Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT TẬP 6 -3

CHỨNG ĐẮC MỘT ÍT DẠY NGƯỜI ĐƯỢC KHÔNG?
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa Thầy! Xin  Thầy chỉ dạy, người  đang  tu  mới  chứng  đắc  được  phần  nào đó, mà vội lập đạo tràng để dạy người, thì  hậu quả của người tu chưa xong này sẽ dẫn họ tới đâu? Và phần chứng đắc được, liệu có giữ gìn được trọn vẹn hay không?
Và những người học theo giáo pháp của người dạy này, liệu có đúng như lời Phật dạy chăng? Tương lai cả những người học tu này có ích lợi gì cho họ?
Đáp: Con đường tu tập theo đạo Phật khó khăn vô vàn, người tu chưa tới đâu hoặc chứng đắc một phần nào trong các pháp hành của đạo Phật  mà  vội  đem  ra dạy  người,  cũng  ví  như người học  nghề  thầy thuốc  tay nghề chưa rành mà đi ra trị bệnh cho người khác thì chỉ có giết người hơn là cứu người. Cũng giống như người hướng đạo viên không thông đường xá, chỉ biết có một ít lại dẫn người vượt suối băng ngàn thì
 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
làm  sao ra khỏi  rừng  sâu  núi  thẳm,  chỉ  còn chết chung nhau giữa rừng già mà thôi.
Bởi  vậy,  tu  phải  đến  nơi  đến  chốn  có  đủ kinh nghiệm rồi mới hướng dẫn người khác tu. Ở   đời  người  ta  xem  sự  tu  hành  quá  dễ  dàng, cho nên đụng đâu dạy người ta tu đó, đó là dạy tu  vào  con  đường  chết,  chứ  không  phải  giải thoát.
Tu chưa đến nơi đến chốn, tức là tâm chưa giải  thoát  hoàn toàn, thì tâm  ham muốn và  ác pháp  còn  dẫy  đầy  mà  vội  ra làm  Đạo  sư thì danh  lợi  với  sắc  dục  sẽ  cám  dỗ  và  lôi  cuốn  đi sâu  vào  các  ác  pháp  thế  gian  khiến  cho người này giới luật bị bẻ vụn, phạm giới, đức hạnh không có. Bây giờ tâm ly dục ly ác đã  mất hết, chỉ còn lại tâm phóng dật chạy theo sắc, thinh, hương, vị,  xúc,  pháp.  Do thế  hình  ảnh  thì còn là  người  tu  sĩ  mà  tâm  thì phàm  phu  tục  tử, sống bằng những danh từ lừa đảo tín đồ qua sự thuyết  kinh giảng đạo từ  bài  kinh này đến bài kinh khác,  pháp  hành  thì mù  mờ  loanh  quanh không  có  rõ  ràng,  chỉ  dùng  một  số  ngôn  ngữ xảo thuật cho thật kêu để phỉnh gạt người khác dễ dàng.
Những  người  theo  những  giảng  sư này  tu hành, chẳng đi đến đâu giống như con chó gặm

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC

xương, bỏ  thì tiếc, nhai thì chẳng có  gì lợi  ích, phí  cả  cuộc  đời,  chẳng  ích lợi  gì cho mình  cho người mà còn thêm tổn phước đức về tội vọng ngữ (nói láo ăn tiền).
Đối   với   đạo   Phật,   những   hạng   người không tu mà dạy đạo, chỉ đem ngôn thuyết lừa đảo  thiên hạ  để  mua danh mua lợi, thì tội  đọa địa  ngục  muôn  kiếp,  chứ  làm  gì có  chứng  đắc, nhìn  thấy cuộc sống của họ phạm giới luật, phi đạo đức, tức là phi Phạm hạnh, chỉ có ba hoa ngoài  đầu  môi  chót  lưỡi.  Nếu  ai  đi  tìm cầu  sự giải thoát của đạo Phật mà gặp các vị Đạo sư này  thì chỉ  còn  có  nước  đi  chung nhau  xuống địa ngục A Tỳ tìm vua Diêm Vương, chứ không tìm giải thoát được.
Ở  đây, quý  vị  đừng hiểu  địa ngục  A Tỳ  là một  cảnh  giới  siêu  hình  để  hành  phạt  những linh hồn tội  lỗi. Địa ngục  A Tỳ  ở  đây có  nghĩa là  cuộc  sống  của  con  người  tại  thế  gian  này đang chịu đựng những sự khổ sở tận cùng.
Ví dụ: Bệnh bán thân, nằm, ăn, đại, tiểu tiện một chỗ; bệnh ung thư đau nhức khổ sở; bệnh cùi ngứa, đau nhức và chịu hôi thối; bệnh thần  kinh la  hét  chẳng  biết  chi  hết,  vì  thế người bị bệnh này bị nhốt như một con thú vật không  khác  hoặc  chúng  ta  đi  vào  những  bệnh
 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
viện  thấy  những  bệnh  nhân  nằm  la  liệt  đau khổ vô cùng. Đó là địa ngục tại trần gian chứ không phải là sự tưởng tượng địa ngục thế giới siêu  hình  của  con người  mà  từ  lâu  người  ta  đã bị  các  tôn  giáo  lừa  đảo.  Chỉ  riêng  có  đạo Phật chỉ  thẳng  là  không  có  thế  giới  siêu  hình,  sau này  Phật  Giáo  Đại  Thừa  và  Thiền  Đông  Độ mới  xây dựng thế giới siêu  hình  vĩ  đại  hơn tất cả các tôn giáo khác.

SÙNG KHÔNG PHẠM  HẠNH

Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi:  Kính thưa   Thầy!  Con  xin   Thầy dạy bảo, người đã tu xong mà sống phóng dật tâm buông lung, không giữ gìn phạm hạnh, không  giữ  gìn  giới  luật  trọn  vẹn,  liệu  những điều chứng đắc có còn giữ được không?
Đáp:  Không,  người  tu  xong đã  chứng  đắc thì không  thể  nào  sống  buông  thả  phóng  dật theo tâm ham muốn, Phạm hạnh không có và giới luật không nghiêm chỉnh. Chẳng hề có một

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
người tu đã chứng đạo nào, mà lại sống trái đạo bao giờ.
Chỉ có những người tu chưa xong, tâm còn phóng dật buông lung, nên không giữ gìn Phạm hạnh  và  giới  luật  được,  những  người  này  tu hành  chưa chứng  đắc  gì  cả,  họ  chỉ  là  những người lừa đảo người khác mà thôi. Kinh Phật dạy: Đó là những người “Đại  vọng  ngữ,  Tăng thượng mạn”.
Những người tu chưa chứng đắc, cuộc sống thường   phạm   giới,   Phạm   hạnh   không   có, thường sống buông lung phóng dật, chạy theo danh lợi  thế  gian, chỉ mượn chiếc  áo  cà sa của đạo Phật để tạo cuộc đời mà thôi, thường dùng những danh từ của các Tổ “Tự tại  vô ngại”  để che đậy. Họ lừa đảo bằng những sự vay mượn kiến  giải  kinh nghiệm  của  người  khác  rồi  cho đó là của mình.
Những  người  này  là  những  con sâu  làm rầu  nồi  canh, là  những  con bọ  chét  trong  lông sư tử,  là  Ma  Ba Tuần,  là  quỷ  La  Sát  thể  hiện làm  suy tàn Phật  giáo. Chúng đã  đưa ra nhiều thuyết để diệt Phật giáo: nào là ngày tận thế sắp đến năm 2000 ; nào là Đức Phật Di Lặc ra đời;  nào  là  Hội  Long  Hoa;  nào  là  Đức  Phật Thích Ca hết nhiệm kỳ v.v..

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
Đó là những điều lừa đảo, lường gạt người khác,  khiến  cho mọi  người  khiếp  đảm  và  sợ hãi, không còn muốn làm việc. Bởi, bọn Ma Vương lộng hành, khi đạo Phật không có người tu chứng, chúng muốn nói như thế nào tùy ý, chẳng sợ  ai  biết  được  và  có  biết  cũng chẳng có ai dám vạch mặt, vạch tên chúng, nên chúng tự do muốn nói Đông, nói Tây, nói sai, nói đúng chẳng ai dám cãi, dám bàn, dám phê bình v.v..
Để chứng minh cho quý vị thấy, một trong những nhà học giả tu hành chưa đến nơi đến chốn, như ở Miến Điện (Malaysia) và Thái Lan, họ  đã  dám  cả  gan  đem  kinh  nghiệm  tu  chưa đến  đâu,  và  sự  tu  hành  đó  chưa đúng  như  lời Phật  đã  dạy trong  các  kinh Nguyên  Thủy,  thế mà họ đã  dám dạy cho người khác, thật là một tai hại rất lớn cho những tín đồ Phật giáo đang hướng  về  Phật  pháp  với  một  niềm  tin sâu  sắc không lay chuyển. Với sự tu hành đó, do đã lạc vào pháp tưởng, tưởng giải, họ đã dám truyền sang qua Tây Úc và các nước Tây Phương, ngay cả nước Việt Nam những bài kinh đó cũng được dịch  sang Việt  ngữ  đã  được  đăng  trên  nguyệt san báo  Giác  Ngộ  số  23 tháng  2 năm  1998 đề tựa “Samadhi, Quán Niệm Hơi  Thở”.
 Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Bốn Thánh Định của đạo Phật, khi chưa biết cách tu, chưa biết cách nhập và chưa nhập được, thì đừng nên tưởng giải ra theo kiểu tu thiền  hơi  thở  ức  chế  tâm  như  các  Tổ  đã  dạy, mà  dạy  người  tu  nhập  Sơ Thiền,  Nhị  Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền như trong bài báo này, thì đừng mong có kết quả giải thoát, chỉ phí công  tu  vô  ích,  như  đức  Phật  đã  dạy:  “Nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ để mà biết phi tưởng  phi phi tưởng  xứ,  chứ  chẳng  có  ích lợi gì”.
Biết  bao  nhiêu  người  đang  tu  theo  đạo Phật, khi đọc bài này, họ làm sao biết được lời dạy  trong  đây  đúng  hay  sai?  Họ  cứ  tin tưởng vào  các  ông  học  giả  này  là  hành  giả  đã  tu chứng, nhập được Bốn Thánh Định. Nếu không có ai nhập được Bốn Thánh Định thì các ông này  lừa  đảo,  nói  dối,  gạt  người  thì còn  ai  biết được để đính chính sự tu hành của các ông?
Vì không có ai tu chứng Bốn loại Thánh Định này, nên các ông dễ lừa đảo người khác, bằng chứng, báo Nguyệt San Giác Ngộ đã có những  cây  bút  giáo  pháp  tên  tuổi  của  các  bậc tôn  túc  Hòa  Thượng,  Thượng  Tọa  Phật  Giáo Việt  Nam,  mà  bài  này  vẫn  qua mặt  được  các

