Nhưng  đối  với  cái  còn lại,  ở  vị  ấy  biết:  “Cái  kia có  cái  này  có”. Này A Nanda, cái này đối với vị ấy (Không Tánh)   thật   có   không  điên   đảo,   sự  thực hiện hoàn toàn thanh tịnh (lục trần duyên mạng không có lậu hoặc gọi là không tánh)”.
Như trên chúng tôi đã dạy, họ đã lầm, lấy lục   trần   duyên   mạng   (Không   Tánh)   cho  là Chân Không diệu hữu, Tánh Không, Chân Không, Chân Như, Trí  Tuệ Bát Nhã v.v..
Bây giờ chúng ta bắt đầu trở lại con đường tu tập như thế nào, để đi đến Chân Không diệu hữu?




Như trong kinh Tiểu Không Phật dạy: “Muốn  đi vào  không  tánh  này,  trước  tiên là sẽ tập quan sát cái không của nó”.  Ví dụ như ngôi nhà chúng ta đang ở đây.
1-        Không  có  giường,  chõng,  bàn,  ghế,  tủ, rương, đồ đạc v.v..
2-        Không có người ở.

3-        Không có đèn đuốc.

4-        Không có màn, thảm.

Toàn bộ đều trống không, đây chỉ cho không tánh của cái nhà.

“Thật vậy này Ananda, điều ông đã nghe là đúng, ghi nhớ là đúng, tác ý là đúng, thọ trì là đúng v.v..
Ví như  lầu đài Lộc Mẫu này không có voi, bò, ngựa, không có vàng bạc, không có đàn  bà,  đàn  ông  tụ  hội  và  chỉ  có  một  cái nhà không, phải không?”.
Đoạn  kinh trên  đã  xác  định  không  tánh của lầu đài Lộc Mẫu.
Ở  đoạn kinh này xác định cách thức tu hành  của  chúng  ta  cụ  thể  rõ  ràng  về  không tánh, chứ  không phải  như kinh sách  Phật giáo phát  triển  dạy chúng ta kiến tánh thành  Phật



(đốn ngộ ngang xương), vì thế mà hiện giờ bao nhiêu người đã kiến tánh, rõ thông tánh, thấu triệt tánh, ngộ được tánh, vậy mà chẳng có ai thành Phật được cả. Từ xưa các Tổ cho đến bây giờ  ai  tu  học  về  Đại  Thừa  và  Thiền  Đông  Độ một thời gian mọi người ai cũng đều kiến tánh được cả, nhưng đời sống và đức hạnh thì không giống Phật chút nào, sống với tâm sắc dục thấy nữ  sắc  còn  ham  mê,  thấy  danh  lợi  còn  chìm đắm,  ăn  ngủ  phi  thời  theo  thế  gian,  ai  động đến thì tâm sân nổi lên ầm ầm.
Kiến  tánh  thành  Phật  rồi  sao còn  như vậy, hễ ai hỏi đạo, hỏi thiền thì đối đáp như nước  chảy,  như  mưa tuôn  mà  sống  thì phi  đạo đức,  phá  giới  luật.  Đó  là  những  điều  tu  sai  mà đi đến lạc lầm không hay biết, người trước dẫn người sau đi mãi, đi mãi mà chẳng đến đâu, chỉ có tưởng giải, lý luận quanh co, lừa đảo bằng miệng lưỡi. Người đời không minh mẫn, tu không kết quả mà cứ đeo theo mãi, tưởng trạng thái tĩnh lặng và hỷ lạc là định sao? Định như vậy làm chủ được cái gì? Thấy được Phật Tánh như vậy, rồi ngẫm lại mình  làm chủ được cái gì cho cuộc sống này.
Trong  sáu năm tu hành, đức Phật đã  thay đổi  biết  bao  nhiêu  loại  pháp  môn.  Ngài  đã



nhập  đến  Phi  Tưởng  Phi  Phi  Tưởng  Xứ  Định mà  còn  nghiệm  xét  thấy  không  giải  thoát  đối với cuộc sống đầy khổ đau của kiếp người.
Cho nên,  từ  Phi  Tưởng  Phi  Phi  Tưởng Xứ Định. Người đã bỏ định này để nhập vào Vô Tướng   Tâm   Định,  từ   Vô   Tướng   Tâm   Định, Người  dùng  tuệ  tri quán  xét  lậu  hoặc  thấy  lục nhập  duyên  mạng mà  không  khởi  dục  lậu,  hữu lậu và vô minh lậu, Người biết rằng tâm đã hết lậu hoặc thanh tịnh. Ở  trạng thái này Ngài đặt tên  là  “Không  Tánh”  tức  là tánh không còn lậu hoặc.
Mặc dù làm chủ được cái tâm (tâm vô lậu) không  còn  tái  sanh  luân  hồi,  vì  nguyên  nhân tái sanh là do tâm tạo nghiệp (nghiệp luân hồi chứ không phải tâm luân hồi, khi người chết nghiệp còn tâm mất). Chỗ này Ngài thực hiện làm  chủ  được  cái  tâm,  không  nói  đến  làm  chủ cái  thân,  nhưng  chúng  ta  phải  biết,  tâm  đạt đến chỗ này thì nhập định rất dễ dàng chỉ còn tác  ý  ra lệnh  là  tiến  tới  làm  chủ  thân,  tức  là phải nhập Tứ Thiền và Tam Minh.
Kết  quả  trong  bài  kinh Tiểu  Không  Phật dạy: “sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.



Đoạn   kinh  này   ý   nói   làm   chủ   nghiệp, chấm dứt tái sanh luân hồi (không còn trở lui trạng  thái  này  nữa),  tu  đến  đây  cũng  vừa  đủ cho người tìm đạo giải thoát, không cần phải tu tập tới nữa, nếu có tu tập tới nữa là thừa, mà thừa thì chẳng ích lợi gì, phí thì giờ vô ích.
Chỗ  này,  cần  giải  thích  thêm  để  quý  vị hiểu  rõ.  Con  đường  tu  hành  của  đạo  Phật  có bốn giai đoạn làm chủ:
1- Làm chủ cuộc sống (sanh).

2- Làm chủ già (lão).

3- Làm chủ thọ (bệnh).

4- Làm chủ sự hoại diệt (chết).

Giai  đoạn  làm  chủ  sanh  có  nghĩa  là  làm chủ cuộc sống, luôn tạo nhân lành nên dù sanh bất cứ nơi đâu cũng đều hưởng phước báo an lạc cho đến khi tu tập chấm dứt sanh tử luân hồi.
Bài  kinh “Tiểu Không’’ chỉ cho  ở giai  đoạn một  (vô  lậu)  tâm  không  còn  tham,  sân,  si  (các ác pháp), và lòng tham muốn dục lạc thế gian nữa, nói chung trong bài kinh dạy tu tập rất rõ từ Không Vô Biên Xứ đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, không thấy giải thoát, tức là tâm không vô lậu, phải trở lại nhập Vô Tướng Tâm



Định mới thấy lậu hoặc sạch, mới làm chủ cuộc sống và nghiệp tái sanh luân hồi.
Vô Tướng Tâm Định là loại định gì?

Vô  Tướng  Tâm  Định là  một  tên  khác  của Bất Động Tâm Định. Như trong kinh Tiểu Không  đã   dạy:  “Khi   nhập   vào   Vô   Tướng Tâm Định thì dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu  không  còn,  chỉ  còn  lục  nhập  duyên mạng  mà  thôi.  Vậy  lục  nhập  duyên  mạng là gì?
Lục nhập là lục căn và lục trần, mạng là thân mạng. Câu  này có nghĩa là căn, trần tiếp xúc tác động vào thân mạng mà không sanh ra ba lậu hoặc, ở trạng thái này gọi là Vô Tướng Tâm Định.
Ba  lậu  hoặc  là  gì?  Ba  lậu  hoặc  là  tham, sân, si. Dục lậu ứng cho tâm tham, hữu lậu ứng cho tâm  sân  và  vô  minh  lậu  ứng  cho tâm  si. Như  vậy,  nhập  vào  Vô  Tướng  Tâm  Định  thì tham, sân, si không có, cũng như nhập vào Bất Động Tâm Định thì tâm tham, sân, si cũng không  có,  tức  là  ba lậu  hoặc  không  còn.  Như vậy  Bất  Động  Tâm  Định  và  Vô  Tướng  Tâm Định  chỉ  là  một  loại  định  mà  hai  tên  khác nhau.



Bất  Động  Tâm  Định  là  một  tên  khác  của Sơ Thiền,  nhưng  Sơ Thiền  tâm  còn  bị  trụ  vào năm chi thiền:
1/ Tầm

2/ Tứ

3/ Hỷ

4/ Lạc

5/ Nhất tâm

Đó là năm trạng thái của Sơ Thiền Thiên. Như  chúng  ta  đã  biết  Sơ Thiền  phải  ly dục  ly ác  pháp,  mà  đã   ly dục  ly ác  pháp  thì tâm không còn tham, sân, si. Tâm không còn tham sân,  si  tức  là  ba lậu  hoặc  cũng  không  có,  như vậy nhập  Vô  Tướng Tâm  Định, Bất  Động  Tâm Định là  nhập  Sơ Thiền. Nhưng  Vô  Tướng Tâm Định, Bất  Động  Tâm  Định thì không  có  năm chi thiền.
Cho nên, trong bài kinh Tiểu Không đức Phật đã xác định rõ ràng, dù nhập đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ vẫn phải bỏ, vì không hết  lậu   hoặc   nên   phải   nhập   lại   “Sơ  Thiền”, bằng một cái tên khác, nhưng xét cho cùng tận chúng ta cũng nhận ra nó là Sơ Thiền, một loại thiền trong Tứ Thánh Định. Sơ Thiền thuộc về tâm định, chứ không phải thân định.



Chỉ  có  Sơ Thiền  tâm  vô  lậu  mới  làm  chủ cuộc   sống   (sanh)   nhưng   chưa  hoàn   tất   con đường  tu  nên  phải  tiếp  tục  đạt  đến  tuệ  Tam Minh  để  quét  sạch  mầm  mống  lậu  hoặc  tái sanh  luận  hồi.  Người  tu  sĩ  không  thực  hiện được  Tam  Minh  thì không  thể  nào  chấm  dứt luân hồi.
Từ Nhị Thiền đến Tứ Thiền, các loại định này làm chủ già, bệnh, và chết và duy nhất chỉ có pháp môn “Tứ Thánh Định”  này mới làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người.
Bây giờ, chúng ta trở lại vấn đề “Không tánh”.  Như  chúng  ta  ai  cũng  biết,  mọi  vật,  từ con người  đến  muôn  loài  vật  không  một  ai  mà không  gây  ưu phiền  cho nhau,  như  vậy  không thể nào có không tánh được. Chúng ta lần lượt loại  trừ  ra người  và  vật  thì ta  còn  lại  cỏ,  cây, đất, đá, núi, sông  v.v.. Như  vậy ta không tác  ý người  và  vật  thì tâm  ta  không  tánh  người  vật (không  khởi  niệm  người  vật)  chỉ  còn  cỏ,  cây, đất,  đá,  núi,  rừng,  như  vậy  không  này  chưa phải là không.
Nhưng ta thấy rằng tâm ta không người vật, thật có không điên đảo, sự thực hiện như vậy tâm ta thanh tịnh người vật không có, nên



không  gây  ưu phiền  cho ta  đó  là  thanh  tịnh không tánh người vật.
Trong  bài  kinh Phật  dạy: “Này  Ananda, Tỳ  Kheo không tác ý  những tưởng,  chỉ  tác ý nhất trí do duyên lâm tưởng. Tâm của vị ấy  được  thích  thú  hân  hoan,   tưởng  đến lâm  tưởng.  Vị  ấy  tuệ  tri như sau “Các  ưu phiền do duyên thôn tưởng, nhân tưởng, không có mặt ở  đây và chỉ có một ưu phiền này  do  duyên  lâm  tưởng  v.v..”.  Như   vậy, này A nanda, cái này đối với vị ấy là như vậy thật có không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh  không tánh”.
Để  xác  định  cái  không  đầu  tiên  và  để chúng ta nhận xét, cái nhà trống không và so sánh với cái tâm không niệm tức là  “Không  Vô Biên Xứ”.
Khi ở trong trạng thái Không Vô  Biên Xứ ta  tuệ  tri các  ưu phiền  do duyên  niệm  thiện niệm ác không có mặt ở đây và chỉ có một ưu phiền này (là  không tiến tới  đâu  được  nữa)  tức là  Không Vô Biên Xứ Tưởng. Nhưng  Không Vô Biên Xứ Tưởng có, tức là niệm thiện ác vẫn còn có  mặc  dù  cái  Không  Vô  Biên  Xứ  này  thật  sự thực  hiện  hoàn  toàn  thanh  tịnh,  không  tánh đối  với  niệm  thiện  niệm  ác,  nhưng  trong  lúc



