Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT TẬP 6 -2



mà tu. Cho nên, sự tu hành của hai loại thiền này cách biệt rất xa và cũng không phải là hai bậc thang của một cây thang.
Phật  dạy nhập Tứ Thiền hơi thở  tịnh chỉ, hơi  thở  đã  tịnh  chỉ  thì còn  đâu  phải  ngưng sổ tức,  nhà  học  giả  này  đã  tự  đặt  ra mà  không thấy  cái  sai  của  mình.  Từ  xưa đến  giờ,  các  Tổ đều nghĩ tưởng bốn thiền hữu sắc thấp hơn bốn định vô sắc. Vì có nhập được bốn thiền hữu sắc thì mới có  thể  nhập  bốn định vô  sắc, hiểu  như vậy, tức là hiểu sai. Xưa, đức Phật chưa nhập bốn thiền hữu sắc mà đã  được hướng dẫn nhập bốn  định vô  sắc  và  Ngài  đã  nhập  được  Vô  Sở Hữu  Xứ  Định và  Phi  Tưởng  Phi  Phi  Tưởng  Xứ Định.
Người muốn nhập định vô sắc thì không cần phải nhập định hữu sắc, vì trong kinh Tiểu Không  Đức  Phật  đã  dạy  rõ  ràng.  Quý  vị  nên đọc  lại   bài   kinh  Tiểu   Không,   ở  trong  kinh Trung  Bộ. Muốn nhập Không Vô Biên Xứ Định, Đức Phật đã dạy: “ý thức thanh tịnh  không liên hệ ngũ  căn  thì nhập  Không  Vô  Biên  Xứ  Định”, chứ không phải nhập Tứ Thiền rồi mới nhập Không Định như nhà học giả đã dạy ở trên.
Tóm  lại,  các  nhà  học  giả  phần  đông  chưa có tu tập  nhập  được từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền
 thì không  làm  sao giảng  nổi  Tứ  Thánh  Định. Nếu  không có  kinh nghiệm  tu  hành nhập  được Tứ  Thánh  Định chân  thật  thì Tứ  Thánh  Định của đạo Phật chỉ còn là một bài kinh chữ nghĩa suông, nếu ai đem giảng nói, mà không có kinh nghiệm  tu  hành  thì không  có  ích lợi  gì cho ai cả mà còn hại cho người tu sau này. Nhiều nhà học giả tự đặt ra bằng trí tưởng tượng nên làm sai  lệch  ý  nghĩa  lời  dạy  của  đức  Phật,  càng giảng Tứ  Thánh Định lại  càng thêm  tối  nghĩa, mù mờ không rõ, pháp hành không có.


MƯỜI HƠI THỞ ĐẾM KHƠNG LÜN LÀ Ý CĨ ĐỊNH
Câu hỏi của Diệu Quang

Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Trong Kinh   An Ban Thủ  Ý  dạy: Trong thời  gian  10 hơi  thở  ấy mà đếm không lộn, là ý bắt đầu có định. Định nhỏ thì  có thể kéo dài trong 3 ngày, định lớn 7 ngày,  trong thời  gian  ấy  không  có  một  tưởng tạp loạn chen vào, hành giả ngồi yên như người chết,  đó  gọi  là  Sơ Thiền,  thưa  Thầy  kinh  dạy như vậy có đúng không?
Đáp: Không, đức Phật dạy ly dục ly ác pháp  nhập  Sơ Thiền,  chứ  không  có  dạy  như trong kinh An Ban Thủ Ý. Dạy như trong kinh An  Ban Thủ  Ý  thì đó  là  một  loại  thiền  ức  chế tâm bằng pháp môn sổ tức.
Chúng ta phải hiểu Sơ Thiền là loại thiền xả tâm có tầm có tứ, còn sổ tức là pháp môn ức chế tâm không tầm không tứ “ngồi yên như người chết”  mà  gọi  là  nhập  Sơ Thiền  thì kinh này dạy sai, không đúng như lời Phật dạy.
Đây là một bài học cho chúng ta thấy, các Tổ viết và soạn kinh sách như vậy, không đúng như lời  Phật  đã  dạy. Như  vậy chúng ta còn đủ lòng tin ở các Tổ nữa không? Kinh sách của các Ngài  chúng  ta  còn  đội  trên  đầu  vai  mang  nữa hay không?
Sổ  tức,  tức  là  còn  đếm  hơi  thở,  đếm  hơi thở  là  còn tác  ý, hơi  thở  là  đối  tượng của tâm, tâm  còn  ở  trong  niệm  hơi  thở  và  còn  tác  ý  ức chế tầm tứ thì làm sao gọi là định thứ nhất được?  Vậy  mà  mười  hơi  thở  đếm  không  lộn  là có định, định này là định của các Tổ, chứ Phật thì không có định như vậy, và cũng không tu sổ



tức  như  vậy  được, đức  Phật  chỉ  dạy  nhập  Sơ Thiền là tâm ly dục ly ác pháp thì tâm mới có thiền, chưa có định. Còn ngược lại nhà học giả xác định mười hơi thở là có định thì đó  là một sự sai biệt  giữa Tổ và Phật một trời một vực.
Tại sao chúng ta biết rõ như vậy?
Tại  vì  đức  Phật  dạy rất  rõ  ràng:  Do “ly dục sanh hỷ lạc nhập Sơ  Thiền”. Chỗ Sơ Thiền  Phật  không  dạy: “định”   sanh  hỷ  lạc, mãi cho đến khi nhập Nhị Thiền Phật mới nói: “Định sanh hỷ lạc”.
Đếm  hơi  thở  và  ly  dục ly  ác  pháp  là  hai việc  làm  khác  nhau,  một  đàng  thì xả  tâm  để tâm  được thanh  tịnh  giải  thoát  (dục và  ác pháp);  một  đàng  thì tu  ức   chế  tâm,  để   tâm không  có  tầm  tứ;  một  đàng  tu  thì còn  tầm  tứ thiện; một đàng tu thì diệt cả tầm tứ thiện và ác.

Do đó, chúng ta thấy rất rõ, đếm hơi thở không  thể  nào  nhập  Sơ Thiền được. Người  tu theo  đạo Phật  phải  sống  một  đời  sống  Phạm hạnh,  nhờ  có  sống  đời sống  Phạm  hạnh,  tâm mới ly dục ly ác pháp, tâm có ly dục ly ác pháp thì mới nhập được Sơ Thiền.


NHỜ THEO DÕI HƠI THỞ MÀ ĐƯỢC ĐỊNH
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính thưa Thầy! Tâm ý, sở dĩ định được  là  nhờ  theo dõi  hơi  thở,  cấu  uế  đã  được tiêu  diệt  thì  tâm  ý  dần  dần  trong sạch,  đó  gọi là Nhị Thiền. Thưa  Thầy những lời dạy này có đúng trong kinh  điển của đức Phật dạy hay không?
Đáp: Không, Phật dạy khi nhập Sơ Thiền thì tâm phải ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp là tâm giới luật nghiêm trì, tâm giới luật nghiêm  trì là  tâm  thanh  tịnh,  tâm  thanh  tịnh thì cấu  uế  lần  lần  tiêu  diệt  chỉ  còn  dùng  định niệm  hơi  thở  khéo  tác  ý  hướng  tâm  tịnh  chỉ tầm tứ thì liền nhập Nhị Thiền. Còn tâm chưa ly dục ly ác  pháp là  tâm  chưa thanh tịnh, tâm chưa  thanh  tịnh  thì tâm  không  có  cách  nào nhập được Sơ Thiền, tâm chưa nhập được Sơ Thiền thì giới luật chưa thanh tịnh, giới luật chưa thanh  tịnh  thì tâm  chưa thanh  tịnh,  tâm chưa thanh tịnh thì không thể theo dõi hơi thở mà nhập được Sơ Thiền, Sơ Thiền chưa nhập được thì mong gì nhập được Nhị Thiền, còn cấu uế  của  tâm  là  nhờ  giới  luật  mới  được  tiêu  trừ
 chứ không phải nhờ có định. Nhà học giả dạy nhập   định  theo   kiểu   tưởng   giải   của   mình, không đúng như kinh Phật dạy.
Phật  dạy nhập  định Nhị  Thiền  không  có ức  chế  tâm  chỉ  dùng tâm  ly dục  ly ác  pháp  tức là  tâm  thanh  tịnh,  tâm  Sơ Thiền,  tâm  thanh tịnh ở đây có nghĩa là tâm không phóng dật, thanh thản và an lạc. Người muốn nhập Nhị Thiền phải ở trạng thái này nương theo định niệm hơi thở, dùng pháp hướng tâm như lý tác ý tịnh chỉ tầm tứ.
Phật  không  dạy  tùy  tức  nhập  Nhị  Thiền và  cũng  không  dạy  nhờ  định mà  cấu  uế  được tiêu  diệt. Kinh An Ban Thủ Ý  dạy điều  này để nhập  Nhị  Thiền là  không đúng như kinh Phật dạy.
Đọc bài tựa kinh An Ban Thủ Ý, ta thấy những lối lập luận về Tứ Thánh Định, pháp hành không đúng cách, những từ dùng để chỉ thiền định không đúng như lời  Phật  dạy trong kinh, định mà còn niệm thì làm sao định được, đếm  và  tùy  đó  là  hai  phương pháp  ức  chế  tâm thì không thể là thiền định được.
Kinh này dạy: Bỏ pháp đếm hơi thở chú tâm vào chóp mũi gọi là chỉ, làm như chỗ tâm ý ở  đầu  chóp  mũi  đó  là  Tam  Thiền.  Cách  thức dạy nhập Tam Thiền như thế này không giống như Phật  dạy: “ly  hỷ  trú  xả  nhập  Tam Thiền”. Cách  thức  tu  tập  theo  Phật  dạy,  dùng  định niệm hơi thở khéo tác ý hướng tâm tịnh chỉ 18 loại hỷ tưởng, âm thanh và mộng vắng bóng.
Về  Tứ  Thiền  kinh An  Ban  dạy: Niềm  tin Tam Bảo  vững  chãi,  bây  giờ  tất  cả  những  gì u tối   đều   trở   nên   trong  sáng,   đó   gọi   là   “Tứ Thiền”.  Nếu  dạy theo kinh An  Ban, chỉ  cần  có niềm  tin Tam  Bảo  vững  chãi  là  nhập  được  Tứ Thiền, thì như vậy Tứ Thiền nhập quá dễ dàng. Tứ Thiền là một loại định bất động của thân không phải là một việc dễ làm, hơi thở ngưng nghỉ không phải là chuyện dễ. Phật không dạy như thế này mà dạy tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền, tịnh chỉ hơi thở, tức là không còn thở, không  còn  thở,  tức  là  xả  thọ,  xả  thọ  mà  trong kinh gọi là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh.
Lạc, khổ thuộc về thọ, niệm thanh tịnh là đối  tượng của tâm, còn có  thọ  và đối tượng của tâm  là  chưa  nhập  được  Tứ  Thiền.  Cho  nên, muốn nhập Tứ Thiền thì phải tu tịnh chỉ hơi thở,  tịnh  chỉ  hơi  thở,  tức  là  không  còn  đối tượng của tâm, nên thân định trên tâm và tâm định trên thân.