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
Ngài  và  đã   được  phép  đăng  trên  báo,  thì đủ biết Tứ Thánh Định này chưa có ai tu chứng cả.
Như chúng tôi thường nhắc nhở quý vị, thiền  định  của  đạo  Phật  không  giống  bất  cứ một loại thiền định nào của các tôn giáo trên hành tinh này. Nó không phải ngồi ức chế tâm bằng  hơi  thở  hoặc  bằng  bất  cứ  một  đề  mục thiền nào, mà  nó  chỉ  có  mục  đích phải  xả  tâm bằng cách sống đúng giới hạnh, không phạm phải một giới luật nhỏ nhặt nào, luôn luôn sống đúng Phạm hạnh của một vị Thánh Tăng, thì mới gọi là xả tâm.
Khi tâm giữ gìn giới luật trọn vẹn, sống đúng Phạm hạnh, đầy đủ đức hạnh nhân bản nhân  quả,  thì giới  luật  mới  thanh  tịnh;  giới luật có thanh tịnh thì tâm mới thanh tịnh; tâm mới  thanh tịnh thì tâm mới ly dục  ly ác pháp; tâm có ly dục ly ác pháp thì tâm mới nhập Bất Động Tâm Định. Nhập Bất Động Tâm Định thì tâm  mới  có  Tứ  Thần Túc, nhờ  có  Tứ  Thần Túc thì tâm  mới  nhập  được  Sơ Thiền,  đó  là  Thiền Thứ  Nhất  mà  trong  kinh sách  Phật  đều  dạy như vậy.  Thế  mà  các  nhà  học  giả  lại  dạy theo các  Tổ  Sư Thiền  Đông  Độ  và  Thiền  Đại  Thừa theo pháp môn Sổ Tức Quán và Tùy Tức để tìm
 Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC

định  tướng  của  định,  rồi  tự  đặt  cho nó  là  Sơ định.
Nếu xét cho cùng thì hai lối dạy tu Bốn Thánh Định của đức Phật và nhà học giả Nam Tông, cách xa một  trời  một  vực, không có chút nào giống nhau cả. Thế mà các nhà học giả này dạy nhập  bốn  Thánh  Định như  trong  bài  báo, thì xem các  bậc  tôn  túc  Hòa  Thượng,  Thượng Tọa khắp trên thế giới này toàn là những hạng người Phật tử vô minh, u tối chẳng hiểu một chút  gì  về  Bốn  Thánh  Định  của  đạo  Phật  cả, trong khi kinh sách Phật còn ghi lại rõ ràng.
Đây là một đoạn kinh, trong kinh Trung Bộ, bài kinh “Ước Nguyện” đã xác chứng lời đức Phật dạy rất hùng hồn về cách thức nhập Bốn Thánh Định, như chúng tôi  đã  nói  ở trên: “Này các Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo có ước nguyện   mong   rằng,   tùy   theo   ý   muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, Ta chứng Bốn Thiền thuộc Tăng Thượng Tâm, hiện tại lạc trú”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn Giới Luật”.
Vậy thành tựu viên mãn giới luật như thế nào?  Chúng  ta  hãy  nghe  đức  Phật  dạy:  “Các
 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
Tỳ Kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, sống đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới”.
Đức Phật còn nhắc nhở chúng ta phải thực hiện  “Định   Tư Cụ”  tức  là  thực  hiện  ba loại định: Chánh Niệm Tĩnh Giác Định, Định Niệm Hơi thở và Định Vô Lậu. “Tỳ Kheo ấy phải kiên   trì nội   tâm   tịch   tĩnh,  không   gián đoạn  thiền  định,  thành  tựu  quán  hạnh, thích  sống   tại   các   trụ   xứ   không   tịch”. Những danh từ này do các nhà học giả dịch không có  kinh  nghiệm  tu  hành, nên khiến cho người nghiên cứu rất dễ hiểu lầm, như những danh từ “tịch  tĩnh”, “thiền định”, “quán hạnh”, “trụ xứ không tịch”.
Sau khi nhập  xong  bốn  thiền  chúng  tôi mới  hiểu  được  những  danh  từ  này.  Khi người mới  bắt  đầu  tu, tâm làm  sao “tịch  tĩnh”  được, cho nên  tịch  tĩnh  ở  đây  phải  hiểu  là  tĩnh giác chứ không phải là lặng lẽ, tịch chiếu. Thường đức Phật dạy tu tập tĩnh giác theo hành động của thân nội hoặc ngoại để xả niệm ác hay nói cách khác là để giữ tâm trong chánh niệm, nên
 Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
có  tên  gọi  loại  định  này  là   “Chánh   Niệm
Tĩnh Giác Định”.
Vì thế, đức Phật dạy phải kiên trì nội tâm tịch  tĩnh,  tức  là  phải  kiên  trì tu  tập  Chánh Niệm Tĩnh Giác Định, tu trong mọi hành động, tức là thân hành niệm, chứ không phải giữ tâm tịch tĩnh, khi tâm chưa có định thì làm sao giữ tâm  tịch  tĩnh  được.  Nếu  tâm  chưa có  định mà giữ tâm tịch tĩnh tức là ức chế tâm, ức chế tâm tức  là  tu  sai  thiền  của  đạo  Phật,  thì dù  có  tu cho  đến  ngàn  muôn  kiếp  cũng  chẳng  đi  đến đâu, chẳng ích lợi gì cho mình  và người khác.
Phật dạy:  “Không  gián  đoạn  thiền định”,  khi người mới bắt đầu tu để nhập Sơ Thiền thì làm  gì có  thiền định mà  không gián đoạn,  nếu  không  có  tu  nhập  được  Bốn  Thánh định này, trên những danh từ này mà hiểu  thì không  ai  hiểu  nổi  và  cũng  không  biết  làm  sao tu tập cách nào. Phần nhiều các nhà học giả rối đầu không dám giải thích những danh từ này, thường là tránh né hoặc giải thích không đúng, hoặc  mượn  ý  nghĩa  theo  kinh  Đại  Thừa  và Thiền Đông Độ mà giảng giải. Do đó thiền của Phật biến thành thiền của ngoại đạo, vì thế chẳng có  ai  tu chứng đạt chân lí làm  chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi.
 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
Không gián đoạn thiền định, tức là đức Phật muốn nhắc chúng ta tu Định Niệm Hơi Thở, tức là nương hơi thở xả tâm không gián đoạn:  “Quán   ly  tham  tôi   biết   tôi   hít vô, quán   ly  tham  tôi   biết   tôi   thở   ra”..   ..   .. “Quán  ly sân  tôi  biết  tôi  hít vô,  quán  ly sân tôi biết tôi biết tôi thở ra”.. .. .. “Quán thân  vô  thường  tôi  biết  tôi  hít vô,  quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra v.v..”.
Đức Phật dạy: “Thành  tựu  quán  hạnh”. Muốn  nhập  Sơ Thiền  thì phải  thành  tựu  quán hạnh,  tức  là  phải  tu  tập  Định Vô  Lậu,  đó  là một   pháp   môn   diệt   pháp   ác   tuyệt   vời,   mà thành  tựu  Định Vô  Lậu,  tức  là  đã  lìa  ác  pháp đã lìa ác pháp là nhập Sơ Thiền.
Muốn   nhập   Sơ  Thiền,   Đức   Phật   dạy: “Thích sống tại các trụ xứ không tịch”, thích sống tại  các  trụ  xứ  không tịch, tức  là  sống độc cư hay  nói  cách  khác  là  tịnh  chỉ  ngôn  ngữ  để nhập Sơ Thiền.
Ở  đây, chúng ta phải thấy đường lối tu tập thiền định của đạo Phật rất rõ ràng. Ý chung của  các  bài  kinh mà  đức  Phật  đã  dạy  rất  cụ thể: “Muốn nhập được Sơ  Thiền phải sống cho  đúng  giới   hạnh   và   còn   tu   tập   bao nhiêu   pháp   môn   khác   nữa   mới   nhập
 Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
được”, chứ không phải như các nhà sư Nam Tông  đã  tu  và  dạy người  tu  pháp  môn  hơi  thở “sổ  tức,  tùy  tức”  để nhập Sơ Thiền, thì không đúng  cách  theo  đường  lối  tu  tập  của  đức  Phật đã dạy trong các kinh Nguyên Thủy. Ngay cả pháp  môn  hơi  thở,  các  sư cũng  còn  dạy không đúng  như  trong  kinh,  thì dạy  nhập  các  định làm sao đúng được.
Xin quý vị đọc lại những đoạn văn mà các nhà sư Nam Tông dạy nhập bốn thiền trong nguyẹât  san báo  Giác  Ngộ:  Bài  này  được  trích dịch từ một quyển cẩm  nang tu thiền của Ngài Thiền sư U Acinna, người Miến Điện. (“Light of Wisdom”), W.A.V.E. Malaysia, 1996, cùng với một vài kinh nghiệm của người dịch, đã  có duyên  may  được  tu  học  với  sư cô  Dipanka-  ra, đệ tử của Ngài U Acinna, trong năm 1997 tại Perth, Tây Úc.
Đây  là  nhà  học  giả  Miến  Điện  dạy chúng ta  nhập  Bốn  Thánh  Định: “Bây  giờ  ta đem tâm vào hơi  thở, hơi  thở vào và hơi  thở ra. Nếu thiền sinh không thể chú tâm vào hơi thở  sau vài  buổi  thiền,  thì có  thể  tập  đếm hơi  thở.  Việc  này  để  giúp  họ  phát  triển định lực.  Thiền  sinh  đếm  số  sau  mỗi  hơi thở  như sau:  “thở  vào..  ..  thở  ra ..  ..  một”,
 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
“thở  vào..  ..thở  ra .. .. hai”,  “thở  vào  .. ..thở ra .. .. ba”,  .. ..cho đến  thở  vào  .. .. thở  ra ..
..  tám”.  Có  thể  đếm  từ  năm  đến  mười  rồi
trở lại số một. Tuy nhiên thiền sinh nên đếm số tám rồi trở lại từ đầu. Số tám là để nhắc nhở chúng ta về con đường Tám Chánh   (Bát   Chánh   Đạo),   mà   chúng   ta đang cố  gắng  để  hành  trì giác  ngộ”.  Lời dạy trên  đây  xin  quý  vị  lưu  ý  trong  kinh điển Nguyên Thủy, đức Phật có dạy như vậy hay không?
Những lời  dạy trên đây là  lời  dạy của các Tổ  Sư thiền  Đông  Độ  và  kinh  sách  Đại  Thừa (Sổ  tức  Quán).  Còn  Định Niệm  Hơi  thở  Phật dạy khác:  “Hít  vô  tôi  biết  tôi  hít vô,  thở  ra tôi  biết  tôi  thở  ra”, hoặc “Quán  ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham  tôi biết tôi thở ra”. Phật  dạy nương hơi  thở  để  tâm  tĩnh  giác xả  tâm  tham, sân,  si,  mạn,  nghi đó  là  “Quán Ly  tham”,  Lìa   tâm  tham để  tâm  được  thanh tịnh, tức  là  định của đạo Phật. Xin quý  vị  nên hiểu chữ “định”  của Sơ Thiền ở đây, mặc dù chúng tôi cố  gắng so sánh định của Phật, định của Tổ Sư Thiền Đông Độ  và định của các nhà sư Nam Tông để quý vị rõ hơn, vì dùng danh từ “Định”  rất dễ hiểu lầm nghĩa.
 Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Đạo  Phật  dùng  chữ  “định”,   để  chỉ  cho tâm “vô  lậu”, tâm vô lậu là tâm đoạn diệt ngũ triền cái và thất kiết sử, cho nên đức Phật đặt rất nhiều tên pháp môn của mình  có mang tên định như: Định Niệm Hơi thở, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, Định Vô Lậu, Định Vô Tướng Tâm, Định Bất Động Tâm v.v.. Các loại định này đều nhắm vào sự xả tâm ly dục ly ác pháp, chứ  không phải  ngồi  tĩnh lặng như con cóc, để rồi  sanh ra các  trạng  thái  dục  tưởng  lầm  chấp cho đó là định sanh hỷ lạc, như Thiền Đông Độ và thiền của các nhà sư Nam Tông.
Cho nên, chữ “định”  của Phật ở đây có nghĩa là tĩnh thức xả tâm dục và ác pháp, tĩnh thức   tâm   không   phóng   dật;   tĩnh   thức   tâm thanh thản; tĩnh thức tâm bất động trước các pháp và thọ; tĩnh thức thân tâm tịnh chỉ các hành; tĩnh thức tâm Tứ Như Ý Túc và tĩnh thức tâm trong Tam Minh.
Bây  giờ  quý  vị  nghe  nhà  học  giả  Nam Tông dạy tiếp cách thức ức chế tâm: “Các  bạn cần   phải   cương   quyết   không   để   phóng tâm, tâm lang thang chỗ này chỗ kia trong khi đếm hơi  thở. Chỉ chú tâm theo dõi hơi thở  và  đếm  số,  từ  1 đến  8 rồi  trở  lại  1.. .. Qua  việc  chỉ  chú  tâm  như  thế,  tâm  sẽ  trở
 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
nên  an  định  hơn.  Thông  thường  thì cần phải thực hành như thế trong một giờ để tâm  được  an định   và  vững  chắc”.  Qua lời dạy  trên  đây,  quý  vị  thấy  rất  rõ,  đó  là  lối hướng  dẫn  thiền  ức  chế  tâm,  không  phải  là thiền xả tâm ngũ triền cái: tham, sân, si, mạn, nghi như đức Phật đã dạy trong kinh.
Thiền  của  Phật,  nếu  quý  vị  lưu  ý  thì sẽ thấy rất rõ, lúc nào cũng tĩnh thức trong mọi hành  động  thân  nội  hay  ngoại  đều  phải  kèm theo  pháp  hướng tâm  (Như lý  tác  ý)  “Quán  ly tham,  quán  ly  sân,  quán  ly  si,  quán  thân vô  thường,  quán  thân  vô  ngã,  quán  tâm như  đất v.v..”.
Trong  kinh sách  Phật  không  có  dạy định tướng mà  chỉ có  nói  đến:  “Do  ly dục  sanh hỷ lạc  hoặc  định  sanh hỷ  lạc”.  Ở   đây  nhà  học giả dạy: “Đến đây tùy theo giới hạnh của từng  cá  nhân,  định tướng  sẽ  hiện  ra. Mỗi cá nhân khác nhau  sẽ có định tướng khác nhau.  Dù đang  nhắm mắt theo dõi hơi thở, dần  dần  thiền  sinh  sẽ  thấy  định  tướng hiện ra, có khi như  một làn chỉ trắng, một luồng ánh sáng trắng, một ngôi sao, một cụm  mây  hoặc  một  nhúm  bông  gòn.  Nó  có
 Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
thể rất to, trùm cả khuôn mặt, hoặc như mặt trăng, mặt trời, hoặc một viên ngọc thạch,   một   viên   ngọc   trai.  Nó   hiện   ra trong  các  hình  sắc  khác  nhau   là  vì  do tưởng uẩn (sana, perception) tạo ra”.
“Lúc ban đầu, định  tướng có thể giống như  có  màu  khói  xám.  Dần  dần,  nếu  giữ tâm được an định vào hơi thở, hơi thở và màu  khói  xám  trở  thành  đồng  nhất  với nhau,   không  khác  biệt.  Sau  đó  nếu  tâm được an nhẹ và chỉ chú mục vào hơi thở, màu  sắc  đó  trở  thành  trắng  đục.  Mặc  dù là màu trắng, nhưng  nếu bạn chỉ chú mục, hơi thở sẽ trở thành định tướng và định tướng chính là hơi  thở. Nếu định tướng và hơi thở là một, không khác biệt, khi bạn chú  mục  vào  hơi  thở,  thì bạn  cũng  chú mục  vào  định tướng,  và  khi bạn  chú  mục vào  định tướng thì bạn  cũng  chú  mục  vào hơi  thở.  Và như  thế  bạn hành  thiền  tốt  và nghiêm túc.. .. .. Khi định tướng có màu khói xám thì đó là sơ tướng (parikamma nimitta) trong trạng thái sơ định (parikamma samadhi). Nếu nó trở thành màu  trắng như  một  nhúm  bông gòn, đó  là
 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
học  tướng  (uggaha nimitta).  Đây  là  một trạng thái định khá cao...”.
Đọc  qua cách  thức  hướng  dẫn  này,  chúng ta nhận xét: nhà học giả ở đây có nhận thức ra “Giới   hạnh”   sanh  định  tướng,   đó  là  đúng, nhưng  nhà  học  giả  lại  chẳng  biết  định  tướng của  giới  hạnh  như  thế  nào?  Cho  nên,  nhằm tưởng định tướng do tưởng uẩn lưu xuất, điều này rất sai. Định tướng do giới hạnh sanh ra là một trạng thái tâm không phóng dật, tâm thường tự động hướng vào nội thân, trong nội thân hoạt  động điều  gì thì tâm  đều  biết  rất  rõ mà  chẳng  biết  sự  động  dụng  bên  ngoài,  nó không  hình   tướng  như  màu  khói  trắng  hoặc xám hoặc trắng như nhúm bông gòn hoặc như ngọc  thạch  v.v.. Còn định tướng của tưởng uẩn lưu xuất là những định tướng loại ma có hình tướng màu  sắc  khói  xám  hoặc  trắng v.v.. do tu tập thiền ức chế tâm sanh ra. Nhà học giả này chỉ  mới  thấy  được  sắc  tưởng  của  thiền  ức  chế tâm  mà  đã   vội  cho  là  định  tướng  của  Bốn Thiền  thì thật  là  vô  minh  vô  cùng.  Nó  có  sáu loại ma tưởng: Sắc tưởng, hương tưởng, thinh tưởng, vị tưởng, xúc tưởng và pháp tưởng. Vị Sư Nam Tông đã rơi vào ma sắc tưởng mà không biết.
 Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Thảo  nào, chúng ta cũng không nên trách các  thiền  sư Đông  Độ,  khi họ  tu  hành  ức  chế tâm  “chẳng  niệm  thiện  niệm  ác”,  nên  gặp loại ma pháp tưởng, do đó họ tưởng họ đã tu chứng  đạo, nên  trí tuệ  phát  triển,  “triệt  ngộ” thấu  suốt  1.700 công  án  thiền  tông  và  tất  cả kinh sách  Đại  Thừa  đều  hiểu  rõ  không  có  câu kinh nào mà họ chẳng hiểu. Nhưng  không ngờ, đó lại là ma Pháp tưởng của tưởng uẩn, chứ không  phải  trí tuệ.  Nhìn   giới  hạnh  của  các Ngài thì biết các Ngài đã bị ma Pháp tưởng không có khó khăn gì, vì các Ngài đang sống phạm giới luật.
Dường  như  tu  sĩ  từ  đông,  sang  tây,  từ nam, sang bắc  tu  hành đều  gặp  nhau trên một điểm này, điểm này tức là sáu loại ma tưởng, không  một  tu  sĩ  nào  thoát  ra khỏi  nanh  vuốt của sáu loại ma này. Cho nên, người ta tu hành tuy có thần thông tưởng và thiền định tưởng để mà có thần thông tưởng và thiền định tưởng, chứ  chẳng  ích lợi  gì cho bản  thân  họ  và ai  cả. Họ  chẳng  làm  chủ  sanh,  già,  bệnh,  chết  và chấm dứt luân hồi.
Tu hành  như  vậy,  làm  sao nhập  được  Sơ Thiền, họ chỉ  tưởng tượng ra Sơ Thiền mà  dạy người như vậy, tức là phỉ báng Phật Pháp, thật
 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
là đau lòng cho Phật pháp ngày nay và tội cho chúng sanh thời này, tu theo Phật mà lại tu nhằm  pháp  ngoại  đạo,  cứ  tưởng  là  mình   tu đúng pháp Phật.
Thưa  quý  vị  học  giả,  nếu  quý  vị  đã   tu chứng  được  thiền  định và  đạt  được  Tam Minh thì nên  mở  tu  viện,  thiền  viện  hoặc  viết  kinh sách  dạy  người  tu  hành,  bằng  không  thì thôi, đừng  vì  danh  lợi  nhỏ  mọn  mà  giết  người  như thế  này. Tu chưa tới đâu mà  dám  dạy người tu như những lời dạy trên đây, quý vị xem cuộc sống và  mạng người  như cỏ rác. Ngay cả thiền xả  tâm  của Phật  mà  không hỏi  kỹ  thì tu hành cũng  trở  thành  thiền  ức  chế  tâm,  cũng  có  thể xảy ra tai hại cho tánh mạng con người, huống là tu thiền ức chế tâm mà các vị đã  dạy thì tai hại còn biết bao nhiêu.
Quý vị có nghe đức Phật đã dạy chăng? “Giới  sanh  định”. Ở   đây  một  lần  nữa  chúng tôi xin nhắc lại, chữ định của giới luật sanh ra là  sự  “tĩnh   thức”  luôn  luôn  hoạt  động  trong “tầm  và  tứ  thiện”.  Vì  thế  quý  vị  đừng  hiểu lầm định của giới luật là tâm bất động không vọng tưởng, chẳng niệm thiện niệm ác; cũng đừng hiểu với nghĩa là tịch chiếu như Thiền Đông  Độ.  Đến  đây  lại  sanh  ra một  danh  từ
 Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
khác  nữa,  quý  vị  có  thể  hiểu  lầm,  đó  là  Bất Động  Tâm  Định, Bất  Động  Tâm  Định  là  một loại  thiền  định  do giới  luật  sanh ra, Bất  Động Tâm  Định  tức  là  tâm  bất  động  trước  các  ác pháp, trước các cảm thọ, chứ không phải bất động là không vọng tưởng, không niệm thiện niệm ác, nói cho dễ hiểu bất động, tức là tĩnh thức trong niệm chơn chánh, niệm chơn chánh tức  là  niệm  thiện.   Niệm   thiện  tức  là  niệm không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.
Cho  nên,  từ  giới  luật  sống  đúng  Phạm hạnh, không phạm phải một giới nhỏ nhặt nào thì tâm  sẽ  ly dục  ly ác  pháp,  tức  là  tâm  sẽ nhập  Sơ Thiền.  Ở   đây,  cớ  sao quý  vị  lại  dạy nhập Sơ Thiền như vậy, “Định  tướng  có  khói xám thì đó là Sơ tướng trong trạng thái Sơ định”.   Quý   vị   có  loạn  thần  kinh  chưa?  Sơ Thiền là do ly dục nhập Sơ Thiền, chứ đâu phải ngồi bất động chẳng niệm thiện niệm ác. Sơ Thiền là một trạng thái bình thường như mọi người  nhưng  tâm  chỉ  ly dục  ly ác  pháp  nên  ý thức vẫn còn (tầm tứ) thì làm gì có định tướng ảo  tưởng  được.  Quý  vị  gạt  người  không  biết thiền  định chứ  người  đã  nhập  định  thì quý  vị không lừa đảo dối gạt được.
 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
Quý vị ngồi thiền như con cóc, ngồi lâu tưởng ra khói  xám  rồi  cho đó là định tướng Sơ Thiền,  thì thiền  như  vậy  có  phải  là  thiền  của Phật  không?  Hay  là  một  thứ  thiền  tưởng  mà quý vị đặt ra để ngồi trong mát ăn bát vàng, để lừa đảo người không biết?
Nói  đến  Tầm,  Tứ  quý  vị  lại  hiểu  ngoài kinh sách của đạo Phật, quý vị có đọc bài kinh Song Tầm  và  bài  kinh An Trú  Tầm  chưa? Nếu đã  đọc thì quý vị không thể giải thích năm chi thiền như thế này được, năm chi thiền đó là :
“1- Tầm (Vitakka): Đem tâm hướng về định tướng.
2-   Tứ   (Vicara):  Bám   sát   vào   định tướng.
3- Hỷ (pity): Ưa thích định tướng.

