CHỨNG ĐẮC MỘT ÍT DẠY NGƯỜI ĐƯỢC KHÔNG?
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Xin Thầy chỉ dạy, người đang
tu mới chứng
đắc được phần
nào đó, mà vội lập đạo tràng để dạy người, thì hậu quả của người tu chưa xong này sẽ dẫn họ
tới đâu? Và phần chứng đắc được, liệu có giữ gìn được trọn vẹn hay không?
Và những người
học theo giáo pháp của người dạy này, liệu có đúng như lời Phật dạy chăng?
Tương lai cả những người học tu này có ích lợi gì cho họ?
Đáp: Con đường
tu tập theo đạo Phật khó khăn vô vàn, người tu chưa tới đâu hoặc chứng đắc một
phần nào trong các pháp hành của đạo Phật
mà vội đem ra
dạy người, cũng
ví như người học nghề
thầy thuốc tay nghề chưa rành mà
đi ra trị bệnh cho người khác thì chỉ có giết người hơn là cứu người. Cũng giống
như người hướng đạo viên không thông đường xá, chỉ biết có một ít lại dẫn người
vượt suối băng ngàn thì
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
làm sao ra khỏi
rừng sâu núi thẳm, chỉ
còn chết chung nhau giữa rừng già mà thôi.
Bởi vậy,
tu phải đến
nơi đến chốn
có đủ kinh nghiệm rồi mới hướng dẫn
người khác tu. Ở đời người
ta xem sự
tu hành quá dễ dàng, cho nên đụng đâu dạy người ta tu đó, đó
là dạy tu vào con đường chết,
chứ không phải
giải thoát.
Tu chưa đến
nơi đến chốn, tức là tâm chưa giải
thoát hoàn toàn, thì tâm ham muốn và
ác pháp còn dẫy đầy mà vội ra làm
Đạo sư thì danh lợi với sắc dục sẽ
cám dỗ và
lôi cuốn đi sâu
vào các ác
pháp thế gian
khiến cho người này giới luật bị
bẻ vụn, phạm giới, đức hạnh không có. Bây giờ tâm ly dục ly ác đã mất hết, chỉ còn lại tâm phóng dật chạy theo
sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Do thế hình ảnh
thì còn là người tu
sĩ mà tâm
thì phàm phu tục tử,
sống bằng những danh từ lừa đảo tín đồ qua sự thuyết kinh giảng đạo từ bài
kinh này đến bài kinh khác, pháp
hành thì mù mờ
loanh quanh không có
rõ ràng, chỉ
dùng một số
ngôn ngữ xảo thuật cho thật kêu để
phỉnh gạt người khác dễ dàng.
Những người
theo những giảng
sư này tu hành, chẳng đi đến đâu
giống như con chó gặm
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
xương, bỏ thì tiếc, nhai thì chẳng có gì lợi
ích, phí cả cuộc đời, chẳng
ích lợi gì cho mình cho người mà còn thêm tổn phước đức về tội vọng
ngữ (nói láo ăn tiền).
Đối với
đạo Phật, những
hạng người không tu mà dạy đạo,
chỉ đem ngôn thuyết lừa đảo thiên hạ để mua
danh mua lợi, thì tội đọa địa ngục
muôn kiếp, chứ
làm gì có chứng
đắc, nhìn thấy cuộc sống của họ
phạm giới luật, phi đạo đức, tức là phi Phạm hạnh, chỉ có ba hoa ngoài đầu
môi chót lưỡi.
Nếu ai đi tìm
cầu sự giải thoát của đạo Phật mà gặp
các vị Đạo sư này thì chỉ còn
có nước đi
chung nhau xuống địa ngục A Tỳ
tìm vua Diêm Vương, chứ không tìm giải thoát được.
Ở đây, quý
vị đừng hiểu địa ngục
A Tỳ là một cảnh
giới siêu hình để
hành
phạt những linh hồn tội lỗi. Địa ngục
A Tỳ ở đây có
nghĩa là cuộc sống của con
người tại thế
gian này đang chịu đựng những sự
khổ sở tận cùng.
Ví dụ: Bệnh
bán thân, nằm, ăn, đại, tiểu tiện một chỗ; bệnh ung thư đau nhức khổ sở; bệnh cùi
ngứa, đau nhức và chịu hôi thối; bệnh thần
kinh la hét chẳng
biết chi hết,
vì thế người bị bệnh này bị nhốt
như một con thú vật không khác hoặc
chúng ta đi
vào những bệnh
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
viện thấy
những bệnh nhân nằm la liệt đau khổ vô cùng. Đó là địa ngục tại trần gian
chứ không phải là sự tưởng tượng địa ngục thế giới siêu hình của con người
mà từ lâu
người ta đã bị
các tôn giáo lừa đảo.
Chỉ riêng có đạo
Phật chỉ thẳng là
không có thế giới siêu
hình, sau này Phật
Giáo Đại Thừa
và Thiền Đông Độ
mới xây dựng thế giới siêu hình
vĩ đại hơn tất cả các tôn giáo khác.
SÙNG KHÔNG
PHẠM HẠNH
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Con xin
Thầy dạy bảo, người đã tu xong mà sống phóng dật tâm buông lung, không
giữ gìn phạm hạnh, không giữ gìn giới luật
trọn vẹn, liệu
những điều chứng đắc có còn giữ được không?
Đáp: Không,
người tu xong đã
chứng đắc thì không thể
nào sống buông
thả phóng dật theo tâm ham muốn, Phạm hạnh không có và
giới luật không nghiêm chỉnh. Chẳng hề có một
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
người tu đã
chứng đạo nào, mà lại sống trái đạo bao giờ.
Chỉ có những
người tu chưa xong, tâm còn phóng dật buông lung, nên không giữ gìn Phạm hạnh và giới luật
được, những người
này tu hành chưa chứng
đắc gì cả, họ chỉ
là những người lừa đảo người khác
mà thôi. Kinh Phật dạy: Đó là những người “Đại
vọng ngữ, Tăng thượng mạn”.
Những người
tu chưa chứng đắc, cuộc sống thường phạm giới,
Phạm hạnh không
có, thường sống buông lung phóng dật, chạy theo danh lợi thế
gian, chỉ mượn chiếc áo cà sa của đạo Phật để tạo cuộc đời mà thôi,
thường dùng những danh từ của các Tổ “Tự tại
vô ngại” để che đậy. Họ lừa đảo bằng
những sự vay mượn kiến giải kinh nghiệm
của người khác rồi cho đó là của mình.
Những người
này là những
con sâu làm rầu nồi
canh, là những con bọ
chét trong lông sư tử,
là Ma Ba Tuần,
là quỷ La Sát thể hiện
làm suy tàn Phật giáo. Chúng đã đưa ra nhiều thuyết để diệt Phật giáo: nào là
ngày tận thế sắp đến năm 2000 ; nào là Đức Phật Di Lặc ra đời; nào
là Hội Long
Hoa; nào là Đức Phật Thích Ca hết nhiệm kỳ v.v..
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VI
Đó là những
điều lừa đảo, lường gạt người khác, khiến cho mọi
người khiếp đảm
và sợ hãi, không còn muốn làm việc.
Bởi, bọn Ma Vương lộng hành, khi đạo Phật không có người tu chứng, chúng muốn
nói như thế nào tùy ý, chẳng sợ ai biết
được và có biết cũng chẳng có ai dám vạch mặt, vạch tên
chúng, nên chúng tự do muốn nói Đông, nói Tây, nói sai, nói đúng chẳng ai dám
cãi, dám bàn, dám phê bình v.v..
Để chứng
minh cho quý vị thấy, một trong những nhà học giả tu hành chưa đến nơi đến chốn,
như ở Miến Điện (Malaysia) và Thái Lan, họ
đã dám cả
gan đem kinh
nghiệm tu chưa đến
đâu, và sự
tu hành đó
chưa đúng như lời Phật
đã dạy trong các
kinh Nguyên Thủy, thế mà họ đã
dám dạy cho người khác, thật là một tai hại rất lớn cho những tín đồ Phật
giáo đang hướng về Phật
pháp với một niềm tin sâu
sắc không lay chuyển. Với sự tu hành đó, do đã lạc vào pháp tưởng, tưởng
giải, họ đã dám truyền sang qua Tây Úc và các nước Tây Phương, ngay cả nước Việt
Nam những bài kinh đó cũng được dịch
sang Việt ngữ đã được đăng
trên nguyệt san báo Giác
Ngộ số 23 tháng
2 năm 1998 đề tựa “Samadhi, Quán
Niệm Hơi Thở”.
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Bốn Thánh Định
của đạo Phật, khi chưa biết cách tu, chưa biết cách nhập và chưa nhập được, thì
đừng nên tưởng giải ra theo kiểu tu thiền
hơi thở ức chế tâm
như các Tổ
đã dạy, mà dạy
người tu nhập
Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền như trong bài
báo này, thì đừng mong có kết quả giải thoát, chỉ phí công tu
vô ích, như đức Phật
đã dạy: “Nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ để mà biết
phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứ chẳng
có ích lợi gì”.
