Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT TẬP 6 -4



hành, cứ mãi mê thiền định, trăm người như một.  Đời  đã  thiếu  đạo  đức  mà  dạy đạo đức  thì họ không học, chỉ đi tìm cái siêu việt của thiền định, nhưng  đạo  đức  không  có  thì làm  sao có được  cái  siêu  việt  của  thiền  định.  Tâm  con người còn tham vọng quá lớn làm sao theo đạo Phật tu hành cho được. Người ta đâu hiểu rằng đạo  Phật  ra đời  là  đem  lại  một  nền  đạo  đức giải  thoát  cho con người,  chứ  không  phải  đem lại cái siêu việt thiền định cho họ. Vì thế, họ đi tìm cái siêu việt chẳng bao giờ có, khi họ là người  không  có  đạo  đức.  Nhưng  khi con người có  đạo  đức  thì cái  siêu  việt  thiền  định  của  đạo Phật  mới  có, dù  họ  không muốn, nó  vẫn có. Vì thế giáo pháp của Phật lấy đức hạnh làm đầu “Giới   luật”.   Giới   tức  là   đức  hạnh  của  đạo Phật, thế  mà  tu  sĩ  đạo  Phật  thời  nay xem giới luật quá rẻ, nên đạo đức chẳng ra gì.
Con người thời nay tu hành chỉ đi tìm cái mơ mộng không thiết thực, còn cái tu hành có đạo  đức,  ích lợi  và  thiết  thực  cho đời  sống  của mình  và  đời  sống của người  khác  thì họ  chẳng thèm tu.
Con người  nhờ  có  tu  hành  đạo  đức  nhân quả  thì mới  có  những  hành  động  sống  giải thoát, không còn khổ  đau nữa, chứ  không phải
 đạt   được   những   thiền   định  và   những   thần thông  siêu  việt  hoặc  cầu  cạnh  Thần,  Thánh, chư Phật, Chư Bồ Tát để gia hộ cho họ hết khổ, đó  là  một  điều  mơ mộng  không  thiết  thực,  cụ thể.  Cho  nên,  hiện  giờ  người  tu  hành  không giải  thoát  là  vì  tu  không  đúng  chánh  pháp “Giới, Định, Tuệ”.

NHÂN TƯỚNG CßA NÜI TÂM
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Thế  nào  là  nhân tướng  nội  của  tâm?  Ngoại  của  tâm?  Hành  của
tâm?

Đáp: Nhân tướng nội của tâm là những niệm vi tế. Nhân tướng ngoại của tâm là những niệm  thô  phù.  Hành  tướng  của  tâm  là  sự  đối phó với các pháp trong hiện tại, câu hữu với tưởng về quá khứ và vị lai. Nếu trả lời đơn giản như vậy thì các con rất khó hiểu.
Nhân tướng nội của tâm là những niệm vi tế như thế nào?
 Bây  giờ,  chúng  ta  giải   thích  từng  chữ, nhân tướng nội  của tâm là  gì?  Nhân tướng nội của  tâm  là  những  hình   tướng  của  tâm  khởi hiện bên trong thân.
Niệm  vi tế  là  gì?  Niệm  vi tế  là  những niệm khởi lên trong đầu chúng ta, phản ảnh được  tâm  trạng  của  chúng  ta  trong  cuộc  sống sinh hoạt hằng ngày, thể hiện trong hai thời gian:  quá  khứ  và  vị  lai.  Mỗi  niệm  khởi  lên mang theo tính chất thiện hoặc ác. Thiền Đông Độ gọi là niệm thiện niệm ác, kinh sách Đại Thừa  gọi   là   vọng  tưởng,   kinh  sách  Nguyên Thủy gọi là nhân tướng nội của tâm, còn có một danh từ  nữa gọi là  Tầm. Nói  cho dễ  hiểu đó là những vọng tưởng sanh khởi liên tục trong tâm của chúng ta.
Nhân   tướng   ngoại   của   tâm   là   gì?   Là những tướng trạng khởi lên trong đầu chúng ta đang giải  quyết  một  vấn  đề  gì trong  hiện  tại. Kinh sách Đại Thừa gọi là vọng tưởng, Thiền Đông Độ  gọi là  niệm  thiện niệm  ác, kinh sách Nguyên Thủy gọi  là  nhân tướng ngoại  của tâm hay còn gọi là tác ý hoặc gọi là Tứ.
Hành tướng của tâm là gì?

Hành tướng của tâm có hai sự hoạt động trong thân chúng ta:
 1-  Là  sự  tự  sanh  khởi  của  tưởng  thức, không do ý thức tác ý.
2- Là sự tác ý, do ý thức chủ động điều khiển  quán  xét,  tư  duy,  không  do tưởng  thức xen vào.
Kinh sách  Đại  Thừa  và  Thiền  Đông  Độ, khi tu  thiền  thì không  chấp  nhận  hai  trường hợp trên đây, vì thế họ đi vào sự ức chế tâm để thực  hiện các loại  định tưởng. Ngược lại, thiền định của kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy: “Ngăn và diệt niệm ác, sanh khởi và tăng trưởng niệm thiện và còn luyện tập pháp như  lý tác ý để trở thành một đạo lực siêu việt  làm  chủ  sự  sống  chết  và  chấm  dứt luân hồi”.
Đức  Phật  đã   biết  dùng  pháp  hướng  tâm “Như  lý  tác  ý”  rất  là  tuyệt  vời,  nhờ  pháp  đó mà  Ngài mới làm chủ bốn sự  khổ đau của kiếp con người. Trên thế gian này Ngài là người duy nhất làm chủ bốn sự đau khổ sanh, già, bệnh, chết  qua bốn  câu  kệ  của  Ngài  đã  xác  minh  cụ
thể:

“Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn.
Nhất thiết thế gian,
Sanh, lão, bệnh, tử”.
Tóm lại, đức Phật đã biết dùng vọng tưởng và tác ý để xả tâm ly dục ly ác pháp, để thành tựu đạo giải thoát, để ra khỏi nhà sanh tử luân hồi, để đầy đủ  Tam Minh trở thành người siêu việt và nhất là đức Phật đã  trở thành một nhà đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người, phi giai cấp.

NGĂN ÁC DIT ÁC
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Phải  tu  như  thế nào  để  phá  cái  tâm  bất  thiện  và  khắc  phục được nó?

Đáp: Đừng để thất niệm thiện trong Định Niệm Hơi Thở và Chánh Niệm Tĩnh Giác là đã phá cái tâm bất thiện, còn nếu muốn khắc phục tâm bất thiện thì nên tu Định Vô Lậu. Nói một cách  dễ  hiểu  hơn, muốn phá  cái  tâm  bất  thiện thì phải  tu  tập  Tứ  Chánh  Cần,  ngăn  ác  pháp, diệt ác pháp, sanh khởi thiện pháp và tăng trưởng  thiện  pháp.  Đó  là  con  đường  tu  tập
 thiền định của đạo Phật chân chánh, mà không giống bất cứ một loại thiền định nào của ngoại đạo trên thế gian này.
Con đường tu tập thiền định của đạo Phật không phải ngồi thiền ức chế vọng tưởng, cũng không phải giữ tâm không niệm thiện niệm ác; cũng không phải niệm Phật mà thành định; cũng không phải tham công án, tham thoại đầu mà có định; cũng không phải bắt ấn niệm chú mà thành định. Định là do tâm bất động trước các pháp, muốn có định tâm bất động trước các pháp  thì chỉ  có  tu  “Tứ  Chánh  Cần”,  tức  là pháp  môn  ngăn  ác  diệt  ác  pháp.  Muốn  thực hiện  Tứ  Chánh  Cần  được  trọn  vẹn  thì phải  tu tập  “Tứ  Niệm  Xứ”,  muốn  thực  hiện  Tứ  Niệm Xứ  để  khắc  phục  tâm  tham  ưu ở  đời,  thì suốt ngày đêm phải thực hiện ba loại định:
1-        Chánh Niệm Tĩnh Giác Định.
2-        Định Niệm Hơi Thở.

3-        Định Vô Lậu.