4- Lạc (sukha): Cảm  giác an  lạc,  sung sướng khi tiếp xúc với định tướng.
5- Nhất  tâm (Ekaggata): Tập  trung về một điểm (đó là định tướng)”.
Ở  đây chúng tôi  không có  ý  kiến, xin quý vị  đọc  lại  hai  bài  kinh trên,  trong  kinh Trung Bộ thì quý vị sẽ rõ.
 Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Sơ Thiền  là  một  loại  thiền  xả  tâm,  dùng “ý  thức  tĩnh  giác  trong mọi  hành  động  để xả  những  tâm  niệm  ác  của  mình”,  không bao giờ dùng tưởng thức. Vì thế, phải lấy “Giới Luật tu tập, lập hạnh, sống đời sống Phạm hạnh có như vậy thì mới xả tâm được”. Ngoài  giới  luật  ra thì không  còn  có  pháp  môn nào  xả  tâm  hữu  hiệu  hơn  nữa.  Cho  nên,  giới luật  là  pháp  môn  đầu  tiên  của  đạo  Phật  để  đi vào lộ trình giải thoát “Chánh định”.
Người nào dạy tu tập thiền định Phật giáo mà  không  dạy giới  luật  thì người  đó  chưa hiểu thiền  định  của  đạo  Phật.  Khi đọc  bài  Quán Niệm  Hơi  Thở  trong  Nguyệt  san Giác  Ngộ  số
23, chúng  tôi  rất  đau lòng  vì  bài  thuyết  pháp dạy tu Tứ Thánh Định là của một nhà sư Nam Tông  Nguyên  Thủy  mà  dạy như vậy  thì chúng ta không nên trách các  nhà  sư Bắc  Tông vì họ dạy theo kinh phát triển Đại Thừa.
Thảo nào, hiện giờ người ta tu theo Phật giáo mà chẳng có ai thực hiện Bốn Thánh Định và Tam Minh được, là vì không theo lời dạy của đức  Phật.  Người  ta  dùng  tưởng  tu  tập  thiền định và  tu  hành  chưa tới  đâu,  chẳng  làm  chủ sanh  tử  luân  hồi  được,  mà  cũng  lập  đạo  tràng dạy  người  tu.  Bằng  chứng  qua  bài  viết  này,
 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
chúng  ta  cũng  biết  Phật  giáo  hiện  giờ  không còn ai tu chứng, nên những người học giả này muốn dạy như thế nào tùy ý, dạy sao không ai dám  cãi,  dám  bàn  mà  còn  dám  đăng  trên báo, phổ   biến   khắp   nơi,   xem  các   bậc   Tôn   Túc, Trưởng  Lão  Hòa  Thượng,  Thượng  Tọa  ở  Việt Nam  và  các  nước  trên  thế  giới  là  những người vô  minh u tối  không hiểu  kinh sách và lời  dạy của đức Phật.
Người nhập Sơ Thiền chưa có định, chỉ có ly dục ly ác pháp, tâm mới thanh tịnh. Vậy mà ở đây lại dạy Sơ Thiền có định tướng. Định tướng gì lạ vậy?
Người  nhập  Sơ Thiền  là  người  tu  tập  giới luật, mới  vén lên được  năm  cái  màn ngăn che, đó là: tham, sân, si, mạn, nghi chứ không phải tu tập hơi thở mà phá được ngũ triền cái như trong bài Quán Niệm Hơi Thở này dạy.
Trong  bài kinh Song Tầm Phật dạy: “diệt tầm  ác  giữ  tầm  thiện”  tức  là  ly dục  ly ác pháp; ly dục ly ác  pháp, tức là  nhập  Sơ Thiền, chứ không như nhà học dạy: Tầm là đem tâm hướng về định tướng; Tứ là bám sát vào định tướng,  dạy  như  vậy  không  đúng  như  lời  Phật dạy.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Trong  Sơ Thiền có “Tầm  Tứ”, tầm không phải  hướng  về  định  tướng,  mà  là  hướng  về thiện pháp; Tứ không phải bám sát vào định tướng, mà  Tứ  là  tác ý  (như lý  tác  ý) để  diệt  ác pháp.  Như  trong  bài  kinh Xuất  Tức  Nhập  Tức, Phật đã dạy về Định Niệm Hơi Thở, như lý tác ý rất rõ ràng:  “Quán  ly tham  tôi biết tôi hít vô,  quán  ly tham tôi  biết  tôi  thở  ra”.  Đó  là “Tứ”  như  lý  tác  ý  để  xả  tâm  tham,  sân,  si, mạn,  nghi,  tức  là  xả  ngũ  triền  cái.  Thiền định của Phật không phải dùng hơi thở ức chế tâm mà dùng hơi thở để xả tâm. Cho nên Phật dạy: “muốn  nhập  Sơ   Thiền  cho đến  Tứ  Thiền thì Định  Niệm Hơi Thở khéo tác ý”.
Ở    đây,  nhà  học  giả  Nam  Tông  dạy  bốn thiền của Phật theo tưởng giải của mình, nên Phật  Pháp  trở  thành  tà  giáo  ngoại  đạo, chính vì vậy đạo Phật dần dần biến dạng, thành tà giáo, pháp môn thành pháp môn của ngoại đạo.
Để  so sánh  Quán  Niệm  Hơi  Thở  của  nhà sư Nam Tông và Định Niệm Hơi Thở của đức Phật giống nhau và khác nhau ở chỗ nào?
Nếu ai đã đọc bài kinh Xuất Tức Nhập Tức trong kinh Trung  Bộ thì nhận thấy có 16 đề tài tu  về  Định Niệm  Hơi  Thở.  Mười  sáu  đề  tài  đó là  16 câu  pháp  hướng  để  xả  tâm  ngũ  triền  cái
 và  thất  kiết  sử,  tức  là  khắc  phục  tham  ưu hay nói cách khác là ly dục ly bất thiện pháp.
Cách thức tu tập, nương vào hơi thở để giữ tâm  bằng cách tĩnh thức  và  xả  tâm. Đồng thời một lượt mà đạt cả hai kết quả tĩnh thức và xả tâm, nhưng  phải  hiểu tĩnh thức là  vấn đề phụ, còn  xả  tâm  là  vấn  đề  chánh.  Cho nên,  khi xả tâm  hoàn  toàn  vô  lậu  thì tĩnh  thức  là  xả  tâm, tức  là  tâm  nghe,  hiểu,  biết  tất  cả  mà  không dính mắc một pháp nào. Đó là mục đích giải thoát của đạo Phật.
Khi tâm  đã  ly dục  ly ác  pháp  thì tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì tâm mới đủ sức lực để sử dụng pháp hướng dẫn thân tâm nhập vào  các  định  (Định Như  Ý  Túc),  cho nên  nhập từ Nhị Thiền đến Tứ Thiền không có khó khăn, không có mệt nhọc, chỉ bằng pháp hướng tịnh chỉ  các  hành  trong  thân  và  tâm,  chứ  không dùng  định  tướng  để  nhập  các  định  khác  như nhà học giả Nam Tông đã dạy.
Theo lộ trình tu tập của đạo Phật, ngoài Định Niệm  Hơi  Thở,  hành  giả  còn  phải  tu  các định khác nữa như: Định Sáng Suốt, Định Chánh  Niệm  Tĩnh Giác,  Định Vô  Lậu,  thì mới mong nhập  được  Sơ Thiền, chứ  không phải  chỉ có định Niệm Hơi Thở không mà thôi.



