Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT TẬP 5 - 6



biết cách xưng giao tiếp với nhau thì rất là xấu hổ. Phải không các bạn?
Vấn đề  xưng hô  rất  là  quan trọng xin các bạn  nên  lưu  ý  học  tập  về  những  oai  nghi  tế hạnh  này.  Tuy  nó  không  có  gì lớn  lao,  nhưng con người  lịch  sự  mà  không  biết  cách  xưng hô thì không còn lịch sự. Phải không các bạn?

CÁCH VẬN Y THƯỢNG
Câu hỏi của Chơn Đức
Hỏi:  Kính thưa  Thầy,  cách  vận  y phục: trong những  trường  hợp  nào  khoác  y  thượng? Nghi thức nào mới vận y thượng? Xin  Thầy chỉ dạy cho chúng con rõ?
Đáp: Vận y thượng này vào những ngày làm lễ truyền cho Tam Quy, Ngũ giới cho Phật tử. Truyền cụ túc giới cho Tỳ Kheo Tăng và Tỳ Kheo Ni. Khi ra khỏi thất đi khất thực.  Khi tu tập ngồi thiền v.v..
Còn  tất  cả  các  ngày  lễ  khác,  tiếp  khách tụng niệm thì nên mặc chiếc áo tràng bình thường.
 Khi mặc y thượng vào là tướng phước điền cho  mọi  người  gieo  duyên  để  đời  sau  họ  có duyên gặp được Chánh pháp của Phật.
Đắp  y  thượng  vào  là  hình   ảnh  của  đức Phật  nên  khi đi,  khi đứng,  lúc  ngồi  hay  nằm đều  phải  giữ  gìn  cẩn  thận,  nhẹ  nhàng,  khoan thai.  Có  như  vậy  mới  không  phỉ   báng  Phật pháp;  không  làm  hư  hoại  tôn  chỉ  Phật  giáo. Nếu  các  bạn  không  tu  thì thôi:  đừng  làm  hư hoại Phật giáo rất đau lòng.

CÁCH XƯNG HƠ VỚI NHỮNG
NGƯỜI THÅN TRONG GIA ĐÌNH
Câu hỏi của Chơn Đức
Hỏi: Kính thưa thầy! Quan hệ của người tu  sĩ  trong gia  đình  họ  hàng  về  cách  xưng  hô như thế nào đúng?
Đáp:  Quan  hệ  trong  gia  đình   họ  hàng cách xưng hô theo bình  thường như thế nào thì xưng hô như thế nấy, không nên thay đổi, phải đúng theo phong tục nơi mình  đang cư trú. Đối
 với tất cả cô, bác, chú, dì, cậu, mợ, anh chị  em đều gọi đúng giai thứ của họ, nhưng riêng mình phải  xưng  hô  với  mọi  người  thì nên  xưng  là thầy.
Ví dụ: Thầy muốn nói với cháu Tâm điều này  hoặc  Thầy  kể  lại  câu  chuyện  nhẫn  nhục của  đức  Thế  Tôn  cho mẹ  nghe  hoặc  mẹ  hãy mua bố thí cho Thầy một ít giấy để viết.
Trên  đây  là  những  ví dụ  xin  quý  bạn hãy đón  đọc  tập  sách  Văn  Hóa  Truyền  Thống  tập VI về oai nghi tế hạnh của người cư sĩ và tu sĩ Phật  giáo,  chỉ  dạy  rõ  ràng  mọi  oai  nghi  tế hạnh  của  một  con người  sống  có  đạo  đức  nhân bản.


KHÔNG NÊN ĐẾN
Câu hỏi của Chơn Đức
Hỏi: Kính thưa  Thầy, trong những trường  hợp  hội  làng  tế  thần  ở  đình  làng  nếu được mời thì có nên ra không?
Đáp:  Không  nên  đến,  vì  nơi  đó  không phải chỗ cho người tu sĩ Phật giáo đến, thường
 cúng Thần kỳ an là họ giết chúng sanh để tế thần. Nên tìm cách từ chối  tránh xa quỷ  thần, nơi có tục lệ hủ lậu mê tín, lạc hậu, không đúng chỗ cho người tu sĩ  Phật  giáo  đến dự. Người tu sĩ Phật giáo không tin một cách mù quáng, tin những gì bằng mắt thấy, tai nghe, ý thức phân biệt, hiểu biết rõ ràng, không có ảo tưởng xen vào,  nhất  là  thế  giới  siêu  hình   thần,  thánh, quỷ,  ma thì lại  còn  không  tin. Không  tham  dự vào những nơi tế lễ giết hại chúng sanh một cách ác độc dã man.
Cho nên,  người  tu  sĩ  Phật  giáo  không  mê tín, không tin quỷ thần, biết rất rõ ràng không có thế giới siêu hình,  vì thế giới siêu hình  thật sự không có, cho nên không dự lễ cúng Thần, vì dự lễ cúng Thần là đồng lõa chấp nhận mê tín, đồng lõa chấp nhận giết hại chúng sanh. Đó là một  điều  phi  đạo  đức,  phi  nhân  bản.  Người  tu sĩ  Phật  giáo  cần  nên  tránh  và  còn  phải  tránh xa những nơi sát  hại  sanh linh như vậy. Đó là những nơi mà con người chân chánh không nên đến.


KHÔNG VÁI BÀN THỜ THÁNH
Câu hỏi của Chơn Đức


Hỏi: Kính thưa Thầy! Trường hợp bất đắc  dĩ  phải  ra thì  phải  xử  trí như  thế  nào?  Có vào vái bàn thờ Thánh không?
Đáp:  Là  một  tu  sĩ  Phật  giáo  phải  có  trí tuệ là phải tìm mọi cách từ chối, nếu bất đắc dĩ từ chối không được thì đến cho có mặt, mọi người  đến  vái  Thần  linh, còn  con thì nên  tìm cách thối thoát, bằng thối thoát không được thì không  được  thắp  hương  vái  Thần  mà  chỉ  có mặt đứng nghiêm chỉnh thẳng người, mắt nhìn xuống chân một cách nghiêm trang, khi mọi người cúi và xá Thần xong lui ra thì mình  cũng lui ra.
Thần là là một sự tưởng tượng của con người, chứ đâu có thật, nó là một ảo tưởng. Vậy mà   lạy   lễ   xì   sụp   không   trí  tuệ   thật   đáng thương.
Nếu  một  vị  Thần  là  một  danh  tướng  đem lại  sự  bình  an cho dân  cho nước  thì mọi  người nhớ  ơn, đến ngày  Tết  ngày  kỵ thì đến  nơi  thờ phượng  Người  để  tưởng  nhớ  công  lao  vì dân  vì
 nước, thắp nén hương tâm đứng trước bàn thờ chắp  tay  tưởng  niệm  công  ơn  của  Người  và nghe  đọc  lại  những  trang  sử  oai  hùng  của  vị anh  hùng  đất  nước,  để  con cháu  đời  đời  mãi mãi không quên.


TỤNG NIM  MA CHAY
Câu hỏi của Chơn Đức
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Theo như  phong tục ngoài  đời,  người  chết  họ  thường  hay  mời nhà  sư đi theo đám  ma để  độ,  vậy  trường  hợp này đối với chúng con phải xử lý ra sao?
Đáp: Nếu  các con ở thất một mình  tu tập thì không nên làm những việc mê tín này, việc làm này gây mất uy tín cho một người chân tu, nhất  là  hình  thức  này  tạo  ra những  sự  mê  tín khiến  cho Phật  giáo  thành  một  tôn  giáo  mê tín. Và  từ  đó  Phật  giáo  suy đồi.  Phải  hiểu  tự cứu mình  chưa xong còn mong cứu ai nữa?
Hình   thức  tụng  niệm  ma  chay  là  hình thức của đạo Bà La Môn, chứ đạo Phật không chấp  nhận.  Đạo  Phật  cho đó  là  Tưởng  tri chứ
 không  phải  Liễu  tri.  Đó  cũng  là  một  cách thức lừa đảo người khác.
Hiện giờ con lãnh làm trụ trì một ngôi chùa  ở  miền  Bắc  thì việc  làm  này  con không thể tránh khỏi.
Con  thực   hiện   cho  dân   làng   vui   lòng nhưng  con phải  có  cách  thức  giáo  dục  họ.  Chỉ cho  họ  biết  việc  làm  như  vậy  là  nhảm  nhí không có ích lợi thiết thực, còn gây cho Phật giáo mất uy tín, biến Phật giáo thành tôn giáo mê tín. Con có biết không?