nhập  Không  Vô  Biên  Xứ  còn  khi xuất  ra khỏi Không Vô Biên Xứ thì niệm thiện niệm ác vẫn còn  nguyên  vẹn  như  trên  chúng  tôi  đã  nói.  Vì thế  nhập  Không  Vô  Biên  Xứ  không  bao giờ  có giải thoát.
Chỗ  này  kinh sách  phát  triển  lầm  tưởng khi nhập  vào  Không  Vô  Biên  Xứ  Tưởng,  các Ngài cho là Phật Tánh nơi đây, nên các kinh phát  triển  dạy: “Ưng vô  sở  trụ  nhi sanh kỳ tâm” hoặc “Bồ Tát độ hết chúng sanh thì thành  Phật”  hoặc  “Nhược  dĩ  sắc  kiến  ngã, dĩ âm thanh cầu ngã vị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như  Lai”, chỗ này Thiền Đông Độ dạy: “chẳng  niệm  thiện  niệm  ác  bản  lai diện mục  hiện  tiền”.  Tu đến đây, tức là nhập Bốn  Định Vô  Sắc  không  thấy  có  sự  giải  thoát cho nên đức Phật dạy: “Phải  nhập  Vô  Tướng Tâm Định”,  khi đức Phật nhập Vô Tướng Tâm Định thì Ngài  mới  thấu  rõ  và  xác  định  Bốn Định Vô Sắc: “Cái kia có, cái này có, cái kia không  cái  này  không”, do như vậy Bốn Định Vô   Sắc   không  giải   thoát,   còn  ngược  lại   Vô Tướng   Tâm   Định  thì  khác:   “Cái   này   có nhưng   lại  cái  kia  không,  tức  là  có  lục nhập duyên mạng mà không có ba lậu hoặc”,  do chỗ  này  các  nhà  học  giả  Bát  Nhã



dựa vào bài kinh Tiểu Không này lý luận: “Sắc tức thị không không tức thị sắc’’ có tức là không,  không  tức  là  có,  từ  đó  trí tuệ  Bát  Nhã thành hình  để đập phá các luận giải của các bộ phái.
Dựa vào chỗ “Không Tánh” này các nhà Phật giáo phát triển thành lập trí tuệ Bát Nhã, lấy trí tuệ  Bát  Nhã  tưởng này lý luận đập  phá hết cả giáo lý Phật giáo (Trung  Quán Luận) do Ngài Long Thọ tưởng luận ra.
Sau này các vị thiền sư Đông Độ không chấp nhận “Chẳng niệm thiện niệm ác” là cứu  cánh,  trong  Pháp  Bảo  Đàn  Kinh, tức  lời dạy  của  Lục  Tổ  Huệ  Năng  dạy,  nên  bảo:  “Vô tâm  còn  cách  lớp  rào”.  Do đó  các  Ngài  (Tổ Sư Thiền) tiến tới vượt qua Không Vô Biên Xứ, nhập vào Thức Vô Biên Xứ, nơi đây các ngài chấp nhập được xem là “Phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu”. Nên Bà Bàng Long Uẩn nói: “Dễ dễ trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư”   hay  “Sáng   sáng,   đầu   trăm   cỏ,   sáng sáng ý Tổ sư”. Thiền Đông Độ tu đến đây được xem như viên mãn.
Đối với đạo Phật, sự tu tập của một  số hệ phái  mới  nhập  được  hai  loại  Định Vô  Sắc  mà



vội  cho là  chứng  đạo.  Cho  nên  tâm  dục  chưa hết,  danh,  lợi  chưa trừ,  bản  ngã  chưa diệt,  vì thế các Ngài tự tôn mình  là thế này thế nọ mà
thôi.

Lời  nói   này  chúng  tôi  khuyên  các  bạn đừng  tin nơi  chúng  tôi  mà  cứ  suy ngẫm  sự  tu hành của các bạn đã  tu Thiền Đông Độ từ năm
10 năm  đến  20 năm  mà  bây  giờ  các  bạn tu  đã
đến  đâu?  Thì  các  bạn  tự  biết,  các  bạn  có  làm chủ sanh, già, bệnh, chết hay không? Chắc điều này các bạn rõ hơn ai hết.
Trong  kinh sách  Nguyên  Thủy  đức  Phật đã xác định rõ ràng: Từ Không Vô Biên Xứ đến Thức  Vô  Biên  Xứ.  Cách  thức  tu  tập  do  tâm thích  thú,  hân  hoan  an  trú  hướng  đến  tâm không (không niệm thiện ác) do sự thích thú hân  hoan  ấy  nên  nhất  trí tác  ý  “không”,  Tổ Huệ  Khai  khi chứng  thiền  bằng  “tâm  không” “không,  không,  không,  không”  bài kệ chứng đạo Ngài còn lưu lại:
“Vô vô vô vô vô” “Vô vô vô vô vô” “Vô vô vô vô vô” “Vô vô vô vô vô”



Theo  như  lời  hỏi  của  cô  Diệu  Quang  thì nên tu Bốn Định Vô Sắc như thế nào?
Như  trong  bài  kinh  Tiểu  Không  Phật  đã dạy và chúng ta nhận xét cái không, khi đã thông hiểu cái không thì cái không ở tâm tức là không niệm thiện niệm ác, tâm không có niệm thiện ác, tức là ý thức thanh tịnh, ý thức thanh tịnh  không  liên  hệ  ngũ  căn  là  Không  Vô  Biên Xứ Định, lời dạy này đức Phật đã xác định một cách rõ ràng trong Kinh Tương Ưng.
Cách thức tu nó chỉ giữ tâm chẳng niệm thiện  niệm  ác  như  các  thiền  sư đã  dạy:  “Giữ ông chủ,  chăn  trâu,  biết  vọng liền  buông”, sau này các  thiền sư lại  chế  ra pháp  tu  “tham thoại đầu, tham  công án” và cuối cùng thì niệm danh hiệu Phật Di Đà tức là “Niệm Phật là  ai?”. Đây là những pháp môn tu ức chế tâm tối  đa mà  các  Tổ  đã  tu  sai  lọt  vào  tưởng  giải mới  sản  sanh  ra  những  pháp  môn  như  vậy, khiến  cho người  đời  sau tu  hành  chẳng  đi  đến đâu mà trở thành phế nhân, bệnh thần kinh, uổng phí một đời người. Nếu không thức tỉnh nhận ra kịp thời ngăn chặn những tà pháp này thì hậu quả không lường cho đời sau, những người có nhiệt tâm tìm tu giải thoát.



Loại  thiền  định  này  tu  chẳng  làm  chủ được cái gì cả cho kiếp sống con người, chỉ có được  trạng  thái  an  ổn  (xúc  tưởng  hỷ  lạc)  và triển  khai  được  tưởng  tuệ,  triệt  ngộ  mà  thôi (ngộ kinh sách Đại Thừa và công án Thiền Tông).
Muốn tu tập 4 loại Định Vô Sắc này như trong  kinh Tiểu  Không  Phật  đã  dạy: Tỳ  Kheo nên tác ý Không Vô Biên Xứ và tâm thích thú  hân  hoan với  trạng  thái  “Không”  này thì sẽ đạt Không Vô Biên Xứ, không mấy khó khăn”.
Muốn nhập Thức Vô Biên Xứ thì không ưa thích, hân hoan trạng thái không và không tác ý  Không  Vô  Biên  Xứ,  chỉ  nên  tác  ý  Thức  Vô Biên Xứ, tu tập như vậy một thời gian sau Thức Vô Biên Xứ hiện tiền hay ở trong trạng thái Không Vô Biên Xứ mà tâm đừng chạy theo, tức là  đừng bám  trụ  hỷ  lạc  của Không Vô  Biên Xứ Tưởng mà phải giữ “Thức” đừng cho mất và tác ý Thức Vô Biên Xứ, rồi sanh tâm ưa thích, hân hoan với  nó, tu  tập  như vậy một  thời  gian  sau thì Thức  Vô  Biên Xứ  sẽ  hiện tiền không còn ở trong trạng thái Không Vô Biên Xứ nữa.
“Này   Ananda,  Tỳ   Kheo  không   tác   ý
Địa Tưởng, không tác ý Không Vô Biên Xứ



Tưởng, chỉ tác ý Thức Vô Biên Xứ với sự nhất trí. Tâm vị ấy thích thú hân hoan,  an trú  hướng đến  Thức Vô  Biên.  Vị  ấy tuệ  tri như  sau: Các ưu phiền do duyên  địa tưởng không   có   mặt   ở     đây;   các   ưu   phiền   do duyên Không Vô Biên Xứ Tưởng không có mặt ở  đây và chỉ có một ưu phiền này, tức là  sự  nhất  trí do duyên  Thức  Vô  Biên  Xứ. Vị  ấy  tưởng  tri “loại  tưởng  này  không  có địa tưởng, loại  tưởng này không có Không Vô Biên Xứ Tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Thức Vô Biên Xứ Tưởng”. Và cái gì không có mặt ở  đây vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở  đây vị ấy tuệ tri. “Cái kia có cái này có”. Này A nanda cái  này  đối  với  vị  ấy  là  như  vậy, thật có không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh  không tánh”.
Trong   đoạn  kinh  này  đức  Phật  đã   xác định,  dù   là   nhập   được   Không   Vô   Biên   Xứ Tưởng  nhưng  vẫn  còn  ưu phiền  cho đến  Thức Vô Biên Xứ Tưởng, Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Tưởng vẫn còn ưu phiền:  “và  chỉ  có  một  ưu phiền  này,  tức  là



sự  nhất  trí do  duyên  phi tưởng  phi phi
tưởng xứ tưởng”.

Đến  khi nhập  Vô  Tướng  Tâm  Định  thì mới chấm dứt ưu phiền, mới làm chủ được cuộc sống  và  chấm  dứt  luân  hồi,  còn  bốn  loại  Định Vô Sắc kia còn ưu phiền nên chưa được giải thoát, vì thế đức Phật nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Tưởng Ngài nhận thấy tâm còn ưu phiền không giải  thoát  nên liền rời  bỏ  vị thầy dạy mình  tu tập định này.

“Lại nữa, này A nanda, vị Tỳ Kheo không tác ý Vô Sở Hữu Xứ Tưởng và Phi Tưởng  Phi Phi Tưởng  Xứ  tưởng,  chỉ  tác  ý sự  nhất  trí do duyên  Vô  Tướng Tâm Định. Tâm  vị  ấy  thích  thú,  hân  hoan,   an   trú hướng  đến  Vô  Tướng  Tâm.  Vị  ấy  tuệ  tri như  sau; Vô  Tướng  Tâm  Định này  hữu  vi do tâm  tự  tạo nên. Phàm  cái gì thuộc hữu vi do tâm  tự  tạo  nên,  cái  ấy  là  vô  thường chịu  sự  đoạn  diệt.  Vị  ấy  tuệ  tri như  vậy thấy  như   vậy,  tâm  được  giải  thoát  khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Trong sự giải  thoát  là  sự  hiểu  biết  rằng  đã  được giải thoát sanh đã tận v.v..”


Đến   đây   chúng   ta   mới   thấy   rõ   những người tu định tưởng không bao giờ có giải thoát (bốn  định vô  sắc  thuộc  vô  vi)  nên  phải  trở  về định hữu vi vô tướng tâm, Định Hữu Vi Vô Tướng Tâm thuộc về Định Hữu Sắc, do tu tập định Hữu Vi nên mới có được giải thoát hoàn toàn, còn Định Tưởng Vô Sắc nên tu tập không giải thoát.
Tóm  lại,  bốn  loại  định tưởng  tu  chẳng  có lợi ích gì, còn mất công tu tập và mất thì giờ vô ích,  chẳng  có  làm  chủ  được  gì cả,  chỉ  có  vọng ngữ là hơn hết.
Tu định này, nếu không biết cách ức chế tâm cho hết vọng tưởng, mà cứ cố tập trung thì căng thần kinh não hoặc  căng mặt rồi  sanh ra bệnh tật (rối loạn cơ thể) có khi điên khùng mà người ta gọi là “tẩu hỏa nhập ma”, hoặc rơi vào pháp tưởng, chuyên lý luận. Những kẻ tu thiền  này  rơi  vào  những  trạng  thái  tưởng  thì rất khó xả bỏ. Những ai đã tu sai lọt vào những loại thiền bệnh này thì hết phương cứu trị.
Đọc đến đây các bạn cứ suy ngẫm kỹ con đường  các  bạn  đang tu  tập  thì sẽ  rõ,  đừng  tin và nghe lời chúng tôi nói trên đây mà hãy nghiệm  xét  theo  lời  Phật  dạy và  lời  chúng  tôi



nói,  đúng  hay  sai  rồi  mới  tin, còn  không  thời gian sẽ trả lời các bạn điều này.