Ở  đây, nhà học giả Nam Tông dạy Quán Niệm Hơi Thở bằng cách tùy tức, nếu tùy tức không nhiếp phục được vọng tưởng thì dùng pháp  đếm  hơi  thở  (sổ  tức),  khoảng  độ  một  giờ thì định tướng  xuất  hiện,  khi định tướng  xuất hiện, họ sẽ ôm định tướng mà nhập các định khác (Từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền). Cách thức nhập Bốn Thánh Định của họ quá đơn giản, nhưng  chắc  chắn  họ  sẽ  không  làm  chủ  sanh, già,  bệnh,  chết.  Bằng  chứng  những  vị  sư này chưa làm  chủ  bệnh  đau của  mình  và  đời  sống của  họ  thì mong  gì  làm  chủ  sự  sống  chết  và luân hồi.
Tóm lại, Định Niệm  Hơi  Thở  của Phật  và Quán  Niệm  hơi  thở  của  nhà  Sư Nam  Tông  thì sự tu hành không giống nhau chút nào  cả; một bên thì dùng hơi thở ức chế tâm để nhập định; một bên thì dùng hơi thở tĩnh thức để xả tâm.
Đến   Thiền   Thứ   Hai   nhà   học   giả   dạy: “Thiền  sinh cũng  nên  nhận  thức  rằng  các thiền chi Tầm và Tứ trong tầng Thiền Thứ Nhất  làm  cho  tầng  thiền  này  không  an định  bằng tầng thiền thứ nhì”.
Qua lời  dạy  trên  đây  chúng  ta  thấy  nhà học  giả  không  hiểu  sự  an  định của  thiền  thứ nhất  và  thiền  thứ  nhì.  Sự  an  định  của  thiền
 thứ  nhất  là  do “tầm  tứ”  tịnh chỉ tâm dục và ác pháp  hay  nói  cách  khác  là  tịnh  chỉ  ngôn  ngữ, tức là ly dục ly bất thiện pháp. Vì thế, chúng ta phải hiểu sự an định của tầng thiền thứ nhất “lấy  tâm  động,  tạo tâm  bất  động”  còn sự an định  của  tầng  thiền  thứ  nhì   “lấy   tâm   bất động  tạo  định”,  chứ  không  như  nhà  học  giả dạy sự an định của thiền thứ nhì hơn thiền thứ nhất. Hai sự an định của hai loại thiền này không  giống  nhau,  chỉ  có  hỷ  lạc  là  thiền  thứ nhì  hơn  thiền  thứ  nhất  như  đức  Phật  đã  dạy trong bài kinh Sa Môn Quả.
Chỗ  này muốn cho dễ  hiểu  hơn, chúng tôi cho một ví dụ thì quý vị sẽ hiểu rõ ràng: Ví như có  một  người  luôn  tìm  mọi  cách  sống  trong thiện  pháp,  sau  một  thời  gian  tâm  họ  hoàn toàn  thiện  và  họ  đang  ở  trong  ngôi  nhà  thứ nhất,  bây  giờ  họ  muốn  sang ngôi  nhà  thứ  nhì, thì họ có mang theo ngôi nhà thứ nhất hay không?  Họ  có  mang  theo  cái  tâm  toàn  thiện của họ  hay không?  Bây giờ  họ  muốn sang ngôi nhà  thứ  ba, thì họ  có  mang theo  ngôi  nhà  thứ hai không? Và đến ngôi nhà thứ ba họ có mang theo  tâm  thiện  của  họ  hay không?  Bây  giờ  họ lại  muốn  sang  ngôi  nhà  thứ  tư,  họ  có  mang theo ngôi nhà thứ ba không? Khi đến ngôi nhà