Biết bao
nhiêu người đang
tu theo đạo Phật, khi đọc bài này, họ làm sao biết được
lời dạy trong đây
đúng hay sai? Họ cứ tin
tưởng vào các ông học giả
này là hành
giả đã tu chứng, nhập được Bốn Thánh Định. Nếu không
có ai nhập được Bốn Thánh Định thì các ông này
lừa đảo, nói dối, gạt
người thì còn ai biết
được để đính chính sự tu hành của các ông?
Vì không có
ai tu chứng Bốn loại Thánh Định này, nên các ông dễ lừa đảo người khác, bằng chứng,
báo Nguyệt San Giác Ngộ đã có những
cây bút giáo
pháp tên tuổi của các bậc
tôn túc
Hòa Thượng, Thượng
Tọa Phật Giáo Việt
Nam, mà bài
này vẫn qua mặt
được các
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VI
Ngài và
đã được phép
đăng trên báo,
thì đủ biết Tứ Thánh Định này chưa có ai tu chứng cả.
Như chúng
tôi thường nhắc nhở quý vị, thiền định của đạo Phật
không giống bất cứ
một loại thiền định nào của các tôn giáo trên hành tinh này. Nó không phải ngồi
ức chế tâm bằng hơi thở hoặc bằng bất cứ một đề mục
thiền nào, mà nó chỉ
có mục đích phải
xả tâm bằng cách sống đúng giới hạnh,
không phạm phải một giới luật nhỏ nhặt nào, luôn luôn sống đúng Phạm hạnh của một
vị Thánh Tăng, thì mới gọi là xả tâm.
Khi tâm giữ
gìn giới luật trọn vẹn, sống đúng Phạm hạnh, đầy đủ đức hạnh nhân bản nhân quả, thì
giới luật mới
thanh tịnh; giới luật có thanh tịnh thì tâm mới thanh tịnh;
tâm mới thanh tịnh thì tâm mới ly dục ly ác pháp; tâm có ly dục ly ác pháp thì tâm
mới nhập Bất Động Tâm Định. Nhập Bất Động Tâm Định thì tâm mới
có Tứ Thần Túc, nhờ
có Tứ Thần Túc thì tâm mới nhập được
Sơ Thiền, đó là Thiền
Thứ Nhất
mà trong kinh sách
Phật đều dạy như vậy.
Thế mà các
nhà học giả lại dạy theo các
Tổ Sư Thiền Đông Độ và Thiền Đại Thừa
theo pháp môn Sổ Tức Quán và Tùy Tức để tìm
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
định tướng
của định, rồi tự đặt
cho nó là Sơ định.
Nếu xét cho
cùng thì hai lối dạy tu Bốn Thánh Định của đức Phật và nhà học giả Nam Tông,
cách xa một trời một vực,
không có chút nào giống nhau cả. Thế mà các nhà học giả này dạy nhập bốn
Thánh Định như trong
bài báo, thì xem các bậc
tôn túc Hòa
Thượng, Thượng Tọa khắp trên thế
giới này toàn là những hạng người Phật tử vô minh, u tối chẳng hiểu một
chút gì
về Bốn Thánh
Định của đạo Phật cả, trong khi kinh sách Phật còn ghi lại rõ
ràng.
Đây là một
đoạn kinh, trong kinh Trung Bộ, bài kinh “Ước Nguyện” đã xác chứng lời đức Phật
dạy rất hùng hồn về cách thức nhập Bốn Thánh Định, như chúng tôi đã
nói ở trên: “Này các Tỳ Kheo, nếu
Tỳ Kheo có ước nguyện mong rằng,
tùy theo ý muốn,
không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, Ta chứng Bốn Thiền thuộc
Tăng Thượng Tâm, hiện tại lạc trú”, Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn Giới Luật”.
Vậy thành tựu
viên mãn giới luật như thế nào?
Chúng ta hãy
nghe đức Phật dạy: “Các
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
Tỳ Kheo, hãy
sống đầy đủ giới hạnh, sống đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của
giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt,
chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới”.
Đức Phật còn
nhắc nhở chúng ta phải thực hiện “Định Tư Cụ”
tức là thực
hiện ba loại định: Chánh Niệm
Tĩnh Giác Định, Định Niệm Hơi thở và Định Vô Lậu. “Tỳ Kheo ấy phải kiên trì nội
tâm tịch tĩnh,
không gián đoạn thiền
định, thành tựu
quán hạnh, thích sống
tại các trụ
xứ không tịch”. Những danh từ này do các nhà học giả
dịch không có kinh nghiệm
tu hành, nên khiến cho người
nghiên cứu rất dễ hiểu lầm, như những danh từ “tịch tĩnh”, “thiền định”, “quán hạnh”, “trụ xứ
không tịch”.
Sau khi nhập xong bốn thiền
chúng tôi mới hiểu
được những danh từ này.
Khi người mới bắt đầu
tu, tâm làm sao “tịch tĩnh”
được, cho nên tịch tĩnh ở đây phải hiểu
là tĩnh giác chứ không phải là lặng
lẽ, tịch chiếu. Thường đức Phật dạy tu tập tĩnh giác theo hành động của thân nội
hoặc ngoại để xả niệm ác hay nói cách khác là để giữ tâm trong chánh niệm, nên
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
có tên gọi loại định này
là “Chánh Niệm
Tĩnh Giác Định”.
Vì thế, đức
Phật dạy phải kiên trì nội tâm tịch
tĩnh, tức là phải kiên
trì tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác Định, tu trong mọi hành
động, tức là thân hành niệm, chứ không phải giữ tâm tịch tĩnh, khi tâm chưa có
định thì làm sao giữ tâm tịch tĩnh
được. Nếu tâm
chưa có định mà giữ tâm tịch tĩnh
tức là ức chế tâm, ức chế tâm tức
là tu sai
thiền của đạo Phật, thì dù
có tu cho đến
ngàn muôn kiếp
cũng chẳng đi đến
đâu, chẳng ích lợi gì cho mình và người
khác.
Phật dạy: “Không
gián đoạn thiền định”,
khi người mới bắt đầu tu để nhập Sơ Thiền thì làm gì có
thiền định mà không gián đoạn, nếu
không có tu nhập được Bốn Thánh định này, trên những danh từ này mà hiểu thì không
ai hiểu nổi
và cũng không
biết làm sao tu tập cách nào. Phần nhiều các nhà học
giả rối đầu không dám giải thích những danh từ này, thường là tránh né hoặc giải
thích không đúng, hoặc mượn ý
nghĩa theo kinh Đại Thừa
và Thiền Đông Độ mà giảng giải. Do đó thiền của Phật biến thành thiền của
ngoại đạo, vì thế chẳng có ai tu chứng đạt chân lí làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi.
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
Không gián
đoạn thiền định, tức là đức Phật muốn nhắc chúng ta tu Định Niệm Hơi Thở, tức
là nương hơi thở xả tâm không gián đoạn:
“Quán ly tham
tôi biết tôi
hít vô, quán ly tham
tôi biết tôi
thở ra”.. ..
.. “Quán ly sân tôi biết tôi
hít vô, quán ly sân tôi biết tôi biết tôi thở ra”.. .. ..
“Quán thân vô thường
tôi biết tôi
hít vô, quán thân vô thường tôi
biết tôi thở ra v.v..”.
Đức Phật dạy:
“Thành tựu quán hạnh”.
Muốn nhập Sơ Thiền
thì phải thành tựu
quán hạnh, tức là phải tu tập Định Vô
Lậu, đó là một
pháp môn diệt
pháp ác tuyệt
vời, mà thành tựu Định
Vô Lậu,
tức là đã
lìa ác pháp đã lìa ác pháp là nhập Sơ Thiền.
Muốn nhập
Sơ Thiền, Đức
Phật dạy: “Thích sống tại các trụ
xứ không tịch”, thích sống tại các trụ xứ không tịch, tức là sống
độc cư hay nói cách
khác là tịnh
chỉ ngôn ngữ để
nhập Sơ Thiền.
Ở đây, chúng ta phải thấy đường lối tu tập thiền
định của đạo Phật rất rõ ràng. Ý chung của
các bài kinh mà
đức Phật đã dạy rất cụ
thể: “Muốn nhập được Sơ Thiền phải sống
cho đúng
giới hạnh và
còn tu tập
bao nhiêu pháp môn
khác nữa mới
nhập
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
được”, chứ
không phải như các nhà sư Nam Tông
đã tu và dạy
người tu
pháp môn hơi thở
“sổ tức,
tùy tức” để nhập Sơ Thiền, thì không đúng cách
theo đường lối
tu tập của đức Phật đã dạy trong các kinh Nguyên Thủy. Ngay
cả pháp môn hơi thở, các sư
cũng còn
dạy không đúng như trong
kinh, thì dạy nhập
các định làm sao đúng được.