Ba loại  định này sẽ  thực  hiện cộng chung với  đời  sống  giới  luật  nghiêm  túc  và  hạnh  độc cư thì quý  vị  sẽ  đạt  được  tâm  bất  động  trước các  ác  pháp, tức là  quý  vị nhập  “Bất Động  Tâm Định”.
 Bất  động tâm định là một loại thiền định rất cần thiết và lợi ích cho cuộc sống con người trên hành tinh này, nó có một sức tĩnh thức tuyệt vời nhìn  thấu suốt lý nhân quả trong các pháp, nên người  nào  đã  thực  hiện được, đều có một  đạo  đức  nhân  bản  không  làm  khổ  mình, khổ  người.  Nhưng  muốn  có  một  đạo  đức  như vậy  thì cần  phải  trau  dồi  rèn  luyện  thân  tâm trong giới luật và Tứ Chánh Cần, không phải trong  một  giờ,  một  ngày  mà  có  được,  mà  phải có thời gian rất dài.
Tóm lại, Bất động tâm định là một pháp môn thiền định, kết quả của sự ngăn ác và diệt ác pháp rất tuyệt vời mà không có một pháp môn  nào  hơn  được.  Đó  chính  là  mục  đích  của đạo Phật, là  mục  tiêu  mà  người  tu  sĩ  đạo Phật cần phải nhắm đến.


 NHÂN TƯỚNG
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Thế  nào  là  nhân tướng nội, nhân tướng ngoại và hành tướng của các pháp?
Phải  tu như  thế  nào để khắc  phục và phá các pháp bất thiện?
Đáp:   Nhân  tướng  nội   của  các  pháp   là hình   trạng  và   tính  chất  bên  trong  của  các pháp.  Trả  lời  như  vậy  khiến  cho quý  vị  khó hiểu. Vậy nhân tướng là gì? Nội là gì? Ngoại là gì? Và các Pháp là gì?
Nhân  tướng  là  hình  tướng  của  nó,  ví  dụ: Cây  có  hình  tướng  của  cây,  cỏ  có  hình  tướng của  cỏ.   Hình   tướng  của  cây  không  thể  nào giống hình tướng cỏ; hình tướng của cái nhà không  thể  nào  giống  hình  tướng  của  cái  bàn được.
Nội  là  bên  trong;  ngoại  là  bên  ngoài.  Ví dụ: Bên trong của một thân cây là giác và lõi; bên ngoài của thân cây là vỏ.
Các pháp nghĩa là tất cả vạn hữu trên thế gian này có hình  tướng hoặc không hình  tướng,




nói  cho dễ  hiểu  là  vạn  vật  trong  thế  gian.  Ví dụ:  thân  ta là  một  pháp, cái  nhà  là  một  pháp, bàn,  ghế,  tủ,  giường,  cây,  cỏ,  rừng,  núi,  sông, rạch v.v.. mỗi thứ là một pháp.
Mỗi  pháp  đều  có  hình  tướng  và  tính chất riêng  của  nó.  Ví  dụ:  cây  có  hình   trụ  thẳng đứng,  cao, tính chất  của  nó  cứng.  Cỏ  có  hình tướng thấp, ngả nghiêng, tính chất nó mềm yếu
v.v…

Nhân  tướng  nội  của  bên  trong  thân  là:
tim, gan, phèo, phổi, mật, lá lách v.v..

Nhân tướng ngoại của thân là: da, lông, tóc, móng tay, móng chân v.v..
Hành tướng của các  pháp  là sự rung động của các pháp.
Muốn   khắc   phục   và   phá   các   pháp   bất thiện thì phải tu tập tâm bất động trước các pháp như Thầy đã dạy ở trên.
Tuy  nhiên,   Thầy  đã   dạy  quý  Thầy  rất nhiều  về  pháp  môn ngăn ác  và  diệt  ác  rất  đầy đủ, nếu quý Thầy chỉ cần hiểu rõ sự ích lợi của nó  thì các  ác  pháp  không  xâm  chiếm  vào  tâm của quý vị được, ngay đó quý vị có một đời sống giải thoát hoàn toàn, đầy đủ hạnh phúc, an vui mà không tìm nơi đâu có được.
 Nếu quý Thầy biết rằng, thiền định mà có được là do tâm bất động, chứ không phải do có thiền định rồi  tâm  mới  bất  động sau. Tâm  bất động là nhờ giới luật chứ không phải nhờ thiền định.
Bởi,  nhìn   sự  tu  hành  của  quý  Thầy  mà biết được sự tu sai hay tu đúng, có kết quả hay không  có  kết  quả,  có  giải  thoát  hay  không  có giải  thoát.  Chỉ  vì pháp  môn  tu  hành  của  Phật dạy rất  rõ, phải  tu  tập  đạo  đức  trước  tiên, nhờ có  đạo  đức,  thiền  định mới  không  lầm  lạc  vào tà thiền, tà định.
Người tu thiền định, sống không đúng giới luật, không có đạo đức là người tu tà thiền, tà định, chẳng  bao giờ  có  kết  quả  giải  thoát,  họ chỉ là những vị Thầy lừa đảo tín đồ bằng miệng lưỡi.

ĐẶC TƯỚNG
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa Thầy! Thế nào là đặc tướng  của  thân,  thọ,  tâm,  pháp?  và  pháp  tu
 chứng  như   thế   nào   đối   với   thân,   thọ,   tâm, pháp?
Đáp: Đặc tướng là tướng riêng biệt của thân, thọ, tâm, pháp của mọi người.
Người  tu  theo  đạo  Phật  phải  tùy theo  đặc tướng của mình,  thì sự tu tập mới có kết quả nhanh  chóng,  không  theo  đặc  tướng  của  mình tu tập thì kết quả khó thành tựu.
Đặc tướng còn gọi là khả năng riêng biệt của mọi người, không phải trời phú cho, mà do họ khéo huân tập trong nhiều kiếp.
Ví dụ: Một người nghe đức Phật thuyết pháp  xong thì chứng  quả  Tu Đà  Hoàn,  có  đầy đủ pháp nhãn, nhưng lại có người cũng nghe thuyết pháp xong mà tật nào vẫn còn tật nấy, không bỏ được.
Cuộc đời hành đạo của Thầy, Thầy đã đem chánh pháp  của Phật ra nói  khan  cả  cổ, chỉ  có một pháp  duy nhất  là  nhìn  cuộc  sống bằng đôi mắt nhân quả để tâm ly dục ly ác pháp là đem lại  sự  giải  thoát  cho mình  cho người. Một cuộc sống hạnh phúc vô cùng vô tận, thế mà mọi người  ai  cũng  nghe  và  cũng  thấy  biết  rõ  ràng như vậy, nhưng bỏ ác pháp và ly dục thì chẳng ai bỏ được, cứ mãi ôm ấp trong lòng để mà khổ,
 mà đau, mà phiền não, mà tức giận  v.v.. Nhiều khi Thầy tự  đặt câu  hỏi:  “Tại  sao  vậy?  Tại  sao vậy???”.
Đấy cũng là đặc tướng của mỗi con người chúng  ta  biết  làm  sao hơn!  Khi tu  hành  Thầy chỉ nhận ra ý này của Phật mà buông xả xuống hết chỉ trong vòng sáu tháng là thành tựu Tứ Thánh  Định và  Tam Minh  một  cách  cụ  thể  và rõ ràng, thế mà chẳng ai tin.
Nếu  một  người  không thành tựu  được  như vậy   thì  đời   sống   giới   luật   không   bao  giờ nghiêm  túc  và  không  bao  giờ  bất  động  tâm trước các pháp.
Người ta đánh giá trị của một tu sĩ ở đức hạnh,   chứ   không  phải   đánh  giá  trị  ở  thần thông và thiền định. Đức hạnh sanh thiền định và thần thông, chứ thiền định và thần thông không  sanh đức  hạnh,  nói  cách  khác  cho đúng như  lời  đức  Phật  đã   dạy:  “Giới  sanh Định, Định  sanh Tuệ”, chứ đâu có Tuệ sanh Định, Định sanh Giới.
Đặc tướng tốt hay xấu đều do nhân quả huân tập nhiều đời nhiều kiếp mà thành, chứ không phải huân tập trong một sớm một chiều mà  có  được. Cho nên, người có  tài  ba lỗi  lạc  là do sự  huân tập  nhiều  đời  nhiều kiếp, cũng như
 người  tu  nhanh  chậm.  Nếu  chúng  ta  nói  rằng mình  tu chậm thì bỏ cuộc tu, tức là không huân tu  nữa  thì như  vậy  đặc  tướng  của  chúng  ta  sẽ xấu  và  cuộc  đời  sẽ  trôi  lăn  trong  sáu  nẻo  luân hồi  chịu  khổ  đau mãi  mãi.  Người  ta  tu  nhanh là nhờ  người ta tu nhiều kiếp rồi, còn mình  tu chậm  là  do mình  mới  tu  trong  kiếp này  mà thôi.  Chính  đó  là  đặc  tướng  của  mỗi  người.  Vì thế càng tu chậm lại càng tu tập nhiều hơn; càng tu chậm lại càng tu tập kỹ hơn.