thứ  tư  họ  có  mang  theo  cái  tâm  thiện  của  họ không?
Nếu  tâm  không  thanh  tịnh  thì không  thể nào  nhập  được  chánh  định,  tâm  chưa  thanh tịnh mà nhập định, tức là tà định, định ức chế tâm.  Vì thế,  người  sống  không  đúng  giới  hạnh là người nhập tà định.
Đến thiền thứ nhì nhà học giả lúng túng không biết pháp hành. Đây, chúng ta nghe tiếp đoạn trên: “Vì thế, từ ước muốn rời bỏ hai thiền  chi  này và  chỉ  còn  giữ  thiền  chi  Hỷ, Lạc,  Nhất  tâm,  thiền  sinh  tiếp  tục  đem tâm  vào tợ tướng.  Làm  như  thế  thiền sinh có thể đạt vào tầng thiền thứ nhì”.
Đến  thiền  thứ  nhì  nhà  học  giả  quên  lời Phật   dạy:   “Xả   Sơ    Thiền   mới   nhập   Nhị thiền”.  Cái  vô  minh  của  nhà  học  giả  đã  để  lộ chơn tướng  u tối,  cái  không  biết  của  mình  quá rõ  ràng:  “tiếp  tục  đem tâm  vào  tợ  tướng”, tức  là  giữ  trạng  thái  định  của  Sơ  thiền  mà nhập Nhị Thiền, nhà học giả hiểu Sơ Thiền và Nhị Thiền là hai nấc thang.
Sơ Thiền và  Nhị Thiền không phải là  hai nấc thang của một cây thang mà hai loại thiền định tu tập không giống nhau. Sơ Thiền còn có
 những tên như: Bất Động Tâm Định, Vô Tướng Tâm Định. Cách tu tập của Sơ Thiền là “Ly”. Cách  tu  của Nhị  Thiền  là  “Diệt”.  Các  nhà  học giả  không  có  kinh  nghiệm  tu  hành  nên  bước vào  tu  thiền  định  thì chỉ  có  cách  ức  chế  tâm “diệt ý thức, hưng phấn tuởng thức”.
Thiền thứ ba và thiền thứ tư nhà học giả cũng không biết pháp hành nên dạy cứ ôm tợ tướng của thiền dưới nhập thiền trên: “Sau  đó thiền sinh nhận thức, rằng hỷ cũng không đem lại an định, nên ước muốn bỏ hỷ, chỉ còn giữ lại Lạc và Nhất tâm. Thiền sinh tiếp  tục  đem  tâm  vào  tợ tướng.  Làm  như thế  thiền  sinh  có  thể  đạt  vào  tầng  thiền thứ ba, vốn chỉ còn hai chi: Lạc và Nhất tâm.  Sau  khi vào  được  Tam  Thiền,  thiền sinh hành trì năm loại thuần thục như trên”.
“Sau   đó   thiền   sinh  nhận   thức   rằng nếu cứ duy trì lạc thì lại là một hình thức tham  thủ vào cảm giác vui sướng. Cho nên với ý định bỏ lạc, thiền sinh tiếp tục đem tâm  vào tợ tướng.  Làm  như  thế  thiền sinh có thể đạt vào tầng thiền thứ tư”.
 Trong  kinh Ước  Nguyện  đức  Phật  dạy rất rõ: “Tùy  theo ý,  muốn  ước  nguyện  một điều gì  thì  giới   luật   phải   sống   nghiêm   trì, không  phạm  phải  một  lỗi  nhỏ  nhặt  nào, thì nhập Bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức”.
Xưa,  Thầy  Khương   Tăng  Hội  dạy  nhập Bốn Thiền trong sách An Ban Thủ Ý theo kiểu học  giả  mà  chúng  tôi  đã  có  lần  trả  lời  cho cô Diệu Quang. Đồng thời lúc ấy chúng tôi cũng có nhận được một bức thư của cô Diệu Tịnh hỏi, trong đó nhà học giả lấy kết quả của Bốn Thiền như  trong  kinh  Sa Môn  Quả  mà  đức  Phật  đã dạy, làm bốn bài kệ dạy người tu nhập Bốn Thiền,  giống  như  kiểu  thiền  sư Đông  Độ  v.v.. Xin quý vị đọc tiếp “Đường Về Xứ Phật” phần vấn  đạo  thì quý  vị  càng  rõ  hơn.  Trên  đây  là một  nhà  học  giả  Nam  Tông  dạy  nhập  Bốn Thiền mà được  dịch sang Việt  ngữ, theo  chúng tôi nghĩ không phải có một bài này mà có rất nhiều bài dạy nhập về Bốn Thánh Định này. Nhưng  chắc  chắn  chưa có  vị  sư nào  nhập  được Bốn Thánh Định, chỉ nói dối lừa đảo  người mà thôi.
 Người xưa bảo rằng: “Biết  thì thưa thốt, không  biết  thì dựa  cột  mà  nghe”.  Thế  mà, các nhà học  giả thời nay tu hành chưa đến nơi đến  chốn,  và  tu  không  đúng  như lời  Phật  dạy, tu  chưa  được  giải  thoát  sanh,  lão,  bệnh,  tử, chưa thực hiện đầy đủ Tam Minh, giống như người  chưa biết  thì nên  dựa  cột  mà  nghe,  có đâu  lại  dạy  tu  thiền  điên  khùng  cho thiên  hạ như vậy.
Dạy thiền như các nhà học giả này mà còn viết soạn ra kinh sách, thì kinh sách này sẽ chẳng ích lợi gì cho con người, mà còn làm cho con  người  phí  hết  cuộc  đời  và  có  thể  những người này sẽ trở thành những  người lừa đảo có kinh sách.
Thật   ra  bài   Quán   Niệm   Hơi   Thở   này chúng  tôi  đã   được  đọc  trong  tập  nguyệt  san Giác Ngộ hơn cả năm nay, thấy những điều dạy sai trong pháp hành thiền của đức Phật, nhưng chúng  tôi  chẳng  hề  động  đến,  ai  có  duyên  tu sao cũng được, đúng sai là do nhân quả gieo duyên tu của mọi người.
Nhưng  rồi  do một  nhân  duyên,  đây  cũng là  duyên  Phật  pháp,  khi đọc  bản  thảo  Đường Về Xứ Phật trên máy tính về phần vấn đạo nhiều  Phật  tử  gợi  ý:  Sao Thầy  không  chứng



minh sự lừa đảo, lường gạt bằng những pháp môn  kiến  giải,  tưởng  giải  của  một  số  Sư, Thầy “háo   danh,  háo   lợi”,  để  giúp  đỡ  biết  bao nhiêu người tín đồ Phật giáo tránh khỏi sự lừa đảo, lường gạt này và làm sáng tỏ lại giáo pháp của đức Phật. Nếu Thầy không nói ra thì còn ai biết đâu mà nói, đã  từ bao thế kỷ nay, biết bao nhiêu  giáo  pháp  kiến  giải,  tưởng  giải  của  một số  tà  sư ngoại  đạo  đã   che  phủ  toàn  bộ  giáo pháp của đức Phật, khiến cho mọi người nghiên cứu và tu học giáo pháp của đức Phật không thể nào rõ được.
May   thay   kinh  sách   Nguyên   Thủy   của Phật còn đó, nhờ Thầy vạch rõ để giúp cho mọi người thấu hiểu, chứ hiện giờ họ xem những tu sĩ  Phật  giáo  đã   chịu  ảnh  hưởng  sâu  sắc  của kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ, nên họ chẳng  còn  biết  lời  dạy nào  đúng  sai  của  Phật. Vì vậy, họ mới dám dạy thiền tưởng qua tưởng giải, từ chỗ tu không đúng pháp của Phật.





CHỈ CẦN CĨ TÂM  TÀM QUÝ LÀ TU CHỨNG ĐẠO

Câu hỏi của Chơn Thành


Hỏi:  Kính thưa  Thầy! Thiền  sinh  đang tu  mà  phạm nhiều  lỗi lầm,  phá  hạnh độc  cư, ăn  ngủ  phi  thời  v.v.. Nếu  biết  hối  cải  với  tâm tàm quý. Biết xấu hổ về lỗi lầm của mình,  biết sửa đổi tâm tánh thì  trên đường tutập có gì trở ngại và có thể đạt được cứu cánh hay không?
Đáp: Người tu hành có lỗi biết xấu hổ  và sợ hãi (tàm quý) thì cố gắng sửa đổi tâm tánh và từ bỏ các ác pháp, hằng ngày luôn giữ gìn không  cho  tái  phạm  những  lỗi   lầm  cũ,  thì người  này  sẽ  tu  hành  không  có  trở  ngại  gì và kết quả sẽ chứng đắc như những người khác.
Danh  từ  xấu  hổ  nghe  thì rất  dễ,   nhưng mấy  ai  biết  xấu  hổ  khi đã  làm  những  điều  sai quấy.  Thường  người  ta  làm  sai  quấy  lỗi  lầm, nhưng  ít có  người  dám  nhận  sự  sai  quấy,  lỗi lầm  của  mình,  cứ  mãi  cố  gắng  che đậy  và  tự bào chữa cho mình là không sai quấy lỗi lầm. Luôn  luôn  lúc nào  cũng dối quanh, dối quất, đổ lỗi cho kẻ khác.



Vì  không  đủ  can đảm  nhận  lỗi  những  sự sai  quấy của mình,  cho nên hai  chữ  xấu  hổ  chỉ để nói cho vui chơi, chứ không áp dụng vào đời sống  của  ai  được  cả,  nếu  kẻ  nào  biết  áp  dụng xấu  hổ  vào  sự  lỗi  lầm,  sai  quấy  của  mình, không sớm thì muộn người ấy sẽ trở thành những bậc Thánh Hiền.
Chỉ  có  hai  chữ  “xấu  hổ”  mà trên đời này ai là người đã thực hiện được xấu hổ để sửa sai những lỗi lầm  của mình cũng  như  hai  chữ  “độc cư”, mấy ai  đã làm được. Nếu trên đời này ai  là người  biết  xấu  hổ  mà  đừng  che giấu,  biết  sửa sai  những  lỗi  lầm  của  mình   thì người  đó  là người đạo đức trọn vẹn, là người tốt nhất trong xã  hội,  là  người  ly dục  ly ác  pháp, là  người  dễ thành  tựu  Sơ Thiền  của  Phật.  Cho  nên,  đức Phật   đã   dạy:   “Ta  có   một   pháp   đưa  con người đến cứu kính giải thoát, đó là  pháp Tàm Quý”.
Trong  Phật  Pháp  khi một  người  tu  hành có  làm  những  điều  lỗi  lầm  mà  biết  xấu  hổ  sửa sai là tương lai người ấy sẽ chứng đạo, sẽ trở thành những bậc Thánh nhân.
Bậc Thánh nhân là những người biết xấu hổ, biết sửa sai; biết xấu hổ, biết sửa sai tức là biết  độc  cư; độc  cư tức  là  sống trầm  lặng, sống
 trầm lặng, tức là cuộc sống Thánh thiện; cuộc sống Thánh thiện là cuộc sống của những bậc Thánh nhân, cho nên người phàm phu tầm thường không thể nào sống độc cư nổi. Sống không  nổi  hạnh  độc  cư thì đừng  hòng  đi  tìm con đường giải  thoát  của đạo Phật  mà có được. Con đường ấy không thể để dành cho những kẻ còn tâm ham vui, ưa thích dục lạc thế gian; con đường ấy không thể để dành cho những kẻ tâm còn ràng rịt  bởi  những sợi  dây tình cảm  luyến ái; con đường ấy không thể để dành cho những kẻ thiếu đạo đức, thiếu đức hạnh.