 Nếu  còn  có  đối  tượng  trong  sáng  của  tâm là  chưa phải  nhập  Tứ  Thiền  nên  kinh An Ban dạy nhập  định Tứ  Thiền không đúng như theo lời Phật đã dạy trong kinh Nguyên Thủy.

GOM Ý THỨC NHẬP THIỀN  THỨ MẤY
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Hành  giả  gom ý thức lại khiến cho nó không còn sanh vọng tưởng, như vậy là nhập thiền thứ mấy?

Đáp: Gom ý thức lại khiến nó không sanh vọng tưởng là nhập thiền định tưởng. Gom ý thức lại, tức là ức chế tâm, ức chế tâm tức là ức chế  ý  thức,  ức  chế  ý  thức  được  thì tưởng  thức hưng  phấn,  tưởng  thức  hưng  phấn  thì sanh mười  tám  loại  hỷ  lạc  tưởng,  tùy theo  ở  mức  độ hưng  phấn  cao thấp  mà  người  tu  sẽ  bị  căng thần  kinh sanh  ra bệnh  điên  khùng,  nếu  mức hưng  phấn  thấp  thì sanh  ra kiến  giải  tưởng giải, nói thiền, nói đạo lung tung.
Người  tu  thiền  phải  đề  cao cảnh  giác  loại thiền  ức  chế  tâm,  nó  rất  nguy  hiểm,  nhất  là
 những người  có  nhiệt  tâm  tích cực  tu  hành thì dễ  bị  hưng  phấn,  rối  loạn  thần  kinh.  Phần nhiều  hiện  giờ,  người  tu  thiền dễ  bị  tu  lạc  vào thiền ức chế tâm, tại vì tất cả các pháp môn thiền đều dạy cách thức ức chế tâm ngoại trừ pháp  môn  của  đức  Phật  là  thiền  xả  tâm  mà
thôi.

Tuy  vậy,  thiền  của  Phật  không  ức  chế tâm, nhưng chúng ta thực hành không đúng và không thiện xảo khéo léo xả tâm thì sẽ biến thành thiền ức chế tâm, nó cũng không kém tai hại như những thiền khác.

SÁU THỨC GOM LẠI SẼ NHẬP ĐỊNH GÌ?
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính thưa  Thầy! Gom sáu thức lại một chỗ, thưa Thầy sẽ nhập định gì?
Đáp: Gom sáu thức lại một chỗ và biết cách hướng tâm xả  lạc, xả  khổ, xả  niệm  thanh tịnh  thì sẽ  nhập  Tứ  Thiền,  tức  là  tịnh  chỉ  hơi thở.
 Gom sáu thức lại một chỗ mà không biết cách xả lạc, xả khổ, xả  niệm  thanh tịnh thì sẽ nhập định tưởng, vì sáu thức ngưng hoạt động nên  tưởng  thức   hoạt   động,   tưởng  thức  hoạt động thì đó là nhập định tưởng, tức là ức chế ý thức hưng phấn tưởng thức.
Gom sáu thức cũng không phải là một việc dễ làm, gom được sáu thức mà còn phải biết cách xả, nếu không biết cách xả thì rất là nguy hiểm,  cũng  như ức  chế  chỗ  này  mà  không biết hướng dẫn hưng phấn chỗ khác cho đúng, để tự nó  hưng  phấn  thì sẽ  trở  thành  điên  khùng. Việc  tu  hành  không  phải  dễ,  một  vị  thầy  có kinh nghiệm hướng dẫn tu  thiền định thì phải nghe  theo  và  thực  hành  cho  đúng  100  phần trăm,  không  được  tự  ý  hành  theo  kiểu  tưởng giải  của  mình.  Xưa, đức  Phật  dạy như thế  nào thì các vị Tỳ Kheo làm như thế nấy, còn những vị nào tu sai không đúng lời dạy của Phật thì phải  chịu  lấy hậu  quả, kết  quả  chẳng ra gì mà phải gánh hậu quả bệnh tật về sau.
Phải   cảnh   giác   sự   gom  sáu   thức,   nếu không có người hướng dẫn thì đừng nên tu tập, nó  có  lực  để  xả  tâm  nhanh  chóng  nhưng  nó  có hại làm hưng phấn tưởng thức quá cao, sanh ra bệnh điên khùng nguy hiểm đến tánh mạng.


GOM Ý THỨC BẰNG CÁCH NÀO?
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính thưa  Thầy! Gom ý thức bằng cách nào?
Đáp: Gom ý thức của các Thiền Đại Thừa và  Thiền Đông Độ  là  bằng cách ức  chế  tâm  do pháp môn Sổ tức, Tùy tức, Niệm Phật, Niệm chú,   Tri  vọng,   Chăn  trâu,   Tham   thoại  đầu, Tham công án, v.v..
Tứ  Thánh  Định  thiền  của  Phật  giáo  là thiền diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp (tâm không phóng dật), tức là thiền định không ức chế tâm.
Nói tóm lại, gom ý thức của Đại Thừa và Tối Thượng Thừa là ức chế tâm, còn gom ý thức của Phật Giáo Nguyên Thủy là xả tâm, tâm không phóng dật, tức là gom ý thức.
Xin  quý  vị  cần  đề  cao cảnh  giác  các  pháp môn  thiền  định  khi muốn  tu  phải  cẩn  thận quán xét thiền nào xả tâm và thiền nào ức chế tâm.

 GOM Ý THỨC DIỆT TẦM TỨ
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Gom  ý  thức  để diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền bằng cách nào?
Đáp: Gom ý thức diệt tầm tứ để nhập Nhị Thiền   bằng   cách   nương  hơi   thở   dùng  pháp hướng  tịnh  chỉ  tầm  tứ,  chứ  không  được  dùng hơi thở ức chế tâm.

Ở    đây,  chúng  ta  phải  hiểu  chữ  “gom  ý thức”  của thiền Phật  giáo nghĩa là tâm  không phóng dật, đừng hiểu gom ý thức bằng nghĩa ức chế tâm, gom ý thức  bằng nghĩa ức  chế tâm là sổ  tức  hoặc  tùy  tức,  tọa  thiền tập  trung  ý  thức bằng  hơi  thở  hoặc  bằng  câu  niệm  Phật,  v.v.. Gom tâm ở đây cho đúng nghĩa của Phật dạy là tu tập “Tứ Chánh Cần”.
Tu tập Tứ Chánh Cần là ngăn ác pháp và diệt ác pháp, ngăn ác pháp và diệt ác pháp, tức là  ly dục  ly ác  pháp,  ly dục  ly ác  pháp,  tức  là tâm  không  phóng  dật,  tâm  không  phóng  dật, tức là tâm hướng vào trong thân, nói cách khác là tâm định trên thân; tâm định trên thân, tức là “gom ý thức diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền”.
 TƯỞNG THỨC
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Muốn  nhập  Tam
Thiền phải gom sáu thức nào?
Đáp: Muốn nhập Tam Thiền phải gom tưởng thức, nếu  trả  lời  một cách ngắn gọn như vậy thì quý vị rất khó hiểu.
Khi chúng ta nhập Nhị Thiền, tầm tứ diệt, ý  thức  ngưng  hoạt  động,  nên  bước  sang  qua Tam Thiền, tưởng thức hoạt động, thay thế cho ý  thức.  Vì  vậy,  muốn  nhập  được  Tam  Thiền phải  “gom tưởng  thức,  tức  là  ly hỷ  trú  xả”. Tam Thiền  không có  gom sáu  thức  vì sáu  thức đã được gom và thuần hóa ở Nhị Thiền.
Cho nên,  muốn  nhập  Tam Thiền  thì phải lìa  xa  các  trạng  thái  của  tưởng  thức,  lìa  các trạng  thái  của  tưởng  thức,  tức  là  “Ly  hỷ  trú xả”, như trong kinh đã dạy.


