Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT TẬP 5 - 4



Đáp: Một người tu sĩ và cư sĩ khi diệt trừ được  ngã  thì tâm  họ  như  đất  dù  ai  có  đổ  các chất bẩn trên đất thì đất cũng không buồn phiền,  và  nếu  ai  có  đổ  vàng  ngọc  trên  đất  thì đất cũng chẳng mừng vui.
Người diệt được ngã là người sống trong trạng thái tâm không phóng dật, tâm không phóng  dật  là  tâm  định  trên  thân,  tâm  định trên  thân  là  tâm  bất  động,  tâm  bất  động  là một trạng thái “Diệt Đế”, tức là một chân lý trong bốn chân lý của đạo Phật.
Những người tu sĩ và cư sĩ bị cô Út thử thách  bỏ  ra đi  là  những  người  không  diệt  ngã vì  họ  là  người  tu  sai  pháp,  không  chịu  xả  tâm mà tu ức chế tâm vì tu cách đó là nuôi ngã.

Ý THỨC THANH TÐNH
Câu hỏi của Diệu Thanh
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Khi  tư  duy  quán xét  thì  phải  sinh  trí tuệ.  Trí tuệ  đó  có  phải thuộc về ý thức thanh  tịnh không thưa Thầy?
Nếu là ý thức thanh  tịnh thì  cần phải lưu giữ và phát triển, như vậy thì  ý nào phải dừng lại? Có phải là những ý niệm lăng xăng phóng dật không thưa Thầy?
Đáp: Sự tư duy quán xét không phải là trí tuệ,  vì  trí tuệ  phải  phát  sanh  từ  thiền  định, nhưng  bây  giờ  các  con chưa có  thiền  định,  sao lại gọi ý thức là trí tuệ được?
Sự  tư  duy quán xét  thì ý  thức  đó  được  gọi là  tri kiến  mà  thôi,  cho nên  Phật  dạy:  “Tri kiến  ở   đâu  thì giới  luật  ở   đó,  giới  luật  ở đâu  thì tri kiến  ở  đó”.  Những  tu  sĩ  và  cư sĩ phạm  giới  phá  giới  là  những  tu  sĩ  và  cư  sĩ không có tri kiến Phật pháp, mà họ có tri kiến phàm  phu tục  tử,  nên  chỉ  những  tu  sĩ  và  cư sĩ này chạy theo dục vọng vật chất thế gian.
Phật   dạy  tiếp:   “Giới   luật   làm   thanh tịnh tri kiến,  tri kiến  làm  thanh tịnh giới luật”. Cho nên, ý thức thanh tịnh là nhờ giới luật,  ngoài  giới  luật  ra thì không  có  pháp  nào làm  thanh  tịnh  ý  thức.  Vậy  ý  thức  thanh  tịnh là ý thức của giới luật. Những tu sĩ và cư sĩ này chạy  theo  dục  lạc  vật  chất  thế  gian  chùa  to Phật  lớn  tiền  nhiều  là  những  tu  sĩ  và  cư sĩ  ý thức không thanh tịnh.



Ý  Thức  thanh  tịnh  cũng  chưa được  gọi  là trí tuệ, ý  thức  thanh tịnh chỉ  được  gọi  tri kiến giải thoát.


Ý THỨC  CĨ MÇY  LỘI?
Câu hỏi của Diệu Thanh
Hỏi:  Kính xin  Thầy  giảng  cho  chúng con được  rõ  về  ý  thức  có  đến  mấy  loại?  Và  ý nào cần phải phát triển ý nào cần phải dừng? Kính  xin Thầy từ bi chỉ dạy.
Đáp: Có hai loại ý thức:
1/ Ý thức thiện.
2/ Ý thức ác.
Ý thức thiện cần phải phát triển. Ý thức ác cần phải ngăn diệt
Theo kinh Tứ Chánh Cần Phật đã dạy: “Ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện”.  Kinh Pháp  Cú  Phật  dạy:  “Các  pháp ác chớ làm, nên làm các pháp thiện”.
 Nhờ biết được ý thức có hai loại nên Đức Phật mới dạy chúng ta tu tập luôn luôn phải ngăn và diệt ý thức ác, không được nuôi dưỡng và tăng trưởng nó, khi nó đến thì phải diệt tức khắc ngay liền, diệt sớm chừng nào tốt chừng nấy, vì càng diệt sớm thì tâm càng được giải thoát  sớm,  sớm  phút  nào  tốt  phút  nấy.  Bởi  vì đạo Phật là đạo giải thoát mà để pháp ác trong tâm  thì làm  sao được  gọi  là  tu  theo  đạo  Phật. Đó  chính  là mục  đích pháp  hành của đạo Phật là vậy.
Pháp hành như vậy được đức Phật gọi là phương  pháp  tu  tập  thiền  định  (Định tư  cụ). Vậy  pháp  tu  tập  thiền  định  của  đạo  Phật  là pháp ngăn diệt ác pháp trong tâm. Khi nào không  còn  ác  pháp  trong  tâm  thì  người  ấy nhập  định,  chứ  không  giống  như  loại  thiền định ức chế tâm của tà giáo ngoại đạo.
Ý   thức   thiện   vô   lậu   của   đạo   Phật   thì không  ngoài  tâm  thanh  thản,  an lạc  và  vô  sự, vì  thế  đức  Phật  bảo  phải  tăng  trưởng  và  kéo dài  ra cái  ý  thức  này.  Đó  là  một  phương pháp tu  tập  giải  thoát  tuyệt  vời  mà  không  có  một pháp  thiền  nào  sánh  kịp. Chính  ý  thức  thanh thản,  an lạc  và  vô  sự  là  trạng  thái  sung mãn của  Tứ  Niệm  Xứ;  là  trạng  thái  bất  động  của



thân tâm không bị một ác pháp nào tác động vào  được.  Con đường  tu  hành  theo  Phật  giáo chỉ  cần  chứng  đạt  được  chân  lí này  cũng  đủ mãn nguyện cho một đời tu tập của chúng ta không uổng. Hãy cố gắng lên các bạn ạ! Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông. Phật pháp không khó  vì  tu  tập,  mà  khó  vì  lòng  người  chẳng muốn lìa tham, sân, si.
Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi! Chớ giữ làm chi có ích gì?
Thở ra chẳng lại còn chi nữa.
Vạn pháp vô thường buông xuống đi!
Đời người là như vậy, có buông bỏ hay không buông bỏ, mọi vật đều buông bỏ chúng ta mà  đi.  Ngày  mai  khi xuôi  tay  vào  lòng  đất  thì chúng ta mới thấy Phật pháp là chân thật, không lừa đảo ai hết. Phải không các bạn?