THƯ HÀNH
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Trong  quá  trình tu  tập  bị  thọ  hành  quấy  nhiễu  thì  dùng  pháp gì để  đoạn diệt  nó?  Có  ai  trong quá  trình tu tập mà không bị thọ hành không?
Đáp:  Gặp  thọ  hành  phải  giữ  độc  cư trọn vẹn, phải gan dạ đừng sợ hãi, phải đầy đủ nghị lực dũng  cảm và dùng pháp hướng tâm để đẩy lui  các cảm thọ  đó,  trong quá  trình tu tập  mọi
 người  ai  cũng  gặp  thọ  hành  nhưng  tùy  nghiệp nặng nhẹ mà thôi.
Thọ hành do tu tập sai mà thành bệnh, vì thế khi bị thọ hành thì chúng ta phải quán xét lại  sự  tu  tập  của  mình  xem coi  tu  sai  chỗ  nào, để rồi chỉnh lại.
Quý  Thầy nên lưu  ý, khi đức  Phật  đã  dạy tu hành thì Ngài đã nhắc nhở chúng ta: “Pháp của  ta,   đến   để  mà   thấy,   không  có  thời gian”. Do lời dạy này khi tu tập bị thọ hành là chúng  ta  biết  đã  tu  sai,  phải  mau mau sửa  lại. Khi tu  tập  cảm  giác  thấy  toàn  thân  thoải  mái dễ chịu, cảm giác toàn tâm an lạc, thanh thản, vô sự thì đó là tu đúng còn ngược lại là tu sai.
Pháp Phật tu hành rất dễ nhận xét sai đúng,  như pháp  xả  tâm,  Tứ  Chánh  Cần  ly dục ly ác pháp, khi tiếp duyên ra gặp đối tượng mà tâm  sanh sân hận, tức  giận, phiền não, dữ  tợn thì đó là ức chế tâm không phải xả tâm, nếu có sự giảm bớt sân hận trong lòng là có ức chế và có  xả  tâm,  nếu  hoàn  toàn  gặp  đối  tượng  mà tâm vẫn thản nhiên, thanh thản, an lạc, không có  một  chút  phiền  não  nào  thì đó  là  xả  tâm sạch.
Người xả tâm sạch ác pháp là người giải thoát;  là  người  đi  trong  đạo  lộ  của  Phật;  là
 người  có  chánh  định,  tâm  hồn  đang  ở    trong thiền  thứ  nhất;  là  người  sẽ  có  đầy  đủ   Tam Minh, Lục Thông; là người đã  làm chủ sanh tử luân hồi, chấm dứt sự tái sanh, làm chủ hoàn toàn cuộc sống. Đó là làm một cuộc cách mạng đòi  lại  quyền  làm  chủ  sự  sống  chết  của  kiếp con người.

MỤC LIÊN THANH ĐỀ
Câu hỏi của một  cư  sĩ miền Bắc
Hỏi: Kính thưa  Thầy! Câu chuyện Mục Liên, Thanh  Đề có phải là sự báo hiếu của Đạo Phật  hay  không?  Báo  hiếu  như  vậy  có  đúng hay  không?  Xin  Thầy  chỉ  dạy  cho chúng  con được rõ.
Đáp: Kinh Vu Lan  Bồn là kinh sách phát triển của Đại  Thừa,  xây dựng đạo lý  của mình trên hình  thức cứu độ, kinh khéo léo dùng  tập thể  cứu  độ  để  đánh  lừa  người  khác,  mạo  nhận là  Phật  dạy  để  không  ai  truy tìm sự  lừa  đảo này được.
 Như  chúng  ta  đã  biết,  đức  Phật  đã  từng dạy chúng ta: “Các  con tự  thắp  đuốc  lên  mà đi”. Giáo  pháp  của  Ngài  được  xây  dựng  trên nền  tảng  “Đạo  đức  nhân  quả”,  thì không  có lý  nào  đức  Phật  lại  dạy một  điều  phi  đạo  đức, phi nhân quả như vậy sao?
Chúng ta phải xem xét lại coi những loại kinh sách phát triển này, chứ đừng vội tin.
Đạo đức nhân quả là một thứ đạo đức được xây dựng trên sự công bằng, công lý và bình đẳng với một trí tuệ vô hạn, thấu suốt được mỗi hành động của con người làm thiện hay làm ác.
Vì  xây  dựng  tôn  giáo  của  mình  trên  một nền  đạo  đức  công  lý,  công  bằng  và  bình  đẳng cho  mọi  người  như  vậy,  nên  trên  đầu  Ngài chẳng  có  ai  là  Thầy của mình,  chẳng có  ai  cứu độ  cho mình  được,  chỉ  có  sức  tự  lực  và  trí tuệ của mình  mới cứu  mình  thoát ra cảnh đau khổ của kiếp làm người đang bị luân lưu trong vòng nhân quả luân hồi.
Ngài  đã   tự  cứu  mình   bằng  những  giáo pháp  mà  Ngài  tự  tìm ra được. Giáo  pháp đó là một  thứ  giáo  pháp  rất  thực  tế  và  cụ  thể,  mà mỗi pháp môn đều có cách thức tu tập trực tiếp đối trị lại từng tâm niệm ác và sự đau khổ của
 con  người  trong  cuộc  sống  để  vượt  thoát  ra khỏi.
Một  giáo  pháp  không  có  hình  ảnh,  lý  và sự  mơ  hồ,  trừu  tượng,  không  có  sự  cầu  khẩn, van  xin,  cứu  độ;  không  có  sự  cúng  bái,  tụng, niệm và chú thuật v.v..
Một   giáo   pháp   không   có   thế   giới   siêu hình,  không  có  linh hồn  người  chết.  Không  có đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, không có đấng Tạo Hóa, không có thần linh và cũng không có ma, quỷ v.v..
Một   giáo   pháp   chỉ   dạy   cho  chúng   ta, những  gì cần  dứt  bỏ  thì phải  dứt  bỏ,  những  gì cần  tu  tập  thì phải  tu  tập,  những  gì cần  trau dồi  thì phải  trau  dồi  và  những  gì  cần  thông hiểu thì phải thông hiểu.
Người nghiên cứu và có thực hành giáo pháp  của  đức  Phật  thì không  thể  nào  bị  người khác lừa đảo bằng những pháp tà giáo, ngoại đạo. Chỉ có những người chưa từng nghe đến giáo  pháp  của  đức  Phật  thì dễ  bị  kẻ  khác  mạo nhận pháp môn tà giáo là của Phật.
Vì giáo pháp của đạo Phật không có một giáo pháp nào của ngoại đạo tương đồng được. Giáo  pháp  của  Ngài  là  giáo  pháp  “xả,  ly”,  với
 một pháp hướng tâm “Như  lý tác  ý”  tuyệt vời, với mục đích khiến cho tâm con người bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Giáo pháp của Ngài chỉ có tự lực cứu mình, còn  giáo  pháp  của  ngoại  đạo  thì nhờ  đến  tha lực cứu mình.  Do thế, ta nhận ra giáo pháp của Phật một cách rất dễ dàng không có khó khăn, vì một bên là tự lực và một bên là tha lực.
Vì thế, câu chuyện Mục Kiền Liên và Bà Thanh   Đề,  ta  thấy  rõ  đó  là  giáo  pháp  của Ngoại đạo đang lồng trong giáo pháp của đạo Phật,  mượn  danh  đức  Phật  để  lừa  gạt  tín đồ Phật  giáo  theo  đạo  của  mình  mà  không  nghi ngờ. Đó là cái khéo léo của Đại Thừa Giáo và Thiền Đông Độ.
Kinh sách Đại Thừa, người ta đọc rất hấp dẫn do sự diễn đạt qua hình  thức cấu kết giống như  tiểu  thuyết  và  giàu  sức  tưởng  tượng  theo kiểu thiền Đông Độ.
Mục Liên đi theo Phật tu hành chứng quả giải  thoát  đắc   Lục  thông.  Mẹ  là  Thanh   Đề, trước kia sùng kính  Phật pháp, cúng dường trai Tăng tứ sự đầy đủ, sau khi Mục Liên bỏ nhà đi tu, bà tức giận làm bánh nhân thịt chó để thử thách chúng Tăng, nên bị tội đọa địa ngục ngạ quỷ.
 Mục   Liên   chứng   đắc   thần   thông   dùng thiên  nhãn  thấy  mẹ  mình  đang  đọa  địa  ngục ngạ  quỷ,  đói  khát  vô  tận.  Thương  mẹ  Ngài dùng thần thông xuống địa ngục thăm và mang theo  một  bát  cơm cho mẹ.  Thanh  Đề  đang đói khát  thấy  cơm  bà  đón  nhận  và  bốc  ăn  liền, nhưng   không  thể   ăn  được,   vì  cơm  đã   cháy thành than.
Mục Liên thấy mẹ thọ lãnh quả khổ đói khát  như  vậy,  muốn  ăn  mà  ăn  chẳng  được, chẳng biết làm cách nào cứu mẹ được, nên Ngài trở về bạch với đức Phật và mong nhờ đức Phật chỉ giáo cứu mẹ mình.
Đức Phật bày vẽ: “Trong mùa an cư kiết hạ,  chúng  Tăng  đang   tu  học  thân,  tâm thanh tịnh, ngày rằm tháng bảy là ngày giải hạ, nên cung thỉnh chư Tăng cúng dường trai phạn tứ sự, nhờ ơn công đức tu hành của các Ngài hợp lại thành một sức mạnh to lớn, với công đức nầy có thể mới cứu mẹ Ngài thoát cảnh địa ngục”.
Mục  Liên  vâng  lệnh  Phật  làm  y  như  lời dạy, mẹ Ngài thoát cảnh địa ngục.
 Qua sự tích này đã biến ngày rằm tháng bảy trở thành một phong tục trong dân gian, ngày báo hiếu, ngày xá tội vong nhân v.v..
Câu  chuyện  Mục  Liên  Thanh  Đề  là  một câu chuyện phi đạo đức trong Phật giáo Đại Thừa. Một câu chuyện được dựng lên trong thời đại  phong kiến,  lúc  vua quan chuyên  ăn lo  hối lộ,  mua  quan  bán  chức,  làm  những  điều  bất công, không công bằng, công lý.
Đạo Phật Nguyên Thủy chủ trương tự độ không  cầu  tha  lực  độ  mình.   Cầu  tha  lực  độ mình là giáo pháp của ngoại đạo, là của Phật giáo phát triển Đại Thừa như trên chúng tôi đã nói. Đó là một thứ giáo pháp phi đạo đức, phi nhân quả, không công bằng và công lý.
Đọc  chuyện  Mục  Liên Thanh  Đề  chúng ta thấây đạo Phật tổ chức  giống như chế  độ  phong kiến không khác chút nào. Ăn lo hối lộ với những  danh  từ  rất  cao  thượng:  “Độ   chúng sanh”.
Cha mẹ làm tội ác bị nhà vua bắt giam cầm, tù tội, con thi cử làm quan, không cứu cha mẹ  được  vì  tội  quá  nặng,  nên  phải  nhờ  những vị  quan lớn  khác  bằng  cách  phải  lo  lót  hối  lộ, (Trai tăng cúng dường tứ sự). Nhờ có lo lót như
 vậy,  bà  Thanh  Đề  mới  thoát  cảnh  tù  tội  A Tỳ
Địa Ngục.
Đối  với  một  tôn  giáo  lớn  như  Phật  giáo Đại Thừa mà còn có hình  thức ăn lo, hối lộ như vậy  thì trên  đời  này  còn  có  nghĩa  lý  gì là  đạo đức công bằng và công lý; còn có nghĩa lý gì gọi là đạo đức nhân quả không làm khổ mình,  khổ người; còn có nghĩa lý gì là mang danh là tôn giáo  khi dạy tín đồ  làm  điều  phi  đạo  đức  như
vậy.