MƯI NGƯỜI ĐỀU LÀ TU SĨ ĐI
XIN ĂN THÌ THẾ GIAN NÀY SẼ RA SAO?
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Giả  sử  cả  đất nước  này đều  là  những người xuất gia tu hành theo đạo Phật ba y một bát đi xin  ăn, thì  ai là người  trồng  cây  và  sản  xuất  ra lương  thực  và thực  phẩm.  Vậy  phải  xin  ăn  ở  đâu?  Xin  Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
 Đáp:   Câu   hỏi   của   con  chỉ   là   một   giả thuyết, chứ  không bao giờ có  hiện thực. Giả  sử nếu có thật đi nữa, thì điều này không khó con ạ! Từ các cấp lãnh đạo trong nước cho đến toàn dân đều tu hành theo đạo Phật hết thì con nên nhớ:  “Đạo  Phật  là  đạo  trí  tuệ”. Khi trường hợp ấy  xảy  ra, thì các  nhà  lãnh  đạo  trong  nước  sẽ chia tu sĩ thành hai dòng tu:
1- Dòng tiếp hiện

2- Dòng chuyên tu

Dòng tiếp  hiện tổ  chức  giữ  gìn trật  tự, an ninh  bờ cõi và sản xuất lương thực, thực phẩm, giúp đỡ cho dòng chuyên tu có thực phẩm sống hằng  ngày,  ngày  một  bữa  để  thực  hiện  chiều sâu   của   Phật   pháp.   Nếu   những   tu   sĩ   dòng chuyên  tu,  tu  hành  đã  xong, thì rời  khỏi  dòng chuyên  tu,  để  thay  thế  cho những  tu  sĩ  dòng tiếp hiện, giữ chức vụ, vai trò thực hiện để tiếp tục giữ gìn an ninh, đất nước và sản xuất, lương thực, thực phẩm, v.v..
Vậy, lúc bấy giờ tu sĩ chuyên tu có chỗ, nơi đi  khất  thực  và  có  tổ  chức  hẳn  hòi,  chứ  có  gì đâu  mà  sợ  không  có  thực  phẩm  để  sống  tu hành.
 Đó   là   một   điều   kiện   được   đặt   ra  giả thuyết,  cho mọi  người  trên  hành  tinh này  đều là tu sĩ Phật giáo hết, thì việc tổ chức hai dòng tu như vậy là hợp lý.
Dù  con người  có  tu  hay không  tu,  khi mà có  người  theo  tôn  giáo  tu  hành,  thì sự  tổ  chức của  tôn  giáo  phải  có  chia  làm  hai  dòng  tu,  thì tôn giáo đó mới bảo đảm cho những người theo tu  hành, còn nếu  không có tổ chức như vậy thì tôn giáo ấy phát triển không vững vàng, có lúc thịnh, có lúc suy như tôn giáo Phật giáo hiện giờ.  Sự  tổ  chức  của  Phật  giáo  hiện  giờ  thiếu chặt chẽ, phát triển theo anh hùng cá nhân, không phải phát triển theo tập thể. Một tôn giáo  tổ  chức  phát  triển  theo  tập  thể  có  chiều sâu và có chiều rộng thì thế đứng vững vàng, còn  phát  triển  theo  anh  hùng  cá  nhân,  khi cá nhân  ấy  mất  đi,  hoặc  làm  một  điều  gì mất  uy tín thì tôn giáo ấy sẽ bị suy vong và sụp đổ.
Cho nên, đứng về mặt tôn giáo, muốn tôn giáo  đó  hưng thịnh mãi  mãi  thì phải  xây dựng nền  kinh tế  của  tôn giáo  đó  vững  vàng  và  mỗi tín đồ  phải  được  trang  bị  học  tập  và  trau  dồi đức  hạnh.  Một  nền  đạo  đức  nhân  bản  –  nhân quả  sống  không  làm  khổ  mình,  khổ  người,  có
 được  như  vậy  thì tôn  giáo  ấy  mới  sống  mãi trường tồn với loài người.
Trên  thế  gian  này  nếu  có  một  tôn  giáo biết  tổ  chức  được  như  vậy,  thì loài  người  trên hành tinh này sẽ sống trong cảnh Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn thực tế, chứ không phải còn là  một  giấc  mơ mà  con người  hằng  mơ ước  từ bao thế kỷ nay.
Đối  với  con người  trên  thế  gian  này  nếu tất cả đều biết tu hành theo Phật giáo sống thiện, sống không làm khổ mình,  khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì  phước báu vô lậu vô lượng  nên  cây  cỏ  thảo  mộc  tự  ra hoa trái  đầy đủ  sung mãn nên có  lo  gì đến sự  đi  khất  thực. Phải không con?

LỤC CĂN HƯ HOẠI
Hỏi:  Kính  thưa Thầy!  Những  người  bị hư hoại lục căn, nhưng trí tuệ không bị hư hoại có  ảnh  hưởng  gì  trong  việc  tu  tập  theo  Đạo Phật không?

Đáp:   Xưa,  thời   Đức   Phật   còn   tại   thế, người đau bệnh cùi, cụt tay, cụt chân, đức Phật vẫn nhận họ làm đệ tử tu hành xuất gia và những vị này đã tu hành chứng quả A La Hán. Thời  nay các  Tổ  biên  soạn  giới  luật,  người  cụt tay, cụt chân, chột mắt, nói chung là lục căn bị hư hoại thì không được thọ đại giới như những người khác, chỉ có cho thọ giới Sa Di mà thôi.
Đạo  Phật  là  đạo  trí tuệ,  nếu  ai  có  trí tuệ biết giữ gìn giới luật đức hạnh sống đúng đời sống  Phạm  hạnh  như  Phật,  biết  sửa  những  sự sai  quấy  lỗi  lầm,  biết  xấu  hổ  khi phạm  phải giới  luật,  biết  ngăn  ngừa  các  việc  làm  ác,  biết ly dục ly ác  pháp, biết  xả  tâm  diệt  ngã, thì dù cụt tay, cụt chân, chột mắt, đui mù, mẻ sứt, khuyết  tật  thì cũng  vẫn  tu  chứng  đạo  không ảnh hưởng gì trong sự tu tập theo đạo Phật cả.
Đời  sau, người  ta  cho những  kẻ  thiếu  căn là  những  người  phước  mỏng  không  được  thọ Đại  Giới  của  Phật  giáo,  tức  là  không  được  có mặt   trong   hàng   giáo   phầm   như:   Đại   Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng v.v..
Trong  thời đức Phật, người ta tu hành chỉ cần chứng đạo xong, thì người ấy được gọi là Trưởng Lão, còn người tu chưa chứng dù có tuổi
 đạo  bao nhiêu  cũng  không  được  gọi  là  Trưởng
Lão
Đạo Phật không có giai cấp trong hàng giáo  phẩm,  chỉ  có  một  giai  cấp  tu  chứng  Tam Minh mà thôi. Từ con người phàm phu, bình thường đến tu chứng gọi là Trưởng Lão.
Đạo  Phật  ra đời  nhằm  phá  giai  cấp  của loài  người  trên  hành  tinh này,  để  đem lại  sự bình đẳng cho mọi người như nhau không phân biệt  nam, nữ.  Thế  mà  bây  giờ  Đạo  Phật  lại  có giai  cấp  trong  hàng  giáo  phẩm  để  lãnh  đạo Giáo  Hội,  chứ  không  phải  tu  hành  chứng  đắc mà  chỉ  có  học  thức  và  tu  lâu  năm  thì lên chức Thượng Tọa, Hòa Thượng, nhưng lại có bà Thượng Tọa và bà Hòa Thượng thật là đau lòng cho Phật giáo ngày nay. Có nhà thơ đã châm biếm tu sĩ Phật giáo “Tu lâu cũng thành sư cụ”. Không thành đạo quả mà lại thành sư cụ, thì thật là xấu hổ vô cùng.
Đức Phật đã  nhìn  thấy thân người do bốn đại  hợp  thành,  nó  giòn  bở  không  bền  chắc  và bất  tịnh,  uế  trược,  hôi  thối,  chỉ  tạm  bợ  sống
100 tuổi là cao. Đức Phật ví thân này như chiếc bè  mượn  nó  để  sang  sông,  dù  thân  người  có chột mắt, cụt tay, cụt  chân v.v.. vẫn mượn làm bè  sang  sông  cũng  tốt  vậy,  chỉ  sợ  người  ấy
 không  có  trí tuệ  thì không  tu  được,  còn  có  trí tuệ là còn tu được.

SÁU CĂN QUAY VÀO TRONG
Câu hỏi của Chơn Thành


Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Có  lợi  ích gì cho người tu tập, khi mắt, tai,  mũi, miệng, thân và ý quay vào trong thân?
- Mắt nhìn  vào thân, mắt sẽ thấy những gì trong thân?
- Tai  nghe vào thân, tai  sẽ  nghe những  gì trong thân?
- Mũi quay vào trong thân, mũi sẽ ngửi những gì trong thân?
-  Miệng  quay  vào  trong  thân,  miệng  sẽ nếm những gì trong thân?
-  Xúc  quay  vào  trong  thân,  xúc  sẽ  cảm nhận những gì trong thân?
- Ý  quay vào  trong thân,  ý  sẽ  biết  những gì trong thân?
 Đáp: Khi mắt, tai, mũi, miệng, thân và  ý quay vào  trong  tụ  điểm  (điểm  định)  nơi  thân của  người  ấy  thì người  ấy  đã  làm  chủ  sự  sống chết, tức là tâm định trên thân, thân định trên tâm,  người  ấy  đã  nhập  Định Tứ  Thiền,  đó  là một  loại  Thánh  Định,  nên  hơi  thở  tịnh  chỉ hoàn toàn, các hành nơi thân ngưng hoạt động. Đây là giai đoạn định để thực hiện Tam Minh, một loại định mà trên thế gian này ít có người tu tập thực hiện được. Nó là một kết quả lợi ích rất lớn cho người tu sĩ đã thực hiện được nó. Người  thực  hiện  sáu  căn  quay  vào  trong  là người  đã  làm  chủ  được  sự  sống  chết  và  chấm dứt luân hồi, đó là một hạnh phúc lớn nhất cho đời người, không có hạnh phúc nào hơn được.
Ở  đây, sáu căn quay vào trong, có hai giai đoạn:
1- Sáu căn quay vào trong thân, lúc tâm không phóng dật, tức là tâm ly dục ly ác pháp, nhập  Bất  Động Tâm  Định hay nhập  Sơ Thiền, tức là tâm định trên thân.
2- Sáu  căn  quay vào  trong  thân,  lúc  sáu căn ngưng hoạt động, hơi thở tịnh chỉ, nhập Tứ Thiền,  tức  là  Thân  định  trên  tâm,  tâm  định trên thân.
 Nếu sáu căn quay vào trong thân ở giai đoạn một, thì mắt nhìn  vào thân, mắt sẽ thấy: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm.
Tai, mũi, miệng, thân và ý quay vào thân, thì nghe, ngửi,  nếm, cảm  nhận,  biết:  Tầm,  Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm như trên.
Còn ở giai đoạn thứ hai, sáu căn quay vào thân thì sáu căn thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm nhận và biết lặng lẽ không tịch.