 CÁC HÀNH  CĨ ÁC VÀ THIỆN
Pháp Thoại
1/ Trong các hành có thiện và có ác, khi người khởi một ý niệm ác hoặc một hành động ác  là  đã   gieo  một  từ  trường  ác  trong  không gian.
Trong không gian liên tục tiếp nhận những từ  trường  thiện  và  những  từ  trường  ác.  Do đó, khi có  một  cơn mưa hay một  cơn bão  lụt  cũng là do nhân quả thiện ác của những từ trường đó tạo thành.
2/  Thân  là  vô  thường  nên  phải  có  bệnh đau, do có bệnh đau nên thân mới hoại diệt. Thân  bệnh,  đau và  hoại,  diệt  đều  do nhân  quả thiện ác của mình  tạo tác.
Bởi  vậy  chúng  ta  hằng  ngày  phải  tu  tập tỉnh giác chánh niệm. Tu tập  chánh niệm tỉnh giác để làm gì?
Để tỉnh giác trên từng hành độâng thân, miệng,  ý  của  chúng  ta  và  như  vậy  ta  đã  làm chủ được đường đi của nhân quả; để tỉnh giác trên từng các pháp chung quanh ta và như vậy
 mới hàng phục được chúng; để tỉnh giác trên từng tâm niệm của ta và như vậy ta mới khắc phục  được  những  nỗi  ưu  phiền  trên  tâm;  để tỉnh  giác  trên  từng  thân  hành  của  ta  và  như vậy ta mới khắc phục được những sự đau đớn bệnh  tật  trên  thân  ta.  Nhờ  có  tỉnh  giác  như vậy thì ta mới làm chủ được các hành. Làm chủ được  các  hành là làm chủ  được  nhân quả thiện ác. Làm chủ được nhân quả thiện ác là làm chủ được sanh, già, bệnh, chết. Làm chủ được sanh, già, bệnh, chết là chấm dứt sự khổ đau của kiếp sinh  ra  làm  người.  Đó  là  mục  đích  của  đạo Phật,  chứ  không  phải  kiến  tánh  thành  Phật hay niệm Phật để cầu vãng sanh Cực Lạc Tây Phương. Xin  các  bạn  lưu  ý:  đạo  Phật  ra đời  là đem  lại  cho  mỗi  con  người  có  đạo  đức  sống không  làm  khổ  mình,  khổ  người,  nhờ  đó  xây dựng cho đời đẹp đẽ hơn. Phải không các bạn?





TÂM  SẮC DỤC




Pháp Thoại
 1) Tâm  sắc  dục  rất  nguy hiểm,  người  tu
nếu không xả được khi tâm sắc dục để nó khởi
 lên, người đó sẽ lồng lộn lên như con trâu điên khó  kìm  giữ,  có  thể  lời  nói  và  hành  động  bất nhã còn hơn người chưa tu.
Muốn   xả   tâm   sắc   dục,   người   tu   phải thường quán thân bất tịnh, phải biết phòng hộ sáu căn, phải ly dục ly ác pháp và dùng câu tác ý diệt tâm sắc dục khi nó vừa móng khởi lên từ trong ý niệm.
2) Người  tu  phải  xả  tâm  phân  biệt  trọng nam  khinh  nữ.  Tuy  2 hình  thế  nam  nữ  khác nhau nhưng tâm thể thì tương đồng.
Tâm  không  hình  tướng  thì nào  phân  biệt được nam hay nữ?
Do  đó,  nếu  người  nữ  quyết  tâm  tu  giải thoát,  nghiêm  túc  giữ  gìn giới  luật,  biết  phòng hộ  6  căn,  phải  ly dục  ly ác  pháp,  không  vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì sự chứng đắc cũng y như người nam vậy.
3) Phải  xả  tâm  tỉnh  thức,  khi bất  chợt  có người hỏi thì phải nhạy bén đối đáp, không thể ngơ ngơ mất tỉnh thức được.
Phải luôn luôn quán tâm, khi tâm thanh thản  biết  tâm  đang thanh  thản,  khi tâm  khởi niệm biết tâm đang khởi niệm, thì dùng câu pháp  hướng  đánh  bạt  niệm  khởi  xuống  rồi,
 buông niệm, buông luôn câu pháp hướng không được ôm giữ khư khư câu pháp hướng, có nghĩa là quán xét xả tâm trong trạng thái câu pháp hướng đó, chứ không phải niệm pháp hướng.
Xong rồi để tâm trở về trạng thái bình thường, thanh thản, an lạc và vô sự.
4) Người tu thiền phải thận trọng về âm thanh, khi ngồi thiền nghe tiếng chim hót hoặc những  tiếng  hay  lạ  khác  mà  đắm  chìm  trong âm  thanh  đó  thì sẽ  bị  hư  nhĩ  căn,  người  tu thiền phải luôn luôn cảnh giác.
5) Người nữ tu phải xả tâm phân biệt nam nữ.
 Khi tiếp xúc với người nam phải biết vượt
 qua  những   thường   tình  nữ   tính,  phải   dũng mãnh  tự  xem  mình  là  người  nam  như  họ  để không còn e thẹn không còn rụt rè, để tâm không  bị  dao động  về  những  ý  niệm,  những cảm thọ về ái dục. Và nhất là không nhận sự giúp  đỡ,  thọ  ân  của  họ.  Vì  thọ  ân  thì tâm  dễ sanh ra ái dục.
Tiếp  xúc  với  người  nam  hay  nữ  với  một tâm hồn vô tư trong sáng. Do đó, không thể phạm   giới,   giữ   trọn  vẹn  đức   hạnh  của  một người chơn tu.
 6) Dừng  cái  ý  có  nghĩa  là  ý  khởi  niệm  gì thì không  duyên  theo  ý  niệm  đó,  nếu  duyên theo  ý  niệm  đó  là  hành  động  theo  dục,  nó  sẽ đưa đến hại mình,  hại người và hại cả hai.
Ví dụ: Thấy người  làm  sai  một  điều  gì thì không  được  nói,  không  được  nhắc  nhở  họ,  chỉ có thể nói cho Thầy biết để sửa đổi họ mà thôi. Do đó, tâm không duyên theo cảnh mà khởi động.  Tại  vì  mình  còn  đang tu  tập  nên  dù  có nhắc họ, nhưng họ cũng không nghe theo.
7) Sống trong Tu Viện mọi người  phải  giữ hạnh  độc  cư nên  không  được  nói  chuyện  với nhau. Nói chuyện sẽ có nhiều bất lợi trong việc tu  có  hại  cho  mình   và  cho  người,  làm  động mình,  động người.
Thứ  nhất,  nói  chuyện  thì tâm  duyên  theo cảnh không nhiếp tâm trong thiền định xả tâm được. Không tỉnh giác trong lúc đang làm việc, lúc đang đi đứng. Vì vậy tâm thường phóng dật.

Thứ hai, nói chuyện dễ sanh kết bạn, kết phe  nhóm,  nói  xấu  người  này  người  kia làm động trong chúng, rối loạn trong tu viện. Đó là điều  không lợi  ích, là  sự  tai  hại  cho mình,  cho người.



Vì  vậy,  người  tu  hành  phải  giữ  hạnh  độc cư cho đúng, không được nói chuyện, chỉ nói những điều cần thiết mà thôi.
8)  Người  tu  phải  luôn  diệt  trừ  tâm  ngã mạn. Bản ngã càng nhỏ bé thì con đường tu càng tiến bộ.
Khi  bản   ngã   khởi   lên   thấy   mình   hơn người  thì  phải  tự  quán  xét  mình   và  tác  ý: “Mình hơn người này, nhưng còn nhiều người  khác  hơn  mình,  mình phải  bỏ  cái tâm  ngã  mạn  đó  đi”.  Và  khi thấy  người  hơn mình  thì không sanh tâm  ganh ghét  đố  kị. Đó cũng là một thứ ngã mạn.
Khi quán  xét  và  tác  ý  như  vậy  thì người đó dần dần sẽ xả được tâm ngã mạn.
9) Người tu tập phải tự rèn cho mình  có ý chí tự lập, việc gì mình cũng có thể làm được, không có tính ỷ lại vào người khác.
10) Khi gặp  ác  pháp  đến người  tu  phải  tự xét   hỏi:   “Ác   pháp   đến   ta  phải   làm   gì? Không  lý  ác  pháp  đến  ta  lại  cột  mình vào ác pháp, phải sống trong ác pháp hay sao? Phải biết xả, xả cho thật sạch, không còn một chút ác pháp nào dính mắc trong tâm ta được”.