Nếu trên thế gian này không có một đạo luật  nhân  quả  thì loài  người  đừng  nói  đến  hai chữ  công bằng và  công lý. Vì không bao giờ có công  bằng  và  công  lý  khi mà  không  có  luật nhân quả. Không có một đấng Vạn Năng hay một  đấng  Tạo  Hóa  hoặc  một  Đức  Chúa  Trời hoặc một Ngọc Hoàng Thượng Đế nào cầm  cán cân công bằng và công lý cho loài người này được, chỉ có luật nhân quả mới giữ vai trò công bằng và công lý này mà thôi. Vì nhân quả là do hành động của mọi  người  tự làm tội hay vô  tội đều chính  nơi họ, cho nên luật nhân quả chính là con người tạo ra, để xử phạt hay ban thưởng chính  lại  họ, chứ  không có  một kẻ thứ  hai  nào khác  thưởng phạt. Vì thế,  nó  rất  công bằng và công  lý,  không  ai  lo  lót  và  hối  lộ  nó  được.  Kẻ
 nào  làm  ác  thì phải  thọ  lấy  quả  khổ,  kẻ  nào làm thiện thì hưởng được phước báo.
Sau khi tu  hành chứng đạo, đức  Phật  dẫn tâm  đến  Lậu  Tận  Minh,  Ngài  đã   thấy  luật nhân quả  rất rõ ràng, công bằng và công lý  vô cùng, cũng vì luật  nhân quả  có công bằng công lý  như  vậy,  nên  con người  phải  chịu  trôi  lăn trong  sáu  nẻo  luân  hồi  thọ  biết  bao nhiêu  sự đau  khổ  từ  kiếp  này  đến  kiếp  khác,  đều  do chính hành động nhân quả của họ.
Ở  trên đời người ta có tiền, có thế lực, thì người ta có thể mua được tội lỗi, nhưng với luật nhân quả thì không thể mua tội được. Trải qua một thời gian dài từ chế độ bộ lạc mãi nô đến chế  độ  phong  kiến  đã   chứng  minh  điều  này “Đa  kim ngân  Phá  luật  lệ”.  Và mãi sau này dù cho bất cứ một chế độ nào thì sự công bằng và công lý sẽ chẳng thực thi được trọn vẹn.
Dưới chế độ phong kiến, con cháu của vua quan có  làm  tội  giết  người,  cướp  của  vẫn  ung dung phe phẩy  tự  do mà  không  ai  làm  tội  làm tình được, pháp  luật  đối  với  những hạng  người này như bắt cóc bỏ dĩa.
Cho nên, Đại Thừa Giáo là một tôn giáo bị “thế tục phong kiến hóa”  với sự lý luận vụng về  để  lộ  chơn  tướng  thế  tục:  “Khi  chư Tăng
 chấp nhận thọ dụng trai Tăng và tứ sự cúng  dường  thì hợp  lại  công  đức  tu  hành của mình thành một công đức vô lượng, công  đức  đó  sáng  chói  như  ngọn  đuốc  trí tuệ khiến cho tâm bà Thanh Đề giác ngộ nên  bà   mới   thoát   khỏi   địa  ngục”.   Đó  là hình  thức  ăn lo  tập thể của chế độ  phong kiến mà Phật giáo Đại Thừa đã bị đồng hóa.
Đó là cách lý giải không chân thật của các nhà  Đại  Thừa khéo  che đậy lừa đảo  những  tín đồ mê tín, vô minh, chứù không thể nào che đậy với  những  người  đệ  tử  của  Phật  đã  được  trang bị đạo đức nhân quả. Vì giáo pháp của đức Phật dạy  rõ  ràng,  cụ  thể,  người  tu  sĩ  phải  lấy  đức hạnh (giới luật) làm đầu. Chỉ có đạo đức nhân quả  thì mới  có  công  bằng,  công  lý  và  từ  bi  đối với mọi người mọi loài chúng sanh. Và vì thế, không  thể  nào  có  sự  gian  xảo  lừa  đảo  dối  trá theo  kiểu  dạy  của  kinh  sách  Đại  Thừa  như
trên.