Xin quý vị đọc
lại những đoạn văn mà các nhà sư Nam Tông dạy nhập bốn thiền trong nguyẹât san báo
Giác Ngộ: Bài
này được trích dịch từ một quyển cẩm nang tu thiền của Ngài Thiền sư U Acinna, người
Miến Điện. (“Light of Wisdom”), W.A.V.E. Malaysia, 1996, cùng với một vài kinh
nghiệm của người dịch, đã có duyên may được tu học với sư
cô Dipanka- ra, đệ tử của Ngài U Acinna, trong năm 1997 tại
Perth, Tây Úc.
Đây là
nhà học giả Miến Điện dạy
chúng ta nhập Bốn
Thánh Định: “Bây giờ ta
đem tâm vào hơi thở, hơi thở vào và hơi thở ra. Nếu thiền sinh không thể chú tâm vào
hơi thở sau vài buổi
thiền, thì có thể tập đếm hơi
thở. Việc này để giúp họ phát
triển định lực. Thiền sinh đếm số
sau mỗi hơi thở
như sau: “thở vào..
.. thở ra ..
.. một”,
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
“thở vào..
..thở ra .. .. hai”, “thở
vào .. ..thở ra .. .. ba”, .. ..cho đến
thở vào .. .. thở
ra ..
.. tám”.
Có thể đếm từ năm đến mười rồi
trở lại số một.
Tuy nhiên thiền sinh nên đếm số tám rồi trở lại từ đầu. Số tám là để nhắc nhở
chúng ta về con đường Tám Chánh
(Bát Chánh Đạo),
mà chúng ta đang cố
gắng để hành
trì giác ngộ”. Lời dạy trên
đây xin quý vị lưu
ý trong kinh điển Nguyên Thủy, đức Phật có dạy như vậy
hay không?
Những lời dạy trên đây là lời dạy
của các Tổ Sư thiền Đông Độ và
kinh sách Đại Thừa
(Sổ tức
Quán). Còn Định Niệm
Hơi thở Phật dạy khác: “Hít
vô tôi biết
tôi hít vô, thở ra
tôi biết
tôi thở ra”, hoặc “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly
tham tôi biết tôi thở ra”. Phật dạy nương hơi
thở để tâm
tĩnh giác xả tâm
tham, sân, si, mạn,
nghi đó là “Quán Ly
tham”, Lìa tâm
tham để tâm được
thanh tịnh, tức là định của đạo Phật. Xin quý vị nên
hiểu chữ “định” của Sơ Thiền ở đây, mặc
dù chúng tôi cố gắng so sánh định của Phật,
định của Tổ Sư Thiền Đông Độ và định của
các nhà sư Nam Tông để quý vị rõ hơn, vì dùng danh từ “Định” rất dễ hiểu lầm nghĩa.
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Đạo Phật
dùng chữ “định”,
để chỉ cho tâm “vô
lậu”, tâm vô lậu là tâm đoạn diệt ngũ triền cái và thất kiết sử, cho nên
đức Phật đặt rất nhiều tên pháp môn của mình
có mang tên định như: Định Niệm Hơi thở, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, Định
Vô Lậu, Định Vô Tướng Tâm, Định Bất Động Tâm v.v.. Các loại định này đều nhắm
vào sự xả tâm ly dục ly ác pháp, chứ
không phải ngồi tĩnh lặng như con cóc, để rồi sanh ra các
trạng thái dục tưởng lầm chấp
cho đó là định sanh hỷ lạc, như Thiền Đông Độ và thiền của các nhà sư Nam Tông.
Cho nên, chữ
“định” của Phật ở đây có nghĩa là tĩnh
thức xả tâm dục và ác pháp, tĩnh thức
tâm không phóng
dật; tĩnh thức
tâm thanh thản; tĩnh thức tâm bất động trước các pháp và thọ; tĩnh thức
thân tâm tịnh chỉ các hành; tĩnh thức tâm Tứ Như Ý Túc và tĩnh thức tâm trong
Tam Minh.
Bây giờ
quý vị nghe
nhà học giả
Nam Tông dạy tiếp cách thức ức chế tâm: “Các bạn cần
phải cương quyết
không để phóng tâm, tâm lang thang chỗ này chỗ kia
trong khi đếm hơi thở. Chỉ chú tâm theo
dõi hơi thở và đếm số, từ 1 đến 8 rồi
trở lại 1.. .. Qua
việc chỉ chú
tâm như thế,
tâm sẽ trở
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
nên an định hơn.
Thông thường thì cần phải thực hành như thế trong một giờ
để tâm được an định
và vững chắc”.
Qua lời dạy trên đây,
quý vị thấy rất rõ,
đó là lối hướng
dẫn thiền ức chế tâm,
không phải là thiền xả tâm ngũ triền cái: tham, sân, si,
mạn, nghi như đức Phật đã dạy trong kinh.
Thiền của Phật, nếu
quý vị lưu
ý thì sẽ thấy rất rõ, lúc nào
cũng tĩnh thức trong mọi hành động thân nội hay
ngoại đều phải
kèm theo pháp hướng tâm
(Như lý tác ý)
“Quán ly tham, quán
ly sân, quán
ly si, quán
thân vô thường, quán
thân vô ngã,
quán tâm như đất v.v..”.
Trong kinh sách
Phật không có dạy
định tướng mà chỉ có nói đến: “Do ly
dục sanh hỷ lạc hoặc định sanh hỷ
lạc”. Ở đây
nhà học giả dạy: “Đến đây tùy
theo giới hạnh của từng cá nhân,
định tướng sẽ hiện
ra. Mỗi cá nhân khác nhau sẽ có định
tướng khác nhau. Dù đang nhắm mắt theo dõi hơi thở, dần dần
thiền sinh sẽ thấy định
tướng hiện ra, có khi như một làn
chỉ trắng, một luồng ánh sáng trắng, một ngôi sao, một cụm mây hoặc một
nhúm bông gòn.
Nó có
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
thể rất to,
trùm cả khuôn mặt, hoặc như mặt trăng, mặt trời, hoặc một viên ngọc thạch, một
viên ngọc trai.
Nó hiện ra trong
các hình sắc
khác nhau là
vì do tưởng uẩn (sana,
perception) tạo ra”.
“Lúc ban đầu,
định tướng có thể giống như có
màu khói xám. Dần dần, nếu giữ tâm được an định vào hơi thở, hơi thở và
màu khói
xám trở thành
đồng nhất với nhau,
không khác biệt.
Sau đó nếu
tâm được an nhẹ và chỉ chú mục vào hơi thở, màu sắc
đó trở thành
trắng đục. Mặc dù
là màu trắng, nhưng nếu bạn chỉ chú mục,
hơi thở sẽ trở thành định tướng và định tướng chính là hơi thở. Nếu định tướng và hơi thở là một, không
khác biệt, khi bạn chú mục vào
hơi thở, thì bạn
cũng chú mục vào định
tướng, và khi bạn
chú mục vào định tướng thì bạn cũng
chú mục vào hơi
thở. Và như thế bạn
hành thiền tốt và
nghiêm túc.. .. .. Khi định tướng có màu khói xám thì đó là sơ tướng (parikamma
nimitta) trong trạng thái sơ định (parikamma samadhi). Nếu nó trở thành
màu trắng như một
nhúm bông gòn, đó là
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
học tướng
(uggaha nimitta). Đây là một
trạng thái định khá cao...”.
Đọc qua cách
thức hướng dẫn
này, chúng ta nhận xét: nhà học
giả ở đây có nhận thức ra “Giới hạnh” sanh
định tướng, đó
là đúng, nhưng nhà học giả lại chẳng
biết định tướng của
giới hạnh như thế nào?
Cho nên, nhằm tưởng định tướng do tưởng uẩn lưu xuất,
điều này rất sai. Định tướng do giới hạnh sanh ra là một trạng thái tâm không
phóng dật, tâm thường tự động hướng vào nội thân, trong nội thân hoạt động điều
gì thì tâm đều biết rất rõ mà
chẳng biết sự động dụng
bên ngoài, nó không
hình tướng như
màu khói trắng
hoặc xám hoặc trắng như nhúm bông gòn hoặc như ngọc thạch
v.v.. Còn định tướng của tưởng uẩn lưu xuất là những định tướng loại ma
có hình tướng màu sắc khói
xám hoặc trắng v.v.. do tu tập thiền ức chế tâm sanh
ra. Nhà học giả này chỉ mới thấy
được sắc tưởng
của thiền ức chế
tâm mà
đã vội cho
là định tướng
của Bốn Thiền thì thật
là vô minh
vô cùng. Nó
có sáu loại ma tưởng: Sắc tưởng,
hương tưởng, thinh tưởng, vị tưởng, xúc tưởng và pháp tưởng. Vị Sư Nam Tông đã
rơi vào ma sắc tưởng mà không biết.