11) Những người đạo cao chức trọng và những  người  kiến  thức  sâu  rộng  hoặc  giàu  có hơn người khác mà không xả tâm được thì bản ngã  càng  ngày  càng  to  lớn  theo  đạo  cao chức trọng,  sự  hiểu  biết  và  sự  giàu  sang của  họ,  thì con đường tu của họ không đi đến đâu cả.
Người tu mà xả được bản ngã thì không thấy mình  hơn người, không thấy mình  đạo cao chức  trọng,  đi  đến  đâu  gặp  người  tiếp  đón  ân cần nồng hậu thì không mừng, nếu gặp người tiếp đón lơ là thì cũng không buồn.
12)  Hằng  ngày  ta  phải  tập  ngăn  ác  diệt ác, khi ý khởi làm cái này muốn cái kia ta phải chủ động dùng pháp hướng để điều khiển cái ý, không để lệ thuộc theo ý.
Khi ta  điều  khiển  ý  được  thuần  thục  đến lúc bệnh đau hoặc trước giờ lâm chung, ta giữ được tâm thanh thản, an vui. Nhờ đó tâm được an nhiên tự tại ra đi do sức tự lực điều khiển ý của mình,  chứ không phải dùng tưởng lực.
13) Người  tu  khi làm  một  việc  gì thì phải tùy  thuận,  bằng  lòng  theo  ý  của  mọi  người khác,  không  được  tùy  theo  ý  mình   mà  làm, phải  tỉnh  thức  và  tự  lực  trong  việc  làm,  như vậy tu mới tiến bộ được.



14) Tâm dục do từ nơi ý khởi lên, vì vậy phải  ngăn  ác  diệt  ác  thì sẽ  không  còn  thấy ham thích, không còn muốn hơn thua tranh chấp.
Ngăn ác diệt ác thì tâm phát khởi sáng, nhận thức đúng những sự việc của mình của người mà không bao giờ lầm lạc.
15) Người tu cần phải có  ý  chí kiên nhẫn, chịu đựng khắc phục những khó khăn, để dũng mãnh   vượt   qua,  quyết   chí  cố   tiến   lên,   chứ không  lùi  bước  trước  một  khó  khăn,  một  trở ngại nào.
16) Hằng ngày chúng ta phải  quan sát  và chủ động điều khiển ý thức.
Khi  gặp   chuyện  buồn  ta  biết   đó  là   ác pháp, ta tác ý cho chuyện buồn rơi rụng xuống, tâm  ta  trở  lại  thanh  thản,  bình  thường  hoặc gặp chuyện mừng vui thì tâm ta vẫn bình  thản không mừng, vì mừng vui hoặc buồn khổ quá độ sẽ khiến ta mất tự chủ, ảnh hưởng không tốt đến việc tu.
17) Người  tu  khi ăn  một  món  ngon muốn ăn  thêm  nữa  thì phải  biết  rằng:  Đây  là  tâm tham vẫn còn nên tác  ý chủ động điều khiển ý
 tham  ấy  dừng  lại:  “Bao  nhiêu   đó   đủ   rồi, không còn tham ăn nữa”.
Nếu  thấy  ăn  ngon, vẫn  ăn  cho thỏa  thích như  người  thế  gian  thì còn  gì  đạo  hạnh  của người tu.
Xả tâm sân giận cần có tình thương đi đôi thì xả tâm nhanh  chóng và dễ dàng. Nếu thiếu tình thương trong đó  mà thêm  cái  ghét  thì rất khó  xả. Có  tập  xả  thì cũng xả  tâm  trong sự  ức chế mà thôi.
Vì vậy, người tu tập hằng ngày nên rèn luyện cho mình có cái tâm thương tất cả mọi người, nên nhìn  thấy cái  tốt của mọi  người  mà thương.  Trước  sau  không  còn  một  người  nào mình  ghét thì sự tu tập xả tâm mới tốt được.
19) Khi mình  làm  được  điều  gì có  lợi  ích cho đời, cho người thì nên âm thầm im lặng không nói cho ai biết, có người hỏi cũng không nói. Nếu nói cho người biết là tâm danh còn, nó làm cho bản ngã càng thêm lớn, rất có hại cho người tu. Vì vậy, người tu hành cần nên cảnh giác  trong  lời  nói  của  mình  suy xét  cho kỹ  rồi mới nói.
20) Người tu luôn luôn quán xét tâm mình, nếu thấy có làm điều gì lỗi lầm thì tự răn mình



sửa  đổi  không  nên  đổ  lỗi  cho người  này  người kia,  là  tu  sai  rồi.  Phải  nhìn   thấy  lỗi  mình trước, chứ đừng nhìn  thấy lỗi của người.
21) Khi gặp ác pháp thì ta phải tư duy quán  xét  cho tận  nguồn  gốc,  ta  có  làm  điều  gì lỗi  hay  không?  Khi đã  nhận  ra lỗi  lầm  thì xả cho thật sạch, không còn một chút buồn giận nào dính mắc trong tâm ta nữa.
Lúc  đang  buồn  giận  vì  bị  la  rầy  mà  vào thất  đọc  sách  hay nghe băng  thì buồn  giận  sẽ lướt qua trong sự ức chế đè nén là đào lấp sự buồn giận chứ không phải là xả tâm.
Muốn xả tâm cho rốt ráo ta phải đào bứng cho tận gốc rễ sự buồn giận bằng cách tư duy quán xét nhận cho ra lỗi lầm là thiếu sự tùy thuận,  rồi  dùng  câu  tác  ý  mà  xả  cho sạch  và diệt bản ngã bằng sự sám hối, nói lời xin lỗi.
22) Không dính mắc vào sự khen chê có nghĩa  là  khi có  người  khen  mình,  mình  không khởi  tâm  vui  mừng  vì  mừng  vui  thì bản  ngã càng lớn là tâm danh còn. Và khi bị người chê, thì ta không buồn giận, nhưng phải quán xét ta có làm điều gì sai quấy hay không mà bị người chê.  Nếu  có  sai  quấy  lỗi  lầm  thì tự  răn,  mình sửa đổi, còn nếu không có lỗi lầm thì an nhiên tự tại trước lời khen chê, phải tự tin nơi mình.
 23) Khi nghe  có  người  nói  xấu  mình  một điều gì thì đừng vội tin, vì tin liền là mình  mất tự chủ, mà phải suy xét cho kỹ nếu đúng thì ta tự  răn  mình  và  sám  hối,  sửa  đổi.  Còn  nếu  lời nói sai thì ta xả, không quan tâm tới nữa.
24)  Trong   sự  giao  tiếp  sinh  hoạt  hằng ngày, sự quán xét tư duy là quan trọng. Nếu thiếu  quán  xét  thì công  việc  dễ  bị  lệch  lạc,  dễ bị hư hao thất bại. Vì vậy, người tu hành cần phải   thường  xuyên  quán  xét,   quán  xét  tâm niệm, quán xét sự việc để tâm lúc nào cũng ở trong trạng thái tỉnh thức qua lời dạy của Thầy và những thử thách trên bước đường tu tập.

ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ
Câu hỏi của Minh Nghĩa
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Con tu  tập  như sau:  “Hít  vào  tôi  biết  tôi  hít vào,  thở  ra tôi  biết tôi  thở  ra”.  Vừa  nhắc  thầm  câu  pháp  hướng trên đồng thời cũng vừa hít vô đến khi hơi thở dứt thì  câu pháp hướng cũng vừa đủ. Câu pháp hướng đồng một lúc  với hơi  thở ra, vô  tùy theo



đặc tướng hơi thở của mỗi người dài hay ngắn mà  chọn  câu  pháp  hướng  phù  hợp,  với  chiều dài  hơi  thở,  nếu  câu  pháp  hướng  dài  quá  mà hơi thở của mình  ngắn quá thì  phải kéo dài hơi thở thêm một chút nữa như vậy nó mất đi tính tự nhiên của hơi thở bình thường, con hiểu như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp:  Người  mới  tu  tập  thì pháp  hướng tâm  đi  liền với hành động hít thở ra vô, để  dễ nhiếp  tâm.  Nhưng  khi chuyên  sâu  vào  hơi  thở cho  đúng  theo  phương  pháp  Định  Niệm  Hơi Thở thì pháp hướng tâm phải đi trước rồi hành động thở sẽ theo sau, cho nên trong bài kinh Thân Hành Niệm Đức Phật dạy về hơi thở “sẽ” hít vô  “sẽ”  thở  ra. Chữ  “sẽ”  có  nghĩa  là  tác  ý trước khi hít thở.
Trong  khi tu  tập  hơi  thở  thứ  năm  dứt,  ta nín  thở tác ý. Sau khi tác ý xong ta mới hít vô và thở ra. Đúng năm hơi thở lại tác ý một lần, cứ tu tập như thế cho đến hết giờ.
Về hơi thở các bạn nên lưu ý nó là thân hành  nội,  khi thở  không  đúng  cách  nó  có  thể gây  rối loạn nội tạng của các bạn như: hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết v.v..
Muốn  tu  tập  hơi  thở  phải  được  một  vị
Thầy có  kinh nghiệm  tu  chứng đạt chân lí dạy



thì mời  được  phép  tu  tập,  còn  không  thì các bạn  nên  tu  tập  tỉnh  giác  chánh  niệm  tức  là  đi kinh hành. Chánh niệm tỉnh giác đi kinh hành có  bốn giai  đoạn tỉnh thức  xin hẹn lại  các  bạn khi nào tu tập  chánh niệm  tỉnh giác  thì chúng tôi  sẽ  trực  tiếp  chỉ  dạy cho. Còn  về  pháp  môn hơi  thở  có  16 đề  mục,  mỗi  đề  mục  của  hơi  thở là  một  pháp môn tu  hành để  đối  trị  thân tâm, khi bị các ác pháp tác động.
Định Niệm Hơi Thở là một pháp môn diệt ác pháp rất tuyệt vời. Vậy các bạn hãy tu tập cẩn thận kỹ lưỡng từng đề mục, khi nào tu tập đề  mục  này  có  kết  quả  rồi  mới  tu  tập  tới  đề mục khác.
Tu tập  về  Định Niệm  Hơi  Thở  có  lợi  ích rất  lớn  trên  đường  ly dục  ly ác  pháp  để  đạt được cứu cánh.



ƯỚC NGUYỆN LOÀI  VẬT
NHỎ BÉ ĐƯỢC SINH LÀM NGƯỜI
Câu hỏi của Minh Nghĩa
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Mỗi  buổi  sáng con thường quét sân, dù  có  cẩn thận cách mấy cũng không thể tránh khỏi sự vô tình  giẫm đạp lên loài chúng sanh nhỏ bé dưới đất, những lúc như  vậy  trong lòng  con rất  ray  rứt,  xót  xa cho loài  kiến, sanh ra làm  loài  thân phận thấp  bé, mạng sống mong manh nhiều khi con không muốn quét mà chịu khó ngồi lượm từng chiếc lá như  vậy  mình  giảm  bớt  sự  chết  chóc  của  loài kiến  vì  mỗi  đợt  chổi  quét  đi thì  vô  số  sanh mạng nhỏ nhoi này đau đớn giãy dụa.
Làm sao để phá tâm trạng ray rứt này. Vì con hàng ngày phải quét sân dọn dẹp nhà cửa. Xin  Thầy cho con một lời khuyên.
Đáp: Nếu tâm từ con đã  thực hiện được là rất  tốt.  Vậy  mỗi  khi làm  việc  gì,  chỗ  nào  có kiến  và  côn  trùng  nhiều  thì con  nên  tránh bằng cách lượm lá chứ không nên quét, chỗ nào không có côn trùng thì con quét.



Tâm từ giúp con có nhiều tiến bộ trong sự tỉnh giác, nhờ sự tỉnh giác đó mà con ly dục ly ác  pháp  dễ  dàng  hơn.  Muốn  phá  tâm  ray rứt này khi làm việc con nên cẩn thận và kỹ lưỡng từng  hành  động  đó  cũng  là  cách  tu  tập  tỉnh thức  tốt  nhất.  Và  cũng  nhờ  đó  mà  từng  việc làm  con đều  rất  cẩn  thận  kỹ  lưỡng;  và  cũng nhờ đó mà tâm từ bi con phát triển mạnh; và cũng  nhờ  đó  mà  tâm  tỉnh  thức  mỗi  ngày  một gia tăng, gia tăng đến khi tâm  định tỉnh hoàn toàn.





ỨC CHẾ




Câu hỏi của Minh Nghĩa
 Hỏi:   Kính  thưa   Thầy!   Trong  lúc   tu
Định Niệm Hơi Thở, dọc sóng mũi luôn có cảm giác  và  vùng  trán  căng  như  vậy  là  ức  chế  hơi thở phải không thưa  Thầy? Làm sao khắc phục tình  trạng này?
Đáp: Nếu có cảm giác tê tê nặng đầu, hay căng đầu là do tu tập sai pháp, do dùng hơi thở ức  chế  tâm, chứ  không phải  tu Định Niệm  Hơi
 Thở.  Vì  Định Niệm  Hơi  Thở  là  phương  pháp dẫn tâm chứ không tập trung ức chế tâm như các loại thiền khác để hết vọng tưởng. Con nên tu  tập  lại  cho đúng  cách,  nhẹ  nhàng  dẫn  tâm như ru con ngủ sẽ khắc phục được. Nếu vì đã tu tập  pháp  ức  chế  tâm  quen, nên  mỗi  khi nhiếp tâm vào hơi thở là có cảm giác căng đầu thì con nên xả bỏ không tu tập về hơi thở nữa, mà tu thân  hành  ngoại  như  đi  kinh hành  tập  tỉnh thức nơi bước đi, nếu chú ý bước đi mà bị căng đầu nữa thì con tu Tứ Niệm Xứ, tức là ngồi kiết già quan sát bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp, thấy có chướng ngại gì trên đó thì tác ý xả bỏ, tác ý chừng nào chướng ngại pháp đó rời khỏi bốn chỗ đó mới thôi. Pháp tu tập này không có căng đầu, vì không có đối tượng để tập trung tâm. Tu tập  như người  vô  sự, an nhàn, chỉ  khi nào có chướng ngại pháp mới dùng tri kiến tác ý  để  giúp  cho thân  tâm  thanh  thản  an lạc  và vô sự.