Bài kinh Vu Lan  Bồn chỉ gạt những người chưa hiểu  giáo  lý  chân chánh và  đạo đức nhân quả của đạo Phật. Bài kinh Vu Lan hôm nay đã trở thành một sự lừa đảo có sách vở và đã trở thành  một  truyền  thống  báo  hiếu  vô  đạo  đức
 trong  lòng  tín đồ  Phật  Giáo  Việt  Nam  hơn  cả nghìn  năm mà không ai phát giác ra được.
Mùa  Vu Lan!  Mùa  báo  hiếu!  Những  danh từ  này  đã  lặp  đi lặp  lại  trong  lòng  người  Phật tử  hiếu  hạnh  Việt  Nam,  nhưng  mấy  ai  đã  biết sự hiếu hạnh này là phi  hiếu hạnh, là sự bị lừa đảo. Hằng năm người Phật tử đã tốn biết bao nhiêu  tiền  của  trong  mùa  Vu  Lan!  Mùa  Báo hiếu!  Một  việc  làm  chẳng  ích lợi  gì cho những người thân thương quá cố của mình,  chỉ có làm lợi ích cho các nhà sư Đại Thừa mà thôi.
Nếu mọi người ai cũng đều thông hiểu đạo đức  nhân  quả  của  đạo  Phật  thì những  kinh sách phi đạo đức của Đại Thừa không thể lường gạt  họ  được  như: Vu Lan  Bồn kinh, Phẩm  Phổ Môn trong bộ Diệu Pháp Liên Hoa kinh, Di Đà kinh, Bát Dương kinh, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Duy Ma Cật kinh vv... Đó là những loại kinh sách phi đạo đức, phi chân thật, phi Phật pháp, nó  không  triển  khai  tri kiến  giải  thoát  và  tri kiến  đạo  đức  nhân  quả,  nó  khiến  cho trí tuệ con  người  u  mê,  vô  minh,  đen  tối,  liệt  tuệ thường sống với sự hiểu biết mơ hồ, trừu tượng, mê  tín của  thế  giới  siêu  hình  tưởng,  nó  dạy người  làm  những  việc  thiếu  đạo  đức  và  thiếu
 chân  thật,  thường  cúng  tế,  cầu  cạnh,  van  xin,
gia  hộ, hộ trì v.v…
Với lòng đại từ, đại bi của chư Phật và chúng  Thánh  Tăng,  theo  như  trong  kinh Vu Lan  Bồn  đã  dạy  ông  Mục  Kiền  Liên  cứu  mẹ. Giả thuyết, nếu làm được như vậy thì tất cả chúng Tăng và  đức  Phật  tập  trung công đức  tu hành  giải  thoát  của  mình  lại  thành  một  công đức vô lượng vô biên như một ngọn đuốc khổng lồ cháy sáng rực, và hướng đến chúng sanh, khiến  cho  chúng  sanh  ngộ  được  đạo  lý  giải thoát  để  mọi  người  ly dục  ly ác  pháp  thoát  ra cảnh  địa  ngục  tại  tâm,  thì đâu  cần  gì  chúng sanh  phải  tu  hành  vất  vả  khổ  nhọc,  mà  cũng vẫn được giải thoát như thường, cũng giống như chư Tăng hợp công đức tu hành của mình lại thành một trí tuệ lớn, khiến cho tâm bà Thanh Đề  ngộ  được  đạo  lý  giải  thoát,  liền  thoát  ra cảnh  địa  ngục  A  Tỳ.  Nếu  chư  Phật  và  chư Thánh  Tăng  làm  được  những  điều  này  thì thế gian lại có thêm một tôn giáo phi đạo đức, thì chúng  tôi  là  những  Phật  tử  chân  chánh  sẽ không chấp nhận điều này.
Nếu chư Thánh Tăng trong thời đức Phật đã cứu độ cho bà Thanh  Đề thoát cảnh địa ngục như  vậy  thì với  tâm  đại  từ  đại  bi  của  Phật  và
 chư Thánh Tăng không lẽ  không làm  điều  này để  độ  chúng  sanh thoát  khổ  sao? Có  lý  đâu  vì một  cá  nhân  nhỏ  mọn  như  bà  Thanh  Đề  mà chư Tăng còn độ  được  thay huống là  với  tất  cả chúng  sanh  trên  hành  tinh này  đang đau khổ mà  Phật  và  chư Thánh  Tăng  đều  biết  rõ,  mà làm  ngơ sao?  Hay  phải  đợi  cúng  dường  tứ  sự? Có  cúng  dường  tứ  sự  mới  cứu  độ  thì còn  gì là Phật, là Thánh Tăng nữa, phải không các bạn?
Bởi vậy, kinh điển Đại Thừa diễn đạt giáo lý phi  đạo đức một cách cụ thể rõ ràng, thế mà mọi  người  vì  quá  vô  minh,  u tối  không  thấy, nên bị lừa đảo, bị lường gạt một cách đau đớn.
Công  đức  tu  hành  của  Phật  vô  lượng  vô biên mà  Ngài còn từ chối  không cứu  độ  ai hết, Ngài  chỉ  là  một  hướng  đạo viên  mà  thôi. Ngài đã   rõ  thấu  đạo  lý  nhân  quả  tường  tận,  mà không  ai  hiểu  đạo  lý  nhân  quả  hơn  Ngài.  Do hiểu  đạo  lý  nhân  quả  tường  tận,  dù  biết  rằng mình  có  đủ  thần  lực,  có  vô  lượng  vô  biên công đức,  nhưng  Ngài  vẫn  từ  chối  không  cứu  độ  ai hết, vì cứu độ là một việc làm phi  đạo đức, nên Ngài  dạy:  “Các  con hãy  tự  thắp  đuốc  lên mà đi, Ta chỉ là một người chỉ đường mà thôi”.
 Theo đạo lý  nhân  quả,  ai  làm  ác  thì phải chịu nhận lấy quả khổ, không ai cứu khổ cho kẻ làm  ác  được,  chỉ  có  các  nhà  Đại  Thừa  mới  có một  đức  Bồ  Tát  Quan Thế  Âm  dám  làm  điều phi  đạo  đức  này  (phẩm  Phổ  Môn  kinh Pháp Hoa)  rồi  đến  chư  Thánh  Tăng  và   đức  Phật trong  kinh Vu Lan  Bồn  mới  dám  cả  gan làm điều phi đạo đức, phi giáo lý của Phật để cứu bà Thanh  Đề thoát cảnh địa ngục, bằng cách ăn lo tứ sự cúng dường.
Xưa, thời đức Phật còn tại thế, Ngài còn phải  xin ăn  để  gieo  duyên độ  chúng  sanh, nhờ có  gieo  duyên  nhân  quả  thiện  như  vậy,  Ngài mới đủ duyên để thuyết giáo pháp của mình, khiến cho chúng sanh ngộ được chân lý giải thoát  rồi  mới  lần  lần  tu  tập  dứt  bỏ  và  xả  ly, mới thoát cảnh địa ngục trần gian đầy đau khổ của kiếp làm người.
Các nhà Đại Thừa xây dựng sự cứu độ một cách vô lý, thiếu công bằng và  công lý, thế mà mọi  người  vẫn  tin theo,  làm  theo  với  sự  thiếu suy nghĩ. Đem công đức tu hành giải  thoát của mình,  hợp  lại  làm  một  ngọn  đèn  sáng,  khiến cho người  đang mê  gặp  ngọn  đèn  này,  trí tuệ bừng sáng, thoát cảnh địa ngục (nếu được như vậy thì đâu cần gì phải tu). Đó là một thứ vọng
 ngữ của các nhà Đại Thừa, để lừa đảo những người tín đồ thiếu trí tuệ và cũng khiến cho những người có trí tuệ, hiểu biết nghi ngờ Phật giáo và xem thường đạo Phật, cho rằng Phật giáo  là  một  tôn  giáo  mê   tín,  một  tôn  giáo không có đạo đức.
Nếu  thật  sự  những  loại  kinh sách  này  là của Phật giáo thì Phật giáo không còn đất đứng trên  hành  tinh này  nữa,  một  khi thời  đại  dân trí càng  đi  lên  và  khoa  học  càng  tiến  bộ,  thì người  ta  càng  rõ  sự  gian  xảo  này.  Trên  hành tinh này duy chỉ cần phải có một đạo đức nhân quả  và  đạo  đức  ấy  phải  được  phát  triển  đúng mức  để  quân  bình  vật  chất  và  tinh thần  của con người  được  cân  bằng,  thì xã  hội  loài  người mới  có  sự  an vui,  hạnh  phúc.  Do thế,  các  tôn giáo nào thiếu đạo đức, gây mê tín, tạo thế giới siêu  hình   trừu  tượng,  viển  vông,  dạy  những điều  phi  đạo  đức,  thường  lừa  đảo  tín đồ,  thì phải  bị  khoa  học  chỉ  mặt  vạch  tên  và  sẽ  bị nhân loại đào thải khỏi cuộc sống của họ.
Bởi  vậy,  câu  chuyện  Mục  Liên  Thanh  Đề là  câu  chuyên  phi  đạo  đức,  phi  công  lý,  phi công bằng, phản lại đạo đức nhân quả của Phật giáo. Sự báo hiếu của đạo Phật như trong kinh sách  Đại  Thừa  là  không  phải  của  đạo  Phật,
 kinh sách này đã  bị dân gian thế tục hóa Phật giáo theo thời đại phong kiến của nó.
Người  tu  sĩ  đạo  Phật  muốn  báo  hiếu  cha mẹ  thì  phải  tu  hành,  sống  đúng  giới  hạnh, không  hề  vi phạm  một  lỗi  nhỏ,  sống  thiểu  dục tri túc,  ăn  ngủ  độc  cư đúng  cách,  đầy  đủ  oai nghi chánh hạnh, tâm thường thanh thản, an lạc, ly dục  ly ác  pháp  và  nhập  sâu  Bốn  Thánh Định thực  hiện  Tam  Minh,  làm  chủ  sự  sống chết  và  luân  hồi,  thì mới  báo  hiếu  trọn  vẹn. Còn  người  tín đồ  muốn  báo  hiếu  thì phải  giữ gìn  năm  giới  nghiêm  túc,  thường  khuyên  cha mẹ  giữ  gìn  làm  điều  thiện,  đừng  làm  điều  ác. Đó là sự báo hiếu chơn thật của Phật giáo
Thực hiện được những điều này qua đời sống gương hạnh cao quý, khiến cho cha mẹ nhiều  đời  nhiều  kiếp  vì  có  nhân  duyên  nhân quả  nên  quy  tựu  gặp  lại  nhau  để  nhận  lấy gương hạnh đạo đức giải thoát và giáo pháp của Phật hướng dẫn cho những người thân thương của mình  từ vô lượng kiếp để thoát ra cảnh đời đầy đau khổ. Đó là báo hiếu cha mẹ, chớ không phải làm lễ trai Tăng cúng dường tứ sự để nhờ công  đức  của  chư Tăng  cứu  độ  cha mẹ  là  báo hiếu.
 Báo  hiếu  kiểu  đó  là  báo  hiếu  không  thực tế, thua xa các nhà Nho giáo Đạo Khổng “Quạt nồng ấm lạnh” không làm cho cha mẹ buồn rầu, thường làm vui lòng cha mẹ.
Sống chửi  cha, mắng mẹ, làm  cho cha mẹ buồn khổ, đến khi chết rước chư Tăng cúng dường Tam Bảo để báo hiếu, thì thật là buồn cười,  bày  đặt  chuyện  báo  hiếu  như  vậy  không đạo nghĩa và  thực  tế, đó  là  lối  lường gạt người “tiền mất tật mang”,  chẳng làm ích lợi gì cho ai cả?