 NĂM THỨC
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Muốn  nhập  Tứ
Thiền phải gom thức nào?
Đáp: Muốn nhập Tứ Thiền Phải gom năm thức: thọ  thức, nhãn thức, nhĩ  thức, tỷ  thức, vị thức. Nếu  trả  lời  như vậy, quý  vị  sẽ  cho chúng tôi  chẳng  hiểu  kinh sách  Phật,  vì  trả  lời  như vậy trong kinh sách Phật không có dạy.
Ở   đây  chúng  tôi  tùy  theo  câu  hỏi  mà  trả lời, nhưng rất đúng nghĩa của Phật đã dạy. Quý vị nhớ lại xem lúc nhập Sơ Thiền là tâm không phóng  dật,  tâm  không  phóng  dật,  tức  là  sáu thức đã  quay vào  trong thân, không còn phóng ra ngoài, nên thân động dụng việc gì thì sáu thức  đều  biết  rõ,  biết  rõ  bên  trong  mà  không biết bên ngoài, lúc này gọi là tâm định trên thân.
Đến  Tứ  Thiền  sao lại  còn  gom năm  thức? Gom  năm  thức,  ở  đây  quý  vị  cần  phải  hiểu, năm  thức  còn  hoạt  động  bên  trong  nên  gom năm  thức,  tức  là  tịnh  chỉ  năm  thức,  tịnh  chỉ năm  thức  là  điều  khiển  năm  thức  ngưng  hoạt



động,  điều  khiển  năm  thức  ngưng  hoạt  động, tức  là  tịnh  chỉ  hơi  thở,  tịnh  chỉ  hơi  thở  tức  là xả  lạc,  xả  khổ,  xả  niệm  thanh  tịnh.  Hay  nói một cách khác là “thân hành tịnh  chỉ”.  Thân hành tịnh chỉ, tức là nhập Tứ Thiền hay nói cách khác là gom năm thức nhập Tứ Thiền.





NHÂN QUÂ

Câu hỏi của Diệu Quang
 Hỏi: Kính thưa  Thầy! Con người từ đâu
sanh ra? Chết đi về đâu?
Đáp:   Con  người   từ   nhân  quả  sanh  ra, sống trong nhân quả, chết đi về nhân quả. Trả lời như vậy, quý vị rất khó hiểu và cũng không hiểu được như thế nào là đúng?
Các   tôn   giáo   khác,   thường   có   câu   hỏi: “Con  người   từ   đâu   sanh  ra,  chết   đi  về đâu?”.  Có tôn giáo cho con người sanh từ đấng Tạo Hóa; lại có tôn giáo cho con người sanh ra từ khí Âm và khí  Dương; lại có tôn giáo cho con người  sanh  ra từ  Đại  Ngã;  lại  có  tôn  giáo  cho con người  từ  Bản Thể  Vạn Hữu  sanh ra; lại  có
 tôn giáo cho con người sanh ra từ miệng Phạm
Thiên, do đức Chúa Trời sinh ra v.v..
Tất cả những giả thuyết trên đúng hay sai chúng  ta  không  có  ý  kiến,  nhưng  đứng  trong tôn  giáo  Phật  giáo,  thì đức  Phật  đã  xác  định: “Con  người   từ   nhân   quả   sanh  ra,  sống trong nhân quả,  và  chết  trở  về  nhân  quả”. Đó là lời xác quyết rất hùng hồn, chỉ vì Ngài đứng  trên  lập  trường   “duyên   hợp”   của  các pháp. Trong thế gian này không có một vật thể nào  độc lập riêng lẽ tự  nó. Cho nên tất cả  vạn vật sanh ra đều do các duyên hợp mà thành.
Các pháp sanh ra đều phải do có hành động, có  hành động mới sanh ra được, nói một cách khác các duyên hợp lại, phải trực tiếp qua các   hành   động,   nhưng   mỗi   hành   động   đều không  có  sự  hiểu  biết,  sự  hiểu  biết  có  được  là nhờ  vào  tri thức,  nhưng  tri thức  hiểu  biết  chỉ biết  trong giới  hạn  “hữu  hạn”  ngoài  vô  hạn thì tri thức  không  hiểu  rõ,  vì  thế  sự  hiểu  biết của  tri thức  còn  trong  vô  minh.  Hành  động thiện  và  ác  nó  đều  không  biết,  cho nên  từ  đó tri thức tạo tác những hành động thân, miệng, ý   khiến  cho  mình   khổ   và   người   khác   khổ. Nhưng hễ có hành động, tức là có nhân quả.
 Phật dạy: “Vô minh sanh hành, hành sanh thức”. Vì vậy, con người từ hành động vô minh  sanh ra, nói  cách  khác  cho đúng  câu  trả lời trên: “Con người từ nhân quả sanh ra”.


NHÂN QUÂ LÀ GÌ?
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Nhân  quả  là  cái gì?  xin  Thầy  hoan  hỷ  chỉ  dạy  cho chúng  con được biết.
Đáp:   Nhân   quả   là   chữ   Hán,   nhân:   có nghĩa  là  hạt;  quả:  có  nghĩa  là  trái,  gồm  chung hai  chữ  nhân  quả  lại  nghĩa  đen của  nó  là  hạt và  trái.  Hạt  giống  nào  sẽ  cho trái  nấy,  không thể cho trái khác được. Ví dụ: hạt cam khi gieo lên  thành  cây  sẽ  cho trái  cam; hạt  chanh  sẽ cho trái chanh, không thể nào hạt cam mà cho trái chanh được, cũng như hạt chanh không thể nào  cho trái  cam được,  v.v.. Còn nghĩa bóng là hành  động  thiện  hay ác,  nếu  hành  động  thiện thì được  phước  báo  an  vui,  còn  hành  động  ác
 thì phải  thọ  lấy  sự  đau khổ,  tức  là  hành  động nào sẽ gặt lấy hậu quả của hành động nấy.
Ví  dụ:  Như  hành  động  trộm  cắp  thì phải gặt  lấy  hậu  quả  của  hành  động  trộm  cắp  là  bị bắt ở tù, hoặc bị người mất của bắt được đánh đập, có khi họ giết chết.
Hậu quả của sự tham lam trộm cắp, không những ở trong kiếp hiện tại nghèo nàn, đói khổ mà còn kéo dài trong các kiếp vị lai nữa. Cho nên, nhân quả tham lam đem lại cho đời người một  sự  nghèo  đói  bất  hạnh  vô  cùng,  là  con người chúng  ta phải  tránh gieo  nhân quả  trộm cắp,  cướp  giựt  của  người  khác,  do không  tham lam trộm cướp của người khác thì đời sống của chúng ta sẽ  được  no cơm ấm  áo, nếu  càng gieo nhân  quả  tham  lam  trộm  cắp  thì đời  sống  của chúng  ta  sẽ  đói  khổ  vô  cùng  và  trong  muôn
kiếp.

Kẻ làm ác giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng  sanh  thì hậu  quả  sẽ  bị  tai  ương, bệnh tật,  khổ  đau, hoạn  nạn  hoặc  bị  sự  giết  hại  của kẻ  khác,  bằng  cách  này  hoặc  bằng  cách  khác
v.v..
Hành  động  thiện  thì hưởng  được  phước báo như: Cơm ăn áo mặc đầy đủ, cuộc sống gặp nhiều  may mắn, trong  nhà  hòa  thuận  vui  tươi,

con cái hiếu hạnh biết vâng lời dạy bảo của cha mẹ,  còn  hành  động  ác  thì thọ  khổ  như:  bệnh tật, tai nạn, trong nhà thường rầy rà, bất hòa chẳng an, con cái cãi lời cha mẹ, đi chơi bỏ học hành,  trộm  cắp  tiền  của  cha mẹ,  thường  làm gia đình khổ, người khác khổ.
Luật nhân quả rất công bằng và công lý không  ai  lo  lót,  hối  lộ  tiền  bạc  mà  hết  khổ được,  dù  có  quyền  thế  tiền  bạc  đến  đâu  luật nhân quả vẫn công bằng không tư vị.
Vì thế, người gieo nhân ác không thể cầu khẩn chư Phật, chư Bồ Tát và Ngọc Hoàng Thượng Đế cùng các bậc Thánh Vạn Năng cũng không cứu giúp cho mình  được. Nên vấn đề cầu an, cầu siêu, cầu xin ban phước lành chẳng bao giờ có được, chỉ là một trò lừa bịp lường gạt người  khác, chẳng  có  ích lợi  gì mà  còn  hao tài tốn của vô lối chẳng ích lợi gì cho ai cả.


 NHÂN QUÂ DO ĐÂU MÀ CĨ
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính thưa Thầy! Nhân quả do đâu mà xuất phát?
Đáp: Nhân quả do ba chỗ xuất phát trong bản thân của mỗi con người, đó là thân, miệng,
ý.