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Thảo nào, chúng ta cũng không nên trách các thiền
sư Đông Độ, khi họ
tu hành ức chế
tâm “chẳng niệm
thiện niệm ác”,
nên gặp loại ma pháp tưởng, do đó
họ tưởng họ đã tu chứng đạo, nên trí tuệ
phát triển, “triệt
ngộ” thấu suốt 1.700 công
án thiền tông
và tất cả kinh sách
Đại Thừa đều hiểu rõ
không có câu kinh nào mà họ chẳng hiểu. Nhưng không ngờ, đó lại là ma Pháp tưởng của tưởng
uẩn, chứ không phải trí tuệ.
Nhìn giới hạnh của các Ngài thì biết các Ngài đã bị ma Pháp tưởng
không có khó khăn gì, vì các Ngài đang sống phạm giới luật.
Dường như
tu sĩ từ
đông, sang tây, từ
nam, sang bắc tu hành đều
gặp nhau trên một điểm này, điểm
này tức là sáu loại ma tưởng, không một tu
sĩ nào thoát
ra khỏi nanh vuốt của sáu loại ma này. Cho nên, người ta
tu hành tuy có thần thông tưởng và thiền định tưởng để mà có thần thông tưởng
và thiền định tưởng, chứ chẳng ích lợi
gì cho bản thân họ và
ai cả. Họ chẳng
làm chủ sanh,
già, bệnh, chết
và chấm dứt luân hồi.
Tu hành như vậy, làm
sao nhập được Sơ Thiền, họ chỉ tưởng tượng ra Sơ Thiền mà dạy người như vậy, tức là phỉ báng Phật Pháp,
thật
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
là đau lòng
cho Phật pháp ngày nay và tội cho chúng sanh thời này, tu theo Phật mà lại tu
nhằm pháp ngoại
đạo, cứ tưởng
là mình tu đúng pháp Phật.
Thưa quý vị học giả, nếu
quý vị đã tu
chứng được thiền
định và đạt được
Tam Minh thì nên mở tu viện, thiền
viện hoặc viết
kinh sách dạy người
tu hành, bằng
không thì thôi, đừng vì
danh lợi nhỏ mọn mà giết người
như thế này. Tu chưa tới đâu
mà dám
dạy người tu như những lời dạy trên đây, quý vị xem cuộc sống và mạng người
như cỏ rác. Ngay cả thiền xả
tâm của Phật mà
không hỏi kỹ thì tu hành cũng trở
thành thiền ức chế tâm,
cũng có thể xảy ra tai hại cho tánh mạng con người,
huống là tu thiền ức chế tâm mà các vị đã
dạy thì tai hại còn biết bao nhiêu.
Quý vị có
nghe đức Phật đã dạy chăng? “Giới
sanh định”. Ở đây một
lần
nữa chúng tôi xin nhắc lại, chữ định
của giới luật sanh ra là sự “tĩnh
thức” luôn luôn
hoạt động trong “tầm
và tứ thiện”.
Vì thế quý vị đừng
hiểu lầm định của giới luật là tâm bất động không vọng tưởng, chẳng niệm
thiện niệm ác; cũng đừng hiểu với nghĩa là tịch chiếu như Thiền Đông Độ. Đến đây lại sanh
ra một danh từ
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
khác nữa,
quý vị có thể hiểu lầm, đó
là Bất Động Tâm Định,
Bất Động
Tâm Định là một
loại thiền định
do giới luật sanh ra, Bất
Động Tâm Định tức
là tâm bất động trước
các ác pháp, trước các cảm thọ,
chứ không phải bất động là không vọng tưởng, không niệm thiện niệm ác, nói cho
dễ hiểu bất động, tức là tĩnh thức trong niệm chơn chánh, niệm chơn chánh tức là niệm thiện.
Niệm thiện tức
là niệm không có dục lậu, hữu lậu
và vô minh lậu.
Cho nên, từ giới
luật sống đúng
Phạm hạnh, không phạm phải một giới nhỏ nhặt nào thì tâm sẽ ly
dục ly ác pháp,
tức là tâm sẽ
nhập Sơ Thiền. Ở đây, cớ sao
quý vị
lại dạy nhập Sơ Thiền như vậy, “Định tướng
có khói xám thì đó là Sơ tướng
trong trạng thái Sơ định”. Quý vị
có loạn thần
kinh chưa? Sơ Thiền là do ly dục nhập Sơ Thiền, chứ đâu
phải ngồi bất động chẳng niệm thiện niệm ác. Sơ Thiền là một trạng thái bình
thường như mọi người nhưng tâm chỉ ly dục
ly ác pháp nên ý
thức vẫn còn (tầm tứ) thì làm gì có định tướng ảo tưởng
được. Quý vị gạt người
không biết thiền định chứ
người đã nhập định thì quý
vị không lừa đảo dối gạt được.
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
Quý vị ngồi
thiền như con cóc, ngồi lâu tưởng ra khói
xám rồi cho đó là định tướng Sơ Thiền, thì thiền
như vậy có phải là thiền của Phật
không? Hay là một thứ
thiền tưởng mà quý vị đặt ra để ngồi trong mát ăn bát
vàng, để lừa đảo người không biết?
Nói đến Tầm, Tứ
quý vị lại hiểu ngoài kinh sách của đạo Phật, quý vị có đọc
bài kinh Song Tầm và bài
kinh An Trú Tầm chưa? Nếu đã
đọc thì quý vị không thể giải thích năm chi thiền như thế này được, năm
chi thiền đó là :
“1- Tầm
(Vitakka): Đem tâm hướng về định tướng.
2- Tứ
(Vicara): Bám sát
vào định tướng.
3- Hỷ
(pity): Ưa thích định tướng.
4- Lạc
(sukha): Cảm giác an lạc,
sung sướng khi tiếp xúc với định tướng.
5- Nhất tâm (Ekaggata): Tập trung về một điểm (đó là định tướng)”.
Ở đây chúng tôi
không có ý kiến, xin quý vị đọc lại hai
bài kinh trên, trong
kinh Trung Bộ thì quý vị sẽ rõ.
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Sơ Thiền là một loại
thiền xả tâm,
dùng “ý thức tĩnh
giác trong mọi hành động để xả
những tâm niệm
ác của mình”,
không bao giờ dùng tưởng thức. Vì thế, phải lấy “Giới Luật tu tập, lập hạnh,
sống đời sống Phạm hạnh có như vậy thì mới xả tâm được”. Ngoài giới
luật ra thì không còn
có pháp môn nào
xả tâm hữu hiệu hơn nữa. Cho
nên, giới luật là
pháp môn đầu
tiên của đạo Phật để đi
vào lộ trình giải thoát “Chánh định”.
Người nào dạy
tu tập thiền định Phật giáo mà
không dạy giới luật
thì người đó chưa hiểu thiền định của đạo Phật. Khi đọc
bài Quán Niệm Hơi Thở trong
Nguyệt san Giác Ngộ số
23,
chúng tôi rất
đau lòng vì bài
thuyết pháp dạy tu Tứ Thánh Định
là của một nhà sư Nam Tông Nguyên Thủy
mà dạy như vậy thì chúng ta không nên trách các nhà sư
Bắc Tông vì họ dạy theo kinh phát triển
Đại Thừa.
Thảo nào, hiện
giờ người ta tu theo Phật giáo mà chẳng có ai thực hiện Bốn Thánh Định và Tam
Minh được, là vì không theo lời dạy của đức
Phật. Người ta
dùng tưởng tu tập
thiền định và tu
hành chưa tới đâu,
chẳng làm chủ sanh
tử luân hồi được, mà
cũng lập đạo
tràng dạy người tu. Bằng chứng
qua bài viết
này,
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
chúng ta
cũng biết Phật
giáo hiện giờ
không còn ai tu chứng, nên những người học giả này muốn dạy như thế nào
tùy ý, dạy sao không ai dám cãi, dám
bàn mà còn
dám đăng trên báo, phổ biến
khắp nơi, xem
các bậc Tôn
Túc, Trưởng Lão Hòa
Thượng, Thượng Tọa ở Việt Nam
và các nước
trên thế giới
là những người vô minh u tối
không hiểu kinh sách và lời dạy của đức Phật.
Người nhập
Sơ Thiền chưa có định, chỉ có ly dục ly ác pháp, tâm mới thanh tịnh. Vậy mà ở
đây lại dạy Sơ Thiền có định tướng. Định tướng gì lạ vậy?
Người nhập
Sơ Thiền là người
tu tập giới luật, mới vén lên được
năm cái màn ngăn che, đó là: tham, sân, si, mạn, nghi
chứ không phải tu tập hơi thở mà phá được ngũ triền cái như trong bài Quán Niệm
Hơi Thở này dạy.