CÁCH XƯNG HƠ TIẾP  XÚC VỚI NHÀ CHỨC TRÁCH
Câu hỏi của Chơn Đức
Hỏi: Kính thưa thầy! Khi gặp các nhà chức trách (chánh quyền) thì  cách xưng hô tiếp xúc thế nào cho phù hợp?
Đáp: Đối với chánh quyền họ xem quý Thầy như một người công dân bình thường. Vì thế  khi tiếp  xúc  với  nhà  chức  trách,  chúng  ta
 nên  chào   hỏi   họ   bằng  cách  như  người   đời, nghĩa là chào hỏi họ bằng cách bắt tay và ngồi ngang  nhau  nói  chuyện.  Gọi  anh,  gọi  chị  và xưng hô là tôi, là bác, là chú là anh v.v..

GIỚI LUẬT PHẬT KHÔNG NÊN BỎ
Câu hỏi của Chơn Đức
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Về  giới  luật  hiện nay có  điều  gì bổ  sung hoặc  có  điều  gì cũ  cần bỏ đi không?
Đáp:   Hiện   giờ   giới   luật   Phật   chưa  có những  bậc  tu  chứng  quả  A  La  Hán  biên  soạn lại,  thì  không  được  bỏ  và  cũng  không  được thêm bớt.
Lúc này nên xem giới luật Phật là Phạm hạnh  của  người  tu  sĩ,  đầy  đủ  không  cần  thêm mà cũng không bớt.
Bởi mỗi giới đều mang theo một đức hạnh thực tế và cụ thể, giúp cho đời sống tu sĩ có đầy đủ   oai   nghi   tế   hạnh,   xứng  đáng  là  một   vị Thánh Tăng.



CÁC LỘI KINH SÁCH
SỬ DỤNG SAO CHO ĐÚNG?
Câu hỏi của Chơn Đức
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Các  kinh   sách phát triển hiện nay nên được  sử  dụng như  thế nào? Có nên hủy hoàn toàn không?
Đáp: Kinh sách phát triển là kinh sách của ngoại  đạo, bắt  đầu của Bà  La Môn bên Ấn Độ  và  khi truyền sang qua Trung  Hoa thì chịu ảnh  hưởng  của  Lão  giáo  nên  sản  sanh  ra một loại thiền định theo kiểu Trung  Hoa nên gọi là Thiền Đông Độ.
Chúng  ta  không  cần  hủy  kinh sách  đó, mà để lại làm tài liệu lịch sử để biết rõ các Tổ sư tu  hành  theo  Phật  chưa đắc  quả  A La  Hán mà vội đi truyền đạo  đã bị đồng hóa với các tôn giáo khác hoặc để biết mưu đồ của các tôn giáo khác diệt Phật giáo.
Những   loại   kinh   sách   này   gieo   vào   tư tưởng  của  mọi  người  gây  mê  tín lạc  hậu,  làm hao tốn tiền của mọi người rất nhiều.
Cho nên, trong gia đình có kinh này thì nên  đem đốt  sạch  để  sau này  gây  ảnh  hưởng



mê  tín mù  quáng  tai  hại  cho  con  cháu,  cho người  đời  sau sống  phi  đạo  đức,  sống  tiêu  cực, yếm thế, bi quan, mất sức tự lực, mất chánh tri kiến, chỉ còn biết cầu tha lực.

TỔ CHỨC CÁC BUỔI LỄ LỚN
Câu hỏi của Chơn Đức
Hỏi:   Kính  thưa   Thầy!   Nghi   lễ   cúng Phật  ở  Chơn  Như  trong các  buổi  đại  lễ  như ngày  Phật  Đản  hoặc  ngày  Tết…  phải  tổ  chức như thế nào khi có đông Phật tử?
Đáp: Theo đạo Phật chỉ có tu tập ngăn ác diệt ác pháp trong tâm của mình  chứ không có cúng bái tế lễ nhưng vì một số hệ phái khác đã biến  Phật  giáo  thành  một  tôn  giáo  tụng  niệm nay đã  thành thói quen, nên hiện giờ muốn bỏ nó  cũng  rất  là  khó.  Vậy  khi có  Phật  tử  đông đảo  thì con nên làm  lễ  thắp  3 cây hương trước bàn thờ Phật rồi theo nghi thức tụng niệm của Chơn Như mà Thầy đã biên soạn có đầy đủ ý nghĩa của Phật giáo, chứ hiện giờ con bỏ nghi thức tụng niệm thì rất khó.
 Tụng  niệm  là  hình  thức  tôn  giáo  gây  mê tín cho mọi người rất dễ dàng. Đạo Phật là một đạo đức nhân bản – nhân quả nên đạo Phật không phải là tôn giáo. Cho nên, vấn đề tụng niệm  được  đức  Phật  dẹp  bỏ.  Các  bạn  hãy  đọc lại  bài  kinh Sonadanda  để  biết  đức  Phật  bài bác tụng niệm của Bà La Môn sát đất.

TỨ THẦN TÚC
Câu hỏi của Kiều Bách Nhẫn


Hỏi:  Kính thưa  cô  Diệu  Quang!  Xin  Cô giảng cho chúng con hiểu Tứ Thần Túc là gì?
Đáp:  Kính   thưa  Bác!  Theo  Diệu  Quang được  Thầy  dạy thì Tứ  Thần  Túc  là  bốn  nội  lực của   tâm   thanh   tịnh   đã    đoạn   trừ   được   tâm tham, san, si, nên sức nó mạnh như Thần của Phật giáo, dùng để làm chủ thân và tâm. Có nghĩa  là  người  tu  tập  có  bốn  thần túc  này  mới đủ  khả  năng  làm  chủ  bốn  sự  khổ  đau của  kiếp người   như:   sanh,  già,   bệnh,   chết.   Nếu   một người tu hành theo Phật giáo mà không có bốn
 thần túc  này thì chỉ  uổng phi  một  đời  tu hành mà thôi.
1/  Làm   chủ   được   đời   sống   (sanh)   tâm không còn tham, sân, si, giận, hờn, phiền não, lo rầu, ganh tị, thù oán v.v..
2/ Làm chủ cơ thể khi già yếu (già), khiến cho cơ thể  già  mà  không  yếu  đuối,  không  lẫn lộn, không quên trước, quên sau, cơ thể quắc thước, khoẻ  mạnh, cường tráng như một  thanh niên.
3/ Làm chủ đau ốm (bệnh), có nghĩa là đẩy lui tất cả bệnh tật ra khỏi thân.
4/ Làm chủ khi chết (tử), có nghĩa là muốn chết  hồi  nào  là  chết  ngay  hồi  ấy  một  cách  tư
tại.
Đạo Phật được gọi là đạo giảûi thoát. Đó có nghĩa là giải thoát bốn chỗ khổ đau của kiếùp người:  sanh,  già,  bệnh,  chết  như  trên  đã  nói. Nếu  tu  tập  không  có  Tứ  Thần  Túc  thì không bao giờ làm chủ bốn sự khổ đau này được.
Tứ Thần Túc không phải là pháp môn tu tập  mà  là  bốn thần lực  do tu  tập  từ  pháp môn Thân  Hành  Niệm  mà  có.  Muốn  tu  tập  pháp môn  Thân  Hành  Niệm  thì phải  tu  tập  pháp môn  Tứ  Niệm  Xứ;  muốn  tu  tập  pháp  môn  Tứ
 Niệm  Xứ  thì phải  tu  tập  pháp  môn  Tứ  Chánh Cần. Trong pháp môn Tứ Chánh Cần có pháp môn Chánh Niệm Tỉnh Giác; muốn tu tập pháp môn  Chánh  Niệm  Tỉnh  Giác  thì phải  nhiếp tâm trong thân hành nội hay thân hành ngoại. Nhưng trước tiên chúng ta nên nhiếp tâm trong thân hành ngoại tức là đi kinh hành, đi kinh hành nhiều là tốt nhất, bởi vì đi kinh hành thì phá   được   tâm   hôn  trầm,   thùy  miên,   vô   ký ngoan không và hôn tịch v.v.. Nhưng đi kinh hành  cần  phải  nhiếp  tâm  kỹ  từng  bước  đi  để tâm nhiếp phục cho được hành động bước đi.
Căn bản nhất là ở chỗ Chánh Niệm Tỉnh Giác. Từ Chánh Niệm Tỉnh Giác đạt được bốn chỗ:  thân,  thọ,  tâm,  pháp  sung mãn.  Do  bốn chỗ:  thân,  thọ,  tâm,  pháp  sung  mãn  mới  có được  Tứ  Thần  Túc.  Chính  bốn  năng  lực  Thần Túc là phương pháp sử dụng làm chủ sanh tử luân  hồi.  Đó  là  pháp  môn  sau cùng  của  Phật giáo.
Con đường tu tập của Phật giáo chỉ có bấy nhiêu  đó  mà  thôi.  Xin  Bác  nên  lưu  ý  về  sự  tu tập.  Khi tu  tập  có  Tỉnh  Giác  Chánh  Niệm  thì sau nay mới có Tứ Thần Túc. Còn ngược lại không  Tỉnh  Giác  Chánh  Niệm  thì không  bao giờ  có  Tứ  Thần  Túc.  Bởi  vì  Tứ  Thần  Túc  bắt
 đầu  phải  có  sức  Tỉnh  Giác,  nhờ  có  Tỉnh  Giác mới sống trong Chánh Niệm; nhờ có Chánh Niệm tâm mới đoạn trừ được tham, sân, si.
Cuối cùng Diệu Quang có lời thăm và chúc bác  cùng cả  gia  quyến  đều  được  mạnh  khoẻ  xả tâm tốt.
Kính  thư
Diệu Quang