 TÁC Ý PHÁ CÂM THỌ
Câu hỏi của Minh Nghĩa
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Khi  thân  có  một cảm thọ đau xuất hiện, con hướng tâm đuổi nó đi,  mỗi lần hướng tâm xong con để cho tâm nó lặng đi khoảng năm  hoặc  mười  hơi  thở  con lại tác ý tiếp, hay con phải hướng tâm liên tục?
Đáp:  Khi thân  có  cảm  giác  thọ  đau  thì nên tác ý liên tục để tâm ôm chặt pháp hơi thở mà quên đi thọ khổ. Trong Định Niệm Hơi Thở Đức Phật dạy: Khi thân bị thọ khổ thì nên hướng tâm nhắc “An  tịnh  thân hành tôi biết tôi  hít vô,  an  tịnh thân  hành  tôi  biết  tôi thở  ra”. Cứ  nương  theo  hơi  thở  mà  dẫn  tâm như vậy thì sẽ  không còn đau khổ  nữa. Nhưng con phải thiện xảo dùng câu pháp hướng nhẹ nhàng, êm  ái  theo  nhịp  của hơi  thở  ra, vô  như người  mẹ  ru con theo  nhịp  đung đưa của  chiếc võng. Đó là người mới tu, còn người tu lâu thì trạng thái thân an tịnh một cách rất tuyệt vời, khiến cho các cảm thọ không tác động được vào thân.  Dù  các  cảm  thọ  có  đau đến  đâu, nó  cũng

nhiếp  phục  được.  Đó  là  một  phương pháp  làm chủ bệnh rất tuyệt hảo.

TỨ QUÂ VÀ TỨ THÁNH  ĐÐNH CĨ GIỐNG  NHAU  KHƠNG?
Câu hỏi của Minh Nghĩa
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Trong Tứ  Thánh Định và Tứ Quả của Sa Môn: Tu  Đà Hoàn, Tư Đà  Hàm,  A Na  Hàm  và  A La  Hán,  có  những điều  nào  giống và  khác  nhau?  Có  một vị  Thầy giảng rằng trong Tứ Thánh Định tùy theo mức độ  tâm  thanh  tịnh của  hành  giả  đến  đâu  thì nhập vào những trạng thái định mức đó, còn đứng về phía Tứ Quả Sa Môn là căn cứ vào giá trị đạo đức của vị ấy sâu hay cạn. Như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Câu hỏi này có hai phần: 1/ Hỏi về bốn quả giống nhau và khác nhau. Bốn quả là bốn kết quả của bốn thiền, chứ không phải bốn quả  khác  bốn  thiền  khác.  Vì  bốn  thiền  tu  tập, để có bốn kết quả. Nếu khác nhau thì cần gì để tu  tập  bốn  thiền?  Bốn  thiền  là  pháp  tu  tập  để



giúp cho người tu tập ly dục ly ác pháp. Ly  dục ly ác  pháp  là  đức  Thánh  hạnh  của  vị  tu  sĩ  ấy. Nếu không tu bốn thiền này thì làm sao có bốn Thánh  quả.  Bốn  thiền  là  bốn  cấp  bực  Thánh hạnh  của  vị  Sa Môn từ  thấp  đến cao. Nhà  học giả  giảng  bốn  quả  khác  bốn  thiền  là  nhà  học giả  không  hiểu  bốn  thiền  và  bốn  quả.  Trong kinh Sa Môn Quả, đức Phật không dùng những danh từ suông để chỉ bốn quả “Tu Đà Hoàn, Tư Đà  Hàm,  A  Na  Hàm,  A  La  Hán”  mà  xác  định bốn  trạng  thái  kết  quả  của  bốn  thiền  rất  rõ ràng và cụ thể. Những trạng thái tuyệt vời, chứ không có lý luận suông như các học giả.
Trong chân lý “Đạo Đế” có tám nẻo và nẻo cuối cùng là Chánh Định, nhưng Chánh Định Đức Phật đã xác định là bốn thiền. Bốn thiền được  xem là  phương  pháp  thiền  độc  đáo  nhất của Phật giáo.
Khi  chúng  ta  mới  bước  vào  Thiền  Thứ Nhất  thì Đức  Phật  đã  chẳng  bảo:  Ly  dục  ly ác bất thiện pháp mới nhập được Sơ Thiền.
Thưa các bạn! Một người chưa ly dục ly ác pháp có được nhập vào dòng Thánh hay chăng? Họ  tu  pháp  gì  có  thể  ly dục  ly ác  pháp?  Bảo rằng  căn  cứ  vào  đạo  đức  của  họ  sâu  cạn.  Vậy


đạo đức chỗ nào mà có ra đây? Pháp nào mà họ tu tập có đạo đức?
Sơ Thiền giúp chúng ta thấy được đạo đức của  người  tu  hành.  Đó  là  ly dục  ly ác  pháp,  ly dục ly ác pháp không phải là một đạo đức sao? Ly  dục  ly ác  pháp  là  đạo  đức  không  làm  khổ mình,   khổ  người.  Người  mà  không  làm  khổ mình,  khổ người, không phải là người được vào dòng Thánh hay sao? Người  mà  được  vào dòng Thánh  thì không  phải  người  chứng  quả  Tu Đà Hoàn sao?
Bốn thiền là bốn phương pháp nhập định, mỗi định có một kết quả của nó. Như Sơ Thiền kết  quả  của  nó  là  ly dục  ly ác  pháp,  người  ly dục ly ác pháp là người được vào dòng Thánh.
Như vậy, quả Tu Đà Hoàn là do tu tập Sơ Thiền. Ngoài Sơ Thiền không có quả Tu Đà Hoàn; ngoài Nhị Thiền không có quả Tư Đà Hàm;  ngoài  Tam  Thiền  không  có  quả  A  Na Hàm;  và  ngoài  Tứ  Thiền  và  Tam  Minh  thì không có quả A La Hán.
Theo kiến giải của các học giả giải thích bốn quả là không đúng trong kinh sách Nguyên Thủy của Phật giáo. Đó là ảnh hưởng kiến giải, tưởng giải  của các  nhà  học  giả  Đại  Thừa thuộc về  tà  thuyết  ngoại  đạo  nhất  là  đã  chịu  ảnh hưởng  tư  tưởng  giáo  pháp  của  Bà  La  Môn  Ấn
Độ; Lão Giáo và Nho Giáo của Trung Hoa.

HƠI NÓNG CHỖ NÀO THÌ  TÁI  SINH  CHỖ ĐÓ
Câu hỏi của Minh Nghĩa
Hỏi:  Kính thưa  Thầy! Có  nhiều  sách viết rằng: Khi  một người tắt hơi thở rồi, nếu sờ vào  mình  người  đó  mà  hơi  nóng  dồn  vào  chỗ nào  đó,  tất  cả  chỗ  khác  đều  lạnh hết,  thì biết được rõ chỗ tái sanh của họ.
Ví dụ: Ở hai bàn chân nóng là sanh địa ngục,  ở   trái  tim  là  người,  ở   mắt  là  trời,  v.v.. Căn  cứ  vào  đâu  mà  họ  nói  như  vậy  hay  do tưởng tượng mà nói? Xin  Thầy chỉ dạy.
Đáp: Cơ thể  khi chết  đều  có  sự hoại  diệt của  cơ thể,  chỗ  nào  hoại  diệt trước  là  chỗ  đó lạnh  trước,  chỗ  nào  hoại  diệt sau là  chỗ  đó lạnh  sau. Sự  hoại  diệt  đều  do căn bệnh  của  cơ
thể.