Ba  nơi  này  là  ba  nơi  nhân  quả  thường hoạt động khiến cho con người chịu khổ đau cũng như hưởng hạnh phúc, an vui. Hành động nơi thân, hành động miệng và hành động ý đều xuất  phát  nhân  quả  thiện  hay  ác.  Nếu  xuất phát  nhân  quả  thiện  thì người  ấy  được  an vui, thanh thản và hạnh phúc. Cuộc sống cơm ăn áo mặc,  tiền  của  dư  giả  không  thiếu  hụt,  ít tai nạn,  ít bệnh  tật,  thường  được  mọi  người  yêu mến  và  kính   trọng,  cuộc  sống  đầy  dẫy  hạnh phúc  an  vui,  dù  bất  kỳ  ở  nơi  đâu  cũng  vậy. Ngược lại, ba nơi ấy xuất phát nhân quả ác, thì người ấy phải chịu nhiều tai ương hoạn nạn, bệnh tật khổ đau kéo đến bủa vây không người này đến người  khác, trong nhà  thường xảy  rầy rà  bất  hòa,  lúc  nào  cũng  cơm chẳng lành  canh



chẳng ngon, khiến cho tâm  hồn mọi  người  đều đau khổ, bất an v.v..
Thân, miệng, ý là ba nơi hoạt động của nhân  quả   tạo   ác,   tạo   thiện  làm  mình   khổ, người khác khổ và  tất  cả chúng sanh khổ cũng chính do ba chỗ này.
Vậy ai là người chủ đọâng hoạt động tại nơi ba chỗ này?
Ba chỗ này không có  người  chủ động hoạt động,  chỉ  có  “Vô  minh và  Minh”  hoạt  động  mà thôi, nếu vô minh hoạt động nơi ba chỗ này tạo nhân  quả  ác,  chuyển  thành  nghiệp  lực  thì con người  và  tất  cả  chúng  sanh phải  chịu  khổ  đau tận cùng và tiếp tục tái sanh luân hồi mãi mãi trong vòng nghiệp lực ấy, nghiệp lực ấy do từø hành  động  thân,  miệng,  ý  đã  tạo  ra nhân  quả hạnh phúc hay khổ đau cho chính mình.
Thấu hiểu được lý duyên hợp của các pháp do vô minh mà định luật nhân quả sâu sắc này mới có luân hồi, nên  đức Phật đã  dạy chúng ta thấu suốt “Mười Hai Nhân Duyên” do “Vô minh”  hợp lại  thành một  thế  giới  khổ  đau mà con người  và  chúng  sanh phải  chịu  lấy  cái  đau khổ này mãi mãi từ đời này sang đời khác vô cùng, vô tận.
 Muốn  thoát  khổ  của  kiếp  làm  người  và thân chúng sanh, đức Phật đã dạy cho chúng ta “Minh”  để thấu suốt lý nhân quả và đập tan “Mười  Hai Nhân  Duyên”  phá  sạch  thế  giới đau khổ, giải phóng con người thoát khổ, chấm dứt luân hồi, làm chủ sanh tử.
Vì  thế,  người  học  Phật  mà  không  có  trí tuệ “Minh”, không phá vỡ Mười Hai Nhân Duyên thì chỉ là một học giả nghiên cứu giáo pháp của Phật để nói láo ăn tiền.
Muốn   phá   vỡ   Mười   Hai   Nhân   Duyên, người  tu  sĩ  đạo  Phật  phải  rèn  luyện  cái  thấy của  mình   đối   với  các   pháp  bằng   “đôi   mắt nhân   quả”   và  sống  đúng  đời   sống  “Phạm hạnh”  như Phật  thì Mười  Hai  Nhân Duyên sẽ tan rã, thế giới khổ không còn, người tu sĩ giải thoát hoàn toàn.

 CON NGƯỜI DO BA HÀNH
ĐỪNG THÂN MIỆNG Ý SANH RA
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính thưa Thầy! Tại sao con người sanh ra là do ba nơi hành động thân, miệng, ý
này?
Đáp: Con người  sanh ra do ba hành động thân, miệng, ý, nếu trong ba hành động thân, miệng,   ý   này   do  “Vô   minh”   điều  khiển,  tác động thì thế giới đau khổ của một con người sẽ bắt đầu mở ra.
Nếu ba hành động thân, miệng, ý này do “Minh”  điều khiển thì thế giới khổ đau  của một con người sẽ bắt đầu chấm dứt.
Ba nơi  này  thường  tạo  ra nghiệp  lực  của con người theo hành động nhân quả. Như đức Phật đã dạy cho chúng ta biết, khi con người chết hoàn toàn không còn một vật gì thường hằng bất  di, bất  dịch, chỉ còn nghiệp lực thiện hay ác tiếp tục tái sanh mà thôi.
Ba nơi  này  sanh ra nghiệp  lực,  từ  nghiệp lực  này mãi  mãi  tiếp  tục  sanh tử luân hồi, cho



nên gọi ba hành động này con người từ đó sanh ra là vậy.





VƠ MINH VÀ MINH

Câu hỏi của Diệu Quang


Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Vô  minh  là  gì? Nó điều khiển nơi ba hành động thân, miệng, ý này mà thế giới đau khổ của một con người mở ra như thế nào?
Và minh  là gì? Nó điều khiển ba nơi thân, miệng,  ý  thì   thế  giới  khổ  đau  của  một  con người chấm dứt, xin  Thầy vì chúng con mà chỉ dạy cho rõ ràng để chúng con tu tập?
Đáp:  Vô  minh  là  sự  hiểu  biết  theo  tâm ham  muốn  của  mình  (ái  dục),  vô  minh  là  sự hiểu  biết  đối  với  các  pháp  không  đúng  như thật;  hiểu  biết  một  cách  lệch  lạc  thiếu  khoa học; hiểu biết theo chủ quan thiếu thực tế và cụ thể; hiểu  biết  trong các  pháp đối đãi, hiểu biết trong  hạn  hẹp  và  hiểu  biết  bằng  tưởng  tượng v.v..



Nói  chung cái  hiểu  biết  bằng  trí hữu  hạn của  con người  là  “vô  minh”.  Vì  thế,  biết  bao nhiêu  bài  pháp  của  đức  Phật  đã  vạch  ra cho mọi người thấu hiểu rất rõ ràng, từ thế giới hữu hình đến thế giới siêu hình, toàn là thế giới duyên hợp không có một vật thể gì là thực thể thường hằng, bất biến. Phật dạy rất rõ, thế mà con người cứ hiểu biết mọi vật là thật có, thậm chí  đến  cái  thế  giới  siêu  hình  cũng  cho là  có thật. Vì cho nó là thật, nên luôn luôn bị dính mắc chấp đắm, do sự dính mắc chấp đắm các pháp mà con người tạo biết bao nhiêu điều đau khổ cho nhau, biến cuộc sống con người trên hành  tinh này  thành  địa  ngục.  Con người  chỉ còn là những ác quỷ giết hại lẫn nhau, chà đạp lên  nhau,  gian  xảo,  mánh  mung,  lừa  đảo,  lừa gạt, lường lận, hại nhau mà chẳng có chút lòng thương xót, chỉ vì vật chất cho nó là thật có.
Trí  tuệ vô minh rất tai hại, tức là sự hiểu biết  không  thấu  suốt  các  pháp  thế  gian.  Có người bảo rằng: “Phải học thông suốt Tam Tạng  kinh điển  của  Phật  là  hết  vô  minh, sẽ  được  giải  thoát  hoàn  toàn”.  Nói như vậy, các ông có bằng tiến sĩ Phật học là giải thoát hoàn toàn hết sao? Bằng chứng các ông có bằng tiến  sĩ  Phật  học  còn  dính  mắc  hơn  ai,  sống
 phạm giới, phá giới. Trong kinh đức Phật đã chẳng dạy: “Giới  luật ở  đâu  thì trí tuệ ở  đó, trí tuệ  ở   đâu  thì giới  luật  ở   đó,  giới  luật làm  cho trí tuệ  thanh tịnh và  trí tuệ  làm cho giới luật thanh tịnh”.
Vậy mà, người ta cho rằng có bằng tiến sĩ Phật  học  là  có  trí tuệ.  Trí  tuệ  “Minh”  ở  chỗ giới  luật  thanh  tịnh,  còn  ngược  lại  trí tuệ  tiến sĩ  Phật  học  mà  sống  không  đúng  giới  luật, phạm  giới  luật  thì đó  là  trí tuệ  “Vô  minh”.  Do trí tuệ vô minh học hỏi, những nhà học giả này chấp ngã bằng Trời hơn ai hết và dính mắc các pháp khó buông bỏ.
Bỏ biết bao nhiêu công lao năm tháng học hành, cuối cùng cũng chỉ học nói như một con chim, để lừa đảo người, buôn Phật, bán pháp, làm  cuộc  sống  trong  danh  lợi,  ô  nhục  mà  vô minh vẫn hoàn là vô minh.
Ví dụ: Cho thân này là ngã, hoặc cho tâm là  ngã  hoặc  cho thân  này  là  của  ta  hoặc  cho tâm  này  là  của  ta  hoặc  cho các  dục  là  hạnh phúc ưa mến, yêu thích nó; hoặc cho vũ trụ này có  thế  giới  siêu  hình,  có  linh hồn  người  chết hoặc  cho có  chư Bồ  Tát,  Thần,  Thánh,  ma quỷ v.v.. phò hộ và phá phách. Cho thế gian này là thường còn, cho có Đức Phật Di  Đà và thế giới