KINH DUY MA CẬT CÓ PHÂI PHẬT THUYẾT KHÔNG?
Câu hỏi của Tuệ Hạnh
Hỏi:   Kính  bạch   Thầy!   Trong  lời   tựa Duy   Ma   Cật   Sở   Thuyết   Kinh   pháp   sư  Từ Thông viết: “Kinh Duy  Ma  Cật là bộ kinh thuộc hệ tư tưởng Đại Thừa viên đốn là thứ giáo lý mãn tự. Giáo  lí kinh  Duy Ma Cật  dạy  cho mọi người   về   pháp  môn  giải   thoát   bất   tư  nghì. Hành  giả  thực  hiện  được  là  thành  Phật  như đức  Phật  Thích  Ca và  thập  phương  chư  Phật đã thành”.
 Điều   mà   con   muốn   hỏi   Thầy:  “Thật   ra kinh  Duy  Ma Cật  có  phải   là kinh  Phật  thuyết hay  không?  Nhờ  Thầy  chỉ  dạy  cho con pháp môn giải thoát khó nghĩ bàn này”.
Đáp: Kinh Duy Ma Cật là kinh Đại Thừa ca ngợi một cư sĩ Duy Ma Cật là một vị Bồ Tát đã  thành  Phật,  có  trí tuệ  bất  tư  nghì  không thể nghĩ bàn. Vì thế, không có ai lý luận hơn Ngài được.
Kinh so sánh  trí tuệ  Duy Ma  Cật  như  trí tuệ   Phật   (Trí   tuệ   không   nghĩ   bàn).   Vì  thế, không  có  một  vị  đại đệ  tử  nào  của  Phật  dám đến  thăm  ông,  dù   là  đại trí tuệ  đệ  nhất  như ông  Xá  Lợi Phất  cũng  còn  sợ  hãi,  khiếp  đảm khi nghe nói đến đi thăm bệnh Ông. Do trí tuệ Ông cao siêu như vậy nên đức Phật mới sai ông Văn  Thù  Sư Lợi Bồ  Tát  đến thăm.  Chỉ  có  ngài Văn  Thù  Sư Lợi  có  đủ   trí tuệ  mới  dám  đến thăm bệnh và đối đáp với ông mới cân xứng.
Kinh Duy  Ma  Cật  ra đời  nhằm  có  ý  đồ diệt Phật giáo để dựng lên một giáo pháp mới. Đó  là  giáo  pháp  bất  nhị,  còn gọi  là  giáo  pháp bất tư nghì.
Kinh Duy Ma Cật dựng  lên một người cư sĩ vĩ đại khiến cho tất cả đệ tử của đức  Phật chỉcần nghe đến tên Duy Ma Cật là đã  rét run,
cúi  đầu,  rụt  cổ  như rùa,  đó  là  những  đệ  tử  lớn của đức Phật như: ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền  Liên,  ôâng  Phú  Lâu  Na,  ông  Ca  Chiên Diên  v.v..  còn  như  vậy  huống  các  đệ  tử  khác. Biết  hàng  đệ  tử  Thanh  Văn  của  mình  trí tuệ còn kém xa nên đức Phật của kinh Duy Ma Cật phải  nhờ  đến  một  vị  Bồ  Tát  ảo  tưởng  của nhà văn  Khưu  Trường  Xuân.  Một  nhà  Văn  Trung Hoa giàu trí tưởng tượng, tưởng ra những nhân vật tu theo Tiên đạo. Đó là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trong truyện “Phong Thần Diễn Nghĩa”.
Trong  bộ  truyện  Phong Thần  Diễn  Nghĩa có  hai  vị  tiên  ông,  đệ  tử  của  vị  tiên  trưởng Nguơn  Thủy  Thiên  Tôn.  Đó  là  ngài  Phổ  Hiền và  ngài  Văn Thù. Trong  truyện có ghi  chú: hai vị  tiên ông này sau tu theo  Phật  giáo được  đắc quả thành Phật.
Đọc kinh Duy Ma Cật chúng ta rất buồn cười cho những ai không sáng suốt vội tin theo mà không cân nhắc. Người viết kinh Duy Ma Cật đã  không khéo léo, nên kinh được dấu đầu, mà  lại  ló  đuôi  khiến cho người  có  trí một  chút là đã tìm cái giả mạo của kinh.
Kinh Duy Ma  Cật  là  một  tập  tiểu  thuyết lý luận triết lý bất nhị, khéo mượn những nhân vật tiểu thuyết Trung  Hoa lồng vào kinh để lôi cuốn hấp dẫn người đọc.