VỌNG TƯỞNG


Hỏi: Kính  thưa Thầy! Trong khi tọa thiền hoặc đi kinh  hành khéo giữ tâm đừng cho niệm  khởi,  niệm  khởi  tức  là  vọng  tưởng,  có vọng tưởng thì  không thể nào gọi là thiền định, có phải vậy không thưa Thầy? Vậy cúi mong Thầy chỉ dạy cho chúng con hiểu rõ chỗ này.
Đáp: Ức chế vọng tưởng không cho niệm khởi,  tức  là  ức  chế  tâm;  ức  chế  tâm  tức  là  ức chế tâm tham, sân, si; ức chế tâm tham, sân, si sẽ rơi vào định tưởng (Không Vô Biên Xứ Tưởng).
Vọng tưởng là gì?

Vọng tưởng là những tư niệm lăng xăng tự động khởi niệm trong đầu, phần nhiều thuộc về quá khứ và vị lai (hồi niệm, hồi ức). Những tư niệm này căn gốc đều do lòng ham muốn và ác pháp tham, sân, si sanh ra, nên kinh sách Nguyên Thủy gọi là tầm ác.



Tầm ác là những suy tư, nghĩ tưởng làm khổ mình, khổ người. Theo kinh sách Nguyên Thủy có hai loại tầm đi song song nhau. Vì thế, có  bài  kinh gọi  là  Kinh Song Tầm.  Kinh Song Tầm dạy chúng ta tư duy quán xét để thấu rõ:
1- Tầm ác

2- Tầm thiện

Người tu theo đạo Phật lúc nào cũng cảnh giác, ngăn chặn và diệt tầm ác. Ngược lại lúc nào  cũng  tăng  trưởng  tầm  thiện,  sống  trong tầm thiện.
Bài Kinh Song Tầm trong  tập 1 Trung  Bộ Kinh  trang   261  Phật   dạy:   “Khi   Ta  chưa thành  Chánh  Giác  còn  đang   tu,  Ta   suy nghĩ  như sau:  “Ta sống  suy tư và  chia sự suy tư  làm  hai phần.  Phàm  có  dục  tầm, sân   tầm,   hại   tầm   nào,   Ta   phân   thành phần  thứ  nhất.  Phàm  có  ly  dục  tầm,  vô sân tầm và vô hại tầm nào, Ta phân thành phần thứ hai”.
Như ở trên đã dạy, phàm làm người đều có hai sự suy tư:
1- Suy tư ác

2- Suy tư thiện



Suy tư ác thì phải ngăn chặn và đoạn diệt, suy tư thiện thì nuôi lớn và tăng trưởng, như trong kinh “Tứ Chánh Cần” Phật đã dạy: “Ngăn ác diệt ác, sanh khởi thiện tăng trưởng thiện”.
Suy tư nào ác sẽ làm khổ mình,  khổ người thì phải  chấm  dứt  ngay liền;  suy tư  nào  thiện sẽ không làm khổ mình,  khổ người thì cần phải phát  triển những suy tư  ấy. Đó là cách thức tu tập tâm ly dục, ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm.
Khi phân ra được hai dạng suy tư. Bấy giờ chúng  ta  quyết  tâm  sống  không  phóng  dật, nhiệt tâm siêng năng tỉnh giác từng hành động thân ý, từng sự việc, từng đối tượng, từng hoàn cảnh v.v.. Khi có niệm khởi lên, ta quán xét niệm  ấy  có  làm  khổ  mình,  khổ  người  không? Nếu   niệm   ấy  đưa  đến  khiến  ta  phiền  não, khiến  ta  mất  an  vui,  thanh  thản,  cũng  như niệm   đó   khiến   cho  người   khác   mất   an  vui thanh thản, thì đó là niệm ác. Khi ta biết nó là niệm  ác  thì niệm  ấy liền  biến  mất,  nếu  không biến  mất  thì ta  dùng  pháp  như  lý  tác  ý  diệt ngay niệm  ác  đó, nếu  nó  còn tới lui  thì ta tiếp tục quán xét cho thông suốt để trừ bỏ, xả ly và đoạn dứt. Đó là cách thức tu tập thiền định của đạo Phật, đó là Định Vô Lậu.



Khi đã  phân chia làm  hai  thứ  niệm  ác  và niệm thiện xong, đức Phật khép mình trong khuôn  khổ  tu  tập.  “Ta  sống   không   phóng dật,   nhiệt   tâm   tinh  cần.   Khi  dục   tầm (niệm  ưa  thích) khởi  lên.  Ta  tuệ  tri:  Dục tầm  này  khởi  lên  nơi  Ta  và  dục  tầm  này đưa  đến  tự  hại,  đưa  đến  hại  người,  đưa đến  hại  cả  hai diệt  trí tuệ  (làm  mất  trí tuệ)  dự  phần  vào  phiền  não,  không  đưa đến  Niết  Bàn.  Chư  Tỳ  Kheo, khi Ta  suy tư như  vậy:  “Dục  tầm  này  đưa  đến  tự  hại”, thì dục  tầm  này  được  biến  mất.  Chư  Tỳ Kheo khi Ta  suy tư: “Dục tầm này đưa  đến hại  người”,  dục  tầm  được  biến  mất.  Chư Tỳ  Kheo khi Ta  suy tư:  “Dục  tầm  đưa  đến hại  cả  hai”,  dục  tầm  được  biến  mất.  Chư Tỳ  Kheo  khi Ta  suy tư:  “Dục  tầm  diệt  trí tuệ,  dự  phần  vào  phiền  não,  không  đưa đến  Niết  Bàn”,  dục  tầm  được  biến  mất. Chư Tỳ Kheo như  vậy Ta  tiếp tục trừ bỏ xả ly và đoạn tận dục tầm”.
Đọc  đoạn  kinh trên  các  bạn  cần  suy nghĩ kỹ.  Phật  dạy  chúng  ta  xả  tâm,  ly dục,  ly ác pháp,  diệt  ngã  bằng  những  niệm  ác  khởi  lên trong  tâm,  khi ta  biết  nó  là  niệm  ác  làm  ta khổ,  người  khác  khổ,  làm  hại  ta,  hại  người



khác  và  làm  mất  trí tuệ  giải  thoát  của  ta,  đưa đến  khổ  đau, phiền  não  v.v..  Khi ta  biết  như vậy thì tự nó biến mất. Và cứ tiếp tục tu tập xả ly tâm và đoạn tận từng niệm như vậy, thì tâm chúng  ta  được  thanh  tịnh,  đời  sống  chúng  ta được giải thoát hoàn toàn không còn khổ đau, phiền não nữa.
Ở  đây, các  bạn chỉ cần thấy được niệm ác khởi  lên  trong tâm,  nó  là  sự  nguy hại,  hạ  liệt, uế nhiễm, đau khổ thì các bạn sẽ trừ bỏ, xả ly, đoạn  tận,  viễn  ly,  khi trừ  bỏ,  xả  ly,  đoạn  tận thì sự lợi ích rất lớn đến với các bạn, sự thanh tịnh của tâm và các thiện pháp sẽ hiện tiền trước  mắt,  tâm  các  bạn  sẽ  được  hoàn  toàn  an lạc và thanh thản.
“Chư   Tỳ   Kheo,  trong   khi   Ta  sống không  phóng  dật,  nhiệt  tâm  tinh cần  như vậy,  khi ly  dục  tầm  khởi  lên.  Ta  tuệ  tri như  vầy: Ly dục tầm khởi  lên nơi  Ta  và  ly dục tầm này không đưa  đến tự hại, không đưa  đến  hại  người,  không  đưa  đến  hại  cả hai; tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não đưa đến Niết Bàn. Chư Tỳ Kheo nếu  ban  đêm  Ta  suy tư  quán  xét  (về sự ly tầm) mà không ly tầm ác thì Ta  thấy sợ  hãi,  dù  rằng  ban  ngày  Ta  cũng  sợ  hãi.



Chư  Tỳ  Kheo  nếu  ban  đêm  lẫn  ngày,  Ta suy tư quán xét quá lâu, thân ta có thể mệt mỏi,   khi  thân   mệt   mỏi   thì  tâm   bị   dao động, khi tâm bị dao động thì tâm rất khó định  tỉnh.  Này  chư  Tỳ  Kheo,  rồi  tự  nội thân Ta trấn an tâm, trấn định tâm, khiến được  nhất  tâm,  khiến  thành  định tỉnh.  Vì sao vậy? Vì để tâm Ta khỏi dao động”.
Đọc đoạn kinh này các bạn thấy Phật dạy tu  tập  rất  cụ  thể:  Khi ta  tu  tập  ly dục,  ly ác pháp do sự tư duy quán xét lâu quá khiến thân ta  mỏi  mệt  và  do mỏi  mệt  tâm  ta  bị  dao động nhưng cuối cùng nội thân chúng ta phải tự trấn an, định tỉnh.  Chỗ  này  chỉ  cần  chúng  ta  quán xét cố gắng ly tầm dục và ác pháp dù chúng ta có  mỏi  mệt  nhưng  phải  cố  gắng  tiếp  tục  phán xét  để  ly tầm  dục  và  ác  pháp  cho được.  Ở   đây chúng  ta  cũng  phải  hiểu  sự  mỏi  mệt  cũng  là một  ác  pháp,  vì  thế  chúng  ta  đừng  nên  dao động tâm mà tiếp tục sự tu hành đẩy lui các chướng  ngại  pháp  trong  đó  có  pháp  mỏi  mệt. Sự  mệt  mỏi  đến  mức  độ  nào  đó  là  nội  thân  ta tự  nhiên  phản  xạ  hoặc  ta  quán  xét  trấn an và định tỉnh  tâm,  tức  là  tâm  không  dao động  về sự mỏi mệt, khi đó ta liền đạt được nhất tâm.



Ở   đây  chúng  ta  quán  xét  để  ly dục  ly ác pháp (tầm dục) thì chúng ta đạt được nhất tâm, chứ  không  như kinh sách  phát  triển  dạy tu  ức chế  tâm  (chẳng  niệm  thiện  niệm  ác  để  được nhất tâm).
Hai  cách  thức  tu  tập  khác  nhau  rất  xa. Một bên thì ức chế không cho niệm thiện niệm ác khởi để được nhất tâm; một bên quán xét xả tâm ly dục ly ác pháp để được nhất tâm.
Một bên ức chế tâm để được nhất tâm, rơi vào   định   tưởng   nên   đạt   được   tưởng   pháp, không làm chủ sanh, già, bệnh, tử chạy theo tưởng  dục,  sanh  tâm  ngã  mạn  cống  cao, dính mắc  kiến  chấp  Phật  Tánh.  Rơi  vào  tà  đạo, không có đạo lực nên không điều khiển sự sống chết  và  thọ  được,  biến  Phật  giáo  vô  ngã  ác pháp thành Phật giáo hữu ngã vô vi.
Một bên thì xả tâm ly dục ly ác pháp, nên tâm thanh tịnh, tham, sân, si mạn, nghi không còn. Do sự thanh tịnh tâm, nên tâm có đạo lực làm chủ được sự sống chết, thực hiện Tứ Như Ý Túc và Tam Minh.
Nếu  một  người  quyết  tâm  ly dục  ly ác pháp thường theo pháp như lý tác ý thì tâm có khuynh  hướng  sẽ  ly dục  ly ác  pháp  và  tâm  ly dục  ly ác  pháp  thì nội  thân  được  trấn  an tâm,



trấn  tỉnh  khiến  tâm  được  nhất  tâm  và  định tỉnh.  Khi tâm  tự  nhất  tâm,  định  tỉnh,  lúc  bây giờø tự tâm phát dũng mãnh, tinh tấn không có tiêu  cực,  niệm  không  tán  loạn,  được  an  trú, khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm luôn định tỉnh, nhất tâm. Khi ấy ta nhập Bất Động Tâm, tư  nơi  Bất  Động tâm  ta có  đủ  Tứ  Thần Túc, từ Tứ  Thần  Túc  ta  nhập  Sơ Thiền,  Nhị  Thiền, Tam  Thiền  và   Tứ  Thiền  bằng  sức  tịnh  chỉ thanh tịnh của tâm. Cuối cùng sức thanh tịnh tịnh  chỉ  của  tâm  đó,  ta  thực  hiện  Tam  Minh một cách dễ dàng không có mệt nhọc, không có khó khăn.

“Chư   Tỳ   Kheo,  nếu   Tỳ   Kheo  suy  tư, quán  xét  nhiều  về  ly  dục  tầm,  vị  ấy  từ  bỏ dục tầm. Khi tâm đã đặt nặng về ly dục tầm,  tâm  vị  ấy có  khuynh hướng về  ly dục tầm... Chư Tỳ Kheo, ví như  về cuối mùa hè, khi tất cả lúa gạo cất vào kho thóc, một người mục đồng giữ các con bò. Khi người mục đồng ở  dưới  gốc cây hay  ở  ngoài trời, người  ấy có  thể  nghĩ  đến  có  việc cần  phải làm và người ấy nghĩ: “Đây là những con bò”.  Chư Tỳ  Kheo cũng  vậy  ở   đây  có  việc cần phải làm và ta nghĩ: “Đây là những pháp”.