Cực  Lạc  Tây  Phương,  cho có  Phật  Tánh,  Đại Ngã,  Tiểu  Ngã,  Bản  Thể  Vạn   Hữu,  Bản  Lai Diện  Mục,  cho có  Bồ  Tát  Quán  Thế  Âm  từ  bi cứu độ chúng sanh thoát khỏi khổ nạn, cho có mười vua Diêm Vương, Ngưu Đầu, Mã Diện, quỷ Vô Thường, quỷ La Sát, quỷ Sứ v.v.. Những sự hiểu lầm lạc tưởng tri đóù  gọi là vô minh.
Thường con người vì hiểu lầm lạc, hiểu không đúng, nên hành động theo sự hiểu biết không  đúng  đó  mà  tạo  ra biết  bao nhiêu  thứ đau khổ và lầm than cho đời mình,  người khác và tất cả chúng sanh.
Vì  vô  minh  (hiểu  không  đúng)  tưởng  sắc dục là  khả  ái,  khả  lạc  là  hạnh  phúc  nên  ham mê say đắm, đắm đuối chạy theo quyết tìm cho được và  hành  động  dục lạc  đó  cho thoả  mãn. Do sự  hiểu  biết  lầm  lạc  đó  đi  đến  hành  động thỏa mãn dục vọng nhưng nào ngờ chẳng thỏa mãn  dục vọng  đó  được mà  còn  bị  đắm  nhiễm trở thành một nghiệp lực rất mạnh.
Chính những hành động vô minh tạo ra nghiệp lực thúc  đẩy  đi  đến  tái  sanh  luân  hồi. Do nghiệp thiện,  ác  mới  có  tái  sanh luân  hồi, có tái sanh luân hồi mới có thức, do có  thức mà mọi người vì vô minh lầm tưởng cho là thần thức,  linh hồn.  Gần  đây   vào  thế  kỷ  thứ  V
 Thiền Tông phát triển cho thức này là Phật Tánh, nhưng họ khéo lý luận đánh lạc hướng những  người  còn  vô  minh,  chứ  không  thể  nào lừa đảo được những đệ tử của đức Phật.
Từ vô minh hiểu  không đúng như thật, đã đưa con người từ lầm lạc này đến lầm lạc khác tạo ra thế giới đầy lòng tham muốn cái này, cái nọ để rồi gặt lấy hậu quả khổ đau vô vàn.
Cho  nên,  đức  Phật  dạy:  vô  minh  sanh hành, hành sanh thức cho đến ưu bi sầu khổ, bịnh, chết đó là một thế giới duyên hợp tạo thành khổ đau, mà con người mấy ai đã biết.
Kẻ nào biết được, dứt hết nguồn mê, bỏ xuống tất cả, thì ngay liền đó là giải thoát. Phàm,  Thánh  chỉ  có  khác  nhau  là  ở  chỗ  này mà thôi. “Phàm thì ôm đồm chẳng bỏ vật nào   cả,   Thánh   thì  buông   xuống   tất   cả không lấy một vật gì”.
Trí  tuệ  “Vô  Minh” thì ôm  đồm, chẳng bỏ vật nào cả, vì thế người có trí tuệ Vô Minh thì phải  chịu  khổ  đau  vô  vàn,  ngược  lại  trí tuệ “Minh”  thì buông xuống tất  cả, không lấy một vật  nào  hết,  vì  thế  người  có  trí tuệ  Minh  thì tâm hồn thanh thản, an lạc và giải thoát.

Cho  nên  “Minh”  là sự hiểu biết đúng như thật, không mang theo tâm ái dục, hiểu biết không   lệch   lạc,   không   chủ   quan,  đúng   như pháp,  có  khoa  học  thực  tế,  cụ  thể,  rõ  ràng, minh chứng và xác thực v.v..
Nhờ sự hiểu biết như vậy mà đã đập tan Mười Hai  Nhân Duyên này khiến cho cuộc sống của loài người trên thế gian này được an vui, hạnh phúc.
Người  có  Minh  thấy  các  pháp  đúng  như thật nên hành động thân, miệng, ý tạo nhân quả thiện, không làm theo tâm ham muốn ác pháp  của  mình  nên  cởi  bỏ  hoàn  toàn  sự  khổ đau và chấm dứt tái sanh luân hồi.
Người ngộ được 12 Nhân Duyên này là người  phải  có  trí tuệ  Minh, cởi  bỏ  12 mắt xích sắt này được giải thoát hoàn toàn, không còn khổ đau phiền toái. Nhờ trí tuệ Minh vén sạch ngũ triền cái, bứt bỏ thất kiết sử. Người đó gọi là  bậc  Duyên  Giác  hay  còn  gọi  là  Đôïc  Giác Phật.
Tóm  lại,  trí tuệ  Vô  Minh  sẽ  đem đến  cho loài  người  khổ  đau, tạo  nên  một  thế  giới  đầy dẫy  bất  toại  nguyện,  còn  trí tuệ  Minh  thì đem lại  cho loài  người  một  sự  hạnh  phúc,  an  vui, vĩnh viễn.
 TRÍ  HỌC GIẢ
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi:  Kính thưa   Thầy!  Có  người  hiểu biết rất rõ đâu là Vô Minh, đâu là Minh và họ còn là những người đã từng học hỏi và thông suốt  giáo  lý  của  Phật,  thế  sao họ  không  vén sạch  ngũ  triền cái,  bứt  bỏ  thất  kiết sử,  tâm  họ luôn  luôn  vẫn  còn  tham   danh   đắm  lợi,  xin Thầy dạy cho chúng con rõ.
Đáp:  Họ  từ  Vô  minh  lầm  chấp  hiểu  Vô Minh giống như người dốt không có học thức, nên  chạy  theo  học  hỏi  để  thông  suốt  lời  Phật dạy, khi đã  thông  suốt  lời  Phật  dạy họ  đã  trở thành  chiếc  tủ  đựng  kinh sách,  từ  đó  bản  ngã của  họ  trở  thành  to  lớn  hơn,  nên  sự  vô  minh của họ, họ còn vô minh hơn. Có người cho rằng, trình độ  học  thức  trên đại  học, là  những người có  trí tuệ,  đối  với  đạo  Phật  trình độ  học  thức này chỉ là một cái bao đựng gạo, chỉ toàn nhai lại bã mía của người khác, chứ không phải như trí tuệ  của  Phật  đã  dạy:  “Chỗ  nào  có  trí tuệ chỗ ấy có giới hạnh. Người có giới hạnh nhất  định có  trí tuệ,  người  có  trí tuệ nhất định có  giới  hạnh”.  Đoạn  kinh này  đã  được
 xác chứng một cách cụ thể trí tuệ của đạo Phật tương  quan giữa  sự  hiểu  biết  và  đức  hạnh  rất đặc  thù  của  đạo  Phật  mà  người  đời  không  thể suy nghiệm  ra được.  Đó  chính  là  trí tuệ  giải thoát hay gọi là tri kiến giải thoát mà đức Phật thường tán thán trí tuệ này.
Cho nên sự học thức của thế gian, không phải  là  trí tuệ,  mà  là  kiến  thức  vay  mượn,  vì thế,  có  người  đỗ  bằng  tiến  sĩ  Phật  học,  tam tạng kinh điển thông suốt, nhưng đối với đạo Phật  đó  không  phải  là  trí tuệ  mà  là  kiến thức hữu  lậu,  càng  học  hiểu  nhiều  lậu  hoặc  càng sanh nhiều hơn.
Trí tuệ của đạo Phật được phát triển là ở chỗ  biết  “xả   tâm   ly dục   ly ác   pháp”   chứ không phải  chỗ  học  hỏi  nhiều. Vì có  xả  tâm  ly dục  ly ác  pháp  thì giới  luật  mới  thanh  tịnh, giới luật có thanh tịnh thì đời sống mới có đạo đức, mà  đời  sống  có  đạo  đức  thì ngay đó  là  trí tuệ, chứ có học hỏi gì đâu?
Họ đâu biết rằng: Tại sao lại có Vô Minh? Có  Vô  Minh  là  vì  có  “lòng  ham muốn”,  do ham  muốn  mà  Vô  Minh  có,  nên  đức  Phật  dạy “ly   dục  ly ác  pháp”  thì Vô  Minh  sạch,  Vô Minh sạch thì gọi là Minh.
 Đức Phật đâu có dạy bảo chúng ta học tập cho thông suốt tam tạng kinh điển hoặc có cấp bằng này, cấp bằng nọ mà gọi là Minh bao giờ? Xưa, ông Bàn Đặc tối tăm dốt nát học không thuộc  bốn câu  kệ, thế mà  Đức  Phật dạy ông tu hành chứng quả A La Hán tam tạng kinh điển đều thông suốt, thuyết giảng chẳng thua ai. Đó mới  thấy  trí tuệ  của  đạo  Phật  rất  là  đặc  thù, người  nào  muốn  có  được  trí tuệ  như  Phật  thì hãy sống ly dục ly ác pháp.
Phật  bảo  lìa  dục  lìa  ác  pháp  thì có  Minh, người đời hiểu lầm lạc, tưởng là học hỏi cho nhiều  có  cấp  bằng  này  cấp  bằng  kia,  do đó  từ lớp  Vô  Minh  này  chồng  lên  lớp  Vô  Minh  khác như trên chúng tôi đã  nói. Phần đông đó là các giảng sư của Phật giáo chúng ta hiện giờ.
Bởi muốn phá Vô Minh không phải lấy sự học hỏi hiểu biết mà phá được, chỉ có đoạn dứt “duyên sanh” tức là lìa dục, sanh còn là dục còn, sanh diệt là dục diệt, dục diệt thì Vô Minh diệt,  Vô  Minh  diệt,  tức  là  Minh  sanh.  Nên trong kinh Thập Nhị Nhân Duyên Phật dạy: “Sanh  diệt  thì Thủ  diệt,  Thủ  diệt  thì Hữu diệt,  Hữu  diệt  thì Ái  diệt,  Ái  diệt  thì Thọ diệt,  Thọ  diệt  thì Xúc  diệt,  Xúc  diệt  thì Lục  Nhập  diệt,  Lục  Nhập  diệt  thì Danh