Cho nên, đọc xong kinh Duy Ma Cật người có  sự  nhận  xét  tinh vi một  chút  thì biết  ngay kinh này không phải Phật thuyết, kinh này chỉ do các Tổ viết ra để diệt Phật giáo, nếu các bạn lưu ý sẽ nhận ra điều giả mạo và có ý đồ thâm độc này.
Đạo  Phật  ra đời  đã  làm  đảo  lộn  tư  tưởng của loài người bằng bốn sự thật: “Khổ, Tập, Diệt,  Đạo”. Bốn chân lí độc đáo này đã có sẵn của loài người. Ngài chỉ cần khơi dậy khiến cho tất  cả  giáo  lý  của  các  tôn  giáo  và  các  triết  lý của  những  nhà  triết  học  hiện  hành  trên  hành tinh này  đã  đổ  vỡ,  trở  thành  những  ảo  tưởng. Thế mà lại có một pháp môn bất nhị không hai này  lại  bảo  rằng  Phật  thuyết,  thì e rằng  rất oan cho đức Phật. Đức Phật bao giờ nói chuyện giáo pháp không tưởng như vậy. Mới nghe mọi người tưởng là mới mẻ của kinh sách Đại Thừa được  diễn  tả  trong  kinh  Duy  Ma  Cật,  nhưng nào  ngờ  giáo  pháp  ấy  cũ  rích  của  Bà  La  Môn xưa kia. Trong  khi kinh sách Nguyên Thủy còn ghi lại lời đức Phật đã dạy, Ngài đập sạch và quét  62 lập  luận  tà  giáo  ảo  tưởng  của  Bà  La Môn không còn ngoi đầu dậy được nữa.
Thế  mà,  kinh Duy  Ma  Cật  lại  bảo  kinh này  Phật  thuyết  như  trên  đã  nói  thì có  ai  mà tin không?  Chỉ  có  những  người  không  đủ  trí quán xét thì mới tin như vậy.
Kinh đã  không phải Phật thuyết thì pháp môn giải thoát khó nghĩ bàn cùng không phải của Phật. Đó là một pháp tưởng của ngoại đạo.
Thưa  các  bạn!  Đừng  bao  giờ  đem  pháp môn  cao siêu  mà  gán  cho Phật,  vì  pháp  Phật không  có  cao siêu,  chỉ  là  những  pháp  môn  rất gần gũi với đời sống của con người, nên nó “...thiết  thực,  cụ  thể  không  có  thời  gian đến để mà thấy...”.
Pháp môn không thể nghĩ bàn tức là pháp môn  với  ý  thức  không  thể  hiểu  được  là  một pháp môn ảo tưởng; là một pháp môn nói vọng
ngữ.
Pháp  môn  của  Phật  là  pháp  môn  đem ra dạy  cho người  tu  tập  để  mang  lại  lợi  ích  cho con  người,   sống   không   làm   khổ   mình,   khổ người và khổ cả hai, còn pháp môn không thể nghĩ  bàn  thì làm  sao hiểu  được,  mà  đã  không hiểu được thì làm sao tu tập được; mà đã không tu tập được thì làm sao có giải thoát được. Như vậy, pháp môn bất tư nghì là pháp môn lừa đảo con người. Còn nếu bảo rằng pháp môn này để dạy chư Phật và các bậc A La Hán thì chư Phật và các bậc A La Hán đâu cần phải tu pháp môn
 này, vì các Ngài đã chứng đạt chân líù giải thoát hoàn toàn, làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi. Cho  nên,  các  Ngài  đối  với  pháp  môn  không nghĩ bàn này là một pháp môn hý luận cho vui chơi, chứ có lợi ích gì cho cuộc sống của loài người  đâu.  Vì  các  ngài  biết  đó  là  pháp  môn vọng ngữ, lừa đảo  con người  chứ  không thể lừa đảo các Ngài được. Phải không các bạn?
Nghe nói đến pháp môn khó nghĩ bàn là biết ngay pháp môn nói dối. Cho nên, khi nghe Bồ  Tát  Duy  Ma  Cật  nói:  “Bồ   Tát   bệnh   vì chúng  sanh bệnh”  thì biết  ngay Bồ  Tát  Duy Ma Cật không hiểu Phật giáo, nên mới nói câu ấy. Người không hiểu Phật giáo mà lại nói kinh này của Phật thuyết là sai. Đạo Phật là đạo tự cứu  mình  chứ  không  ai  cứu  mình  được.  Vì thế, lời  tuyên  bố  của  kinh  Duy Ma Cật  chứng tỏ  là Ông  chẳng  hiểu  gì  về  đạo  Phật  chút  nào  cả. Đức Phật đã chẳng bảo: “Nếu ta nói một điều mà  không  ai hiểu  là  ta  có  nói  láo”.  Vì vậy mà ở đây nói pháp môn không nghĩ bàn là nói láo. Có đúng không các bạn?
Vậy pháp  môn giải  thoát  khó  nghĩ  bàn là pháp môn nói láo, pháp môn này chỉ gạt người vô  minh,  chứ  người  nào  chỉ  cần  có  một  chút hiểu biết cũng không thể lừa đảo họ được.
 Pháp môn giải thoát khó nghĩ bàn là pháp môn  lừa  đảo  như  trên  đã   nói,  chỉ  có  những người sống trong tưởng tri nên mới dễ tin pháp môn này.
Pháp môn này chỉ lý luận chơi cho vui chứ chưa có  ai  sống  được,  vì  con người  là  có  sự  tư duy  suy nghĩ,  chứ  con người  không  phải  đất, đá, cỏ, cây v.v..
Như trên đã  nói kinh Duy Ma Cật là kinh tưởng, vì thế trưởng giả Duy Ma Cật là người tưởng, chứ không phải là người có thật. Căn cứ vào  lịch  sử  loài  người  thì cư sĩ  Duy  Ma  Cật không có. Cho nên, tác giả kinh Duy Ma Cật khéo tưởng tượng ra nhân vật và pháp môn bất tư nghì.
Kính  thưa các bạn! Những pháp môn đức Phật dạy trong kinh Nguyên Thủy, như pháp môn Hơi  Thở  rõ  ràng như vậy mà  các  bạn  còn tu  tập  sai  tới,  sai  lui,  huống  hồ  là  pháp  môn khó  nghĩ  bàn của Duy Ma Cật thì biết  đâu  mà tu tập. Phải không các bạn?
Cho nên,  kinh Duy Ma  Cật  là  kinh vọng ngữ.  Và  tu  tập  pháp  môn  Bất  Tư Nghì  để  làm gì? Để lý luận tranh đua hơn thiệt với thiên hạ ư! Đạo Phật không có mục đích đó. Xin các bạn lưu ý.




PHỤ  BẢN

ĐƯỜNG XÂY DỰNG NHÂN CÁCH
Kỷ niệm sinh nhật Thầy 4/8/ Ất Dậu   Trong   sự   phát   triển   của   xã   hội   loài
người, các tôn giáo đã cùng với sự vận động của xã hội mà xuất hiện. Đó là sự phản ánh một cách tự nhiên quá trình nhận thức của loài người, đối  với  các  hiện tượng khách quan đang tồn  tại  ngoài  ý  thức  con người  thông  qua các tôn giáo mà họ đã tin.
Vì  vậy,  các  tôn  giáo  chính  là  sản  phẩm của loài người, lấy con người làm đối tượng nghiên cứu, để rồi quay trở lại tồn tại cùng con người.
Nhưng do các nghiên cứu đó có những xuất phát   điểm   khác   nhau,  mang  tính  mục  đích khác  nhau về  con người  và  về  thế  giới,  nên  có quan điểm rất khác nhau.
Ví  dụ:  Đạo  Hồi,  đạo  Do Thái,  đạo  Ki  Tô giáo đều có chung một quan niệm cho rằng con người  là  do  thiên  chúa  sinh  ra.  Vì  vậây,  con người còn phải có nghĩa vụ phụng sự cho Thiên Chúa,  phụng  sự  đức  tin với  Chúa,  người  sáng tạo ra muôn loài trên thế gian này.
Đạo Phật cho rằng có thế giới này là do duyên hợp mà tồn tại, nếu duyên hết thế giới này  sẽ  tan.  Nghĩa  là  thế  giới  này  cũng  chỉ  là thế  giới  của  nhân  quả.  Bản  chất  của  thế  giới chỉ là khổ, không, vô thường và vô ngã, qua đó cho thấy đạo Phật không công nhận có Thượng Đế,  có  Thiên  Chúa,  có  Ngọc  Hoàng  v.v…  nghĩa là  đạo  Phật  không  công  nhậân  có  thế  giới  thần linh mang  tính siêu  hình,  nơi  mà  thần  quyền có quyền ban phúc hoặc giáng họa cho thế giới con người.
Còn đối với con người xuất hiện trong cuộc sống từ nhân quả mà sinh ra, sống trong nhân quả chết lại trở về nhân quả.
Từ những nhận thức khác nhau về con người  và  về  thế  giới  như vậy, mà  mỗi  tôn giáo có sự nghiệp giáo dục các tín đồ mang tính mục đích khác nhau.
Trong   bài  viết  này  chúng  tôi  không  có tham vọng trình bày sự khác nhau trong sự nghiệp giáo dục của các tôn giáo. Mà chúng tôi chỉ  muốn  đề  cập  đến  sự  hiểu  biết  còn  rất  hạn chế  của  chúng  tôi,  về  sự  nghiệp  giáo  dục  của đạo  Phật,  thông  qua  tiêu  đề,  đạo  Phật,  con
 đường  xây  dựng  nhân  cách  để  chia  sẽ  đến  các bạn cùng tham cứu về một nền đạo đức mà đạo Phật  đã  mang tới cho loài  người, mà  chúng tôi đã cảm nhận được qua việc tu học và rèn luyện.
Muốn hiểu được mục đích giáo dục của đạo Phật  đối  với  con người,  chúng  ta  hãy  tìm hiểu khái niệm Nhân Cách. Vậy nhân cách là gì?
Nhân cách chính  là  tính người  - là  những hành  vi ứng  xử  văn  hóa  của  con người  đối  với môi trường sống của mình,  mà thông qua đó có thể  đánh  giá  được  những  giá  trị  đích thực  của con người.
Vậy,  như  thế  nào  là  người  có  nhân  cách? Xin được dẫn lời của Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã nói: “Con người chỉ là một loài động vật  như   bao  loài  động  vật  khác.  Nhưng con  người  chỉ  được  gọi  là  con  người  khi nào con người có đạo đức. Còn nếu con người không có đạo đức, con người còn ác độc hơn loài cầm thú”.
Từ nhận định trên giúp cho chúng ta hiểu rõ: con người có nhân cách phải là con người có đạo đức, hay phẩm chất đạo đức chính  là phẩm cách của con người.
 Đến đây chúng ta gặp phải một vấn đề rắc rối,  bởi  vì,  đặt  vấn  đề  chuẩn  mực  để  định  giá trị  đạo  đức  là  rất  khó,  cách  đánh  giá  đạo  đức rất  khác  nhau,  nó  phụ  thuộc  vào  quan  niệm sống  của  xã  hội,  nó  thay  đổi  theo  quan điểm giai  cấp,  thay  đổi  theo  thể  chế  chính  trị,  thay đổi theo hoàn cảnh, tùy theo mỗi lúc mà vấn đề đạo đức lại có cách nhìn  nhận và đánh giá khác nhau.
Ví  dụ:  người  phụ  nữ  trong  xã  hội  phong kiến  mà  chửa  hoang,  sẽ  bị  những  dư luận  xã hội  đương thời  lúc  đó,  lên  án  một  cách  mạnh mẽ và xử phạt một cách nghiêm khắc.
Cũng trong xã hội phong kiến, lại có người thông cảm đứng ra bênh vực và bảo vệ họ, như nhà thơ Hồ Xuân Hương đã viết:

“Không chồng mà chửa mới ngoan
Có  chồng  mà  chửa  thế  gian  thường tình”
Trên thực tế quan niệm đạo đức đã  bị lạm dụng  để  phục  vụ  cho  những  mục  đích  khác nhau của loài người.
Trong cái mớù bòng bong rắc rối của những quan niệm đạo đức do con người đặt ra như thế, nó không mang tính nhân bản. Vì vậy cần phải
 có một cách nhìn  khác, một cách đánh giá khác mang  tính khách  quan  và  mang  tính chuẩn mực.
Rất  may mắn  đạo  Phật  đã  giúp  đỡ  chúng tôi  và  cả  các  bạn nữa, nếu  bạn đồng thuận với quan điểm  này của đạo Phật, nó sẽ  giúp chúng ta thoát ra khỏi những rắc rối này.
Quan điểm vì đạo đức của đạo Phật rất cụ thể,   không   làm   khổ   mình,   không   làm   khổ người, không làm khổ cả hai. Chỉ cần ngắn gọn như  vậy  nhưng  vô  cùng  chính  xác,  và  mang tính bao dung và hàm chứa tất cả.
Chỉ cần sống không làm khổ mình,  không làm khổ người là chúng ta đã trở thành một người có đạo đức.
Vấn đề đạo đức mà đạo Phật đề cập tới tưởng chừng đơn giản dễ hiểu, nhưng thực hiện được thì không đơn giản một chút nào.
Muốn  thực  hiện  được,  nó  đã  đòi  hỏi  phải có một sự hiểu biết sâu sắc, có trí tuệ quán xét, để điều chỉnh các hành vi ứng xử của mình  đối với môi trường sống sao cho có văn hóa.
Bởi  vì  đã  từ  lâu,  con người  đã  quen sống một  cách  tùy  tiện,  buông  thả  để  chạy  theo những thói  quen mang đầu óc tính toán, vị  kỷ,
 vụ  lợi,  tay  với  người  này  để  chấp  nhận  lấy người khác, thì cũng ở trong vòng lẩn quẩn chẳng hơn gì. Hoặc có người lén lút làm việc tà hạnh,  vi phạm  nhân  luân,  khi thân  bại  danh liệt cũng chẳng sung sướng mà còn chuốc họa.
Do con người sống trong cuộc đời có nhiều mê lầm  quá, ít ai  hiểu  được  chính  dục  vọng đã đẩy người ta vào lỗi lầm. Dục vọng làm con người  điên  đảo,  vì  những  dục  vọng  con người lao  vào  tranh đấu  và  giành  giật  của  nhau, tìm cách mưu mô hãm hại lẫn nhau. Cho nên, cuộc sống  của  con người  đầy  những  tai  ương, hoạn nạn.
Chỉ  khi nào  loài  người  có  một  nền  văn minh khác, một nền văn minh tinh thần trong sáng,  thánh  thiện,  mang  tính đạo  đức  nhân bản,  khi đó  con người  mới  thoát  ra khỏi  khổ đau,  và  những  giọt  nước  mắt  đắng  cay  của chúng sinh không còn phải nhỏ xuống nữa.
Chúng ta tiếp tục tìm hiểu về nền đạo đức của đạo Phật.
Đức  Phật  sau  khi  chứng  đạo,  bằng  tuệ Tam Minh Ngài hiểu thấu chúng sinh có những hạnh   nghiệp   thiện,   ác   khác   nhau,  nên  thọ nhân quả báo khác nhau: người giàu sang, kẻ nghèo hèn, người tốt kẻ xấu, người khỏe mạnh, kẻ ốm yếu bệnh tật, người xinh đẹp, kẻ xấu xí, người sống lâu, kẻ chết yểu v.v.. tất cả đều do hạnh  nghiệp  của  chúng  sanh  đã   tạo  ra  mà nhậân lãnh quả khổ vui.
Dù  hạnh  nghiệp  khác  nhau,  chúng  sanh vẫn  không  thể  thoát  ra khỏi  cái  khổ  của  vị ràng buộc  vào vòng sanh tử luân hồi và  bị  trôi lăn trong vòng lục đạo. Nếu làm ác sẽ còn bị dễ rơi xuống những vực thẳm hay hang sâu của những kiếp  sống, mà ở  đó  họ, luôn luôn bị  săn đuổi bởi những đau khổ cùng cực, do nghiệp lực của cái ác mang lại.
Nếu  trong  kiếp  sống  hiện  tại,  họ  được nhận  một  giáo  pháp  chân  chính,   từ  một  vị Thầy  đã   chứng  đắc,  và  nếu  khéo  tu  tập  rèn luyện,  họ  có  thể  chuyển  đổi  nghiệp  nhân  quả và  thậm  chí  còn  có  thể  thoát  ra khỏi  sanh  tử luân hồi.
Chính  vì vậy 50 năm trụ thế, đức Phật đã mang triển  khai  dạy cho mọi  người  giáo  lý  và các phương pháp thực hành từ những kinh nghiệm chứng đắc và sự hiểu biết sâu sắc của Ngài về một con đường thoát khổ, để mọi người qua đó  tu  tập  rèn  luyện  sẽ  trở  thành  người  có đạo  đức,  nhờ  sống  có  nền  nếp  đạo  đức  mà  các thiện pháp  được  tăng trưởng, các  ác  pháp được ngăn chặn và tiêu diệt.
Đấy chính là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử  loài  người, không có  đổ  máu giúp con người  thoát  được  đau khổ, là  ý  nghĩa thiết thực  và  lợi  ích  cụ  thể  mà  đạo  Phật  mang  tới cho mọi người.
Đạo đức của đạo Phật rất là cụ thể: không làm  khổ  mình,   không  làm  khổ  người,  không làm khổ cả hai.
Nếu   người   nào   tu   theo   đạo   Phật,   mà không  trở  thành  người  có  đạo  đức  thì trong cuộc  sống  hằng  ngày  còn  có  những  biểu  hiện của sự tham lam theo những định kiến sai lầm của  lòng  đố  kỵ,  tị  hiềm  ganh ghét,  sân  hận  từ đó  dẫn  tới  những cuộc  xung đột  mang đau khổ cho mình  và cho người.
Chính  từ những hành vi, ứng xử thiếu văn hóa,  mang  bản  chất  của  sự  tham  lam  và  sân hận,  mà  con  người  đã   sống  không  đạo  đức, thiếu đi tính người.
Do vậy từ bao đời nay, vấn đề giáo dục đã được  xã  hội  loài  người  rất  chú  trọng,  bởi  giáo dục là một qui luật phát triển của xã hội loài người,   nhằm   truyền   trao   kiến   thức   của   lớp người   trước   cho  lớp   người   sau,  nhằm   mong muốn thoát ra bản năng của loài cầm thú.
Giáo  dục  là  một  sự  nghiệp  mang đến  cho con người  những tri thức  hiểu  biết, để  sử dụng nó  vào  mục  đích khám  phá  và  sáng tạo,  nhằm phục  vụ  cuộc  sống  con  người  ngày  một  thỏa mãn hơn những nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội loài người.
Trong xã hội hiện tại ngày nay, do được hưởng  một  nền  giáo  dục  đa  dạng  mang  tính thực dụng mà con người không còn lạc hậu như trước,  nhưng  thực  tế,  liệu  xã  hội  loài  người  đã hết khổ đau?
Sự thật chưa một phút giây nào trái đất được bình  yên, ở nơi này, ở nơi kia không giây phút  nào  không  có  những  giọt  nước  mắt  đau khổ của chúng sanh phải nhỏ xuống.
Trên  thực  tế  chúng  ta  nhận  thấy:  ngày nay khoa học  kỹ  thuật  phát  triển  như  vũ  bão, đã  đẩy  nền  kinh tế  phát  triển  lên  theo,  nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất để thỏa mãn ham muốn của con người.
Để có nền kinh tế phát triển, phải có đầy đủ nguyên liệu, nhiên liệu cung cấp cho sản xuất,  do thế,  ngày  nay  các  nguồn  tài  nguyên