Trong thư con ghi những lời giải thích của các  nhà  học  giả  đều  là  sai,  không  có  căn  cứ

lôgic  khoa  học,  đó  là  tưởng  giải  của  các  giáo phái tà đạo.
Đạo  Phật  xác  định sáu  nẻo  luân  hồi  rất rõ ràng:
1/ Cõi Trời bằng một trạng thái tâm Thập thiện, còn tưởng thức dục.
2/  Cõi  Người  bằng  trạng  thái  tâm  năm giới còn ý thức dục.
3/ Cõi A Tu La bằng trạng thái tâm sân, thuộc về ý thức dục và tưởng dục.
4/ Cõi Ngạ Quỷ bằng trạng thái thân tâm đói khát, thuộc về ý thức dục và tưởng dục.
5/ Cõi Súc Sanh bằng trạng thái thân tâm ích kỷ, nhỏ mọn, hẹp hòi, bẩn thỉu, ăn uống đồ bất  tịnh,  hôi  thối,  rượu  chè  say sưa quậy  phá v.v.., thuộc về ý thức dục và tưởng dục.
6/ Cõi Địa Ngục bằng trạng thái thân tâm đau khổ, nhức nhối, phiền não, bất an, bất toại nguyện v.v.., thuộc về ý thức dục và tưởng dục.
Trong   sáu  trạng  thái  tâm  này  khi  còn đang sống cũng như lúc sắp lâm chung đã xác định hướng  đi  rõ  ràng  của  người  này  khi tiếp tục tái sanh.
 Đó là một điều xác định sáu nẻo luân hồi rất  khoa  học,  thực  tế  và  cụ  thể  của  đạo  Phật mà không có một tôn giáo nào xác định đúng được  như  vậy.  Bởi  vì, đạo  Phật  là  một  chân  lí của loài người, nên nó là một sự thật, không hề có  một  chút  sai  lệch  nào  được.  Chỉ  vì  các  tôn giáo  đều  có  thế  giới  siêu  hình,  họ  cho có  thế giới  siêu  hình  nên  hơi  ấm  ở  chân  là  sanh vào cõi địa ngục, ở tim sanh làm người, ở mắt sanh lên cõi Trời v.v..
Họ căn cứ vào kinh sách phát triển là một loại kinh sách tưởng giải của các nhà học giả thiền tưởng, tưởng giải ra cho hơi nóng xuất ra ở  hai  bàn  chân  là  địa  ngục,  ở  tim là  người,  ở mắt  là  Trời  v.v..  Vì  những  điều  này  họ  không căn cứ và biết chắc được cõi Trời, cõi Địa Ngục ở đâu? Chỉ nói trong ảo tưởng mà thôi.
Kính  thưa  các  bạn!  Có  bao giờ  các  bạn  đi đến  cõi  Trời  và  cõi  Địa  ngục  chưa? Dù  cho các vị Thầy Tổ sơ khởi là những người viết ra kinh sách  phát  triển  cũng  chưa biết  cõi  Trời  và  cõi Địa ngục ở đâu?
Cô  Ba  Cháo  Gà  và  Lâm  Tử  Kỳ  du  địa ngục, chỉ là một giấc mơ trong tưởng uẩn. Hình ảnh  do nhà  văn  giàu  tưởng  tượng  viết  ra kinh Địa Tạng Kinh Thập Vương.
 Các  Phật  tử  đừng  tin theo  luận  điệu  mê tín lừa đảo người mà hầu hết kinh sách Đại Thừa, kinh nào cũng có. Không lừa gạt thế này thì lừa  gạt  thế  khác,  không  dụ  dỗ  thế  này  thì dụ dỗ thế khác. Thường kinh sách này đưa chúng  ta  vào  thế  giới  siêu  hình   mơ  hồ,  ảo tưởng.
Chúng  ta  nên  căn  cứ  vào  việc  làm  thiện hay  ác  của  con  người  mà  xác  định  được  nẻo luân hồi của họ ở kiếp sau. Chứ không phải hơi ấm trên thân người. Dựa vào hơi ấm trên thân người đều sai.


KẾT  QUÂ TU TẬP
Câu hỏi của Minh Nghĩa
Hỏi:   Kính  thưa   Thầy!   Trong  khoảng thời  gian  ngồi  thiền  hay  đi kinh   hành,  cảm giác  thân  và  tâm  như  thế  nào  để  đánh  giá mình  tu đúng pháp hay không?
Đáp: Mỗi đề mục hơi thở trong khi tu hay đi  kinh hành  trong  khi hành  thiền  mà  tâm thanh  thản,  nhẹ  nhàng,  an  lạc  không  phóng
 dật,   phóng   tâm   là   đúng,   nhưng   phải   lưu   ý không được tập trung ức chế tâm, còn có những trạng thái khác là sai.
Ngồi thiền mà có hỷ lạc nhiều là sai (xúc tưởng hỷ lạc).
Ngồi  thiền mà  thấy các  sắc  tưởng hiện ra là sai.
Ngồi thiền mà nghe thinh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng và pháp tưởng là sai. Nói chung 18 loại tưởng và còn vô số các loại tưởng khác nữa. Có trạng thái tưởng nào đến đều là sai.
Theo từng đề mục tác ý dẫn tâm vào trạng thái của đề mục ấy mà thấy kết quả rõ ràng là không sai.
Ví  dụ:  Đề  mục  thứ  tư  trong  Định Niệm Hơi Thở “An  tịnh  thân  hành  tôi  biết tôi hít vô,  an tịnh  thân  hành  tôi  biết  tôi  thở  ra”. Nếu khi ngồi hít thở dẫn tâm như vậy mà thấy có  sự  an tịnh  thì đó  là  kết  quả  đúng,  còn  khi không dẫn mà có thì coi chừng đó là sai.
Chữ  an tịnh  thân hành  ở  đây  có  nghĩa  là sự  an ổn của thân không bị  mỏi  mệt, không bị đau nhức,  không  bị  bệnh  tật  khổ  đau. Vì  thế
 dùng  câu  tác  ý  trên  có  nghĩa  là  làm  chủ  được bệnh.
Tu đúng khi nào  dẫn tâm  có  kết  quả theo pháp hướng, chứ không phải ngồi ức chế tâm. Ngồi  xả  tâm  bằng  pháp  hướng  là  đúng.  Ngồi làm  thinh tập  trung  tâm  vào  pháp  tịnh,  pháp động đều là sai. Ngồi vừa hướng tâm, vừa tập trung tâm vào pháp động là đúng. Ngồi mà tập trung tâm  vào  bốn chỗ  thân, thọ, tâm  và pháp để tác ý đẩy lui các ác pháp trên bốn chỗ đó là đúng.  Ngồi  mà  không  làm  theo  mọi  ý  niệm  là tu tập đúng pháp.


NHÌN ĐỜI BẰNG NHÂN QUÂ
Câu hỏi của Minh Nghĩa
Hỏi: Kính  thưa  Thầy! Một người học Phật phải  nhìn  cuộc  đời  như  thế  nào  để  không  bị đắm chìm, lôi cuốn theo những lạc thú tầm thường   của   thế   gian,   nhưng   cũng   không   bị người đời lên án là tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm v.v..
 Đáp: Một người học Phật phải nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, nên không tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm.
Người học Phật phải có tri kiến nhân quả, tri kiến  Thập  Nhị  Nhân  Duyên,  tri kiến  Thập Thất  kiết  sử,  tri kiến  ngũ  uẩn,  tri kiến  ngũ triền cái, tri kiến về các pháp bất tịnh, tri kiến các  pháp  vô  thường,  khổ,  không,  vô  ngã,  tri kiến về lòng từ bi, hỷ, xả v.v..
Nếu  có  những  tri kiến  như  vậy  thì người này sẽ không bị đắm chìm, lôi cuốn theo những lạc   thú   tầm   thường  của  thế   gian.   Muốn  có những tri kiến này thì người học Phật nên nghiên cứu kinh sách Nguyên Thủy, vì trong đó dạy rất đầy đủ và dễ hiểu. Không nên nghiên cứu  kinh sách  phát  triển  vì  kinh sách  này  sẽ gieo vào đầu óc của các bạn một thế giới ảo tưởng, mơ hồ, trừu tượng, phi  đạo đức. Một khi các  bạn  đã  chịu  ảnh  hưởng  của  nó  thì các  bạn giống như người nghiện thuốc phiện. Muốn bỏ mà rất khó bỏ.
Những  người  Cư  sĩ  Phật  tử  hiểu  sao về
Phật giáo có tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm không?