Sắc   diệt,   Danh  Sắc   diệt   thì  Thức   diệt, Thức diệt  thì Hành  diệt,  Hành  diệt  thì Vô Minh diệt, Vô Minh diệt thì Minh sanh.
Do đó, Đức Phật ngày xưa dạy người tu cắt ái ly gia, xuất gia, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình,  không nhà cửa là vậy. Vì vậy, người nào muốn tu theo Đạo Phật để được giải thoát thì phải dứt lìa  “duyên sanh”.
Dứt duyên sanh, tức là ly gia, cắt ái để trở thành một vị Tỳ Kheo chân chánh. Người xưa dứt đời tìm đạo để cầu giải thoát, người nay dứt đời  tìm đời  qua hình  ảnh một lớp  áo  cà  sa của nhà tu để nuôi vợ, nuôi con, nuôi  cha, nuôi mẹ, xây mồ  mả  ông, bà, dòng họ  (hình  ảnh một  tu sĩ,  vị  Tỳ  Kheo  để  dễ  bề  tìm danh  tìm lợi,  lừa đảo tín đồ rất dễ dàng).
Cho  nên,  theo  đạo  Phật  cái  học  không phải là Minh, chỉ có sống đúng giới luật hằng ngày tu tập đúng các loại định:
1.        Định Sáng Suốt

2.        Định Vô Lậu

3.        Định Chánh Niệm Tĩnh Giác

4.        Định Niệm Hơi Thở

Nhờ  tu  các  loại  định này  thực  hiện  trên
Tứ  Chánh  Cần,  ngăn  ngừa  và  đoạn  dứt  các  ác
 pháp,  khiến  cho tâm  ly dục  ly ác  pháp,  do đó giới  luật  không  vi phạm,  không  bị  bẻ  vụn,  trở thành thân tâm nghiêm trì giới luật.
Giới   luật   đã   nghiêm   túc   thì  thân   tâm thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh, tức là thiền định, nên  Phật  dạy ly dục  ly ác  pháp  nhập  Sơ Thiền, thân tâm  có định thì trí tuệ triển khai, trí tuệ triển khai gọi là Minh.
Người tu theo Phật giáo ngày nay nghĩ tưởng phá Vô Minh bằng Minh, nên ngay từ lúc ban  đầu  theo  Minh  đi  vào  để  phá  Vô  Minh bằng  sự  học  thức  hiểu  thông  tam  tạng  kinh điển  của  Phật,  đó  là  một  sự  hiểu  sai  lầm  rất lớn.  Thay  vì,  phá  Vô  Minh  lại  chồng  lên  một lớp kiến chấp học thuật, vì thế bản ngã càng to lớn, chẳng chịu ly dục ly ác pháp, nên tâm không thanh tịnh, do tâm không thanh tịnh, nên không có định, không có định thì Minh chẳng bao giờ có, Minh chẳng có thì lấy gì phá Vô Minh, phá Vô Minh chẳng được nên chồng thêm một lớp  Vô  Minh nữa. Những người tu  sĩ và  cư sĩ  này  giống  như  một  con chim  học  nói tiếng người, chẳng có ích lợi gì cho họ cả.
Theo sự học thức của họ, từ đó họ tu tập thiền định ức  chế  tâm  nên sanh ra nhiều kiến giải,  sản  xuất  ra nhiều  pháp  môn  thiền  định,
 nhưng toàn là thiền ức chế tâm hoặc sanh ra những pháp môn tha lực chuyên cúng bái, tụng niệm, cầu khẩn, tế lễ, v.v.. đưa Phật giáo đến chỗ mê tín, dị đoan, trừu tượng.
Từ  chỗ  hiểu  lầm  lạc  dùng  trí tuệ  phàm phu  hữu  hạn  học  hỏi  cho là  Minh  để  phá  Vô Minh. Phá Vô Minh chẳng được lại đưa Phật giáo  dần  dần  đi  đến  tồi  tệ  hơn  mà  ngày  nay Phật giáo đã biến thành Thần giáo, Hữu Ngã giáo, Huyền Bí giáo v.v..

HỶ  LẠC CÓ XÃ BỎ HAY KHÔNG
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa Thầy! Thân, thọ, tâm, pháp đều có khổ, lạc, bất khổ bất lạc thọ, ở thế gian đều phải xả bỏ, ngược lại hỷ lạc, khinh an khi  tu  tập  thiền  định sanh ra thì  có  cần  phải giữ  gìn và  tăng trưởng hay phải  xả  bỏ  như  thế
nào?

Nếu không được giữ gìn và tăng trưởng thì những  hỷ  lạc  này  sẽ  thối  thất,  mất  mát,  hoặc hao mòn không thưa Thầy?
 Đáp: Dục lạc thế gian là nguy hiểm, là tai họa, là khổ đau v.v.. nên tu theo Phật giáo cần phải xả ly, xa lìa những thứ dục lạc đó.
Do tu hành thiền định có lạc, có hỷ, hỷ lạc này tùy theo ở mỗi loại định xuất hiện, như hỷ lạc  của  Sơ Thiền  do “ly dục”  sanh ra. Hỷ  lạc này không giống như hỷ lạc của dục lạc.
Hỷ lạc của Nhị Thiền do định sanh, hỷ lạc này cao hơn hỷ lạc do ly dục sanh ở Sơ Thiền, nhưng  phải  hiểu  nó  là  do định  ly dục  sanh ra, nó  không  giống  hỷ  lạc  do thiền  định  ức  chế tâm như thiền Đại Thừa và Thiền Đông Độ, hỷ lạc của hai loại thiền này do dục tưởng sanh.
Khi tâm  không  còn  ly dục  thì hỷ  lạc  của Sơ Thiền liền mất, không còn ly dục, tức là tâm phóng dật  chạy theo các  đối  tượng của nó: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Tâm còn ly dục ly ác pháp, tức là tâm còn an trú  trong  Sơ Thiền,  tâm  chạy  theo  dục  lạc, tức là tâm xuất Sơ Thiền.
Khi tâm  còn  tịnh  chỉ  tầm  tứ,  tức  là  tâm an trú  Nhị Thiền, tâm  an trú  Nhị  Thiền có  hỷ lạc  do định  sanh.  Khi tâm  hết  hỷ  lạc,  tức  là tâm không tịnh chỉ tầm tứ.

Do những  điều  ở  trên  ta  muốn  giữ  gìn hỷ lạc  không  cho mất,  nếu  Sơ Thiền  thì phải  giữ gìn tâm không phóng dật, còn Nhị Thiền thì phải giữ gìn cho tâm tịnh chỉ tầm tứ.
Hỷ  lạc  của  Sơ Thiền  và  Nhị  Thiền  không có tăng trưởng thêm mà chỉ có một mức độ của nó mà thôi, dù có kéo dài trạng thái hai loại thiền  này  ra hai,  ba ngày,  thì sự  hỷ  lạc  cũng chỉ như vậy, không tăng, cũng không giảm.
Tam  Thiền  thì xả  sạch  hỷ,  Tứ  Thiền  thì xả  lạc,  xả  khổ  và  xả  luôn  cả  đối  tượng  của  nó tức là  tâm  thanh tịnh, nên không có  hỷ  và  lạc của  tưởng  và  thọ  nữa,  mà  là  một  trạng  thái vắng lặng bất động.
Ở đây quý vị phải hiểu, hỷ lạc của những bậc Thánh Hiền do từ thiền định xả tâm ly dục ly ác  pháp  mà  sanh  ra.  Vì  thế,  hỷ  lạc  này không phải thứ cảm giác an lạc vui mừng của tâm dục lạc thế gian. Quý vị nên lưu ý, bắt đầu vào Sơ Thiền do ly dục sanh hỷ lạc, nên hỷ lạc này không phải dục mà có, vì thế nó rất thanh tịnh,  trong  sạch  không  uế  nhiễm.  Đến  định sanh hỷ lạc ở Nhị Thiền, hỷ lạc của định Nhị Thiền  là  loại  hỷ  lạc  định  ly dục,  chứ  không phải là các thứ hỷ lạc của các loại định tưởng của thiền Đại Thừa và  Thiền Đông Độ, loại  hỷ lạc đó là do dục tưởng sanh ra, nên có khi hiện lại có khi mất, vì thế mà con hỏi cần phải giữ gìn và tăng trưởng, như vậy con tu hành đã lạc vào tà thiền tà định, cho nên xin  Thầy chỉ dạy cách  thức  giữ  gìn  và  tăng  trưởng  hỷ  lạc.  Thứ hỷ lạc này là bệnh thiền sẽ đưa hành giả vào cảnh mộng “Phản Bổn hoàn nguyên; Phủ trùm  vạn  hữu; Thõng  tay  vào  chợ; Tự  tại vô ngại; Đói ăn, khát uống, mệt ngủ”.
Đó  là một thứ bệnh thiền cần phải tránh xa. Hỷ lạc của loại thiền định này, gặp nó như là gặp loài quỷ La Sát. Khi tu thiền gặp nó, thì quý Thầy cần phải xả ngay hoặc dùng pháp hướng tâm đuổi đi, đừng để tâm theo nó, nó chẳng có lợi ích gì cho sự tu tập của quý  Thầy mà còn có nhiều tai  hại về sau.