“Chư   Tỳ   Kheo.  Ta  phát   tâm   dũng mãnh, tinh tấn, không có tiêu cực, niệm không   tán   loạn   được  an   trú,   tâm  được khinh an,  không có cuồng nhiệt, tâm được định tỉnh,  nhất  tâm.  Ta  ly  dục  ly  ác pháp chứng và trú Thiền Thứ Nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục  sanh,  có tầm tứ. Diệt tầm  tứ,  Ta  chứng  và  trú  Thiền  Thứ  Hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh. Không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú. Ta  chứng và an  trú Thiền Thứ Ba. Xả lạc,  xả  khổ  diệt  hỷ  ưu  đã  cảm  thọ  trước. Ta  chứng và trú Thiền Thứ Tư không khổ, không lạc xả niệm thanh tịnh”.
Đến đây các bạn đã  hiểu rõ bài kinh Song Tầm  đức  Phật  đã  chỉ  dạy  cặn  kẽ  rõ  ràng  chỉ còn  chúng  ta  có  quyết  tâm  tu  hay là  không  tu mà thôi.
Đường lối tu tập của đạo Phật không phải diệt  niệm  thiện,  niệm  ác,  mà  phải  xa lìa  lòng ham  muốn  và  các  ác  pháp  trong  tâm  ta,  sống và  nuôi  lớn  thiện  pháp,  nghĩa  là  diệt  tầm  ác mà sống tầm thiện, tức là ly dục ly ác pháp, để



đem  lại  cuộc  sống  an  vui  và  hạnh  phúc  cho mình,  cho người.
Khi sống  với  tầm  thiện  thì tâm  ta  thanh tịnh không có hoàn cảnh, đối tượng nào, khiến tâm ta dao động, do đó gọi là tâm giải thoát không  còn  khổ  đau  vì  cuộc  sống  làm  người. Người sống được như vậy gọi là nhập Bất Động Tâm Định hay là nhập Vô Tướng Tâm Định.
Tâm   thanh  tịnh  (tâm  như  đất)   là  tâm thiền  định  của  đạo  Phật,  chứ  không  phải  tâm hết vọng tưởng (chẳng niệm thiện niệm ác). Tâm hết vọng tưởng chỉ là tà thiền, tà định của ngoại đạo.
Tâm thanh tịnh là tâm có đủ đạo lực sai khiến (điều khiển) và làm chủ được sanh già, bệnh,  chết,  tức  làm  chủ  nhân  quả  hay còn  gọi là  làm  chủ  sự  sống  chết  (muốn  chết  lúc  nào chết cũng được, muốn sống lúc nào sống cũng được,  gọi  là  tự  tại  sanh  tử  hay  là  ra vào  nhà sanh tử).
Bởi vậy, kinh sách Phật dạy tu tập thiền định không  khó  mà  không  sợ  điên  khùng loạn óc (tẩu hỏa nhập ma) chỉ có duy nhất chuyên tu xả  tâm  mà  thôi,  để  đạt  được  một  tâm  hồn thanh  thản,  an  lạc,  và  vô  sự,  từ  đó  nhập  các định làm chủ sự sống chết dễ như trở bàn tay.



Tà kiến, ác pháp mà các bạn đang theo tu, không  chịu  xả  tâm  mà  cứ  mãi  ức  chế  tâm  cho hết  niệm  thiện, niệm ác  thì các  bạn rơi  vào  tà định, tà  thiền thì ngàn đời  muôn kiếp  các  bạn tu chẳng tới đâu cả, chỉ uổng công tu mà thôi.
Cho  nên,  Phật  bảo  chúng  ta  phải  sống đúng tám nẻo gọi là “Bát Chánh Đạo”, tám nẻo dẫn tâm đến chỗ xả ly không còn đau khổ, phiền  não  làm  chủ  cuộc  sống.  Ngược  lại,  các bạn sống không hiểu rõ đường lối của Phật dạy bị  kinh sách  phát  triển  lừa  đảo,  tu  chết  người mà chẳng ra gì.
Nếu  người  trước  dạy  người  sau này  miệng nói  Bát  Chánh  Đạo  mà  sống  thì trong  Bát  Tà
Đạo:

1-        Tà kiến

2-        Tà tư duy

3-        Tà ngữ

4-        Tà nghiệp

5-        Tà mạng

6-        Tà tinh tấn

7-        Tà niệm

8-        Tà định



Trong  Kinh Song Tầm Phật  nhắc  nhở các vị  Tỳ  Kheo: “Chư  Tỳ  Kheo, con đường  nguy hiểm   chỉ   là   con  đường   tà   đạo   có   tám ngành, tức là tà tri kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà  nghiệp,  tà  mạng,  tà  tinh tấn,  tà  niệm, tà định”.
Những điều tu sai, ức chế tâm, đó là tà định, sống  phạm  giới,  bẻ  vụn  giới,  không  lấy giới luật phòng hộ sáu căn, sống cuộc đời không thiểu dục tri túc, ăn uống phi thời là sống trong tà  kiến, tà  tư  duy, tà  ngữ, tà  nghiệp, tà  mạng, tà  niệm.  Điều  này  chắc  ai  cũng  biết,  biết  mà nói ra, nói ra sẽ đụng chạm với các Phật tử và tu sĩ Phật giáo Đại Thừa hiện giờ đều sống tu trong Bát Tà Đạo; vì con đường của Phật giáo hiện  giờ  tu  sĩ  đều  thực  hành  pháp  của  ngoại đạo, từ pháp môn niệm Phật để được nhất tâm, đến pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh đều là hướng  đi  của  ngoại  đạo  biến  dần  người  tu  sĩ Tịnh Độ làm thầy cúng giống như các vị Bà La Môn  cúng  tế.  Chùa  có  cuộc  sống  như  gia  đình thế gian, có vợ con làm đủ mọi nghề sanh sống, thậm  chí còn  làm  nghề  bắt  tôm,  nuôi  cá,  tu  sĩ chỉ còn là chiếc áo và cái đầu cạo trọc mà thôi.
Mật  Tông đưa các  thầy tu  tập  đi  đến đạt thần  thông,  phép  lạ  để  làm  thầy  trị  bệnh,  trừ



tà, ếm quỷ biến dần vị Tỳ Kheo thành một vị phù thủy. Những vị thầy này thường xưng là Giáo Chủ, bày nhiều trò, lừa đảo gạt người cúng tiền của và cả tình yêu. Pháp môn tu hành bày ra nhiều  điều  gợi  tâm  dục  khiến cho con người dễ sa ngã vào đường tội lỗi.
Thiền Tông thì khéo léo hơn hai Tông trước,  nhưng  lại  xây  dựng  một  thế  giới  Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh tuyệt vời, cao vòi vọi như “Phật  tánh”  qua những ngôn ngữ rất kêu. “Kiến tánh thành Phật”, “giác ngộ, triệt ngộ, chứng ngộ, v.v..” nhưng lại phạm giới, phá giới luật. Sống không thiểu dục tri túc, không phòng hộ sáu căn, tuy ngoài miệng nói không dính mắc nhưng cuộc sống đều dính mắc tất cả.
Đọc bài Kinh Song Tầm, các bạn hiểu rõ đạo Phật không diệt vọng tưởng cũng không dừng vọng tưởng, mà chỉ  biết  vọng thiện, vọng ác, để biết tâm mình  có ly dục, ly ác pháp chưa, thì hãy  cố  gắng  xả  ly tâm  ác  của  mình  (tham, sân,  si),  còn  tâm  thiện  thì luôn  luôn  sống  với nó. Chỉ  xả  tâm  ác  chứ  không phải  xả  niệm  ác, còn Thiền Tông thì xả niệm ác, niệm thiện mà không xả tâm ác nên tu mãi, kết quả chẳng có gì, chỉ vì tu sai pháp.



Trên đây là nói về phần  “tầm”, còn “tứ” thì chưa nói  đến. Bên Thiền Tông khi giữ tâm chẳng  niệm  thiện  niệm  ác, tự  chủ  khởi  ra một niệm   gì   thì  Thiền   Tông   cho  đó   là   “vọng tưởng”.  Nếu  tác  ý,  tức  là  “tứ”  thì Thiền Tông cũng không chấp nhận, cho đó là “vọng tưởng” và tu như vậy không đúng trạng thái tâm vô niệm của Thiền Tông vì còn tùy ý, phải giữ tâm niệm  không  có  một  niệm  nào  xen vào  thì mới gọi là thiền định. Cho nên, vào thế kỷ thứ 18 các thiền sư Trung Hoa chế ra pháp môn tham thoại  đầu  và  khán  công  án  vốn  những  pháp này  ức  chế  tâm  rất  cao độ,  gọi  là  lấy  độc  diệt độc.  Do chỗ  ức  chế  tâm  cao độ,  nên  con đường Thiền tông bế tắc không còn lối tu tiến tới được
nữa.

Tuy chế ra pháp môn ức chế tâm như vậy, nhưng  người  tu  khó  đạt  thành  “tâm  không”, vì ở tâm  không niệm  sanh ra nhiều  trạng thái tưởng,  dễ  lạc  vào  tà  thiền.  Người  có  khả  năng ức  chế  gom tâm  được  thì rơi  vào  Pháp  tưởng mà Thiền Tông gọi là “Triệt ngộ” tưởng giải toàn bộ kinh sách và 1700 công án.
Người  không  ức  chế  và  gom tâm  được  thì tu  chẳng  đến  đâu,  chỉ  kiến  giải  lượm  lặt  như



nhai lại bã mía của người xưa rồi nói thiền nói đạo chứ chẳng biết thiền đạo là gì.
Cho nên, người tu theo Thiền Tông nghe tác ý trong lúc ngồi thiền đều cho đó là vọng tưởng. Không ngờ sự tu tập  “Như  lý  tác  ý”  lại biến thành một  đạo lực  siêu  việt  làm  chủ được thân   tâm,   muốn   sống   muốn   chết   dễ   dàng, không  có  khó  khăn,  không  có  mệt  nhọc. Muốn ngồi  nhập  định bảy tám  ngày  hoặc  một  tháng, hai, ba tháng đều như ý muốn, không có khó khăn,  không  có  mệt  nhọc,  ngồi  bất  động  như gốc cây, cục đá, nhưng rất tỉnh táo không ai bằng, trời sét không nghe.
Thế  mà  Thiền  Đông  Độ  chê  pháp  như  lý tác  ý  là  vọng tưởng,  không  ngờ  pháp  môn như lý tác ý là một pháp môn tuyệt vời, giải quyết được bốn sự đau khổ của con người và còn giúp cho chúng  ta  thực  hiện  ba loại  thần  thông  mà không  có  một  loại  thần  thông  nào  của  ngoại đạo hơn được.
Toàn  bộ  giáo  trình về  pháp  môn  tu  tập thực  hành  của  đạo  Phật  thì pháp  như lý  tác  ý là  một  pháp  môn  đôïc  đáo  tuyệt  vời  nhất,  cũng là một pháp môn nòng cốt nhất của đạo Phật, bắt đầu từ tu tập giới luật xả tâm đến tu tập Thiền Định và  Tam Minh đều  dùng nó. Do đó,



duy nhất tu tập chúng ta phải nhiệt tâm với pháp  môn  này,  nhờ  đó  mới  có  đủ  đạo  lực,  mới có thể làm chủ sanh, lão, bịnh, chết.
Chỉ có pháp môn này tu tập mới trở thành một  đạo  lực  siêu  việt  không  thể  nghĩ  lường được.
Muốn  xa lìa  và  đoạn  dứt  tâm  tham,  sân, si, mạn, nghi thì chỉ duy nhất có pháp môn này mới ly và đoạn dứt các dục và ác pháp, ngoài ra không còn có pháp môn nào khác nữa.
Muốn nhập các Định thì Tứ Như Ý Túc là pháp  môn có đủ thần lực  để  giúp cho hành giả muốn  nhập  loại  định nào  thì tùy  ý  nhập  được
liền.

Muốn thực hiện được Tam Minh và Thần Túc Thông thì ngoài pháp môn này ra không có pháp môn nào thực hiện được.
Bởi  vậy,  pháp  như  lý  tác  ý  là  pháp  môn độc  nhất  của  đạo  Phật  để  đưa con người  thoát ra cảnh  khổ  của  kiếp  người  và  biến  hành  giả trở thành một siêu nhân, một Thánh nhân.
Một số hệ phái phát triển  không hiểu chê nó  là  vọng  tưởng  thật  là  một  việc  sai  lầm  rất lớn.