Về Phật giáo là phải có một tinh thần tích cực,  tự  lực  trong  sự  tu  tập  các  pháp  môn;  phải tích cực, tự lực chiến đấu với nội tâm của mình



khi có ác pháp xâm chiếm để đem lại sự thanh bình cho tâm hồn; phải tích cực chiến đấu với ngoại pháp để đem lại cho mọi người một sự an ổn, một xã hội có trật tự.
Về Phật giáo có hai giới tu tập:

1/ Cư sĩ

2/ Tu sĩ
Cư sĩ  thì phải  tu  theo  pháp  của  người  cư sĩ. Pháp  của người  cư sĩ  tu  tập  là  một  nền đạo đức   nhân   bản   –   nhân   quả   không   làm   khổ mình,  khổ  người  thì làm  sao có  sự  tiêu  cực,  vô cảm,  lãnh  đạm…  được.  Nếu  tiêu  cực,  vô  cảm, lãnh  đạm là  làm  khổ  mình,  khổ  người  thì đâu có  đúng chánh pháp. Có  lẽ  người  cư sĩ  Phật  tử đã  hiểu  sai  pháp  Phật,  không  hiểu  về  pháp  tu tập  của  người  tu  sĩ.  Phần  nhiều  người  cư sĩ Phật  tử  mới  vào  đạo  đều  được  dạy tu  tập  Thọ Bát  Quan Trai và  được  tham dự học  tu  vào  lớp Chánh kiến đầu tiên của Phật giáo.
Người cư sĩ chỉ sống có một ngày Thọ Bát Quan Trai  như người  tu  sĩ  mà  thôi. Một  tháng chỉ  sống có  một  hoặc  hai  ngày thì đâu thể  nào gọi là tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm được.
Phật dạy chúng ta biết ác pháp và thiện pháp, ác pháp thì nên tránh và diệt để đem lại cho mình  cho người  hạnh  phúc  an vui  chứ  đâu phải lãnh đạm, vô cảm.
Ví dụ: Trong  bữa  tiệc  mọi  người  ép  chúng ta uống rượu, chúng ta từ chối  không tùy thuận theo  các  ác  pháp  này  thì bảo  rằng  chúng  ta lãnh đạm thì không đúng.
Chúng  ta  cương quyết  làm  được  điều  này là làm gương tốt đẹp cho người khác, để mọi người tránh thứ độc dược hại này.
Cho nên, đạo Phật không phải là đạo yếm thế, tiêu cực, lãnh đạm, vô cảm v.v.. Người hiểu đạo Phật yếm thế, lãnh đạm, vô cảm... là người hiểu sai đạo Phật.
Đạo  Phật  là  đạo  đức  của  loài  người,  nhờ đạo đức mới xây dựng thế gian này được an ổn và  yên vui  cho mọi  người; nhờ  đạo đức  mà  con người  không  làm  khổ  cho nhau.  Vậy  chúng  ta là  con người  cần  phải  học  đạo đức  nhân  bản  – nhân quả. Nếu chúng ta không học đạo đức thì chúng  ta  tự  làm  khổ  cho nhau  và  cuộc  sống trên thế gian này trở thành địa ngục. Phải không  các  bạn?  Bằng  chứng  hiện  giờ  chúng  ta đã  chứng kiến cảnh địa ngục: Chiến tranh, khủng bố, thiên tai hỏa  hoạn, bão tố, động đất, sóng thần, lũ lụt v.v..
 Ví  dụ:  Tình  nghĩa  vợ  chồng  là  phải  gần gũi nhau, chia sẻ nhau những nỗi buồn vui, thế mà xa lánh nhau, lạt lẽo, lãnh đạm tình chồng nghĩa vợ để gọi là tuyệt dục thì đức Phật đâu có dạy  bao giờ.  Mà  đức  Phật  dạy  không  nên  tà dâm,  dâm  dục  phải  tiết  độ,  vì  tà  dâm  là  làm hại  gia  đình  mất  hạnh  phúc,  dâm  dục  không tiết  độ  sẽ  đem  đến  thân  bệnh  tật,  mà  thân bệnh  tật, đau khổ  thì sự  an vui  hạnh  phúc  gia đình mất.
Đạo  Phật  nói  đời  khổ  là  để  vượt  qua mọi sự đau khổ của cuộc đới, chứ không có nghĩa là trốn tránh khổ, nói cách khác cho đúng nghĩa của đạo Phật  là  làm  cho đời  hết  khổ. Làm  cho đời  hết  khổ  là  phải  tích  cực  hết  mình.  Vì thế, mà đạo đức của đạo Phật là đạo đức không làm khổ mình,  khổ người.





CĂN CỨ VÀO MƯỜI THÁNH HÄNH SADI
Câu hỏi của Minh Nghĩa
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Để  đánh giá  một người  tu  sĩ  có  phải  là  một  bậc  Thánh.  Để  cho cư sĩ  thân  cận  học  hỏi  giáo  pháp  thì  phải  căn cứ  vào  những tiêu  chuẩn như  thế  nào  để  đánh giá?  Để  khỏi  uổng  phí  thời  gian  tu  tập  của mình,  nếu  vị  tu  sĩ  này  xuất  gia không  phải  vì lý tưởng giác ngộ giải thoát.
Đáp:  Đánh  giá  một  người  tu  sĩ  Phật  giáo là phải đánh giá ở chỗ Thánh hạnh của vị tu sĩ ấy, nghĩa là vị tu sĩ không vi phạm giới luật.
Muốn  đánh  giá  đúng  một  tu  sĩ  đạo  Phật thì hãy đem một  trăm  hai  mươi  giới  (120 giới) đức Thánh Tăng mà kê ra thì thấy rất rõ ràng. Phàm Tăng và Thánh Tăng không giống nhau. Cũng  như  chúng  ta  nhìn  vào  một  đoàn  dê  và bò, bò thì ra bò mà dê thì ra dê, không thể lầm lẫn được.
Ngày xưa trong thời đức Phật còn tại thế, vua Ba Tư Nặc hỏi:
-  Bạch Thế Tôn! Chúng con thấy một đoàn   khất   sĩ   đi   qua,   muốn   biết   người chứng  quả  A La  Hán,  thì chúng  con phải làm sao?
Đức Phật trả lời:
-   Muốn  biết  ai là  người  chứng  quả  A La  Hán  thì nên  ở   gần  người  ấy  nhận  xét oai nghi tế hạnh giới luật.
 Đức  Phật  ngày  xưa đã   dạy  như  vậy,  thì bây giờ chúng ta cứ theo đó mà nhận xét giới luật  đức  hạnh  của  tu  sĩ  thì biết  ngay  vị  tu  sĩ nào  là  ngoại đạo Bà La Môn và  vị  tu  sĩ  nào  là Thánh Tăng đệ tử của Phật giáo. Xin quý Phật tử nên nhớ: “Giới luật còn là Phật giáo còn, Giới luật mất là Phật giáo mất”. Người tu sĩ Phật  giáo  sống  đúng  giới  là  Phật  giáo  còn, người  tu  sĩ  Phật  giáo  phạm  giới,  phá  giới  bẻ vụn giới  là  Phật  giáo mất. Thánh Tăng từ  giới mà  sinh  ra. Giới  luật  sinh  các  bậc  A La  Hán, chứ không phải những tu sĩ có thần thông hoặc ngồi   thiền  5,7  ngày,   hoặc   kiến  tánh  thành Phật  hoặc  trực  vãng  Tây  Phương  cõi  Cực  Lạc hay Thiên Đàng.