TRƯỞNG DƯỠNG HỶ LẠC
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Khi   tu  tập  các định  đã   nhập   được,   sanh  ra  có   trạng   thái khinh an,  hỷ  lạc,  lạc  thọ,  vui  mừng  v.v..  thì trưởng dưỡng chúng như thế nào?
Đáp: Muốn trưởng dưỡng trạng thái khinh an, hỷ  lạc,  lạc  thọ  thì phải  tập  luyện  khéo  léo giữ  tâm  yên  lặng  trong  trạng  thái  định  đó, thỉnh thoảng hướng tâm bằng sự ước muốn hơn là tác ý thô tháo.
Tại sao các con lại muốn trưởng dưỡng các trạng  thái  khinh  an, hỷ  lạc, lạc  thọ  đó? Trong khi đức  Phật  dạy  bảo  phải  ly hỷ,  xảû  lạc,  xả khổ, xả  niệm thanh tịnh. Đối  với  đạo  Phật  chỉ cần tìm sự  “làm  chủ  sanh, già,  bệnh,  chết”, chứ đâu có đi tìm hỷ lạc, thọ lạc, khinh an như các con vậy. Giữ gìn và trưởng dưỡng nó để làm gì?  Bỏ  dục lạc  thế  gian để  đi  tìm dục lạc trong thiền định sao? Nó có  lợi  ích gì cho đời  người? Trạng thái hỷ lạc, khinh an nó có giải thoát cái gì cho con người đâu? Tại sao các con không đi tìm một  “đạo  lực”  nào  để  làm  chủ  sự  sống chết, luân hồi, chấm dứt sự khổ đau của đời người thì đó có phải là lợi ích thiết thực không? Đi  tìm chi  cái  hỷ  lạc  của  thiền  định  không  ra gì, ngồi như con cóc để thọ hưởng cái hỷ lạc đó, không lẽ tu hành rồi thành con cóc sao?
Tu hành có hỷ lạc cũng tốt, không hỷ lạc cũng  tốt.  Cớ  sao có  thì mừng,  không  có  thì
 buồn,  cho rằng  tu  không  kết  quả,  chứ  đâu  biết rằng kết quả của sự tu là tâm ly dục ly ác pháp, chứ không phải chỗ hỷ lạc, khinh an, lạc thọ.
Ở   đây,  quý  Thầy cần  phải  biết  phân  biệt, khi tu hành tâm có hỷ lạc thì loại hỷ lạc đó do ly dục sanh hay do ức chế tâm mà sanh ra. Quý vị  phải  tự  suy xét,  cuộc  đời  tu  hành  của  mình có sống đúng giới luật chưa? Nếu sống không đúng  giới  luật  thì hỷ  lạc  của  quý  vị  sanh ra là do dục  lạc  tưởng,  là  do loại  thiền  định  ức  chế tâm.
Tu  sĩ  thời  nay  có  ai  là  người  sống  đúng giới  luật  đâu?  Chỉ  chuyên  lo  tu  thiền  định, niệm Phật ức chế tâm sanh ra hỷ lạc, đó là thứ hỷ  lạc  của  dục  tưởng,  do ức  chế  tâm  chứ  đâu phải hỷ lạc của ly dục.
Thiền  định  ức  chế  tâm  sẽ  đưa quý  vị  đi vào chỗ chết, chứ không phải đi vào chỗ giải thoát. Người tu hành cần phải  biết  tu  cái gì có ích lợi  cho mình  cho người  thì mới  nên  tu,  tu mà  không  biết,  chỉ  nhắm  vào  ích  kỷ  cá  nhân của  mình.  Tu hành  mà  ích  kỷ  như  vậy  thì có ích  lợi  gì cho mình  cho người  đâu,  thì tu  làm chi cho phí uổng cuộc đời.
Người  tu  hành,  vì  muốn  thoát  ra bốn  sự khổ đau của kiếp làm người, chứ không phải đi tìm khinh  an, hỷ  lạc  của  dục  tưởng  mà  trưởng dưỡng nó, nó có hay không là điều không quan trọng đối với người tu sĩ đạo Phật.
Người tu sĩ đạo Phật, khi tu hành phải nhắm vào mục đích như thế nào? phải biết làm sao?  Bằng  cách  nào?  Cho có  một  đạo  lực  như thế nào? Để làm chủ sự sống chết luân hồi, thì mới  mãn nguyện. Không lẽ  tu  hành bỏ  dục  lạc thế gian, bỏ hết cả cuộc đời mình  mà lại đi tìm dục  lạc  thiền  định  hay  đi  tìm thần  thông  để làm gì?
Thần thông thì để lừa đảo, lường gạt thiên hạ; hỷ lạc của thiền định thì để cám dỗ những người còn ích kỷ cá nhân ham mê dục lạc chỉ riêng cho mình.

TỨ CHÁNH CẦN
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa  Thầy! Xin  Thầy chỉ dạy Tứ  Chánh  Cần,  các  pháp  ác  chưa sanh không cho sanh, các  pháp  ác  đã  sanh phải  đoạn diệt,



các  pháp  thiện  chưa  sanh  làm  cho sanh,  các pháp thiện đã sanh làm cho tăng trưởng.
Nếu  dựa  vào  bài  kinh  này,  qua ngôn  ngữ nói trên mà không có người triển khai thành pháp  hành,  để  hiểu  biết  cách  thức  tu  tập  theo con đường  của  đạo  Phật,  thì  khó  có  ai  tu  tập được Tứ Chánh Cần.
Vậy con xin thưa hỏi Thầy, làm thế nào ngăn chặn và đoạn dứt các pháp ác và làm thế nào các pháp thiện chưa sanh lại sanh và tăng trưởng chúng?
Đáp: Nếu muốn tu tập Tứ Chánh Cần, chúng  ta  cần  phải  hiểu  pháp  thiện  và  pháp  ác như thế  nào  cho đúng  như trong  kinh  Phật  đã
dạy?

Pháp  ác  thì cũng vô  lượng mà  pháp  thiện thì cũng có vô lượng, do số luợng quá nhiều, chúng ta làm sao biết đâu mà tu hành cho đúng pháp thiện và pháp ác?
Muốn   biết   pháp   thiện   và   pháp   ác   thì chúng  ta  phải  theo  lời  Phật  dạy  trong  kinh Thập Thiện. Kinh này dạy rất rõ có 10 pháp thiện và 10 pháp ác. Lấy mười pháp thiện và mười  pháp  ác  này  áp  dụng  vào  Tứ  Chánh Cần
 thì mới  đúng  đường  lối  tu  tập  mà  đức  Phật  đã hướng dẫn.
Áp dụng vào Tứ Chánh Cần, trước tiên chúng ta phải hiểu có  bao nhiêu pháp thiện và có bao nhiêu pháp ác? Pháp thiện như thế nào? Và pháp ác như thế nào?
Có mười pháp thiện là :

1-   Không giết  hại chúng sanh, không xúi bảo  người  giết  hại,  thấy  người  giết  hại  không vui theo, thường can ngăn người giết hại chúng sanh.
2-   Không  gian  tham  trộm  cắp  lấy  của không  cho,…  dù  cây  kim   sợi  chỉ,  vật  nhỏ  mọn nhất  nếu  người  không  cho thì không  bao giờ
lấy.

3-   Không  tà  dâm,  có  nghĩa  là  chồng  hay vợ không được gian dâm với người khác, vì gian dâm với người khác tạo ra cảnh bất an cho gia đình  mình  và  gia  đình  người  khác,  khiến  tan nát cả hai gia đình,  đó là một ác pháp làm đau khổ mình  và đau khổ người và khổ cho con cái của chúng ta.
4-   Không  nói  dối,  có  nghĩa  là  chuyện  có nói có, chuyện không nói không, chứ không lừa đảo, lường gạt người khác bằng miệng lưỡi.
 5-   Không   nói   lưỡi   hai   chiều   nghĩa   là không nói lật lọng, tức là không nói qua nói lại.
6-   Không  nói  lời  thêu  dệt  nghĩa  là  đến chỗ  này  nói  xấu  chỗ  kia, đến  chỗ  kia  nói  xấu chỗ này.
7-   Không nói lời  hung ác  nghĩa là  không nói  lời   dữ   tợn,   không  chửi   rủa  người  khác, không nói lời chửi thề, không nói lời tục tĩu.
8-   Không   ham   muốn,   nghĩa   là   không tham muốn những gì mình  chưa có, dù mình  đã có vật đó cũng không tham muốn.
9-   Không  sân  hận  nghĩa  là  không  tức giận, giận hờn ai hết.
10- Không si mê nghĩa là không tham ăn, tham  ngủ,  không  làm  khổ  mình,   khổ  người, tránh  xa  các  pháp  ác,  lìa  tất  cả  lòng  tham muốn của mình,  luôn luôn sống không làm khổ người  khác  và  không  làm  khổ  tất  cả  chúng sanh.
Ngược lại  là 10 pháp  ác, bây giờ chúng ta đã rõ 10 pháp thiện và 10 pháp ác, nếu ngăn chặn và đoạn diệt 10 pháp ác được thì ngay đó là sanh khởi và tăng trưởng 10 pháp thiện. Muốn được vậy, chúng ta phải ở trên pháp nào để tu tập cho có kết quả?
 Như đức Phật đã  dạy: Trên pháp Tứ Niệm Xứ chúng ta quán thân trên thân tu về hành tướng ngoại, tức là tu  trong các  hành động của thân (Thân Hành Niệm ngoại). Tu về Thân Hành  Niệm  ngoại,  tức  là  tu   “Chánh   Niệm Tĩnh  Giác  Định”.  Đó  là  một  pháp  môn ngăn các pháp ác tuyệt vời.
Nếu   trên   thân   quán   thân   tu   về   hành tướng nội, thân hành niệm nội, tức là hơi thở. Nếu  tu  về  hơi  thở  thì coi  chừng chúng ta sẽ  bị lầm lạc tu vào những pháp môn của các Tổ như: Sổ Tức Quán, Lục Diệu Pháp Môn v.v.. Đó là những pháp  môn hơi thở  tu ức chế  tâm, còn tu về  hơi  thở  của  đạo  Phật  thì  không  phải  là những pháp môn này. Trong  kinh sách Nguyên Thủy gọi pháp  môn  hơi  thở  này  là  “Định  Niệm Hơi   Thở”,   Định   Niệm  Hơi   Thở   cũng  là   một pháp môn ngăn ác diệt ác pháp tuyệt vời.
Hai  loại thiền định này là pháp môn ngăn chặn mười pháp ác, nếu hành giả siêng năng, chuyên cần, tinh tấn tu tập thì các pháp ác không  xen  vào  được  trong  tâm  mình.  Vì  thế, tâm  không  phóng  dật,  luôn  hướng  vào  trong thân và định vào thân, tâm hồn hành giả lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự, cuộc sống trở thành trầm lặng, thánh thiện và độc cư.