NHƯ  LÝ TÁC  Ý


Hỏi:  Kính thưa  Thầy,  tại  sao Thầy  dạy chúng  con phải  tự  kỷ  ám  thị,  mà  trong kinh Phật  không  có  dạy,  cuối  mong  Thầy  chỉ  dạy cho chúng con được rõ?
Đáp:  Như  lý  tác  ý  là  pháp  môn  tự  kỷ  ám thị, đó là một danh từ ngày xưa đức Phật dùng ám  thị  để  thực  hiện  xa lìa  tâm  ham  muốn  và các  ác  pháp.  Ngày  nay, các  nhà  học  giả  không có  kinh nghiệm  tu  hành, nên không hiểu pháp như lý tác ý là phương pháp tự kỷ ám thị.
Hầu hết các  nhà học  giả  thuyết kinh điển Phật đều không hiểu pháp này, nên đã biến pháp môn của Phật thành một lý thuyết suông. Vì thế, hơn 25 thế kỷ không có người nào tu chứng  và  làm  chủ  sanh,  già,  bệnh,  chết  một cách cụ thể, chỉ huyền thuyết một vài mẩu chuyện thần thông cho vui mà thôi.
Nếu không có pháp “như lý tác ý” thì tu hành không có đạo lực, không có đạo lực thì không  làm  chủ  sự  sống,  chết  của  con  người được.



Nếu  một  người  tu  thiền  định  mà  không biết  sử  dụng  pháp  như  lý  tác  ý  thì không  thể nào nhập được các định.
Ở   đây,  chúng  ta  hãy  nghe  đức  Phật  dạy một  người  muốn tu  thiền định phải  dùng pháp như lý tác ý như thế nào để nhập được định, không  giống  như  các  hệ  phái  Phật  giáo  phát triển dạy.
“Chư   Tỳ   Kheo,  Tỳ   Kheo  muốn   thực hiện  tu  tăng  thượng  tâm  thiền  định  thì cần phải thường tác ý năm tướng.
Thế nào là năm tướng? Năm tướng là:
1-  Tham

2-  Sân

3-  Si

4-  Mạn

5-  Nghi

“Ở  đây  Tỳ  Kheo y  cứ  tướng  nào,  tác  ý tướng nấy. Các ác bất thiện pháp liên hệ đến  dục,  liên  hệ  đến  sân,  liên  hệ  đến  si, liên hệ đến mạn, và liên hệ đến nghi sanh khởi, thời này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ấy cần phải  tác  ý  một  tướng  khác  liên  hệ  đến



thiện không phải tướng kia (ác bất thiện pháp liên hệ đến dục) thì các ác bất thiện tầm  liên  hệ  đến  dục  (tham) liên  hệ  đến sân,  liên  hệ  đến  si,  liên  hệ  đến  mạn,  liên hệ đến nghi được diệt trừ đi đến diệt vong. Chính nhờ  diệt  trừ  chúng,  nội  tâm  được an trú, an tịnh, nhất tâm, định  tỉnh”.
Đoạn kinh trên đây đức Phật dạy tu thiền, không phải chỗ nhiếp tâm hết vọng tưởng để nhập định và nhất tâm, định tỉnh. Ngược lại, Phật dạy dùng pháp như lý tác ý để trừ diệt, đi đến diệt vọng tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Chính  nhờ  diệt  trừ  chúng  mới  đạt  được  nhất tâm, nhập được Tứ Thánh Định.
Bài  kinh này  chỉ  dạy rất  rõ  ràng,  thế  mà thời  nay  người  tu  thiền  cứ  mải  mê  nhiếp  tâm cho hết vọng tưởng. Tu như vậy gọi là thiền của Phật thật là oan cho Phật giáo biết chừng nào! Phật dạy như vậy mà bây giờ tu sĩ lại tu khác. Chỉ có Phật giáo Đại Thừa và Phật giáo Tối Thượng Thừa mới chấp nhận pháp ức chế tâm đó  là  chân  chánh,  vì  thế  tu  sĩ  ngày  nay  là  tu theo pháp môn ngoại đạo mà cứ tưởng mình  tu theo Phật giáo. Cho nên, tu từ đời ông đến đời cha mà chẳng có ai giải thoát cả.



Nếu   khi  gặp   một   hoàn   cảnh,   một   đối tượng, một sự  việc  xảy đến khiến tâm  đau khổ và  phiền  não,  khi ấy  hành  giả  dùng  pháp  như lý  tác  ý  và  tác  ý  với  một tướng khác  với  tướng kia, tức là tướng không phiền não, đau khổ, tướng này liên hệ đến thiện, không tham, sân, si, mạn, nghi. Các ác pháp, bất thiện pháp có tầm  liên  hệ  đến  dục  tham,  sân,  si,  mạn,  nghi kia không lìa ra được, hoặc  đoạn diệt  được, thì phải mau quán xét các niệm ác và bất thiện pháp  kia là  nguy  hiểm,  là  khổ  đau cho mình cho người. Những niệm như vậy là ác độc, là có tội lỗi và sẽ tạo ra khổ báo phiền não, đau khổ hiện giờ và mai sau.
Do quán  xét  và  tác  ý  như  vậy  thì tâm  ta sẽ  xả  được  các  ác  pháp  và  trở  về  trạng  thái thanh thản, an lạc và vô sự.
Khi quán xét và tác ý như vậy, các ác bất thiện  pháp  tham,  sân,  si,  mạn,  nghi  sẽ  được diệt trừ và xả ly. Nhờ có quán xét và tùy ý như vậy tâm  chúng ta mới  xả  ly được, nội  tâm  mới được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tỉnh và an
lạc.

Nếu  khi quán xét  và  tác  ý các  pháp  ác  đó là  nguy  hiểm,  là  tội  khổ,  là  khổ  báo  mà  tâm vẫn còn hậm  hực, hờn giận, phiền não, sợ hãi,



lo  toan  v.v.. Lại  khởi  lên  các  ác  niệm  nữa,  thì ta không tác ý tâm như đất nữa và không quán xét nữa, ta để tâm tự nhiên rồi như lý tác ý: “Thân tâm thư giãn xuống, các cơ  buông xuống, tâm buông xuống, thân tâm phải thoải mái, nhẹ nhàng, an lạc”. Hướng tâm xong, ta đi kinh hành hoặc ngồi  hít thở, thỉnh thoảng  ta  lại  hướng  tâm  như  vậy  thì các  ác pháp  kia sẽ  tan  biến và  diệt  trừ  đoạn  dứt  tâm bất  động,  đau khổ  và  phiền  não  sẽ  dứt  sạch, nội tâm ta được an trú, an tịnh, nhất tâm, định
tỉnh.

Nếu dùng pháp hướng tâm như lý tác ý và thư giãn thân tâm mà “ác niệm còn khởi tâm ta chưa an tịnh”  thì lại dùng pháp hướng tâm đến  các  hành  của  các  ác  pháp  thì các  ác  pháp bất thiện sẽ được diệt trừ, xa lìa đoạn dứt. Nhờ có đoạn trừ, diệt chúng được, nội tâm mới được thanh thản, an lạc, định tỉnh, nhất tâm.
Dùng pháp hướng tâm đến các hành như thế nào?
Muốn hiểu nghĩa này chúng tôi cho những ví  dụ  cụ  thể  mới  dễ  nhận  ra rõ  ràng  nghĩa  lý này.



Ví  dụ:  “Một  người  đang đi nhanh, họ suy nghĩ và hướng tâm như  lý tác ý tại sao ta lại đi nhanh? Ta hãy đi chậm lại. Trong khi hướng tâm như  vậy,  người  ấy đi  chậm lại,  người  ấy  suy nghĩ.  Như  lý  tác  ý:  Tại sao ta lại đi chậm? Ta hãy dừng lại. Trong khi dừng  lại,  người  ấy  suy nghĩ  và  tác  ý. Tại   sao  ta   lại   dừng   lại?   Ta   hãy   ngồi xuống.  Trong khi ngồi  người  ấy  suy nghĩ và  hướng  tâm  như  lý.  Tại  sao ta  lại  ngồi? Ta hãy nằm xuống”.
“Dùng  pháp  hướng  tâm  như lý  tác  ý bỏ  dần  các hành  động thô  của ác pháp  đi đến những hành  động tế nhị và  cuối cùng xa  lìa đoạn  diệt  các  ác  pháp  liên  hệ  đến tâm  tham,  sân,  si,  mạn,  nghi  sẽ  được  diệt trừ  đi đến  đoạn  diệt  nên  nội  tâm  được thanh thản, an lạc, nhất tâm, định  tỉnh”.
Nếu dùng pháp hướng như lý tác ý đến các hành của ác pháp liên hệ đến niệm dục mà không diệt được và xa lìa được thì phải nghiến răng dán chặt lưỡi lên nóc họng lấy tâm và các cơ chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm bằng  pháp  hướng  như  lý  tác  ý:  “Tâm  tham dục  phải  đoạn  dứt  liền,  phải  lìa xa  nơi



niệm  tham  muốn,  sân  hận,  phải  đi  đi,  đi cho khỏi nơi đây”.
Dùng  pháp  hướng  mạnh  bạo  để  diệt  trừ tâm   tham   dục,   ngã   chấp   tạo   nên  đau  khổ, phiền  lụy  cho mình  cho người,  phải  đoạn  dứt một  cách  nhanh   chóng  để  phục  hồi  tâm  lại bình  thường, an lạc, thanh thản.  “Dùng  pháp hướng  mạnh  bạo  ấy,  ví như  người  lực  sĩ nắm  lấy  đầu  một  người  ốm  yếu  xách  bổng họ và muốn ném đâu tuỳ ý”.
Tóm lại, muốn ly dục, ly ác pháp, diệt ngã, xả  tâm  thì phải  dùng  pháp  như  lý  tác  ý  bằng năm cách như trên đã dạy mà trong Kinh Song Tầm và Kinh An Trú Tầm đức Phật đã  dạy rất rõ ràng, để làm chủ được cuộc sống không còn khổ  đau, và  bất  toại  nguyện, luôn luôn lúc  nào tâm hồn cũng thanh thản, an lạc, định tỉnh và vô sự.
Nên  đức  Phật  dạy:  “Chư   Tỳ   Kheo,  Tỳ Kheo ấy  được  gọi  là  đã  an trú  trong “đoạn tầm pháp môn”.  Vị ấy có thể tác ý đến tầm nào  vị  ấy  muốn,  có  thể  không  tác  ý  đến tầm nào vị ấy không muốn, vị ấy đã đoạn trừ  khả  ái,  đã  giải  thoát  các kiết  sử, khéo



chinh  phục kiêu  mạn  và  đã  chấm  dứt khổ
đau”.

Pháp  thế  gian mà  kinh sách Đại  Thừa và Thiền Đông Độ gọi là  “vọng  tưởng”, còn niệm thiện niệm ác và như lý tác ý thì kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy đó là tầm ác, tầm thiện và pháp như lý tác ý, biết tầm thiện, tầm ác và pháp  như  lý  tác  ý  là  biết  pháp  tu  hành  theo Phật  giáo,  ngược  lại  Đại  Thừa  và  Thiền  Đông Độ dạy người tu tập:
1-        Biết vọng không theo.

2-        Đối cảnh không tâm.

3-        Không kẹt hai bên.

4-   Hằng  sống  với  cái  chân  thật,  không theo cái giả.
Bốn cách tu tập này cũng nhắm vào diệt vọng tưởng mà thôi.
“Muốn thấy nó bạn đừng theo vọng tưởng,

Niệm   lăng  xăng   chìm   đắm   biển   thanh bình.
Đến đây rồi hạnh phúc khó thưa trình,

Chỉ xem  thấy nụ cười luôn hé nở”.