T NẠN MÊ TÍN
Câu hỏi của phật tử Luân
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Ở   nước  ta  (VN) hiện  nay tệ  nạn  mê  tín,  dị  đoan như  cầu  siêu, cầu an, xin  xăm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt xấu, cúng  sao,  giải  hạn,  lên  đồng,  nhập  xác…  đang là  hiểm  họa,  tệ  nạn  xã  hội  là  một  gánh  nặng của  con  người.  Kính   thưa  Thầy,  để  đẩy  lùi những tệ nạn này ra khỏi loài người và làm cho
 cuộc sống tốt đẹp hơn, chúng con cần phải làm những gì?
Đáp: Muốn đẩy lùi  tệ  nạn mê  tín dị  đoan thì người  cư sĩ  đệ  tử  của  đức  Phật  phải  sáng suốt nhận định và thông suốt những gì mà đức Phật đã  dạy, đừng quá vội tin vào những người khác,  hễ  nghe nói  Phật  thuyết  là  bất  cứ cái  gì cũng vội vàng tin ngay liền, tin như vậy là  tin mù  quáng  dễ  bị  kẻ  khác  lừa  đảo,  đó  là  một bằng chứng thật sự hiện giờ các tệ  nạn mê  tín xảy  ra chung quanh trong  các  ngôi  chùa  là  do Phật tử quá tin theo các Thầy Tổ của mình, Thầy Tổ của mình  đang chịu ảnh hưởng của tà giáo  ngoại  đạo   đã biến  trở  thành  những  người đang  dối  trá,  mượn  sắc  áo  của  Phật  giáo  để kinh doanh tôn giáo làm giàu trên mồ hôi nước mắt của tín đồ.
Bởi vậy, người tín đồ Phật giáo phải tin vào  đạo  đức  nhân  quả  làm  người,  không  làm khổ  mình,  khổ  người,  là  một  điều  lợi  ích  rất lớn,  hãy  dẹp  bỏ  lòng  tham  vọng,  ích  kỷ  nhỏ mọn của mình,  những mơ ước thiếu thực tế, hãy tự lực sống đúng đạo đức nhân quả là đã thấy hạnh phúc ngay liền, dẹp bỏ những sự cầu cạnh tha lực nương tựa vào thần quyền, đó là những hy vọng  mơ tưởng  hão  huyền,  đừng  tin và  làm
 theo  những  điều  phi  đạo  đức  nhân  quả  mà trong thế giới siêu hình  tưởng thường bày vẽ ra thì tệ  nạn mê  tín trong  xã  hội  sẽ  được  đẩy  lùi ngay tức khắc.
Giáo lý của đạo Phật có  những tiêu chuẩn đã được xác định:
1-        Đạo đức nhân bản.

2-        Không có thế giới siêu hình.

3-   Người  chết  năm  uẩn  tan  hoại  tất  cả chỉ  còn lại  nghiệp lực  thiện ác  (nhân quả) tiếp tục tái sanh.
4-   Pháp  môn  tu  tập  của  đạo  Phật  duy nhất chỉ có GIỚI, ĐỊNH, TUỆ.
5-   Ngoài  giới,  định,  tuệ  thì không  phải giáo pháp của đức Phật nữa.
6-  Giới định tuệ là chỉ cho một tâm duy nhất  của  ba trạng  thái  kết  hợp  tạo  thành một nguồn sống giải thoát chứ không phải ba pháp.
7-        Giới là đạo đức nhân bản - nhân quả.

8-        Định là tĩnh giác.

9-        Tuệ là sự hiểu biết.

Ba vấn  đề  này  gom chung vào  một  tâm, nếu tâm có hiểu biết tĩnh giác trong đạo đức nhân bản - nhân quả thì tâm liền có giải thoát.
 Đó  là  một  vấn  đề  (giới,  định,  tuệ)  duy nhất của đạo Phật giúp cho con người vượt qua khổ  đau của  kiếp  làm  người,  ngoài  vấn  đề  này thì không  có  giáo  pháp  nào  của  đức  Phật  dạy cầu tha lực cả. Nếu có giáo pháp cầu tha lực là giáo pháp của ngoại đạo, đó là một sự xác định nghiêm túc của đạo Phật.
Đạo  Phật  cấm  kị  nhất  là  thần  thông  và thế  giới  siêu  hình,  thần thông đạo Phật  cho là huyễn  hóa,  thế  giới  siêu  hình  đạo  Phật  cho là thế giới ảo tưởng.
Thần thông và thế giới siêu hình là hai phương tiện  dùng  để  lừa  đảo  gây  sự  mê  tín dị đoan trong  lòng  người,  khiến  cho người  ta  đi vào tội lỗi. Bởi vậy những người hiểu biết cần phải  triệt  tiêu  và  quét  sạch  nó  trên  hành tinh
này.