Trong bài kinh Song Tầm Phật dạy: “diệt tầm ác giữ tầm
thiện” tức là ly
dục ly ác pháp; ly dục ly ác pháp, tức là
nhập Sơ Thiền, chứ không như nhà
học dạy: Tầm là đem tâm hướng về định tướng; Tứ là bám sát vào định tướng, dạy
như vậy không
đúng như lời Phật
dạy.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Trong Sơ Thiền có “Tầm Tứ”, tầm không phải hướng
về định tướng,
mà là hướng
về thiện pháp; Tứ không phải bám sát vào định tướng, mà Tứ
là tác ý (như lý
tác ý) để diệt
ác pháp. Như trong
bài kinh Xuất Tức Nhập Tức, Phật đã dạy về Định Niệm Hơi Thở, như lý
tác ý rất rõ ràng: “Quán ly tham
tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi
biết tôi thở
ra”. Đó là “Tứ”
như lý tác
ý để xả
tâm tham, sân,
si, mạn, nghi, tức
là xả ngũ
triền cái. Thiền định của Phật không phải dùng hơi thở ức
chế tâm mà dùng hơi thở để xả tâm. Cho nên Phật dạy: “muốn nhập
Sơ Thiền cho đến
Tứ Thiền thì Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý”.
Ở đây,
nhà học giả
Nam Tông dạy bốn
thiền của Phật theo tưởng giải của mình, nên Phật Pháp
trở thành tà
giáo ngoại đạo, chính vì vậy đạo Phật dần dần biến dạng,
thành tà giáo, pháp môn thành pháp môn của ngoại đạo.
Để so sánh
Quán Niệm Hơi Thở của
nhà sư Nam Tông và Định Niệm Hơi Thở của đức Phật giống nhau và khác
nhau ở chỗ nào?
Nếu ai đã đọc
bài kinh Xuất Tức Nhập Tức trong kinh Trung
Bộ thì nhận thấy có 16 đề tài tu
về Định Niệm Hơi Thở. Mười
sáu đề tài đó
là 16 câu pháp
hướng để xả
tâm ngũ triền
cái
và thất kiết sử, tức
là khắc phục
tham ưu hay nói cách khác là ly dục
ly bất thiện pháp.
Cách thức tu
tập, nương vào hơi thở để giữ tâm bằng
cách tĩnh thức và xả
tâm. Đồng thời một lượt mà đạt cả hai kết quả tĩnh thức và xả tâm,
nhưng phải hiểu tĩnh thức là vấn đề phụ, còn xả
tâm là vấn đề chánh.
Cho nên, khi xả tâm hoàn
toàn vô lậu
thì tĩnh thức là xả tâm, tức
là tâm nghe,
hiểu, biết tất cả mà
không dính mắc một pháp nào. Đó là mục đích giải thoát của đạo Phật.
Khi tâm đã ly
dục ly ác pháp
thì tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì tâm mới đủ sức lực để sử dụng
pháp hướng dẫn thân tâm nhập vào
các định (Định Như
Ý Túc), cho nên
nhập từ Nhị Thiền đến Tứ Thiền không có khó khăn, không có mệt nhọc, chỉ
bằng pháp hướng tịnh chỉ các hành
trong thân và
tâm, chứ không dùng
định tướng để nhập các định khác
như nhà học giả Nam Tông đã dạy.
Theo lộ
trình tu tập của đạo Phật, ngoài Định Niệm
Hơi Thở, hành
giả còn phải
tu các định khác nữa như: Định
Sáng Suốt, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác,
Định Vô Lậu, thì mới mong nhập được
Sơ Thiền, chứ không phải chỉ có định Niệm Hơi Thở không mà thôi.
Ở đây, nhà học giả Nam Tông dạy Quán Niệm Hơi
Thở bằng cách tùy tức, nếu tùy tức không nhiếp phục được vọng tưởng thì dùng
pháp đếm
hơi thở (sổ tức), khoảng
độ một giờ thì định tướng xuất
hiện, khi định tướng xuất hiện, họ sẽ ôm định tướng mà nhập các định
khác (Từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền). Cách thức nhập Bốn Thánh Định của họ quá đơn
giản, nhưng chắc chắn họ sẽ
không làm chủ
sanh, già, bệnh, chết.
Bằng chứng những
vị sư này chưa làm chủ bệnh đau của
mình và đời sống
của họ
thì mong gì làm chủ sự sống chết
và luân hồi.
Tóm lại, Định
Niệm Hơi
Thở của Phật và Quán
Niệm hơi thở của nhà Sư
Nam Tông
thì sự tu hành không giống nhau chút nào
cả; một bên thì dùng hơi thở ức chế tâm để nhập định; một bên thì dùng
hơi thở tĩnh thức để xả tâm.
Đến Thiền
Thứ Hai nhà
học giả dạy: “Thiền
sinh cũng nên nhận
thức rằng các thiền chi Tầm và Tứ trong tầng Thiền Thứ
Nhất làm
cho tầng thiền
này không an định
bằng tầng thiền thứ nhì”.
Qua lời dạy
trên đây chúng
ta thấy nhà học
giả không hiểu sự an định
của thiền thứ nhất
và thiền thứ
nhì. Sự an định của
thiền
thứ nhất là do
“tầm tứ”
tịnh chỉ tâm dục và ác pháp
hay nói cách
khác là tịnh
chỉ ngôn ngữ, tức là ly dục ly bất thiện pháp. Vì thế,
chúng ta phải hiểu sự an định của tầng thiền thứ nhất “lấy tâm động, tạo tâm
bất động” còn sự an định của tầng thiền
thứ nhì “lấy
tâm bất động tạo định”, chứ
không như nhà học giả dạy sự an định của thiền thứ nhì hơn thiền
thứ nhất. Hai sự an định của hai loại thiền này không giống
nhau, chỉ có hỷ lạc
là thiền thứ nhì
hơn thiền thứ nhất như đức Phật
đã dạy trong bài kinh Sa Môn Quả.
Chỗ này muốn cho dễ hiểu
hơn, chúng tôi cho một ví dụ thì quý vị sẽ hiểu rõ ràng: Ví như có một
người luôn tìm mọi cách sống trong thiện
pháp, sau một thời gian
tâm họ hoàn toàn
thiện và họ
đang ở trong
ngôi nhà thứ nhất,
bây giờ họ muốn sang ngôi
nhà thứ nhì, thì họ có mang theo ngôi nhà thứ nhất
hay không? Họ có
mang theo cái
tâm toàn thiện của họ
hay không? Bây giờ họ muốn
sang ngôi nhà thứ ba, thì họ
có mang theo ngôi
nhà thứ hai không? Và đến ngôi
nhà thứ ba họ có mang theo tâm thiện
của họ hay không?
Bây giờ họ lại
muốn sang ngôi
nhà thứ tư, họ có
mang theo ngôi nhà thứ ba không? Khi đến ngôi nhà
thứ tư họ có
mang theo cái
tâm thiện của họ
không?
Nếu tâm
không thanh tịnh
thì không thể nào nhập
được chánh định,
tâm chưa thanh tịnh mà nhập định, tức là tà định, định
ức chế tâm. Vì thế, người
sống không đúng
giới hạnh là người nhập tà định.
Đến thiền thứ
nhì nhà học giả lúng túng không biết pháp hành. Đây, chúng ta nghe tiếp đoạn
trên: “Vì thế, từ ước muốn rời bỏ hai thiền
chi này và chỉ
còn giữ thiền
chi Hỷ, Lạc, Nhất
tâm, thiền sinh
tiếp tục đem tâm
vào tợ tướng. Làm như thế thiền sinh có thể đạt vào tầng thiền thứ
nhì”.
Đến thiền
thứ nhì nhà học giả
quên lời Phật dạy:
“Xả Sơ Thiền
mới nhập Nhị thiền”.
Cái vô minh của nhà học giả
đã để lộ chơn tướng
u tối, cái không
biết của mình
quá rõ ràng: “tiếp
tục đem tâm vào tợ tướng”, tức
là giữ trạng
thái định của
Sơ thiền mà nhập Nhị Thiền, nhà học giả hiểu Sơ Thiền
và Nhị Thiền là hai nấc thang.
Sơ Thiền
và Nhị Thiền không phải là hai nấc thang của một cây thang mà hai loại
thiền định tu tập không giống nhau. Sơ Thiền còn có
những tên như: Bất Động Tâm Định, Vô Tướng Tâm
Định. Cách tu tập của Sơ Thiền là “Ly”. Cách
tu của Nhị Thiền
là “Diệt”. Các
nhà học giả không
có kinh nghiệm
tu hành nên bước
vào tu
thiền định thì chỉ
có cách ức chế tâm “diệt ý thức, hưng phấn tuởng thức”.
Thiền thứ ba
và thiền thứ tư nhà học giả cũng không biết pháp hành nên dạy cứ ôm tợ tướng của
thiền dưới nhập thiền trên: “Sau đó thiền
sinh nhận thức, rằng hỷ cũng không đem lại an định, nên ước muốn bỏ hỷ, chỉ còn
giữ lại Lạc và Nhất tâm. Thiền sinh tiếp
tục đem tâm
vào tợ tướng. Làm
như thế thiền sinh
có thể đạt
vào tầng thiền thứ ba, vốn chỉ còn hai chi: Lạc và Nhất
tâm. Sau
khi vào được Tam
Thiền, thiền sinh hành trì năm loại
thuần thục như trên”.