Trên đây là  một  bài  thơ  của một  thiền sư đã chứng đạo, để chứng minh pháp diệt vọng tưởng của họ.
Kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ nhắm  vào  chỗ  “vọng  tưởng”,  vọng  tưởng  hết rồi thì viên mãn “niệm lăng  xăng  chìm đắm biển thanh bình’’. Nhưng đối với đạo Phật thì khác xa. Tầm ác, tức là vọng tưởng ác thì ngăn chặn và  diệt sạch còn tầm  thiện thì sanh khởi và tăng trưởng không diệt mà còn nuôi dưỡng, để không làm khổ mình, khổ người. Nhờ tầm thiện đó mà mỗi  con người  xây dựng cho mình một  nền  đạo  đức  nhân  bản  không  làm  khổ mình,  khổ người.
Muốn diệt tầm ác (vọng tưởng ác, niệm ác) thì dùng pháp hướng tâm tác ý (như lý tác ý, sẽ ngăn chặn và diệt trừ) tăng trưởng tầm thiện (vọng tưởng thiện, niệm thiện) để giúp tâm không  làm  khổ  mình,   khổ  người,  để  trở  về trạng thái  bình  thường, thanh thản, an lạc, vô sự và định tỉnh.
Xét qua hai cách tu tập thì Đại Thừa và Thiền  Đông  Độ  do ức  chế  tâm  diệt  vọng  tưởng để đạt trạng thái yên lặng đến tĩnh lặng mà họ gọi  là  thiền  định,  còn  Phật  dạy  dùng  pháp hướng  tâm  như lý  tác  ý  để  ly dục,  ly ác  pháp,

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP V


diệt  ngã, xả  tâm  quét  sạch ngũ  triền cái, đoạn dứt thất kiết sử, tâm vô lậu thanh tịnh không còn đắm nhiễm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của  thế  gian,  tâm  được  thanh  tịnh  đó  gọi  là định.
Vì thế, thiền định của Đại Thừa, Thiền Tông   và   thiền   định  của   Phật   không   giống nhau; một  bên  thì tìm cái  tĩnh  lặng  với  trạng thái thường, lạc, ngã, tịnh (bốn tánh Niết Bàn). Lấy cái biết không niệm thiện niệm ác làm “Phật  Tánh”  để  hằng  sống  với  cái  chân  thật đó của mình.
Một  bên  thì  tìm  về  cuộc  sống,  có  một trạng thái an lạc, thanh thản, làm chủ bốn cái khổ của kiếp người sanh, già, bệnh, chết; còn một  bên  tu  tập  để  tìm về  thế  giới  vĩnh  hằng của “Phật Tánh”, không có đạo lực, không có làm chủ sự sống chết, chỉ có đạo thông tưởng pháp,  nói  thiền  nói  đạo  như  gió  thổi  mưa sa; một bên tu tập vừa có đạo thông vừa có đạo lực điều  khiển sự  sống chết  luân hồi  theo  ý  muốn. Như  vậy  rõ  ràng  hai  bên  có  hai  lối  tu  và  hai kết quả khác nhau.
Qua sự  kinh  nghiệm  tu  tập  của  chúng  tôi và  kinh sách  Nguyên  Thủy  dạy  rất  rõ  ràng  và cụ  thể,  bằng  ý  thức  chủ  động  điều  khiển  sự



sống  chết  của  con  người,  không  mơ  hồ,  trừu tượng như thế giới tưởng của một số hệ phái khác. Cho nên, sự tu hành như vậy, cuộc sống của các thiền sư còn chìm đắm  trong danh, lợi, tham, sân, si của thế gian.
Vọng tưởng là một đề tài của Đại Thừa và Thiền Đông Độ dùng làm đối tượng để tu tập thiền định, còn Phật  giáo  Nguyên Thủy  “vọng tưởng”   không  thành  vấn  đề  tu  tập  mà  đối tượng tu tập là tâm tham, sân, si, mạn, nghi và thất kiết sử.
Muốn  diệt  trừ  tâm  tham,  sân,  si,  mạn, nghi và thất kiết sử thì Phật giáo Nguyên Thủy lại  dùng  pháp  môn  như  lý  tác  ý,  (Thiền  Tông cho là vọng tưởng) để tu tập, để rèn luyện Ngũ lực.  Đại  Thừa  và  Thiền  Đông  Độ  lại  chê  là vọng, dẹp bỏ. Nguyên Thủy biến nó trở thành pháp  môn  hướng  tâm  như  lý  tác  ý  để  diệt  trừ tam  độc  và  thất  kiết  sử,  khiến  cho tâm  được giải  thoát  hoàn  toàn,  không  còn  khổ  đau của kiếp người và biến pháp như lý tác ý trở thành một  đạo  lực  siêu  việt  làm  chủ  điều  khiển  sự sống chết của kiếp con người và đó là thực hiện Tứ Như Ý Túc, Tam Minh một cách dễ dàng, không mấy khó khăn.



Ø         À         Ù         Ä         Ä


ỨC CHẾ  TÂM  CĨ HÄI GÌ?

Câu hỏi của Minh Tông


Hỏi:  Kính thưa  Thầy,  người  tu  thiền định ức  chế  tâm  dừng  và  diệt  vọng  tưởng  có hại  gì? Có  lợi  gì? Xin  Thầy  chỉ  dạy  cho chúng con được rõ.
Đáp:  Đạo  Phật  tu  hành  không  có  thiền định  ức  chế  tâm,  thiền  định  ức  chế  tâm  là những pháp môn thiền định của ngoại đạo, của Đại Thừa và Thiền Đông Độ.
Xưa  đức  Phật  đi  tu,  đạo  Phật  chưa  có. Ngài tu theo giáo pháp của ngoại đạo, toàn bộ giáo  pháp  đều  dạy  ức  chế  thân  tâm.  Đó  là những  pháp  môn  khổ  hạnh,  do  những  pháp môn khổ hạnh ức  chế thân tâm  này mà  cơ thể Ngài hoàn toàn suy yếu đến nỗi phải nằm liệt không thể đứng dậy nổi, nhờ người chăn dê đổ sữa, lần lần Ngài  mới  tỉnh lại, quán xét  tất  cả các pháp môn ức chế thân tâm không thể giải thoát sự khổ đau của kiếp người.
Đầu tiên, Ngài tu với một vị Đạo sư tên là Alara Kalama dạy Ngài ức chế tâm nhập Vô Sở Hữu  Xứ  Định.  Sau khi nhập  xong định  Vô  Sở



Hữu Xứ Ngài tự suy nghĩ: Pháp này không hướng  đến  yểm  ly,  không  hướng  đến  ly tham, không  hướng  đến  đoạn  diệt,  không  hướng  đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng  đến  giác  ngộ,  không  hướng  đến  Niết Bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô Sở Hữu Xứ, chứng đạt Vô Sở Hữu Xứ để làm gì? Không có ích lợi gì cả cho cuộc sống con người. Do đó, Ngài  không tôn trọng pháp  này và từ  bỏ, Ngài đi tìm pháp môn khác.
Đọc   bài   Kinh   Thánh   Cầu   trong   kinh Trung  Bộ  tập  1 trang 370 đức  Phật  tìm đến vị Đạo  sư  đầu  tiên  của  mình   là  Ngài  Alara   - Kalama dạy Ngài tu chứng đạt nhập Vô Sở Hữu Xứ Định như trên đã  nói, kinh dạy: “Như vậy, này  các  Tỳ  Kheo, Alara Kalama  là  Đạo  sư của  Ta,   lại  đặt  Ta,   là  đệ  tử  của  người ngang  hàng với mình và tôn sùng Ta tối thượng.  Này  các  Tỳ  Kheo,  rồi  Ta  tự  suy nghĩ “pháp này không hướng đến yểm ly, không  hướng  đến  ly  tham,   không  hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết Bàn mà  chỉ  đưa  đến  chứng  đạt  Vô  Sở  Hữu  Xứ.



Như   vậy  này  các  Tỳ  Kheo.  Ta  không  tôn kính pháp này và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi”.
Đoạn   kinh  này   chúng   ta   thấy   Alara Kalama không có dạy đức Phật nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, Không Vô Biên Xứ đến Thức Vô Biên Xứ mà chỉ dạy nhập định Vô  Sở  Hữu  Xứ.  Như  vậy  chúng  ta  đã  biết có bốn thiền hữu sắc và bốn thiền vô sắc. Đỉnh cao nhất  của  thiền  Hữu  sắc  là  “Tứ  Thiền”,  và đỉnh  cao nhất  của  thiền  Vô  sắc  là  “Phi  Tưởng Phi  Phi  Tưởng  Xứ  Định”.  Thế  mà  có  nhà  học giả  bảo  rằng  đức  Phật  đã  được  Alara  Kalama dạy nhập Bốn Thiền mà không thấy giải thoát nên Ngài bỏ tìm pháp khác. Đây là một sự bịa đặt của các nhà học giả, để làm sai lệch ý kinh sách  của  đạo  Phật,  sai  lệch  lời  dạy  của  đức Phật để làm gì?
Có  hệ  phái  muốn  xiển  dương  giáo  pháp của mình  nên cố tình dìm mất chánh pháp của Phật,  khiến  cho  người  sau không  hiểu  thiền định của Phật là gì?
Nhiều nhà học giả không phải là hành giả nên  hiểu  qua kiến  giải  của  mình  trong  kinh sách  phát  triển,  nghĩ  tưởng  rằng  phải  nhập định Hữu  sắc  trước  rồi  sau mới  nhập  định Vô



sắc.  Hiểu  như  vậy  là  cái  hiểu  của  người  chưa biết thiền định.
Nếu  không  có  bài  kinh Đại  Kinh  Saccaka thì làm  sao chứng  minh  điều  lầm  lạc  này  mà nhà  học  giả  cố  tình thuyết  giảng sai lệch Phật pháp để người sau không còn biết thiền định của Phật và mất lối tu hành giải thoát.
Phúc  duyên  của  con người  trên  hành  tinh này còn duyên với Phật Pháp, nên Kinh Trung Bộ  tập  1 bài  kinh Saccaka còn  giữ  lại  nguyên văn  cho đến  ngày  nay.  Bài  kinh này  cả  quyết và  đã  xác  định đức  Phật  thành  tựu  viên  mãn đạo giải thoát không phải ở chỗ “Kiến tánh thành  Phật,  không  phải  ở    chỗ  đại  ngộ, triệt ngộ”, mà ở chỗ tu tập đúng pháp, tức là phải  nhập  Sơ Thiền,  Nhị  Nhiền,  Tam  Thiền, Tứ  Thiền,  nhờ  đó  tâm  Phật  định  tỉnh,  thuần tịnh,   trong   sáng,   không   cấu   nhiễm,   không phiền não,  nhu nhuyễn  dễ  sử  dụng,  vững chắc, bình tỉnh dẫn tâm đến Tam Minh.
Con đường tu theo đạo Phật chỉ có tu như vậy mới đạt được kết quả làm chủ đời sống con người, thế mà các nhà Phật học xây dựng nhiều pháp môn (84 ngàn Pháp môn) mà chẳng có pháp môn nào đưa dắt con người đến chỗ giải thoát kiếp lầm than, đau khổ của loài người.



Đạo Phật chỉ có một pháp môn duy nhất, nếu  ai  đọc  suốt  tạng  kinh  Nguyên  Thủy  sẽ không thấy có pháp môn nào khác hơn là pháp môn  “Giới,  Định, Tuệ”.  Cả  tạng  kinh chúng ta  thấy  đức  Phật  cố  ý  lặp  đi  lặp  lại  nhiều  lần trong các  bài  kinh mà  không rời  khỏi  ba pháp môn vô lậu “Giới, Định, Tuệ”.
Đây,  ta  hãy  nghe  đức  Phật  thuật  lại  quá trình tu  tập  với  pháp  môn  nào?  Để  đi  đến  cứu kính  giải thoát. Thế mà các nhà học giả Đại Thừa dám cả gan bác bỏ pháp môn “Tứ Thánh Định”  của Phật là thiền định phàm phu, Nhị Thừa, Thanh Văn, ngoại đạo, cấm không cho người sau học và tu tập.
“-  Này  Aggivessana,  rồi  Ta  suy  nghĩ như  sau:  Ta  biết  trong khi Phụ  thân  Ta, thuộc giòng Sakka (Thích Ca) đang  cày và Ta đang  ngồi dưới bóng mát cây Diêm Phù Đề (gambu), Ta ly dục ly pháp bất thiện chứng và trú Thiền Thứ Nhất, một trạng thái  hỷ  lạc  do ly  dục  sanh,  có  tầm  có  tứ. Khi an trú  như vậy,  Ta nghĩ:  “Đạo  lộ  này có thể đưa đến giác ngộ chăng?’’. Và này Aggivessana,  tiếp  theo  ý  niệm  ấy,  ý  thức này  khởi  lên  nơi Ta:  “Đây  là  đạo  lộ  đưa đến giác ngộ”. Này Aggivessana, rồi Ta suy



nghĩ: “Ta  không sợ chăng lạc thọ này, một lạc thọ ly dục ly bất thiện  pháp?”. Rồi này Aggivessana,  Ta  suy nghĩ:  Nay  thật  không dễ  gì chứng  đạt  lạc  thọ  ấy,  với  thân  thể ốm  yếu  kinh khủng  như  thế  này.  Ta  hãy ăn  thô  thực,  ăn  cơm  chua  (tức  là  ăn  lại bình  thường ngày một  bữa có  thực phẩm). Này   Aggivessana,   Ta   ăn   thô   thực   cơm chua, lúc bây giờ năm Tỳ Kheo đang theo hầu  hạ  Ta,  suy  nghĩ  và  chờ  đợi  Ta  khổ hạnh  chứng  đạo,  nhưng   thấy  Ta  ăn  thô thực,  các  vị  ấy  chán  ghét  Ta  bỏ  đi  và  nói: “Sa môn Gotama nay sống đầy đủ vật chất, từ  bỏ  tinh tấn  khổ  hạnh,  trở  lui đời  sống sung túc”.
Và  Aggivessana,  sau  khi ăn  thô  thực và  được  sức  lực  trở  lại,  Ta  ly  dục  ly  bất thiện pháp chứng và trú Thiền Thứ Nhất, một  trạng  thái  hỷ  lạc  do ly  dục  sanh,  có tầm  có  tứ.  Này  Aggivessana,  như  vậy  lạc thọ khởi lên nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.  Diệt tầm và tứ, Ta chứng  và  trú  Thiền  Thứ  Hai, một  trạng thái   hỷ   lạc   do   định   sanh,   không   tầm không    tứ,    nội    tĩnh    nhất    tâm.    Này



Aggivessana,  như  vậy  lạc  thọ  khởi  lên  nơi Ta  được tồn tại nhưng  không chi phối tâm Ta.  Ly  hỷ  trú  xả,  chánh  niệm  tỉnh  giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là  xả  niệm  lạc  trú,  chứng  và  trú  Thiền Thứ  Ba. Này Aggivessana,  như  vậy lạc thọ khởi lên nơi  Ta,  được tồn tại nhưng  không chi phối tâm Ta.  Xả lạc, xả khổ diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền Thứ Tư không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.  Này  Aggivessana,   như   vậy  lạc   thọ khởi lên nơi  Ta,  được tồn tại nhưng  không chi phối tâm Ta”.
Sau khi chứng được bốn thiền xong, tâm Đức  Phật  thuần  tịnh,  trong  sáng,  nhu  nhuyễn dễ sử dụng, nên Ngài dẫn tâm đến Tam Minh.