BÂN NGÃ



Câu hỏi của Minh Nghĩa
 Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Có  một  số  người
khi mới phát tâm tu, hoặc làm công quả ở chùa làm  chức  hướng  dẫn  cư sĩ  và  làm  từ  thiện  xã hội  mấy  năm  đầu  thì  thấy  khuôn  mặt  rất  dễ
thương, nhưng khoảng thời gian sau thì nhìn khuôn mặt thấy quậy beo, đụng việc người khác làm  trái  ý  mình   thì  nổi  sân  đùng  đùng.  Có phải những người này làm phước mà còn cầu phước, không có phương pháp tu tập để kiểm soát bản ngã của mình? Khi thấy mình  có công đôi  chút,  thì  tỏ  vẻ  hơn  người,  nên  khi  ai  làm trái ý họ, thì họ bực tức. Con hiểu như vậy có đúng không? Thưa Thầy.
Đáp:  Phần  đông  người  ta  tu  phước  hữu lậu, nên làm có chút ít công đức thì bản ngã to ra, con hiểu như vậy rất đúng.
Người  có  phước  hữu  lậu  thì bản  ngã  theo phước đó mà to lớn ra, không những riêng cư sĩ mà cả tu sĩ nữa. Cho nên, các vị tôn túc Hòa Thượng,  Thượng  Tọa,  Đại  Đức  Tăng,  Ni hiện giờ hầu hết đều không tu tập đúng pháp ly dục ly ác pháp của Phật giáo Nguyên Thủy. Cứ theo lộ  trình Bồ  Tát  đạo  tu  phước  hữu  lậu  thì bản ngã sẽ to lớn vĩ đại. To lớn theo tiền bạc, chùa to,  Phật  lớn,  danh  cao, chức  trọng  v.v..  Vì  thế các  vị  này  dễ  sân,  dễ  phiền  não,  đời  sống  của họ trong dục  lạc của thế gian, ăn ngủ phi  thời. Họ chẳng bao giờ nếm được mùi vị giải thoát chân thật của Phật giáo.


HIỂU SAI PHẬT PHÁP
Câu hỏi của Minh Thành
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Chúng  con  xét thấy  lâu  nay,  những  người  cư sĩ  tu  theo kinh sách  phát  triển,  đa số  họ  không  biết  hiểu  như thế nào? Khi chưa biết đạo thì  còn đỡ, khi biết đạo rồi, lánh vợ, xa con, lánh con, xa chồng, để cho những người trong gia đình  phải buồn khổ và thù ghét đạo Phật. Thưa  Thầy theo cái hiểu cạn  cợt  của  chúng  con  có  phải  họ  hành  sai pháp không?
Đáp: Họ không hành sai pháp, vì kinh sách phát triển và các Thầy ấy đã dạy chung chung như vậy, không phân biệt rõ ràng: pháp nào  tu  tập  của  người  cư sĩ  và  pháp  nào  tu  tập của người  tu sĩ, cứ  ngồi  thiền, niệm  Phật, tụng kinh, lạy sám hối v.v.. Tu sĩ cũng tu như vậy và cư sĩ  cũng  tu  như vậy.  Cho nên,  người  cư sĩ  tu hành  cũng  giống  như  người  tu  sĩ.  Vì  thế  gia đình  đảo  lộn,  tình nghĩa  chồng  vợ  dường  như lạt  lẽo,  bỏ  bê  con cái  và  nghề  nghiệp  như  con đã nói ở trên. Thật là vô cùng tai hại.
Tu như vậy có bốn điều đáng trách:
 1/  Thiếu  đạo  đức  làm  người,  không  tròn bổn phận, trách nhiệm đối với bản thân, vợ và con.
2/ Tu như vậy, đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo (Cư sĩ  mà tu  pháp  của tu  sĩ là một điều rất sai).
3/ Tu như  vậy  chẳng  đi  đến  đâu,  mất  thì giờ, uổng phí công sức, uổng phí một đời người.
4/  Tu  như  vậy,  bản  ngã  của  người  cư sĩ càng ngày càng một to lớn hơn, do đó người cư sĩ không tìm thấy sự giải thoát chân thật chỉ sống giải  thoát  trong ảo  tưởng. Cho nên, thích tranh luận hơn thua dựa theo lý giải giáo pháp phát triển tranh luận hơn thua.
5/ Tu như vậy, người cư sĩ chỉ đạt được miệng  lưỡi  nói  pháp  rất  hay,  nhưng  kết  quả làm  chủ  sanh  tử  chấm  dứt  luân  hồi  thì chẳng có gì.
Vì  thế,  hiện  giờ  người  cư sĩ  tu  rất  nhiều, đi  chùa  rất  đông,  nhưng  nhìn   lại  toàn  là  số không.   Tham,   sân,   si,   mạn,   nghi   vẫn   còn nguyên  vẹn,  chưa có  một  vị  cư sĩ  nào  làm  chủ được đời sống, làm chủ được sự già yếu, làm chủ được bệnh đau và làm chủ được sự chết (tự tại trong khi tử).
 Để  khắc  phục  tình  trạng  này,  Thầy  sẽ soạn thảo cho ra một bộ sách giáo trình tu tập riêng cho người cư sĩ đúng theo đường lối tu tập của  Phật  giáo  Nguyên  Thủy.  Các  con hãy  chờ đợi  “Bộ  sách  Đạo  Đức  Làm  Người”  ra đời xong thì “Giáo  Trình Tu Tập  Cho  Người  Cư  Sĩ”  sẽ xuất  hiện.  Đó  là  câu  trả  lời  cho những  câu  hỏi của con.

LÀNG NGUYÊN THỦY
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Chúng  con kính xin  ý  kiến  của  Thầy:  Nếu  muốn  làm  những ngôi làng Phật giáo Nguyên Thủy thì phải tổ chức  như  thế  nào?  Cộng  đồng  đó  sinh  sống  ra sao? Sinh  hoạt tu viện  như  thế  nào?  Thầy  hãy cho chúng  con xin  một  mô  hình  để  sau này, nếu đủ duyên thì chính quyền cùng các cư sĩ chúng con sẽ thành lập.
Đáp:   Đây   là   bản   dự   thảo   Phương   án thành lập mô hình của một làng Phật giáo Nguyên Thủy.
 Các  con nên đóng góp  thêm những ý  kiến với Thầy để chúng ta hoàn chỉnh được bản dự thảo  mô  hình  này,  “Một  cây  làm  chẳng  nên non,  ba  cây   dụm   lại   nên   hòn   núi   cao”. Thầy  chỉ  mới  sơ thảo  phác  họa  những  nét  đại cương, còn các con góp ý thêm do học thức chuyên  môn  và  năng  tài  của  mọi  người,  thì đó là  chúng ta làm một  cuộc chấn hưng Phật giáo đem  lại  lợi  ích  cho  đất  nước  quê  hương  của chúng ta. Phải không hỡi các con?
Vì lợi  ích  của  mọi  người  trên  hành tinh này;  vì đạo đức  nhân  bản  - nhân quả của loài người; vì Phật giáo phải được trường   tồn   và   vì  đạo   đức   dân   tộc   quê hương  xứ  sở  của  chúng  ta,  nên  chúng  ta phải  góp  mọi  ý  kiến  để  mô  hình  “Làng Phật giáo Nguyên Thủy” được hoàn thành và  sau  đó  chúng  ta  sẽ  đệ  trình lên  nhà nước   xin  phép   “Nhà   nước   và   nhân   dân cùng làm”.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!