Người  ta  gán cho đạo Phật  có  nhiều  pháp môn từ thấp đến cao để tùy theo căn cơ của mỗi chúng  sanh  mà  tu  tập,  đó  là  lối  biện  luận  lừa đảo những người mạo danh Phật giáo.
Ngoài Bát Chánh Đạo để thực hiện giới, định, tuệ thì không còn pháp môn nào được gọi là  của đạo Phật  nữa, đừng đem những tà  pháp mê tín dị đoan mà gán cho đạo Phật, đó là một
 việc  làm  tội  lỗi  đối  với  con người  trên  hành tinh này.
Khi quý vị đã rõ thấu giáo pháp của đức Phật là giới, định, tuệ thì bất cứ một ngôi chùa nào mà dạy khác pháp môn giới, định, tuệ thì quý vị không chấp nhận, không nghe theo, không cúng dường, không đến chùa đó nữa, không  thọ  nhận  hoặc  tu  tập  theo  giáo  pháp ngoại lai đó.
Từ khi đức Phật tịch, giáo đoàn Phật giáo bị phân hóa chia thành nhiều bộ phái do những vị tu sĩ lãnh đạo tham danh đắm lợi đã  nỡ tâm giết Phật giáo chết, từ đó các Ngài đưa vào những  giáo  pháp  của  ngoại  đạo  để  lừa  đảo  tín đồ  Phật  giáo.  Do đó,  mới  có  những  kinh  sách dạy  cầu  siêu,  cầu  an,  xin  xăm,  bói  quẻ,  xem ngày  giờ  tốt  xấu, cúng  sao, giải  hạn, lên đồng, nhập  xác…  làm  đủ  mọi điều   mê tín dị đoan, nó được  xem là  một hiểm  họa rất lớn, một  tệ nạn xã   hội.   Các   chùa   đang   hành   những   nghề nghiệp này là đã tạo một gánh nặng cho xã hội loài người.
Muốn đẩy lùi những tệ nạn này, thì trong các  chùa  quý  Thầy  trụ  trì phải  đình  chỉ  ngay liền  những  nghề  nghiệp  lừa  đảo,  phi  đạo  đức



này  thì tệ  nạn  mê  tín, dị  đoan sẽ  được  chấm dứt. Đó là dứt trừ tận gốc phát sanh ra nó.
Muốn  đẩy  lùi  tệ  nạn  này  thì quý  vị  cư sĩ không  nên  tin và  không  làm  theo  những  giáo pháp mê tín, phi đạo đức này, bằng cách không đến những ngôi chùa có hành nghề như vậy và cũng không cúng dường cho các  vị  Tăng ở đây. Có như vậy, mới có thể đẩy lùi và dẹp sạch những tà  giáo  phi  nhân quả  này thì loài người mới thoát khỏi gánh nặng khổ đau này.


LÀM  LỄ QUY Y CHO NGƯỜI CHẾT
Câu hỏi của phật tử Luân
Hỏi: Kính thưa  Thầy! Trong kinh  Thập Nhị  Nhân  Duyên,  Đức  Phật  đã  xác  định  rõ ràng không có  thế  giới  siêu  hình,  tức  là  không có  linh hồn,  thần  thức,…  sau khi  chết.  Vậy  mà tại  sao chúng  con thấy  quý  Thầy,  quý  Cô  và quý cư sĩ Phật giáo lại dựa đâu mà cho rằng có thế giới siêu hình? Bằng chứng quý Thầy, quý Cô và quý cư sĩ đứng ra bày vẽ tổ chức lo toan đám  ma, cúng  vong, tiễn  linh, chẩn  tế  cô  hồn
 giải  oan bạt độ, thậm chí còn có  rất nhiều  quý Thầy ngang nhiên ngồi trên pháp tòa để thuyết pháp  giảng  đạo  làm  lễ  quy y Tam  Bảo  và  thọ ngũ  giới cho những vong linh. Những việc làm của quý Thầy, quý Cô và quý cư sĩ đã đi ngược lại lời dạy chân thật của đức Phật và làm lệch lạc  đường  đi chân  chánh  của  đạo  Phật,  khiến cho mọi  người  có  hiểu  biết  sẽ  nghi  ngờ  Phật giáo.  Xin  Thầy  chỉ  dạy  cho chúng  con được  rõ và  khiến  cho mọi  người  không  còn  nghi  ngờ Phật giáo nữa.
Đáp:  Người  ta  không  rõ  mục  đích  quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới là gì? Cho nên, mới dám  làm  những  điều  mê  tín lừa  đảo  con cháu người  đã  chết. Quy y Tam Bảo  và  thọ  ngũ  giới cho người  đã  chết  là  để  lấy lòng Phật  tử trong khi người Phật tử đang đau khổ vì mất mát những người thân thương, họ không còn sáng suốt nhận định, nên hễ quý Thầy bày vẽ làm điều  gì  thì cứ  làm  ngay  liền  để  mãn  nguyện lòng thương yêu  của mình  đối  với  những người thân.
Mục  đích quy y Tam  Bảo  và  thọ  ngũ  giới là để sống và thực hiện một đời sống đạo đức làm  người  không  làm  khổ  mình,   khổ  người, sống  trong  thiện  pháp,  sống  biết  tha  thứ  và
 thương yêu mọi người, mọi loài, chứ không phải quy y Tam Bảo  là  để  được  làm  đệ  tử  của Phật, để  ở  cõi  Diêm  Đình  vua Diêm  Vương nể  mặt, quỷ  sứ,  ngục  tốt  Ngưu  Đầu,  Mã  Diện  không dám hành hạ. Hiểu như vậy là mê tín là sai không  đúng  chánh  tri kiến  của  đạo  Phật.  Còn nếu  bảo  rằng  quy y Tam Bảo  là  để  gieo  duyên với  Phật  pháp  thì lại còn sai  hơn nữa, khi cha mẹ  còn  sống  không  bằng  lòng  thọ  Tam  Quy Ngũ  Giới  đến  khi chết  con cháu  nhờ  Sư, Thầy làm  lễ  Quy Y Tam  Bảo  thì vấn  đề  này  không phải tự tâm nguyện của ông bà mà là một sự ép buộc  của con cháu, như vậy thử  hỏi  làm  sao có sự gieo duyên cho được, khi mà tâm không thành, ý không muốn.
Các Sư Thầy ngang nhiên ngồi lên pháp tòa  thuyết  pháp  giảng  đạo  hoặc  làm  lễ  quy y Tam Bảo  cho những vong linh này là  một việc làm  mê  tín, vô  minh  không  thông  hiểu  đạo Phật, làm một điều phi  Phật giáo, vì Phật giáo là  một  tôn  giáo  tự  lực  cánh  sinh,  chứ  không nhờ  vào  tha  lực  nào  cả  mà  phải  tự  mình  khi còn sống có một sự thành tâm ước muốn để trở thành một con người có đạo đức làm người, không làm khổ mình, khổ người, để trở thành một con người sống toàn thiện và để trở thành
 một  con  người  sống  với  một  tâm  hồn  thanh thản, an lạc, bất động trước các pháp. Và có sự ước  muốn  như  vậy  thì quy y Tam  Bảo  và  thọ ngũ giới mới có giá trị và ý nghĩa đúng nghĩa chân chánh của đạo Phật. Còn ngược lại là không có ý nghĩa tự lực, trên con đường cầu đạo giải  thoát  thì không  có  một  người  nào  đi  thay thế cho ai được mà phải chính  nơi người đó, vì thế  quy y  cho người  đã  chết  là  một  việc  làm sai,  gây  mê  tín, dị  đoan,  lạc  hậu  trong  đạo Phật, đó là một việc làm tội lỗi.
Đạo   Phật   không   chấp   nhận   sự   thường hằng  của  linh hồn,  thế  mà  Sư, Thầy  lên  pháp tòa thuyết pháp, quy y Tam Bảo và truyền ngũ giới  cho vong linh thì đó  là  một  việc  làm  của ngoại   đạo   lừa   đảo   lòng   hiếu   hạnh   và   tình thương  yêu  của  tín đồ  Phật  giáo  đối  với  người quá cố. Việc làm này chẳng có ích lợi gì cho người  chết  mà  còn  khiến  cho tín đồ  hao tiền tốn bạc một cách si mê.
Khi cha mẹ hay những người thân thương qua đời, lòng thương yêu của chúng ta đối với những người này, chỉ có một cách duy nhất là làm  ích lợi  cho người  chết,  cũng  như  giúp  cho họ gieo duyên với Phật pháp thì chỉ có việc ấn tống kinh sách dạy về đạo đức làm người không
 làm  khổ  mình,  khổ  người.  Nhờ  có  kinh sách này  mà  người  sống  có  lợi  ích rất  lớn  thì người chết cũng có lợi ích rất lớn. Tại sao vậy?
Tại vì người chết nghiệp lực sẽ tiếp tục đi tái  sanh luân hồi  ngay liền sau khi chết và  đã trở  thành một  người  mới, có  nghĩa là  chết  đây sanh kia cũng giống như cây đuốc, cây đuốc này vừa tắt thì cây đuốc kia cháy sáng ngay liền để giữ ánh sáng liên tục không bị gián đoạn. Luật nhân  quả  cũng  vậy,  thân  này  mất  thì có  thân khác ngay liền để giữ đạo luật nhân quả không bị gián đoạn.
Vì   thế,   kinh   sách   đạo   đức   làm   người không  làm  khổ  mình,  khổ  người  được  ấn  tống và  được  phổ  biến  khắp  cùng  thì mọi  người,  ai cũng đều được đọc kinh sách này giúp cho họ có một đời sống đạo đức  toàn thiện, một  đời sống giải  thoát  an lạc.  Đó  là  sự  ấn  tống  kinh sách đạo đức nhân quả là gieo duyên quy y Tam Bảo và  thọ  ngũ  giới  cho những  người  thân  thương đã  quá cố. Đó là sự  báo  hiếu  rất  lớn của chúng ta  khi cha mẹ  đã  qua đời, những  việc  làm  này đem đến lợi ích ngay liền là những người chung quanh chúng ta đang sống, họ trở thành những người sống có đạo đức làm người, biết mang lại
 sự  không  đau khổ  cho nhau,  đó  là  chân  hạnh phúc của loài người thiết thực và cụ thể hơn.