“Với tâm định  tỉnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn dễ sử dụng, vững chắc, bình tỉnh như vậy. Ta dẫn tâm hướng đến Túc Mạng  Minh. Ta  nhớ  đến  các  đời  quá  khứ như  một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, ba mươi,  bốn mươi  đời, năm mươi  đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm   ngàn   đời,   nhiều   hoại   kiếp,   nhiều



thành kiếp. Này Aggivessana, đó là Minh Thứ  Nhất,  Ta  đã  chứng  trong đêm  canh một vô minh diệt, minh sanh  ám diệt, ánh sáng sanh do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy. Này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta,  được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.
Đó   là   canh  một   lúc   bấy   giờ   đức   Phật chứng Túc Mạng Minh. Sau khi chứng xong Túc Mạng  Minh,  Ngài  tiếp  tục  hướng  dẫn  tâm  đến trí tuệ  về  sanh tử  của chúng sanh. Ngài  chứng Thiên Nhãn Minh.
“Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn dễ sử dụng, vững chắc, bình tỉnh  như  vậy.  Ta  dẫn  tâm  hướng  đến  trí tuệ  về  sanh   tử  của  chúng  sanh.   Ta   với thiên  nhãn  thuần  tịnh, siêu nhân,  thấy sự sống  và  chết  của  chúng  sanh.  Ta  biết  rõ rằng   chúng   sanh   người   hạ   liệt,   kẻ   cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ  v.v..  Này  Aggivessana  đó  là  Minh Thứ Hai Ta đã chứng được, trong đêm canh giữa,  vô  minh  diệt,  minh sanh,  ám  diệt,



ánh  sáng  sanh,  do  Ta  sống  không  phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như  vậy. Này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta,  được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.
Đó là canh giữa đức Phật đã chứng được Thiên Nhãn Minh. Với tâm nhu nhuyễn dễ sử dụng đức Phật tiếp tục dẫn tâm hướng tâm đến Lậu Tận Minh.
“Với tâm định  tỉnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn dễ sử dụng, vững chắc, bình tỉnh như vậy. Ta dẫn tâm hướng tâm đến Lậu   Tận   Trí.  Ta  biết   như  thật   “đây  là khổ”, biết như thật “đây là nguyên nhân khổ”,  biết  như  thật  “đây  là  sự  diệt  khổ”, biết  như  thật  “đây  là  con đường  đưa  đến diệt khổ”, biết như  thật “đây là những lậu hoặc”, biết như thật “đây là nguyên nhân của  lậu  hoặc”,  biết  như   thật  “đây  là  sự diệt  trừ  các  lậu  hoặc”,  biết  như  thật  “đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”.  Nhờ  hiểu  biết  như  vậy,  nhận  thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát  khỏi  hữu  lậu,  thoát  khỏi  vô  minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như  vậy.



Ta  khởi   lên   sự   hiểu   biết   “Ta  đã   giải thoát”.   Ta  đã   biết:  “Sanh   đã   diệt   phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời  hiện  tại  không  còn  đời  sống  nào khác nữa”. Này Aggivessana, đó là Minh Thứ Ba mà  Ta  đã  chứng  được  trong canh  cuối,  vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm,  tinh cần.  Như   vậy  này  Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.
Trên đây là bài kinh Đại Kinh Saccaka, trong  bài  kinh này  đức  Phật  đã  thuật  lại  quá trình tu  tập  của  mình  từ  các  pháp  môn ức  chế thân tâm của ngoại đạo để nhập các loại định tưởng và nhập được định tưởng cao nhất là Phi Tưởng  Phi  Tưởng  Xứ  Định,  nhưng  cuối  cùng Ngài  phải  bỏ  tất  cả  các  pháp  ức  chế  thân tâm này. Ngài sống trở lại đời sống bình thường của một tu sĩ ăn ngày một bữa sống không phóng dật,   “Do   Ta  sống   không   phóng   dật   mà thành Chánh giác”.
Sau khi bỏ các pháp môn ức chế thân tâm của ngoại đạo Ngài hồi ức lại nhớ lúc còn bé đi theo  vua  cha  trong  ngày  lễ  hạ  điền.Vua  cha



xuống   ruộng   cày   buổi   cày   đầu   tiên   để   làm gương cho nhân dân.
Lúc  bấy  giờ,  đức  Phật  còn  bé  ngồi  dưới bóng cây Diêm  Phù  Đề  (Yambu), cây hồng táo, nghỉ mát, Ngài ly dục ly ác pháp trong tâm chứng  và  trú  Thiền  Thứ  Nhất  một  trạng  thái hỷ  lạc  do ly dục  sanh  có  tầm  có  tứ.  Ngài  tự nghĩ: “Đây  là  đạo lộ  đưa đến  giác ngộ. Đây là con đường giải thoát”.
Sau khi ăn  uống  trở  lại  bình  thường,  sức khoẻ hồi phục, Ngài không còn khổ hạnh như trước.  Ngài  nỗ  lực  theo  pháp  môn  lúc  còn  bé Ngài  đã  vô  tình ngồi  chơi  mà  thực  hiện  được. Theo đạo lộ này Ngài đã  thuật lại cho chúng ta nghe trong 49 ngày tu tập: Tức là Ngài bắt đầu tu  tập  nhập  Sơ Thiền,  Nhị  Thiền,  Tam Thiền, Tứ Thiền và Tam Minh. Sau khi tu tập xong Ngài làm chủ sanh, tử và chấm dứt luân hồi với pháp môn này rất rõ ràng. Vậy mà các nhà Đại Thừa dám phỉ báng pháp môn này là Thiền Phàm phu, là Thiền Tiểu Thừa, là Thiền Ngoại Đạo v.v..
Pháp môn này do đức Phật vô tình tìm ra trong  lúc  còn  bé,  chứ  không  có  một  Đạo  sư ngoại  đạo  nào  dạy,  thế  mà  nhà  học  giả  Đại Thừa  cho rằng  Alara  Kalama  dạy đức  Phật  tu,



đó là một điều phỉ báng giáo pháp của Phật vô căn cứ, nếu không có bài kinh này chứng minh thì người sau không còn biết tin vào đâu.
Trong bài kinh Đại Kinh Saccaka, đức Phật  thuật  lại  từ  pháp  ức  chế  thân  tâm  của ngoại đạo và chỉ đến pháp môn Tứ Thiền mà Ngài  vô  tình đã  tìm ra được  trong  lúc  còn  bé mới có giải thoát. Nhờ Bốn Thánh Định này Ngài nhập xong, hướng tâm đến Tam Minh. Ngài  phát  giác  ra lý  Tứ  Đế:  “Đây  là  khổ”, “Đây  là  nguyên nhân  khổ”,  “Đây  là  sự  diệt khổ’’,   “Đây   là   con  đường   đưa  đến   diệt khổ’’.
Ngoài  đức  Phật  ra, không  còn  có  một  tôn giáo nào trên thế gian này thấy được bốn chân lí này. Thấy được bốn chân lì này, đức Phật bắt đầu khởi xướng đạo Phật ra đời.

Dựa vào bài kinh “Đại Kinh Saccaka” ta thấy đường lối tu tập của đạo Phật rất rõ ràng, cụ thể. Phân biệt đâu là pháp ức chế thân tâm, đâu là  pháp  xả tâm, thư  giãn, diệt  ngã, ly dục, ly bất  thiện  pháp,  và  còn  cho  ta  thấy  được đường lối tu tập của đạo Phật do một nhân duyên  của  chúng  sanh  kỳ  lạ,  một  đứa  bé  (lúc đức Phật còn bé) đã ngồi dưới cây yambu (Diêm Phù  Đề)  nhập  Sơ Thiền,  một  pháp  môn  thiền



xả  tâm,  diệt  ngã,  ly dục,  ly ác  pháp  tuyệt  vời. “Ta ly dục,  ly bất  thiện  pháp  chứng  và  trú Thiền Thứ Nhất”. Theo như đoạn kinh này chúng  ta  tự  hỏi.  Tại  sao một  đứa  bé  9, 10 tuổi mà  biết  được  thiền xả  tâm?  Ai dạy?  Cách thức tu tập như thế nào?
Vậy thiền xả tâm như thế nào mà một đứa bé  9, 10 tuổi  đã  nhập  được  một  cách  dễ  dàng? Như chúng ta đã biết, muốn nhập được thiền xả tâm  (Sơ Thiền)  thì chỉ  cần  nương vào  hơi  thở khéo tác ý như trong kinh Nguyên Thủy dạy: “Quán  ly tham tôi  biết  tôi  hít vô,  quán  ly tham tôi  biết  tôi  thở  ra”  rồi lại hít vô thở ra khoảng  5, 10 hơi  thở  rồi  lại  khéo  tác  ý  nhắc tâm  “Quán  ly sân  tôi  biết  tôi  hít vô,  quán ly sân  tôi  biết  tôi  thở  ra”. Đó là mấu chốt tu tập  thiền  định của  đạo  Phật  dùng  Định Niệm Hơi thở khéo tác ý xả tâm ly dục ly ác pháp, để thành tựu tâm thanh tịnh, tức là tâm bất động định.
Khi tu  tập  các  pháp  môn  của  ngoại  đạo, đức  Phật  dốc  hết  toàn  lực  tu  tập  nghĩa  là  ức chế thân tâm tối đa để mong đạt được cứu cánh giải  thoát,  nào  ngờ  toàn  bộ  công  trình tu  tập đến giờ phút cuối cùng chỉ còn là số “không”. Cũng  giống  như  chúng  ta  hiện  giờ,  từ  pháp



môn   Tịnh  Độ,   Mật   Tông   đến   Thiền   Tông, chúng  ta  cũng  đem hết  sức  lực  ra tu  tập  gần như suốt cả cuộc đời, nhưng nhìn  lại cũng chỉ là số “không”.
Qua kinh nghiệm  bản  thân  của  chúng  tôi tu tập các pháp môn của Đại Thừa và Thiền Đông  Độ  cũng  vậy,  chúng  tôi  mất  tất  cả  hy vọng đối với Phật giáo. Chúng tôi cho rằng: các tôn  giáo  nói  được,  chứ  chẳng  làm  được,  nhưng đã lỡ theo Phật giáo hơn nửa đời người, bây giờ trở về  đời  sống thế tục  thì đã  muộn màng, còn tu tập chẳng ra gì “Đời chẳng ra Đời, Đạo chẳng ra Đạo”, tiến thối lưỡng nan. Trong lúc lòng chúng tôi đang buồn bã, ưu sầu vì đường tu tập  chẳng  đến  đâu.  Nhớ  đến  lời  Hòa  Thượng Minh Châu và đảo mắt nhìn  tủ kinh sách: Nào là   Hé   Mở   Cửa  Giải   Thoát,   Nghiệp   Dẫn  Đi Trong  Luân  Hồi,  Đường  Vào  Hiện  Sinh,  Phật Học  Phổ  Thông,  Trái  Tim  Thiền  Định, Đường Xưa  Mây  Trắng,  Trường  Bộ  Kinh, Trung  Bộ Kinh, v.v.. Não nề chúng tôi lấy tập 1 Trung Bộ Kinh, lật vài trang ra đọc cho khuây khoả.
Nhưng may mắn thay, gặp ngay bài kinh “Đại  Kinh Saccaka”.  Ngồi  suy  ngẫm,  một  đứa bé  chín  mười  tuổi  làm  sao ly dục  ly ác  pháp nhập Sơ Thiền dễ dàng?