NẰM THEO KIỂU  KIẾT  TƯỜNG

Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Nằm  theo  kiểu kiết tường giống như Đức Phật có lợi ích gì cho người  tu  tập?  Làm  thế  nào  và  tu  như  thế  nào để  suốt  thời  gian  ngủ  không  thay  đổi  tư  thế
này?
Đáp:  Nằm  kiết  tường  theo  kiểu  như  đức
Phật Niết Bàn, có lợi ích rất lớn:

1/        Ngủ không mê, thường tĩnh thức

2/        Ngủ không mộng
 3/       Tĩnh thức dễ dàng trong giấc ngủ

4/        Ngủ ít, không mệt mỏi, lười biếng

5/   Nằm ngủ kín  đáo  có oai nghi tế hạnh, giống  như con sư tử  nằm, mà  đức  Phật  thường tán thán ca ngợi cách nằm này.
Ngày xưa Phật không ngủû chỉ nằm kiết tường  nghỉ  ngơi  khoảng  30  phút,  rồi  dậy  đi kinh hành.
Người nằm kiết tường ngủ nhiều không đúng cách. Vì kiểu nằm kiết tường là cách nằm tĩnh thức, chứ không phải nằm ngủ như người thế gian. Nếu cố gắng tập luyện sẽ nằm suốt được  từ  1 giờ  đến  2 giờ  rất  dễ  dàng.  Ngồi  kiết già  2, 3  giờ  đồng  hồ  còn  được  huống  là  nằm kiết tường 2, 3 tiếng đồng hồ thì không có khó khăn gì.
Khi tập nằm kiết tường đừng lăn trở nằm theo  kiểu  khác,  chỉ  chịu  khó  tập  nằm  từ  30 phút  lên  1 giờ  rồi  đến  2 giờ,  3 giờ  thì sẽ  đạt được như ý muốn.
Nằm kiết tường, tướng nằm rất kín  đáo và khoan thai, không có cách nằm nào hơn được. Nằm  ngửa,  nằm  sấp,  nằm  co  đều  là  những tướng nằm rất xấu, giống như loài thú vật nằm.
 Cho nên, tư cách nằm ngủ của con người phải đúng cách của nó, phần nhiều con người nằm  ngủ  không  đúng  cách  thì chẳng  khác  nào như con thú  nằm  ngủ. Đạo  Phật  chỉ  chọn được cách   nằm   của   bậc   Thánh   Hiền.   Nằm   kiết tường, mà đức Phật gọi là dáng nằm của con sư
tử.

Giả  thiết, có  một  vị  Thánh  Hiền mà  nằm co ngủ như một con chó, thì chúng ta có tin họ là Thánh Hiền không? Cũng như một vị Thánh Tăng  mà  nằm  sấp  ngủ  như  một  con  bò,  thì chúng ta có thể tin họ là Thánh Tăng không?
Bởi, cách thức nằm ngủ rất quan trọng, thấy  cách  nằm  biết  được  giá  trị  của  con người đó, thuộc về hạng người nào. Vì thế, chúng ta hãy tập cách nằm kiết tường như đức Phật đã chọn và thực hiện suốt cuộc đời của mình  trong tư thế nằm ngủ như một con sư tử chúa.


NHÂN TƯỚNG NÜI NGOẠI CßA THƯ
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa Thầy thế nào là:
 1- Nhân tướng nội của thọ?

2- Nhân tướng ngoại của thọ?

3- Nhân tướng hành của thọ?

Xin  Thầy  chỉ  dạy  cho chúng  con được  rõ và cách thức áp dụng vào Tứ Niệm Xứ.
Đáp: Nhân tướng nội của thọ là cảm thọ hành bên trong, hay nói cách khác cho dễ hiểu là  sự  cảm  nhận, cảm giác sự  hoạt dụng hỷ  lạc, khinh an và đau nhức bên trong của thân.
Nhân tướng ngoại của thọ là sự cảm thọ bên  ngoài,  hay nói  một  cách  khác  cho dễ  hiểu là sự cảm nhận, cảm giác sự hoạt dụng hỷ lạc khinh an và đau nhức bên ngoài của thân.
Nhân tướng của hành thọ là sự tăng giảm hoạt  dụng  cảm  nhận,  cảm  giác,  khinh  an,  hỷ lạc, thanh thản, thoái mái, hoặc đau nhức, khó chịu và sự rung động trong nội ngoại của thân.
Muốn áp dụng sự tu tập nhân tướng nội, ngoại,  hành  của  thọ  vào  Tứ  Niệm  Xứ  bằng Định  Vô  Lậu  như  trong  kinh  Phật  đã   dạy: “Tìm một nơi vắng vẻ, ngồi kiết già lưng thẳng, khởi niệm tư duy: Các hành cảm nhận và cảm giác hỷ lạc, khinh an và đau khổ  là  vô  thường,  cái  gì vô  thường  là  cái đó  có  khổ,  nó  không  có  thật  và  nó  là  vô
 ngã,  nó  không  phải  là  ta,  không  phải  của ta,  không phải  bản  ngã  của ta.  Vì thế,  tất cả  cảm  nhận  và  cảm  giác  của  hành  thọ nội ngoại không phải là một pháp có thật, ta  đừng  sợ  hãi  và  lo  lắng,  đừng  để  tâm dao động trước các hành  thọ,  ta  phải xem nó   như   một   chiếc   áo   rách   bỏ,   một   vật không có giá trị, một món đồ vô dụng”.
Muốn áp dụng pháp hướng tâm trên nhân tướng nội, ngoại, hành của thọ vào Tứ Niệm Xứ trong  ba  loại  định:  Chánh  Niệm  Tĩnh  Giác Định,  Định  Niệm  Hơi  Thở  và  Định  Vô  Lậu bằng câu  pháp  hướng tâm  như: “Các  cảm  thọ nội ngoại hành hỷ lạc, khinh an,  đau  khổ, nhức  nhối,  khó  chịu  hãy  đi!  Đi!  Rời  khỏi nơi đây”, hoặc: “Thọ là vô thường, khổ đau, vô ngã, không thật có, hãy đi! Rời khỏi nơi đây,  không  được  ở    đây,  đi  cho  khỏi!  Cút cho mất!” v.v..

 NHIẾP PHỤC VÀ PHÁ THƯ
Câu hỏi của Chơn Thành

Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Vậy  phải  tu  như thế nào để khắc phục và phá thọ?
Đáp: Muốn nhiếp phục và phá thọ (xả lạc, xả  khổ,  xả  niệm  thanh  tịnh)  thì phải  tịnh  chỉ hơi  thở,  trước  khi muốn  tịnh  chỉ  hơi  thở  thì phải  tu  tập  tâm  ly dục  ly ác  pháp,  khi tâm  đã ly dục  ly ác  pháp,  thì tâm  đã  thanh  tịnh  mới dùng   pháp   hướng   xả   lạc,   xả   khổ,   xả   niệm thanh  tịnh,  tức  là  tịnh  chỉ  thân  hành,  nhờ  đó sẽ nhiếp phục và phá thọ dễ dàng.
Nói  như vậy,  nghe thì rất  dễ, nhưng  phải biết, đó là một công trình tu tập vĩ đại, nếu không  biết  pháp  hành  thì khó  mà  nhiếp  phục các thọ.
Một người có tâm tha thiết cầu đạo giải thoát  mà  không  đủ  niềm  tin ở  một  vị  Thầy  có kinh nghiệm, thường có tính ngã mạn xem thường Thầy, không chịu nghe lời dạy bảo, tu hành  theo  ý  của  mình   thì chẳng  đời  nào  vị Thầy ấy sẽ đem hết kinh nghiệm dạy cho người học trò bướng bỉnh.
 Một vị Thầy có kinh nghiệm dạy đạo, không  bao giờ  dạy bừa  bãi, chọn người  học  trò có đức hạnh, có tình, có nghĩa mới dạy, còn những học trò thiếu đạo đức không tình, không nghĩa thì vị Thầy ấy chỉ dạy những điều tầm thường  và  không  bao giờ  đem những  bí quyết dạy cho những người đệ tử này. Nếu có dạy cho những người đệ  tử  vong ân, bội nghĩa này, khi thành  tựu  họ  sẽ  hại  lại  vị  Thầy  và  còn  mang đến cho xã hội loài người một tai nạn rất lớn.
Chính vì tâm tham vọng của họ còn dẫy đầy, nếu họ có thần thông siêu việt thì loài người sẽ điêu đứng, cho nên vị Thầy có kinh nghiệm không bao giờ  dạy cho những người đệ tử thiếu đạo đức, thiếu lòng tôn kính  Thầy như Tứ Thánh Định và Tam Minh.
Một vị Thầy có đức hạnh, có những bí quyết  siêu  việt,  thì họ  luôn  luôn  dạy  đạo  đức cho đám đệ tử trước tiên, nếu người học trò nào có đầy đủ đạo đức thì mới truyền dạy những bí quyết  siêu  việt,  còn  bằng  không  thì chẳng  bao giờ hé môi.
Từ  khi tu  viện Chơn Như  tiếp  nhận đệ tử hơn  cả  trăm  người  nam  có,  nữ  có,  thế  mà  tìm một  người  có  đức  hạnh  trọn  vẹn  lại  không  có, dạy  đạo  đức  thì họ  không  nghe  không  thực



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!