“Sau đó
thiền sinh nhận
thức rằng nếu cứ duy trì lạc thì
lại là một hình thức tham thủ vào cảm
giác vui sướng. Cho nên với ý định bỏ lạc, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng.
Làm như thế
thiền sinh có thể đạt vào tầng thiền thứ tư”.
Trong
kinh Ước Nguyện đức Phật dạy rất rõ: “Tùy theo ý,
muốn ước nguyện
một điều gì thì giới
luật phải sống
nghiêm trì, không phạm
phải một lỗi nhỏ nhặt
nào, thì nhập Bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, không
có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức”.
Xưa, Thầy
Khương Tăng Hội dạy nhập Bốn Thiền trong sách An Ban Thủ Ý theo
kiểu học giả mà
chúng tôi đã
có lần trả lời cho cô Diệu Quang. Đồng thời lúc ấy chúng tôi
cũng có nhận được một bức thư của cô Diệu Tịnh hỏi, trong đó nhà học giả lấy kết
quả của Bốn Thiền như trong kinh
Sa Môn Quả mà đức Phật
đã dạy, làm bốn bài kệ dạy người tu nhập Bốn Thiền, giống
như kiểu thiền
sư Đông Độ v.v.. Xin quý vị đọc tiếp “Đường Về Xứ Phật”
phần vấn đạo thì quý
vị càng rõ
hơn. Trên đây là
một nhà
học giả Nam
Tông dạy nhập Bốn
Thiền mà được dịch sang Việt ngữ, theo
chúng tôi nghĩ không phải có một bài này mà có rất nhiều bài dạy nhập về
Bốn Thánh Định này. Nhưng chắc chắn
chưa có vị sư nào
nhập được Bốn Thánh Định, chỉ nói
dối lừa đảo người mà thôi.
Người xưa bảo rằng: “Biết thì thưa thốt, không biết
thì dựa cột mà
nghe”. Thế mà, các nhà học giả thời nay tu hành chưa đến nơi đến chốn,
và tu không
đúng như lời Phật dạy,
tu chưa
được giải thoát
sanh, lão, bệnh,
tử, chưa thực hiện đầy đủ Tam Minh, giống như người chưa biết
thì nên dựa cột
mà nghe, có đâu
lại dạy tu thiền điên
khùng cho thiên hạ như vậy.
Dạy thiền
như các nhà học giả này mà còn viết soạn ra kinh sách, thì kinh sách này sẽ chẳng
ích lợi gì cho con người, mà còn làm cho con
người phí hết cuộc đời
và có thể những
người này sẽ trở thành những người lừa đảo
có kinh sách.
Thật ra
bài Quán Niệm
Hơi Thở này chúng
tôi đã được
đọc trong tập
nguyệt san Giác Ngộ hơn cả năm
nay, thấy những điều dạy sai trong pháp hành thiền của đức Phật, nhưng
chúng tôi chẳng
hề động đến,
ai có duyên
tu sao cũng được, đúng sai là do nhân quả gieo duyên tu của mọi người.
Nhưng rồi do
một nhân
duyên, đây cũng là
duyên Phật pháp,
khi đọc bản thảo
Đường Về Xứ Phật trên máy tính về phần vấn đạo nhiều Phật tử gợi
ý: Sao Thầy không
chứng
minh sự lừa
đảo, lường gạt bằng những pháp môn kiến giải,
tưởng giải của một số Sư,
Thầy “háo danh, háo lợi”, để
giúp đỡ biết
bao nhiêu người tín đồ Phật giáo tránh khỏi sự lừa đảo, lường gạt này và
làm sáng tỏ lại giáo pháp của đức Phật. Nếu Thầy không nói ra thì còn ai biết
đâu mà nói, đã từ bao thế kỷ nay, biết
bao nhiêu giáo pháp
kiến giải, tưởng
giải của một số
tà sư ngoại đạo
đã che phủ
toàn bộ giáo pháp của đức Phật, khiến cho mọi người
nghiên cứu và tu học giáo pháp của đức Phật không thể nào rõ được.
May thay
kinh sách Nguyên
Thủy của Phật còn đó, nhờ Thầy vạch
rõ để giúp cho mọi người thấu hiểu, chứ hiện giờ họ xem những tu sĩ Phật
giáo đã chịu ảnh hưởng
sâu sắc của kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ, nên
họ chẳng còn biết lời dạy nào
đúng sai của Phật.
Vì vậy, họ mới dám dạy thiền tưởng qua tưởng giải, từ chỗ tu không đúng pháp của
Phật.
CHỈ CẦN CĨ
TÂM TÀM QUÝ LÀ TU CHỨNG ĐẠO
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Thiền sinh đang tu
mà phạm nhiều lỗi lầm,
phá hạnh độc cư, ăn
ngủ phi thời
v.v.. Nếu biết hối cải với
tâm tàm quý. Biết xấu hổ về lỗi lầm của mình, biết sửa đổi tâm tánh thì trên đường tutập có gì trở ngại và có thể đạt
được cứu cánh hay không?
Đáp: Người
tu hành có lỗi biết xấu hổ và sợ hãi
(tàm quý) thì cố gắng sửa đổi tâm tánh và từ bỏ các ác pháp, hằng ngày luôn giữ
gìn không cho tái phạm những
lỗi lầm cũ,
thì người này sẽ
tu hành không
có trở ngại
gì và kết quả sẽ chứng đắc như những người khác.
Danh từ xấu hổ
nghe thì rất dễ,
nhưng mấy ai biết xấu hổ khi
đã làm
những điều sai quấy.
Thường người ta
làm sai quấy lỗi lầm, nhưng
ít có người dám nhận sự
sai quấy, lỗi lầm
của mình, cứ
mãi cố gắng
che đậy và tự bào chữa cho mình là không sai quấy lỗi lầm.
Luôn luôn lúc nào
cũng dối quanh, dối quất, đổ lỗi cho kẻ khác.
Vì không
đủ can đảm nhận lỗi những
sự sai quấy của mình, cho nên hai
chữ xấu hổ chỉ
để nói cho vui chơi, chứ không áp dụng vào đời sống của
ai được cả, nếu kẻ
nào biết áp dụng
xấu hổ
vào sự lỗi lầm, sai quấy của
mình, không sớm thì muộn người ấy sẽ trở thành những bậc Thánh Hiền.
Chỉ có
hai chữ “xấu hổ” mà trên đời này ai là người đã thực hiện được
xấu hổ để sửa sai những lỗi lầm của mình
cũng như
hai chữ “độc cư”, mấy ai đã làm được. Nếu trên đời này ai là người
biết xấu hổ
mà đừng che giấu,
biết sửa sai những
lỗi lầm của
mình thì người đó là
người đạo đức trọn vẹn, là người tốt nhất trong xã hội,
là người ly dục
ly ác pháp, là người
dễ thành tựu Sơ Thiền
của Phật. Cho
nên, đức Phật đã dạy: “Ta
có một pháp
đưa con người đến cứu kính giải
thoát, đó là pháp Tàm Quý”.
Trong Phật
Pháp khi một người
tu hành có làm những điều lỗi lầm
mà biết xấu hổ sửa sai là tương lai người ấy sẽ chứng đạo, sẽ
trở thành những bậc Thánh nhân.
Bậc Thánh
nhân là những người biết xấu hổ, biết sửa sai; biết xấu hổ, biết sửa sai tức là
biết độc
cư; độc cư tức là sống
trầm lặng, sống
trầm lặng, tức là cuộc sống Thánh thiện; cuộc
sống Thánh thiện là cuộc sống của những bậc Thánh nhân, cho nên người phàm phu
tầm thường không thể nào sống độc cư nổi. Sống không nổi hạnh độc cư
thì đừng hòng đi tìm
con đường giải thoát của đạo Phật
mà có được. Con đường ấy không thể để dành cho những kẻ còn tâm ham vui,
ưa thích dục lạc thế gian; con đường ấy không thể để dành cho những kẻ tâm còn
ràng rịt bởi những sợi
dây tình cảm luyến ái; con đường ấy
không thể để dành cho những kẻ thiếu đạo đức, thiếu đức hạnh.
MƯI NGƯỜI ĐỀU
LÀ TU SĨ ĐI
XIN ĂN THÌ
THẾ GIAN NÀY SẼ RA SAO?
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Giả sử cả đất nước
này đều là những người xuất gia tu hành theo đạo Phật ba
y một bát đi xin ăn, thì ai là người
trồng cây và sản xuất
ra lương thực và thực
phẩm. Vậy phải
xin ăn ở
đâu? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp:
Câu hỏi của
con chỉ là một giả thuyết, chứ không bao giờ có hiện thực. Giả sử nếu có thật đi nữa, thì điều này không khó
con ạ! Từ các cấp lãnh đạo trong nước cho đến toàn dân đều tu hành theo đạo Phật
hết thì con nên nhớ: “Đạo Phật
là đạo trí tuệ”.