được khai thác một cách bừa bãi, rừng bị chặt phá một cách vô ý thức, đã phá hủy môi trường sinh  thái  của  loài  người,  làm  cho  nhiều  loài động thực vật bị hủy diệt.
Nhiều  nhà  máy  sản  xuất  ngày  đêm,  đã tuôn  vào  tầng  khí  quyển  hàng  triệu  mét  khối khí  cac bon dẫn  đến  diệt  tầng  Ô  zôn  - lớp  áo giáp bảo vệ trái đất bị phá thủng.
Nhiều  loài  động  vật  bị  con người  săn  bắt, chế biến thành thực phẩm, bị con người khai thác  một  cách  triệt  để,  khiến  nhiều  loài   có nguy cơ tuyệt chủng.
Vì  thế,   ngày  nay  các  cuộc  chiến  tranh tương tàn, tương sát giết hại lẫn nhau không giảm đi, mà ngày càng có chiều hướng gia tăng. Nhiều  bệnh  dịch  quái  lạ  phát  sinh,  trong  đó phải  kể  đến  bệnh thế  kỷ  HIV đã  cướp  đi và  sẽ cướp  đi  hàng  chục  triệu  sinh  mạng,  mà  ngày nay khoa học vẫn chưa tìm cách chữa trị được.
Thời  tiết  ngày  nay  cũng  trái  mùa,  trái buổi,  giữa  mùa  hè  Châu  Phi  lại  có  tuyết  rơi, giữa  mùa  đông  Châu  Âu  có  ngày  nhiệt  độ  lên tới  40°, rồi  động đất, núi lửa, hạn hán bão  lụt, sóng thần, hỏa hạn cháy rừng xảy ra liên miên ở nơi này, nơi kia trên thế giới.
 Tất cả những hiện tượng xảy ra, nhằm cảnh  báo  cho loài  người  biết  vì  cơn thịnh  nộ của thiên nhiên theo qui luật nhân quả mà không có một kẻ làm ác nào tránh khỏi. Cho nên,  tất  cả  mọi  biến  cố  xảy  ra trên  hành  tinh này đều không có một người nào chịu hàm oan. Tất  cả  cách  xử  phạt  rất  công  bằng,  công  lý trong  đạo  luật  này.  Trong  đạo  luật  này  người cầm  cán  cân công  lý  chính  lương  tâm  và hành động thiện ác của mỗi người.
Nếu  con người  không  chịu  dừng  ngay các tội ác. Cơn thịnh nộ của thiên nhiên theo qui luật nhân quả sẽ không tha thứ.
Nếu nền văn minh hiện đại ngày nay có khả năng chế ngự được các sức mạnh của nhân quả, của thiên nhiên không? Liệu con người ngày nay có khả năng ngăn chặn nổi được các cuộc  chiến  tranh đẫm  máu,  đang xảy  ra ở  nơi này nơi khác trên thế giới, và có thể chặn tay được  những  khủng  bố  cực  đoan đang  gieo  rắc cái chết đến cho mọi người?
Tất  cả  những  câu  hỏi  trên  đã  và  đang là nỗi  bức  xúc  trăn  trở  cho nhiều  người  có  lương tri trên thế giới. Nhưng  hỏi chỉ để mà hỏi, con người vẫn chưa làm sao tìm ra được một câu trả lời  thỏa  đáng,  để  thoát  ra  được  khỏi  những