Tự  đặt  câu  hỏi  chúng  tôi  lần  lượt  phanh dần và đọc lại các bài kinh khác như: Tứ Niệm Xứ,  Xuất  Tức,  Nhập  Tức,  Tứ  Chánh  Cần,  v.v.. thì ra là phương pháp của Phật tu như vậy, chứ không  như  các  pháp  môn  tu  tập  của  Đại  Thừa và Thiền Đông Độ. Nên cuối cùng chúng tôi tập thử thấy có kết quả xả tâm có tầm tứ, có hỷ lạc và nhất tâm, một cách cụ thể, rõ ràng.
Do đó chúng tôi quay sang 180 độ, bỏ sạch các   pháp   môn   Thiền   Tông   và   Đại   Thừa. Chuyên ròng tu tập “Tam Vô Lậu Học”.
Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề tu tập ức chế  tâm,  dừng  vọng  tưởng  có  hại  gì mà  Thiền sinh Minh Tông đã hỏi?
Tu ức chế tâm, dừng vọng tưởng có nhiều pháp:
1-        Tịnh  Độ  Tông  niệm  Phật  nhất  tâm
(Ức chế bằng câu niệm Phật, lục tự Di Đà).

2-   Mật Tông ức chế tâm để có thần thông tưởng (niệm chú ức chế vọng tưởng).
3-   Thiền   Tông   ức   chế   tâm   dừng   vọng tưởng bằng những pháp: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, chẳng niệm thiện niệm ác, chăn   trâu,   biết   vọng   liền   buông,   tham thoại  đầu,  tham  công  án,  sổ  tức  quán,  tuỳ



tức,  chỉ  tức  v.v..”  đều  là  những  pháp  ức  chế tâm  dừng  vọng  tưởng  để  đạt  được  trạng  thái khinh an, xúc tưởng hỷ lạc v.v.. và các pháp tưởng mà Thiền Tông gọi là đốn ngộ, đại ngộ, triệt ngộ.
Tu  những  pháp  này  không  có  làm  chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, nên không ích lợi thiết thực cho đời người, chỉ được cách thuyết giảng lừa đảo người khác dễ dàng nhờ   có   dục   tưởng  (khinh  an),  nhờ   có   pháp tưởng (triệt ngộ), nhờ có thần thông tưởng (linh ứng)  và  nhờ  sắc  tưởng  (ánh  sáng  hào  quang, thấy Phật, Tổ và các cõi Cực Lạc Tây phương).
Thời đức Phật tu hành, ngoại đạo hướng dẫn ức  chế tâm tối đa: “Này  Aggivessana rồi ta suy nghĩ: “Ta hãy nghiến răng  dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp  tâm  đánh  bại  tâm!  thì mồ  hôi  thoát ra từ  nơi  nách  của  Ta.  Này  Aggivessana như   một  người  lực  sĩ   nắm  lấy  đầu  một người ốm yếu hay nắm lấy vai có thể chế ngự,  nhiếp  phục  và  đánh  bại  người  ấy. Này  Aggivessana,  dầu  cho  Ta  có  chí  tâm tinh cần,  tinh tấn  tận  lực,  dù  cho  niệm được  an  trú  không  dao  động,  nhưng  thân Ta  vẫn  bị  kích động,  không  được  khinh



an,  vì Ta  bị  chi  phối  bởi  sự  tinh tấn  do tinh tấn  chống  lại  khổ  thọ  ấy.  Tuy  vậy, này  Aggivessana,  khổ  thọ  ấy  khởi  lên  nơi Ta,   được  tồn  tại  nhưng   không  chi  phối tâm Ta”.
Đây là  cách ức  chế  tâm  rất mạnh của đức Phật ngày xưa tu tập. Ngồi lâu thân sanh mỏi mệt và  đau nhức, đức  Phật  vẫn tinh tấn chống lại khổ thọ để tu tập kéo dài thời gian. Tuy đau nhức, tâm đức Phật không bị chi phối, nhưng chẳng có  giải  thoát  gì được  cả. Đức  Phật lại  tu tiếp pháp hơi thở ức chế tâm tối đa: “Này Aggivessana, rồi  Ta suy nghĩ  như sau:  “Ta hãy  tu  thiền  nín thở  và  này  Aggivessana, rồi Ta  nín thở vô, thở ra ngang  qua miệng và  ngang  qua  mũi  thì một  tiếng  gió  động kinh khủng  thổi  lên,  ngang  qua  lỗ  tai, ví như  tiếng kinh khủng phát  ra từ  ống thổi bễ đang thổi của người thợ rèn. Này Aggivessana,  dầu  Ta  có  chí  tâm,  tinh cần, tinh tấn,  tận  lực,  dầu  cho  niệm  được  an trú,  không  dao  động,  nhưng  thân  Ta  vẫn bị  kích động,  không  được  khinh an,  vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta,  được tồn tại, nhưng không chi phối tâm Ta”.



Đức  Phật  tu  thiền  nín  thở  đầu  tiên  phát ra âm thanh tiếng gió thổi ngang qua lỗ tai rất là  kinh khủng  (phong  tưởng  thanh)  khiến  cho thân  bị  kích  động  không  được  khinh  an,  khổ thọ  khởi  lên  nhưng  không  chi  phối  được  tâm của đức Phật.
Lần thứ hai đức Phật tiếp tục tu tập thiền nín  thở:  “Này  Aggivessana, rồi  Ta suy nghĩ như  sau: Ta  hãy  tu  thiền  nín thở.  Và  này Aggivessana   rồi   Ta   nín  thở   vô,   thở   ra ngang  qua miệng ngang  qua mũi và ngang qua  tai thì có  ngọn  gió  kinh khủng  thổi lên  đau  nhói  trong  đầu  Ta,   ví  như   một người  lực sĩ  chém đầu một  người  khác với một  thanh  kiếm  sắc,  dầu  cho  Ta  có  chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dù cho niệm được an trú không dao động nhưng thân của Ta  vẫn bị kích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn  chống  lại  khổ  thọ  ấy,  tuy vậy khổ  thọ  ấy  vẫn  khởi  lên  nơi  Ta,  được  tồn tại, nhưng không chi phối tâm Ta”.
Lần thứ hai đức Phật tu thiền nín thở một ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu,  đối  với  khổ  thọ  đó  không  chi  phối  được tâm của đức Phật.



Lần thứ ba, Đức Phật tu thiền nín  thở thì một  cảm  giác  đau đầu  kinh khủng  như  ai  lấy sợi dây cột quanh đầu xiết mạnh, cảm thọ đó khởi lên, nhưng  không chi phối  tâm  Đức Phật: “Này   Aggivessana,  rồi   Ta  suy  nghĩ   như sau: “Ta hãy tu thiền nín thở”. Và Này Aggivessana,  Ta  nín thở  vô  thở  ra, ngang qua  miệng,  ngang  qua  mũi  và  ngang  qua tai. Ta  cảm  giác  đau  đầu  kinh khủng,  ví như một người lực sĩ lấy một sợi dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh  đầu và xiết mạnh. Này Aggivessana, dù Ta  có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dù cho niệm được  an  trú  không  dao  động  nhưng  thân Ta  vẫn  bị  kích động,  không  được  khinh an,  vì Ta  bị  chi  phối  bởi  sự  tinh tấn  do tinh cần chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được  tồn  tại,  nhưng   không  chi  phối  tâm
Ta”.

Lần  thứ  tư  Đức  Phật  tu  thiền nín  hơi  thở một  cảm  giác  đau đớn như ai  cầm  dao sắc  bén cắt ngang qua bụng.
Lần  thứ  năm  Đức  Phật  cũng  tu  thiền  nín hơi thở, một sức nóng kinh khủng khởi lên như đốt người trên hố than đỏ, trong trường hợp đó



một  số  chư thiên,  tức  là  những  người  hiền  đức bảo đức Phật đã chết, chưa chết, sắp chết v.v..
Đó  là  những  pháp  môn  thiền  hơi  thở  ức chế tâm, đức Phật nín thở tối đa để mong tìm được sự giải thoát, nhưng do tu pháp ức chế hơi thở  sai,  đức  Phật  sắp  gần  chết.  Ngài  bỏ  các pháp ức chế tâm, chuyển qua pháp ức chế thân. Ngài  dự  định tuyệt  thực  hoàn  toàn,  nhưng  có một số người hiền biết chuyện khuyên Ngài không nên tuyệt thực, nếu Ngài tuyệt thực chúng tôi sẽ đem đồ ăn đổ cho Ngài.

“Này   Aggivessana,  rồi   Ta  suy  nghĩ như sau:  “Ta  hãy  hoàn  toàn  tuyệt  thực”. Rồi chư Thiên (tức là những người lành) đến  với  Ta  và  nói  như  sau: Này  hiền  giả chớ có hoàn toàn tuyệt thực, này hiền giả, nếu hiền giả hoàn toàn tuyệt thực, chúng tôi  sẽ  đem  thực  phẩm  đổ  cho hiền  giả  và nhờ vậy hiền giả vẫn phải sống”.
Đó  là  sự  suy tư  ức  chế  thân tối  đa để  tìm sự  giải  thoát  khi thân  bị  ức  chế  sẽ  không  còn tham, sân, si nữa. Đức Phật đã  suy tư  như vậy và  cố  thực  hành  cho bằng  được.  Nhưng  nghe điều này một số thiện hữu đến ngăn cản. Vì tuyệt thực hoàn toàn sẽ mang đến cái chết, nếu chết  là  giải  thoát  thì bao nhiêu  người  đã  chết



nằm  lô  nhô  ngoài  nghĩa  địa  là  giải  thoát  hết
sao.

Nghe lời khuyên có lý này, do đó đức Phật không tuyệt thực mà tiết thực để ức chế thân khiến  cho  thân  thoát  ra khổ  dục  và  khổ  ác pháp. Lần đầu tiên Ngài giảm thiểu sự ăn uống chỉ  ăn  ít từng  giọt  một,  như  cháo  đậu  xanh, cháo  đậu  đen, cháo  đậu  đỏ,  vì  ăn  uống  quá  ít thân đức Phật hết sức gầy yếu giống như cọng cỏ, những đốt cây leo khô héo, bàn chân Phật giống  như  móng  chân  con lạc  đà,  xương sống phô bày giống như một chuỗi banh, xương sườn gầy mòn giống như rui cột một sàn nhà hư nát, hai con mắt long lanh nằm sâu thẳm trong hai lỗ  con mắt  giống  như ánh  nước  long  lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu. Da đầu Phật đã  trở thành nhăn nheo khô cằn như trái bí trắng và đắng cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu  khô cằn, đức Phật sờ  da bụng,  đụng  xương  sống,  sờ  xương  sống đụng  da bụng.  Đi  đại  tiểu  tiện  thì ngã  quỵ  úp mặt xuống đất. Lấy tay xoa bóp chân tay, các lông  tóc  hư  mục  rụng  cả  nắm.  Có  người  thấy vậy nói, da đức Phật đen thui, xám xịt, vàng sẫm.



Đức Phật đã từng sống khổ hạnh khốc liệt như thế mà vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng là bậc Thánh, không có hay còn có một đạo lộâ nào đưa đến giác ngộ chăng?
Ức chế tâm và ức chế thân tối đa như đức Phật  từng  sống  và  tu  tập  như  vậy,  nó  không mang  lại  một  sự  giải  thoát  mà  chỉ  mang  đến cho một  sự  khốc  hại, như chúng tôi  đã  tu cách đây  mười  mấy  năm.  Nếu  chúng  sanh không  có đủ  duyên  phước  thì đức  Phật  không  thể  sống nổi  qua những trận tu  khổ  hạnh, thì ngày nay đâu có Phật giáo truyền thừa trên thế gian này.
Tự  ức  chế  tâm  bằng  pháp  thiền  nín  thở thì  tất  cả  pháp  ức  chế  tâm  của  ngoại  đạo, không có pháp nào ức chế bằng pháp này hơn được.
Tự  ức  chế  thân  bằng  pháp  môn  tiết  thực tối  đa như  đức  Phật,  thì cũng  không  có  pháp môn tiết thực nào hơn được. Bởi vậy, bài kinh Tiếng Hống Sư Tử đã  nói lên các  pháp môn ức chế  thân  tâm  rất  rõ  ràng  và  cụ  thể.  Xét  cho cùng  pháp  ức  chế  thân  tâm  dù  ít dù  nhiều  thì cũng  không  bao giờ  tìm được  giải  thoát.  Muốn hiểu rõ sự tu tập ức chế thân tâm của đức Phật thì nên  đọc  lại  bài  kinh Đại  Kinh Saccaka thì


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!