Khi trường hợp ấy xảy ra, thì các
nhà lãnh đạo
trong nước sẽ chia tu sĩ thành hai dòng tu:
1- Dòng tiếp
hiện
2- Dòng
chuyên tu
Dòng tiếp hiện tổ
chức giữ gìn trật
tự, an ninh bờ cõi và sản xuất
lương thực, thực phẩm, giúp đỡ cho dòng chuyên tu có thực phẩm sống hằng ngày,
ngày một bữa để thực
hiện chiều sâu của
Phật pháp. Nếu
những tu sĩ
dòng chuyên tu, tu
hành đã xong, thì rời
khỏi dòng chuyên tu, để thay
thế cho những tu
sĩ dòng tiếp hiện, giữ chức vụ,
vai trò thực hiện để tiếp tục giữ gìn an ninh, đất nước và sản xuất, lương thực,
thực phẩm, v.v..
Vậy, lúc bấy
giờ tu sĩ chuyên tu có chỗ, nơi đi khất thực
và có tổ chức hẳn
hòi, chứ có gì
đâu mà
sợ không có thực phẩm để sống
tu hành.
Đó
là một điều
kiện được đặt
ra giả thuyết, cho mọi
người trên hành
tinh này đều là tu sĩ Phật giáo hết,
thì việc tổ chức hai dòng tu như vậy là hợp lý.
Dù con người
có tu hay không
tu, khi mà có người
theo tôn giáo
tu hành, thì sự
tổ chức của tôn
giáo phải có
chia làm hai
dòng tu, thì tôn giáo đó mới bảo đảm cho những người
theo tu hành, còn nếu không có tổ chức như vậy thì tôn giáo ấy phát
triển không vững vàng, có lúc thịnh, có lúc suy như tôn giáo Phật giáo hiện giờ. Sự tổ chức của Phật
giáo hiện giờ
thiếu chặt chẽ, phát triển theo anh hùng cá nhân, không phải phát triển
theo tập thể. Một tôn giáo tổ chức
phát triển theo tập thể
có chiều sâu và có chiều rộng thì
thế đứng vững vàng, còn phát triển
theo anh hùng
cá nhân, khi cá nhân
ấy mất đi, hoặc làm một điều
gì mất uy tín thì tôn giáo ấy sẽ
bị suy vong và sụp đổ.
Cho nên, đứng
về mặt tôn giáo, muốn tôn giáo đó hưng thịnh mãi mãi
thì phải xây dựng nền kinh tế
của tôn giáo đó vững vàng
và mỗi tín đồ phải
được trang bị học tập
và trau dồi đức
hạnh. Một nền đạo đức
nhân bản – nhân
quả sống
không làm khổ
mình, khổ người,
có
được
như vậy thì tôn
giáo ấy mới sống mãi trường tồn với loài người.
Trên thế
gian này nếu
có một tôn
giáo biết tổ chức
được như vậy,
thì loài người trên hành tinh này sẽ sống trong cảnh Thiên
Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn thực tế, chứ không phải còn là một giấc mơ mà con
người hằng mơ ước
từ bao thế kỷ nay.
Đối với
con người trên thế
gian này nếu tất cả đều biết tu hành theo Phật giáo sống
thiện, sống không làm khổ mình, khổ người
và khổ tất cả chúng sanh thì phước báu
vô lậu vô lượng nên cây cỏ thảo mộc tự ra
hoa trái đầy đủ sung mãn nên có lo gì
đến sự đi khất
thực. Phải không con?
LỤC CĂN HƯ
HOẠI
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Những người
bị hư hoại lục căn, nhưng trí tuệ không bị hư hoại có ảnh hưởng gì
trong việc tu tập theo Đạo
Phật không?
Đáp: Xưa,
thời Đức Phật
còn tại thế, người đau bệnh cùi, cụt tay, cụt chân,
đức Phật vẫn nhận họ làm đệ tử tu hành xuất gia và những vị này đã tu hành chứng
quả A La Hán. Thời nay các Tổ
biên soạn giới
luật, người cụt tay, cụt chân, chột mắt, nói chung là lục
căn bị hư hoại thì không được thọ đại giới như những người khác, chỉ có cho thọ
giới Sa Di mà thôi.
Đạo Phật
là đạo trí tuệ,
nếu ai có trí
tuệ biết giữ gìn giới luật đức hạnh sống đúng đời sống Phạm hạnh như Phật, biết sửa những
sự sai quấy lỗi lầm, biết xấu hổ khi
phạm phải giới luật,
biết ngăn ngừa
các việc làm
ác, biết ly dục ly ác pháp, biết
xả tâm diệt
ngã, thì dù cụt tay, cụt chân, chột mắt, đui mù, mẻ sứt, khuyết tật
thì cũng vẫn tu chứng đạo
không ảnh hưởng gì trong sự tu tập theo đạo Phật cả.
Đời sau, người
ta cho những kẻ thiếu căn là
những người phước
mỏng không được
thọ Đại Giới của Phật giáo,
tức là không
được có mặt trong
hàng giáo phầm
như: Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng v.v..
Trong thời đức Phật, người ta tu hành chỉ cần chứng
đạo xong, thì người ấy được gọi là Trưởng Lão, còn người tu chưa chứng dù có tuổi
đạo bao
nhiêu cũng không
được gọi là Trưởng
Lão
Đạo Phật
không có giai cấp trong hàng giáo phẩm, chỉ
có một giai cấp tu chứng Tam Minh mà thôi. Từ con người phàm phu, bình
thường đến tu chứng gọi là Trưởng Lão.
Đạo Phật
ra đời nhằm phá
giai cấp của loài
người trên hành
tinh này, để đem lại
sự bình đẳng cho mọi người như nhau không phân biệt nam, nữ.
Thế mà bây giờ Đạo Phật lại có
giai cấp
trong hàng giáo
phẩm để lãnh đạo
Giáo Hội, chứ
không phải tu
hành chứng đắc mà
chỉ có học thức và
tu lâu năm
thì lên chức Thượng Tọa, Hòa Thượng, nhưng lại có bà Thượng Tọa và bà
Hòa Thượng thật là đau lòng cho Phật giáo ngày nay. Có nhà thơ đã châm biếm tu
sĩ Phật giáo “Tu lâu cũng thành sư cụ”. Không thành đạo quả mà lại thành sư cụ,
thì thật là xấu hổ vô cùng.
Đức Phật
đã nhìn
thấy thân người do bốn đại hợp thành,
nó giòn bở
không bền chắc
và bất tịnh, uế trược, hôi thối, chỉ tạm bợ sống
100 tuổi là
cao. Đức Phật ví thân này như chiếc bè
mượn nó để
sang sông, dù
thân người có chột mắt, cụt tay, cụt chân v.v.. vẫn mượn làm bè sang
sông cũng tốt vậy, chỉ sợ người ấy
không
có trí tuệ thì không
tu được, còn
có trí tuệ là còn tu được.
SÁU CĂN QUAY
VÀO TRONG
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Có lợi
ích gì cho người tu tập, khi mắt, tai,
mũi, miệng, thân và ý quay vào trong thân?
- Mắt
nhìn vào thân, mắt sẽ thấy những gì
trong thân?
- Tai nghe vào thân, tai sẽ
nghe những gì trong thân?
- Mũi quay
vào trong thân, mũi sẽ ngửi những gì trong thân?
- Miệng
quay vào trong
thân, miệng sẽ nếm những gì trong thân?
- Xúc
quay vào trong
thân, xúc sẽ cảm
nhận những gì trong thân?
- Ý quay vào
trong thân, ý sẽ biết những gì trong thân?
Đáp: Khi mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý quay vào
trong tụ điểm
(điểm định) nơi
thân của người ấy thì
người ấy
đã làm chủ sự sống chết, tức là tâm định trên thân, thân định
trên tâm, người ấy
đã nhập Định Tứ
Thiền, đó là một
loại Thánh Định, nên hơi thở tịnh
chỉ hoàn toàn, các hành nơi thân ngưng hoạt động. Đây là giai đoạn định
để thực hiện Tam Minh, một loại định mà trên thế gian này ít có người tu tập thực
hiện được. Nó là một kết quả lợi ích rất lớn cho người tu sĩ đã thực hiện được
nó. Người thực hiện
sáu căn quay
vào trong là người
đã làm chủ được sự sống chết
và chấm dứt luân hồi, đó là một hạnh
phúc lớn nhất cho đời người, không có hạnh phúc nào hơn được.
Ở đây, sáu căn quay vào trong, có hai giai đoạn:
1- Sáu căn quay
vào trong thân, lúc tâm không phóng dật, tức là tâm ly dục ly ác pháp, nhập Bất Động
Tâm Định hay nhập Sơ Thiền, tức là tâm định trên thân.
2- Sáu căn
quay vào trong thân,
lúc sáu căn ngưng hoạt động, hơi
thở tịnh chỉ, nhập Tứ Thiền, tức là
Thân định trên
tâm, tâm định trên thân.