ràng buộc của các qui luật nghiệt ngã đang vây quanh  chúng  ta,  để  cuộc  sống  này  được  bình yên.
Chỉ đến khi nào loài người có suy nghĩ nghiêm túc, về những hiện tượng đang xảy ra chung quanh chúng ta trong mối quan hệ nhân quả  tương  hổ.  Lúc  đó,  con người  mới  có  một thái độ ứng xử có văn hóa với chính môi trường sống  của  chính  mình,  bằng  một  thái  độ  trân trọng,  nâng  niu  và  gìn  giữ,  lúc  đó  con người mới thoát ra những nỗi khổ đau do chính con người  gây  ra. Lúc  đó  con người  mới  thoát  ra khỏi bản năng loài cầm thú. Hay nói cách khác con người sống được với nền đạo đức nhân bản nhân quả không làm khổ mình,  không làm khổ người.
Nhưng  điều  này  thật  là  khó  chỉ  vì  chúng sanh vô  minh điên đảo, tạo ra bao lỗi lầm  gây ra bao tội ác, để chịu bao quả khổ, điều này lại càng  khó,  vì  con người  nếu  không  có  nghị  lực, và sự dũng cảm gan dạ để chiến thắng những thói  quen,  tật  xấu  đã   gắn  bó  cuộc  đời  mình trong những hưởng lạc, họ sẽ  là  và  đã  là nô lệ cho những  ham  muốn  thấp  hèn,  vì  thế  lương tâm bị suy đồi, nền đạo đức bị xuống cấp một cách nghiêm trọng, những tộâi lỗi nẩy sinh như cỏ  dại  mọc  sau cơn mưa. Phật  pháp  gọi  đó  là thời kỳ mạt pháp, thực ra pháp không mạt, chỉ có lương tâm con người bị tha hóa mà thôi, vì muốn có danh có lợi, con người sẵn sàng phạm tội ác không tránh né.
Vì  sao  chúng  tôi   mở   rộng  vấn  đề,   bởi chúng  tôi  không  muốn  tách  mối  quan  hệ  của con người  ra khỏi  thế  giới  loài  người.  Vì  thế giới  của loài  người  là  thế  giới  khổ  đau đầy  bất trắc,  vui  đó  buồn  đó,  cười  đó  khóc  đó,  mấy  ai được thanh thản, an lạc.
Gia đình là tế bào của xã hội, nhưng nhiều cặp vợ chồng nào được sống an vui hạnh phúc trọn vẹn đâu? Họ đều có sự vui, sự buồn, nghịch ý, trái lòng bất toại nguyện v.v.. nhưng  vì cuộc sống là như vậy không có lối nào thóat ra hơn, nên đành phải cam lòng nhẫn chịu mà sống với nhau  đến  đầu  bạc  răng  long.  Hoặc  ở  người  có tâm hồn nổi loạn thì tìm đến sự ly dị, chia của. Ngoài  ra là  phải  nhìn  đời  bằng  đôi  mắt  nhân quả,  để  sống  trong  đạo  đức  nhân  bản  - nhân quả.  Nếu  một  ai  chịu  khó  áp  dụng  vào  tu  tập, sẽ  thấy  lợi  ích vô  cùng,  vì nó  chuyển hóa được nhân quả.
Ví  dụ  trong  cuộc  đời  gặp  một  đối  tượng nào đó nổi nóng cãi  cọ với mình.  Lúc đó chúng ta  có  thể  nhẫn  nhịn  mọi  xô  xát  mà  họ  mang đến, không một lời phàn nàn oán trách, với ý thức  đầy  đủ  của  một  người  quyết  tâm  trả  cho xong món  nợ  của  tiền  kiếp,  và  ta  có  thể  bình tỉnh tìm lời khuyên giải họ. Thật kỳ lạ thay áp dụng lời dạy của Phật, chúng ta sẽ được an lạc và thanh thản tuyệt vời và ta hiểu ra chân líù.
Phật nói gặp khổ không buồn đó là giải thoát, vậy sự giải thoát đó là gì?
Đó là sự giải thoát ý thức khỏi sự trói buộc của  ý  thức,  nếu  trước  đây  chúng  ta  chấp  chặt vào  lời  nói  và  việc  làm  của  đối  tượng,  thì sự việc  bỗng trở  nên phức  tạp  hổn độn và  lôi  kéo chúng ta vào phiền não.
Bây  giờ  chúng  ta  nhìn  sự  việc  bằng  cái nhìn hiểu biết sâu sắc hơn, rộng mở hơn, yêu thương hơn, thì sự việc bỗng trở thành bình thường không đáng để lưu ý.
Bởi  thế  trước  mỗi  nghịch  cảnh  của  cuộc đời,  chúng  ta  không  còn  bị  chìm  đắm  và  nỗi oán  hận,  và  tâm  hồn  chúng  ta  bỗng  trở  nên yên tỉnh và sáng suốt một cách lạ thường.
Trong  chúng ta sẽ  dâng lên một  tình cảm với đối tượng của ta, vừa xót thương đồng thời, cũng vừa cảm ơn họ  về  những nghịch cảnh mà họ đã tạo ra cho chúng ta.
Xót thương là bởi  họ đã  tự làm  khổ  họ  và đầu  độc  bầu  không  khí  của  môi  trường  sống bằng những chuyện không đâu.
Cảm  ơn là  họ  đã  tạo ra cho chúng ta một dịp để  thử  thách,  và  đó  chúng  ta  rèn  luyện  và tu tập tâm hồn chúng ta thật tốt, học được chữ nhẫn và học cách yêu thương của Phật.
Khi biết nhìn  đời bằng đôi mắt nhân quả, mọi  sự  việc  bỗng  trở  nên  đơn giản,  rõ  ràng  và ta có nghị lực để chịu đựng.
Khi biết nhìn  đời bằng đôi mắt nhân quả, thì  con  người   không  còn  muốn  làm   ác,   chỉ muốn tạo  ra nhân lành thiện để  đem lại hạnh phúc cho mình  và cho người.
Khi biết  nhìn  đời  bằng  đôi  mắt  nhân  quả con người  biết  xa  rời  những  ham  muốn  thấp hèn,  để  vươn  lên  một  đời  sống  thánh  thiện
hơn.
Các bạn có biết giá trị đích thực của con người  là  gì?  Đó  là  nhân  cách  của  một  người sống vì người khác, khi đó họ là người có hạnh phúc.
 Nói  đến  hạnh  phúc  là  nói  đến  niềm  vui của  một  người  biết  sống  vì  người  khác.  Khi người nói đến người, là khi họ biết làm phát triển con người họ một cách điều hòa và đầy đủ về  tất  cả  phương tiện  thể  chất  tri thức  xã  hội và tâm đức.
Cho nên có một câu danh ngôn đã viết “Người ta nghiêng mình trước tài năng, song  người   ta   chỉ   bái   phục   trước   lòng nhân”.
Vì  thế,  của  cải  danh  lợi  không  tạo  ra giá trị cho con người, nó chỉ tô điểm cho con người và  thực  ra có  cái  gì phù  vân  hơn là  của  cải  và danh  vị,  mà  suốt  đời  con người  phải  chạy đuổi theo nó một cách mệt mỏi.
Vì vậy, nếu ta muốn sống có hạnh phúc, ta hãy ban phát hạnh phúc cho con người xung quanh bằng những điều thiện tâm, và từ việc làm thiện tâm của ta, sẽ làm nở ra một nụ cười trên môi của một người khác.
Thưa  các  bạn!  Chỉ  khi nào  chúng  ta  đã quá  nếm  trải  mùi  vị  đắng  cay, lúc  đó  chúng  ta mới có ý thức đầy đủ để đánh giá đúng đắn hơn vì  niềm  hạnh  phúc  chân  chính  này,  mà  đến bây giờ nhiều người vẫn hiểu sai về hạnh phúc, mơ hồ  như là  một khái  niệm  của sự thụ  hưởng vật chất.
Nếu bạn có được cặp mắt trí tuệ nhân quả của  đạo  Phật,  trang  bị  cho cái  nhìn  sâu  sắc, bạn  sẽ  thấy  niềm  hạnh  phúc  giả  tạm  của cuộc đời  mà  nhiều  người  đang  ham  hố,  là  không thực và đầy nguy hiểm. Nó là sự cám dỗ để lôi kéo con người  vào  những kiếp  khổ  trong tương lai vì nó được, hình thành từ những dục vọng thấp kém.
Bởi  vì  tất  cả  sẽ  hư  họai,  chỉ  có  nghiệp lành hay dữ là đeo đuổi con người sau khi chết. Cho nên, khi đang còn sống mọi người chỉ biết lấy vật thực để nuôi thân. Ít ai biết lấy đạo đức để nuôi sống tâm hồn mình.
Bởi  vì  chúng  ta  đã  bị  nghiệp  ác  chi  phối, cho nên  chúng  ta  nhìn  nhận  các  sự  việc  trên mặt hiện tượng đối đãi của đúng, sai, phải, trái trong  thế  giới  nhị  nguyên  đó,  chúng  ta  đã  bị kẹt  cứng ở  bờ  bên  này  hoặc  bờ  bên  kia. Bị  lạc trong thế giới ma quái của những khái niệm ấy, chúng  ta  đã   đánh  mất  đi  con tim của  mình, đánh mất đi tiếng nói của tình thương yêu, mà chỉ  có  nó  mới  xóa  đi  lòng  thù  hận,  mà  chỉ  có tình thương mới vượt qua, và siêu thoát mọi đúng, sai, phải, trái. Do thiếu  tình thương mọi
 Người đang quằn quại khổ đau mà không ai hay biết.
Chính  vì vậy giới luật của đạo Phật là cái phao giúp chúng ta vượt qua biển khổ. Giới luật của  đạo  Phật  chính  là  lẽ  sống,  là  nền  đạo  đức mà mọi người cần học hỏi, để sống được với nếp sống đạo đức. Bởi đạo đức mới xác định được phẩm chất của con người.
Nhìn  cách đối xử của con người với con người,  chúng  ta  có  thể  xác  định  và  biết  được con người đó có đạo đức hay không. Nếu không có đạo đức chúng ta nên tìm cách tránh xa họ.
Đức  cung kính  và  tôn  trọng lẫn  nhau, rất cần thiết cho mọi người chung sống. Đức cung kính  và tôn trọng chỉ có con người mới có mà thôi,  vì  đấy  là  thái  độ  ứng  xử  có  văn  hóa  của con người.
Nếu  con người  không  biết  cung kính   và tôn  trọng  lẫn  nhau,  cuộc  sống  này  sẽ  là  địa ngục,  sân  hận  đố  kỵ,  tỵ hiềm,  ganh  ghét,  ngã mạn, cống cao, danh lợi, tật đố, bè phái, nói những  lời  chia  rẽ,  độc  ác  v.v..  thì người  đó  đã tu  sai  hoặc  họ  là  trùng  trong lông sư tử, người đó đang phá hoại đạo Phật.
 Cho nên, nói đạo Phật là con đường tu dưỡng đạo đức, con đường của cái thiện, mà giới luật  là  hàng  rào  bảo  vệ  vững  chắc  không  cho cái ác xâm chiếm.
Đức  phật  đã  chỉ  dạy  rất  rõ:  “Giới  luật  ở
đâu đức hạnh ở đó, đức hạnh ở đâu giới luật ở đó”.
Vì vậy chỉ cần nhìn  và quan sát mộât hành giả   tu   theo   đạo   Phật,   có   giữ   gìn   giới   luật nghiêm túc hay không, nếu người đó không tự biết  thương  mình  để  rèn  luyện  trong  giới  luật thì làm sao họ có  được  đạo đức  để thương được người khác, họ sống chỉ làm khổ mình và làm khổ người khác mà thôi.
Cho nên  giới  luật  là  nền tảng,  nếu  không có  giới  luật,  thì không  có  đức  hạnh  và  trí tuệ, cũng không có sự giải thoát.
Giới  luật  trong  đạo  Phật  không  phải  là một điều cấm, giới luật là những điều khuyên mọi  người  nên  thực  hành,  mang  tính tự  giác cao, vì  chính  giới  luật  là  thiện  pháp  giúp  mọi người thoát khổ.
Trong  cuộc  sống mỗi  con người  chỉ là  một cá  thể  sống  chung, có  nhiều  cá  thể  khác  cùng tồn  tại.  Và  các  quan  hệ  trong  xã  hội  đó  với