Nếu các pháp ác đã sanh làm cho tâm hồn đau khổ, phiền toái, buồn lo, giận hờn v.v.. thì phải mau lo đoạn diệt. Vậy đoạn diệt các pháp ác bằng pháp môn nào?
Nếu  muốn  đoạn  diệt  các  pháp  ác  thì phải tu  pháp môn  “Tứ  Niệm  Xứ”. Tu pháp  môn Tứ Niệm Xứ là phải ở trên thân quán thân tu về nhân  tướng,  tức  là  tu về  “Định  Vô  Lậu”  quán xét  thân,  thọ,  tâm  và  các  pháp  bằng  “luật nhân  quả”û; bằng  “Tam  pháp  ấn”  vô  thường, khổ, vô ngã, v.v..; bằng quán Thập Nhị Nhân Duyên; bằng quán Tứ Diệu Đế; bằng quán Thân Ngũ  Uẩn  không  phải  là  ta,  là  của  ta,  là  bản ngã của ta và bằng quán thân, thọ, tâm, pháp bất tịnh, hôi thúi, uế trược, bẩn thỉu v.v..
Nhờ  có  tu  tập  như  vậy,  các  pháp  ác  mới đẩy lui được, mới đoạn dứt được, mới đem lại sự thanh bình cho tâm hồn, mới làm nên một cuộc cách mạng tư tưởng, mới chiến thắng được tâm mình,  “Thắng  trăm  trận  không bằng chiến thắng tâm mình”. Lời Phật dạy như vậy.
Khi ngăn  chặn  được  các  ác  pháp  thì tâm bây  giờ  lúc  nào  cũng  ở  trong  thiện  pháp,  ở trong  thiện  pháp,   tức  là   sanh  trưởng  thiện pháp. Nói  cách khác là  ngăn chặn ác  pháp  tức là  sanh  trưởng  thiện  pháp.  Như  kinh  Thập
 Thiện  dạy: Mười  ác  pháp  không  có  mặt  tức  là mười thiện pháp có mặt.
Như vậy, ta chỉ cần ngăn chặn 10 điều  ác, tức  là  ta  đã  sanh  khởi  10 điều  thiện,  hay  nói một  cách  khác  nữa,  ngăn  chặn  10  điều  ác  là một tên khác của sự sanh khởi 10 điều thiện.
Đoạn   dứt   ác   pháp,   tức   là   tăng   trưởng thiện pháp, nói một cách khác là tăng trưởng thiện  pháp  là  tên  khác  của  sự  đoạn  dứt  ác pháp.
Tóm  lại  ngăn  chặn  ác  pháp  thì phải  tu Định Niệm Hơi Thở và Định Chánh Niệm Tĩnh Giác.
Muốn  đoạn  dứt  các  ác  pháp  thì phải  tu Định Vô  Lậu.  Có  tu  tập  như  vậy,  thì “Đường Về   Xứ   Phật”   mới  xứng  đáng  là  đạo  lộ  cho những người  đệ  tử của đức  Phật bước  đi. Dù  có gian nan, có khó nhọc đến đâu, nhưng tương lai vẫn  sáng  chói  huy  hoàng.  “Đường  Về  Xứ  Phật” sẽ đưa đường dẫn lối cho quý vị đến nơi đến chốn giải thoát hoàn toàn.


MÜT NGƯỜI MÙ DẪN MÜT ĐÁM NGƯỜI MÙ
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Người  đang  tu chưa  chứng  đắc  được  gì  về  pháp  môn  giới, định, tuệ  mà  vội  lập  đạo  tràng  để  giảng  đạo cho các người khác tu tập, thì số phận người giảng sư lẫn các hành giả sẽ đi về đâu trên đường tu tập? Xin  Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Chẳng đi đến đâu cả, giống như một người mù dắt đường cho tất cả những người mù khác  để  ra  khỏi  rừng  sâu,  núi  thẳm  nhưng không  ngờ  mọi  người  đều  sa hầm,  lọt  hố  và chết chìm nhau cả đám.
Con người vì đắm mê danh, lợi, tu chưa tới đâu,  mà  vội  đem   ra dạy người  là  người  “háo danh”, người tham danh mà Thầy thường gọi là “Tưởng giải”.
Kinh sách Đại Thừa dạy: “Một người vừa tu  vừa  dạy  người  khác  tu  là  Bồ  Tát  độ chúng sanh”. Kinh sách này khuyến khích những  vị  Tỳ  Kheo  và  những  cư sĩ  thọ  Bồ  Tát giới, thực hiện Bồ Tát Hạnh. Nghĩa là tu sĩ vừa
 tu vừa hành Bồ Tát đạo, tức là mình  vừa tu vừa dạy người  khác tu, còn cư sĩ  vừa học tu lại  vừa bố  thí, cúng  dường  và  làm  việc  từ  thiện,  cũng có  khi dạy người  khác  tu  hành  như  cư sĩ  Tâm Minh và Đoàn Trung  Còn. Thật là đau lòng cho Phật Pháp, người ta lấy sự học mà dạy đạo, chứ không  phải  lấy  sự  tu  chứng  mà  dạy.  Vì  thế, Phật  giáo  đi  dần  về  phía  tà  đạo,  không  có người tu chứng nữa. Kinh sách này dạy như vậy có đúng đường lối của đạo Phật hay không?
Không,  đức  Phật  dạy  người  phải  tu  cho mình  được  giải  thoát  xong  rồi  mới  dạy  người khác  tu.  Trường  hợp  như  ông  Phú  Lâu  Na khi tu xong đến xin đức Phật đi độ chúng sanh, đức Phật trắc nghiệm thấy ông đủ khả năng độ chúng sanh, liền chấp nhận cho Ngài đi. Đó là sự  cân  nhắc  rất  kỹ  của  đức  Phật  khi người  đệ tử ra đi làm lợi ích cho chúng sanh, nếu không trắc nghiệm và cân nhắc như vậy thì một vị Thầy, tu  hành chưa xong mà  vội ra hướng dẫn người tu hành thì đó là giết người và giết nhiều thế  hệ  con người  vì mình  chưa đủ  đạo  đức  làm gương sáng và kinh nghiệm dạy đạo. Dạy người bằng miệng lưỡi nói được mà mình làm không được,  tức  là  nói  láo,  hầu  hết  các  giảng  sư hiện giờ đều dạy người tu nói láo như vậy.



Bởi,  kinh  sách  Đại  Thừa  đã  truyền  thừa cho đến nay, đối với tu sĩ Phật giáo tu hành chẳng  ra gì,  đời  chẳng  ra đời,  đạo  chẳng  ra đạo,  chỉ  toàn  là  những  hạng  người  chạy  theo danh  lợi,  buôn  Phật,  bán  Pháp  làm  chuyện  tồi tệ,  phi  đạo  đức  chỉ  cần  dùng  những  danh  từ “Tu  Bồ  Tát  đạo,  Hành  Bồ  Tát  hạnh”  là cao thượng, là bịt miệng tín đồ dễ dàng.
Ngoài đời, người ta muốn làm một việc gì, thì cũng phải học tới nơi tới chốn, mới làm nên việc  đó.  Ví  dụ:  Như  muốn  làm  một  bác  sĩ  thì phải học 7, 8 năm, sau khi tốt nghiệp ra trường y khoa mới chính thức là một vị thầy thuốc, chừng  đó  mới  trị  bệnh  thiên  hạ,  nếu  vừa  học vừa  làm  bác  sĩ  trị  bệnh,  thì chắc  chắn  không trị bệnh nhân mà là giết bệnh nhân, cũng như các giảng sư Đại Thừa Phật giáo bây giờ là vậy, giống như con chim học nói tiếng người, nói mà chẳng biết gì cả. Chẳng tu mà dạy người tu, thì cũng giống như một người mù dắt bầy người mù đi.





0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!