Nếu sáu căn quay vào trong thân ở giai đoạn một,
thì mắt nhìn vào thân, mắt sẽ thấy: Tầm,
Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm.
Tai, mũi, miệng,
thân và ý quay vào thân, thì nghe, ngửi,
nếm, cảm nhận, biết:
Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm như
trên.
Còn ở giai
đoạn thứ hai, sáu căn quay vào thân thì sáu căn thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm nhận
và biết lặng lẽ không tịch.
NẰM THEO KIỂU KIẾT
TƯỜNG
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Nằm theo
kiểu kiết tường giống như Đức Phật có lợi ích gì cho người tu tập? Làm thế nào
và tu như thế nào để
suốt thời gian
ngủ không thay đổi tư thế
này?
Đáp: Nằm kiết tường
theo kiểu như đức
Phật Niết Bàn,
có lợi ích rất lớn:
1/ Ngủ không mê, thường tĩnh thức
2/ Ngủ không mộng
3/ Tĩnh
thức dễ dàng trong giấc ngủ
4/ Ngủ ít, không mệt mỏi, lười biếng
5/ Nằm ngủ kín
đáo có oai nghi tế hạnh, giống như con sư tử
nằm, mà đức Phật
thường tán thán ca ngợi cách nằm này.
Ngày xưa Phật
không ngủû chỉ nằm kiết tường nghỉ ngơi
khoảng 30 phút,
rồi dậy đi kinh hành.
Người nằm kiết
tường ngủ nhiều không đúng cách. Vì kiểu nằm kiết tường là cách nằm tĩnh thức,
chứ không phải nằm ngủ như người thế gian. Nếu cố gắng tập luyện sẽ nằm suốt được từ 1
giờ đến
2 giờ rất dễ
dàng. Ngồi kiết già
2, 3 giờ đồng hồ còn được huống
là nằm kiết tường 2, 3 tiếng đồng
hồ thì không có khó khăn gì.
Khi tập nằm
kiết tường đừng lăn trở nằm theo kiểu khác,
chỉ chịu khó tập nằm từ 30 phút
lên 1 giờ rồi đến 2 giờ,
3 giờ thì sẽ đạt được như ý muốn.
Nằm kiết tường,
tướng nằm rất kín đáo và khoan thai,
không có cách nằm nào hơn được. Nằm ngửa, nằm sấp, nằm
co đều là những
tướng nằm rất xấu, giống như loài thú vật nằm.
Cho nên, tư cách nằm ngủ của con người phải
đúng cách của nó, phần nhiều con người nằm
ngủ không đúng
cách thì chẳng khác
nào như con thú nằm ngủ. Đạo
Phật chỉ chọn được cách nằm
của bậc Thánh
Hiền. Nằm kiết tường, mà đức Phật gọi là dáng nằm của
con sư
tử.
Giả thiết, có
một vị Thánh
Hiền mà nằm co ngủ như một con
chó, thì chúng ta có tin họ là Thánh Hiền không? Cũng như một vị Thánh
Tăng mà
nằm sấp ngủ
như một con
bò, thì chúng ta có thể tin họ là
Thánh Tăng không?
Bởi, cách thức
nằm ngủ rất quan trọng, thấy cách nằm biết được
giá trị của
con người đó, thuộc về hạng người nào. Vì thế, chúng ta hãy tập cách nằm
kiết tường như đức Phật đã chọn và thực hiện suốt cuộc đời của mình trong tư thế nằm ngủ như một con sư tử chúa.
NHÂN TƯỚNG
NÜI NGOẠI CßA THƯ
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính
thưa Thầy thế nào là:
1- Nhân tướng nội của thọ?
2- Nhân tướng
ngoại của thọ?
3- Nhân tướng
hành của thọ?
Xin Thầy
chỉ dạy cho chúng
con được rõ và cách thức áp dụng
vào Tứ Niệm Xứ.
Đáp: Nhân tướng
nội của thọ là cảm thọ hành bên trong, hay nói cách khác cho dễ hiểu là sự cảm nhận, cảm giác sự hoạt dụng hỷ
lạc, khinh an và đau nhức bên trong của thân.
Nhân tướng
ngoại của thọ là sự cảm thọ bên
ngoài, hay nói một
cách khác cho dễ
hiểu là sự cảm nhận, cảm giác sự hoạt dụng hỷ lạc khinh an và đau nhức
bên ngoài của thân.
Nhân tướng của
hành thọ là sự tăng giảm hoạt dụng cảm nhận, cảm
giác, khinh an, hỷ
lạc, thanh thản, thoái mái, hoặc đau nhức, khó chịu và sự rung động trong nội
ngoại của thân.
Muốn áp dụng
sự tu tập nhân tướng nội, ngoại,
hành của thọ
vào Tứ Niệm Xứ bằng Định
Vô Lậu như
trong kinh Phật
đã dạy: “Tìm một nơi vắng vẻ, ngồi
kiết già lưng thẳng, khởi niệm tư duy: Các hành cảm nhận và cảm giác hỷ lạc,
khinh an và đau khổ là vô thường, cái gì
vô thường là cái
đó có
khổ, nó không
có thật và
nó là vô
ngã,
nó không phải
là ta, không
phải của ta, không phải
bản ngã của ta.
Vì thế, tất cả cảm nhận và cảm giác của hành
thọ nội ngoại không phải là một pháp có thật, ta đừng sợ hãi
và lo lắng,
đừng để tâm dao động trước các hành thọ,
ta phải xem nó như
một chiếc áo
rách bỏ, một
vật không có giá trị, một món đồ vô dụng”.
Muốn áp dụng
pháp hướng tâm trên nhân tướng nội, ngoại, hành của thọ vào Tứ Niệm Xứ
trong ba
loại định: Chánh
Niệm Tĩnh Giác Định,
Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu
bằng câu pháp hướng tâm
như: “Các cảm thọ nội ngoại hành hỷ lạc, khinh an, đau khổ,
nhức nhối, khó chịu hãy
đi! Đi! Rời khỏi
nơi đây”, hoặc: “Thọ là vô thường, khổ đau, vô ngã, không thật có, hãy đi! Rời
khỏi nơi đây, không được ở đây,
đi cho khỏi!
Cút cho mất!” v.v..
NHIẾP PHỤC VÀ PHÁ THƯ
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Vậy phải
tu như thế nào để khắc phục và
phá thọ?
Đáp: Muốn
nhiếp phục và phá thọ (xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh
tịnh) thì phải tịnh
chỉ hơi thở, trước
khi muốn tịnh chỉ
hơi thở thì phải
tu tập tâm ly
dục ly ác pháp,
khi tâm đã ly dục ly ác
pháp, thì tâm đã
thanh tịnh mới dùng
pháp hướng xả lạc, xả
khổ, xả niệm thanh
tịnh, tức là tịnh chỉ
thân hành, nhờ đó
sẽ nhiếp phục và phá thọ dễ dàng.
Nói như vậy,
nghe thì rất dễ, nhưng phải biết, đó là một công trình tu tập vĩ đại,
nếu không biết pháp
hành thì khó mà nhiếp phục các thọ.
Một người có
tâm tha thiết cầu đạo giải thoát mà không
đủ niềm tin ở
một vị Thầy
có kinh nghiệm, thường có tính ngã mạn xem thường Thầy, không chịu nghe
lời dạy bảo, tu hành theo ý của mình
thì chẳng đời nào vị
Thầy ấy sẽ đem hết kinh nghiệm dạy cho người học trò bướng bỉnh.
Một vị Thầy có kinh nghiệm dạy đạo, không bao giờ
dạy bừa bãi, chọn người học
trò có đức hạnh, có tình, có nghĩa mới dạy, còn những học trò thiếu đạo
đức không tình, không nghĩa thì vị Thầy ấy chỉ dạy những điều tầm thường và
không bao giờ đem những
bí quyết dạy cho những người đệ tử này. Nếu có dạy cho những người đệ tử
vong ân, bội nghĩa này, khi thành
tựu họ sẽ hại lại vị Thầy
và còn mang đến cho xã hội loài người một tai nạn rất
lớn.
Chính vì tâm
tham vọng của họ còn dẫy đầy, nếu họ có thần thông siêu việt thì loài người sẽ
điêu đứng, cho nên vị Thầy có kinh nghiệm không bao giờ dạy cho những người đệ tử thiếu đạo đức, thiếu
lòng tôn kính Thầy như Tứ Thánh Định và
Tam Minh.
Một vị Thầy
có đức hạnh, có những bí quyết siêu việt,
thì họ luôn luôn dạy đạo đức
cho đám đệ tử trước tiên, nếu người học trò nào có đầy đủ đạo đức thì mới truyền
dạy những bí quyết siêu việt,
còn bằng không
thì chẳng bao giờ hé môi.
Từ khi tu
viện Chơn Như tiếp nhận đệ tử hơn cả
trăm người nam
có, nữ có, thế mà tìm
một người có đức hạnh
trọn vẹn lại
không có, dạy đạo đức thì họ
không nghe không
thực
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!