nhau  là  nhân,  là  duyên  của  luật  nhân  quả.  Vì vậy  các  quan hệ  vợ  chồng,  con cái  bố  mẹ,  anh em bạn bè Thầy trò v.v.. đều là mối duyên nợ của nhau từ nhiều đời, nhiều kiếp, kiếp này gặp được nhau, tìm đến nhau để trả món nợ ân oán với  nhau, người  có  ân  trả  ân,  người  có  oán  đòi
oán.
Trong  môi  trường xã  hội  cùng sống chung này, có những người gặp được may mắn. Có những người gặp phải bất hạnh đắng cay. Cuộc sống làm cho họ phải đau đớn, buồn tủi  và  uất hận,  vì phải  chịu  đựng  những  khổ  đau do cuộc đời mang lại đã dằn vặt họ, sai khiến họ.
Dù cùng sống chung trong một xã hội, mà cuộc sống của người này đã  hoàn toàn xa lạ đối với người khác.
Lúc khổ đau dồn đến, nhiều người thường tấm  tức oán trách trời  đất  sao nỡ  bất công. Có lúc quá uất hận, họ muốn đập phá mộât cái gì đó cho hả giận, và cuối cùng đành đỗ lỗi, phải chăng đó là số mệnh?
Nhưng với người có duyên may được đạo Phật  giác  ngộ,  thì sẽ  sớm  hiểu  ra: tất  cả  khổ vui của cuộc đời này, đều do duyên nghiệp từ trước mang tới.
 Vì vậy đức Phật thường dạy các đệ tử  nếu con người đối xử với nhau hung dữ, đấu tranh chống nhau bằng miệng lưỡi, đánh đập nhau bằng  sức  lực,...  thì cuộc  sống  sẽ  tồi  tệ,  xấu  xa và đen tối.
Khi mọi người biết cung kính  và tôn trọng lẫn nhau, thì gia đình  và xã  hội trở nên thuận hòa  mọi  người  biết  thương  yêu  giúp  đỡ  lẫn nhau. Một cuộc sống hạnh phúc chân thật xuất hiện  và  thế  giới  này  sẽ  thành  Thiên  đường. Còn  ngược  lại  sẽ  trở  thành  hỗn  độn  bất  ổn  và Địa ngục.
Làm  người  tại  sao ta  lại  làm  khổ  mình, khổ  người  tạo  ra cả  một  bầu  trời  ảm  đạm, thê lương, u buồn và đau khổ cho con người?
Một  con  người  mà  tự  làm  khổ  đau  cho mình,  chỉ có  những kẻ thiếu đạo đức  và  trí tuệ mới làm như vậy!
Làm  khổ  mình,   làm  khổ  người  có  hạnh phúc  gì đâu, mà  đó chỉ là  hành động phi  nhân tính, mang  đau  khổ  cho  nhau,  không  những trong kiếp này và mãi mãi trong muôn kiếp.
Vì  vậy  một  nếp  sống  đạo  đức  là  điều  rất cần  thiết  cho mọi  người  cùng  chung  sống  với nhau trên hành tinh này.
 Và nền đạo đức không làm khổ mình, không làm khổ người là nền đạo đức nhân bản nhất, ai cũng đều nên học và thực hành.
Có những người không phải hoàn toàn là xấu,  xấu  tốt  đều  do ý  thức  biến  hiện  mà  sinh ra.
Nếu ai đó không thể đấu tranh nổi với những  ham muốn  thấp  hèn  ở  trong  tâm  đã  để cho những  tham  vọng  mù  quáng  lôi  kéo  người đó là người xấu.
Còn  ai  biết  dùng  lương  tri tỉnh  thức  của mình,  để tiêu diệt cái ác, người đó là người tốt.
Trên  bình  diện  của cái  xấu  và  cái  tốt, cái thiện và cái ác, nếu ai khéo tu sửa, người đó sẽ trở thành người có đạo đức.
Chúng  ta  nếu  biết  khéo  tu  dưỡng  đạo  đức thì từ  người  ác  sẽ  trở  thành  người  hiền,  từ người hiền sẽ trở thành bậc Thánh nhân.
Kính   thưa  các  bạn!  Vấn  đề  đạo  đức  của đạo Phật là một đề tài quá rộng lớn trong bài viết  này  chúng  tôi  chỉ  dám  mang ra mạn đàm cùng  quý  bạn  những  mảng  hiểu  biết  còn  rất hạn chế của chúng tôi về đề tài rộng lớn này.
Chúng tôi chỉ hy vọng với sự hiểu biết còn rất  hạn  chế,  chúng  tôi  xin  được  đóng  góp  với

quý bạn những kinh nghiệm, những hiểu biết còn  quá  ít ỏi  của  chúng  tôi,  để  cùng  nhau  xây dựng  đóng  góp  chung một  sự  hiểu  biết  vì  nền đạo đức thật tuyệt vời của đạo Phật.
Mong rằng  ai  cũng  tu  dưỡng  đạo  đức  thật tốt để biến cảnh thế gian này thành nơi Thiên đường, Cực lạc.
Xin được chân thành tri ân!
Kính  ghi
Minh Đạo
Hà Nội ngày 2 tháng 9 năm 2005

--------
HẾT TẬP V


MỤC LỤC


Lời nói đầu .......................................................... 5

Bồ tát bệnh vì chúng sanh bệnh ..................... 33

Thế giới siêu hình ............................................ 62

Giới luật............................................................. 83

Bốn định vô sắc .............................................. 104

Vọng tưởng ...................................................... 127

Như lý tác ý .................................................... 143

Ức chế tâm có hại gì? ..................................... 154

Nhân quả ......................................................... 180

Làm chủ sanh, già, bệnh, chết ...................... 186

Sáu nẻo luân hồi ............................................. 191

Đạo Phật chỉ có một đấng giáo chủ .............. 197

Tu hành nên tránh pháp ức chế.................... 204

Aên chay làm cây cỏ biết đau.......................... 208

Trứng gà công nghiệp là chất bất tịnh......... 214

Thần thông...................................................... 216

Diệt trừ bản ngã ............................................. 218

Diệt trừ bản ngã là chứng đạo ...................... 221

Đời khổ là do chấp ngã .................................. 222


Phương pháp diệt ngã.................................... 223

Kết quả diệt ngã như thế nào?...................... 225

Ý thức thanh tịnh........................................... 226

Ý thức có mấy loại.......................................... 228

Các hành ác có thiện ..................................... 231

Tâm sắc dục .................................................... 232

Định niệm hơi thở.......................................... 241

Ước nguyện các loài vật nhỏ bé...   ............... 244

Ức chế.............................................................. 245

Tác ý phá cảm thọ.......................................... 247

Tứ quả và tứ thánh định có giống nhau ....... 248

Hơi nóng chổ nào thì tái sinh chổ đó ........... 251

Kết quả tu tập................................................. 254

Nhìn  đời bằng nhân quả................................ 256

Căn cứ vào mười thánh hạnh sadi ................ 260

Bản ngã ........................................................... 262

Hiếu sai Phật pháp ........................................ 264

Làng nguyên thủy .......................................... 266

Thân hành niệm............................................. 268

Pháp thân hành niệm.................................... 275

Dừng cái ý ....................................................... 279



Định tỉnh......................................................... 281

Ngũ ấm ma...................................................... 282

Những kinh nghiệm thư ................................ 293

Bị ngoại đạo khiêu khích ............................... 297

Thanh  minh .................................................... 300

Khi tu theo Phật giáo có cần tham khảo...... 302

Trồng rau sạch ................................................ 304

Tu sĩ gặt lúa giúp dân .................................... 306

Cứu trợ............................................................. 308

Được phép bán sản phẩm thừa không? ........ 309

Trồng rau lúa sạch tránh thuốc sâu rầy ....... 312

Lễ nghi đối với ngoại đạo .............................. 313

Chào hỏi bạn bè cùng nhau một thầy........... 318

Khi vào chùa nên lễ vị Phật nào? ................. 321

Xưng hô với phật tử........................................ 322

Nhận sự cúng dường phải ước nguyện ntn? . 324

Xưng hô với bậc cao niên ............................... 325

Cách vận y  thượng ........................................ 326

Cách xưng hô với những người thân... ......... 327

Không nên đến ............................................... 328

Không vái bàn thờ Thánh ............................. 330


Tụng niệm ma chay........................................ 331

Cách xưng hô tiếp xúc với nhà chức trách ... 332

Giới luật Phật không nên bỏ ......................... 333

Các loại kinh sách sử dụng sao cho đúng..... 334

Tổ chức các buổi lễ lớn................................... 335

Tứ thần túc ..................................................... 336

Kinh Duy Ma Cật có phải Phật thuyết? ....... 339

Phụ bản: Đường xây dựng nhân cách ........... 346



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!