NHỮNG KINH  SÁCH MÊ TÍN
Câu hỏi của phật tử Luân
Hỏi:   Kính  thưa   Thầy,   đạo   Phật   chủ trương phải  tự  cứu  mình,  tức  là  phải  dùng sức tự lực của bản thân để ly dục ly ác pháp, không làm  khổ  mình,   khổ  người  và  khổ  muôn  loài chúng  sanh,  giải  thoát  sanh  tử  khổ  đau  luân hồi  của  kiếp  người.  Vậy  thì,  tại  sao lại  có  các loại  kinh  Thủy  Sám, Lương  Hoàng Sám,  Pháp Hoa,   A  Di  Đà,  Địa  Tạng,  Vu   Lan   Bồn…  dạy toàn  tha  lực,  tức  là  lo  tụng niệm  van  xin  chư Phật, chư vị Bồ Tát, Thiên Long Bát Bộ, Hộ Pháp Già Lam, chư vị thiên thần gia hộ cho tai qua nạn  khỏi,  bịnh tật  tiêu  trừ  hoặc  tiếp  dẫn hương linh về cõi Cực Lạc Tây Phương của đức Phật  A  Di  Đà.  Như  vậy  có  quá  mâu  thuẫn không  thưa  Thầy,  xin  Thầy  vạch  rõ  chỗ  đúng sai để chúng con được biết.
 Đáp:  Kinh sách  Đại  Thừa  phát  triển  là kinh sách chịu ảnh hưởng của Bà La Môn giáo, nhất là chịu ảnh hưởng của kinh sách Vệ Đà thuộc  về  tư  tưởng văn minh Ấn  Độ, nhưng  khi truyền sang qua các nước lân cận thì nó lại tiếp thu những sự mê tín và lạc hậu của dân tộc các nước khác, nên kinh sách Đại Thừa là một loại kinh sách  tập  hợp  nhiều  tư  tưởng  và  những phong  tục  tập  quán  của  con người,  có  thể  gọi kinh sách này là kinh sách bị thế tục hóa có nghĩa là khi nó truyền vào một thời kỳ nào của xã hội thì nó bị đồng hóa với xã hội đó.
Ví dụ: Kinh sách này truyền vào  gặp  thời phong kiến  thì nó  bị  đồng  hóa  với  thời  phong kiến. Với tư bản thì nó bị đồng hóa với tư bản; với khoa học thì nó bị đồng hóa với khoa học.
Kinh sách  Đại  Thừa  không  có  một  đường lối  riêng  biệt  chỉ  là  một  sự  vay  mượn,  một chiếc áo chấp vá nhiều miếng vải, cho nên nó chẳng có gì đặc biệt cả, chỉ nhai lại bã mía của kẻ  khác  nhưng  muốn  nuốt  cho trôi  bã  mía đó, tức là nó khéo dùng những danh từ để làm cho người  khác  khó  nhận  ra, tưởng  đó  là  một  giáo lý mới mẻ, nhưng không ngờ những người hiểu biết  đã   thấy  rõ  nó  đi  giẫm  lại  lối  mòn  của người xưa.
 Vì thế, những danh từ Lương Hoàng Sám, Thủy Sám, Pháp Hoa, Viên Giác, Thủ Lăng Nghiêm, A Di  Đà, Địa Tạng, Vu Lan  Bồn, Bát Dương, Thập Vương, Lăng Già, Hoa Nghiêm... Tất  cả  những  loại  kinh sách  này  là  tư  tưởng của  ngoài  đạo chứ  không  phải  của  Phật  giáo, mà  đã  không  phải  của  Phật  giáo  thì làm  sao chúng ta cho Phật giáo có mâu thuẫn với Phật giáo được.
Chúng   ta   chỉ   cần   biết   kinh  sách   này không làm lợi ích cho con người, nó chỉ là một mánh  khóe  lừa  đảo  con người  làm  những  điều phi đạo đức và rất tai hại cho con người.


TU NHƯ THẾ NÀO ĐÞNG  PHÁP?
Câu hỏi của phật tử Luân
Hỏi:  Kính thưa  Thầy! Thầy dạy chúng con, hằng  ngày  phải tu  cho đúng  pháp,  đúng cách, đúng căn cơ đặc tướng của mình,  song chúng   con  chưa  thấu   triệt   lắm, kính   mong Thầy chỉ  dạy  cho  chúng  con  để  được  thâm hành Phật Pháp, và giải thoát thân tâm.
Đáp: Muốn tu tập đúng pháp, đúng cách, đúng căn cơ đặc tướng như thế nào?
Chúng ta nên chia làm ba phần: Đúng pháp
Đúng cách

Đúng căn cơ đặc tướng

•  ĐÚNG PHÁP

Sau khi nghiên cứu tường tận biết rõ pháp môn  nào  là  của  Phật,  pháp  môn  nào  không phải của Phật.
Ví dụ:

1/   Pháp  môn  của  Phật  là  pháp  xả  tâm, chứ không phải là pháp môn ức chế tâm.
2/   Pháp  môn  của  Phật  là  pháp  môn  vô ngã ác pháp, hữu ngã thiện pháp.
3/   Pháp môn của Phật là pháp môn ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp.
4/   Pháp  môn của Phật  là  pháp  môn toàn thiện.
5/   Pháp  môn  của  Phật  là  một  pháp  môn đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình,  khổ người và khổ tất cả chúng sanh.
 6/  Pháp môn của Phật là một pháp môn huấn luyện tâm, rèn luyện tâm, như lý tác ý.
7/  Pháp môn của Phật là một pháp môn dùng để dẫn tâm vào đạo đức làm người.
Nếu  quý  Phật  tử  biết  rõ  đúng pháp  thì sẽ tu tập đúng pháp. Ngoài bảy sự hiểu biết trên đây  là  đúng  về  Phật  pháp  còn  là  sự  hiểu  sai, hiểu  sai  Phật  pháp  tức  là  tu  sai, tu  sai  thì phí công  vô  ích  mà  còn  tạo  thêm  gánh  nặng  cho Phật tử (tín  đồ) cúng dường.
Cho nên,  trước  khi đi  tu  thì phải  nghiên cứu cho tường tận lời dạy của đức Phật rồi mới tu.
•  ĐÚNG CÁCH
Tu tập đúng cách, tức là tu tập xả tâm, xả tâm  đúng cách, tức  là  phải  khéo  léo  thiện xảo, tu tập đúng cách là không bao giờ ức chế tâm.
Tu tập đúng cách là phải biết pháp nào tu trước pháp nào tu sau, ví dụ như pháp Tam Vô Lậu  Học  thì giới  luật  phải  tu  trước,  sau khi tu giới  luật  xong  nghĩa  là  sống  đúng  giới  luật không có vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì mới tu  tập  thiền  định, còn  vi phạm  giới  luật  dù  là một  giới  rất  nhỏ  thì cũng còn phải  tu  giới luật trở lại, chứ không được tu thiền định chừng nào
 giới  luật  thanh  tịnh  thì mới  bắt  đầu  tập  tu Thiền định. Sau khi nhập xong Tứ Thiền thì mới bắt đầu tu trí tuệ, thiền định chưa xong mà vội  tu  trí tuệ  là  tu  sai,  tu  như  vậy  trở  thành tưởng tuệ chứ không phải là trí tuệ.
Cũng  như tu  tập  Tứ  Thánh  Định thì phải tu tập Sơ Thiền trước tiên, sau khi Sơ Thiền được  sung mãn  thì mới  tu  tập  Nhị  Thiền,  sau khi Nhị  Thiền  được  sung mãn  thì mới  tu  tập Tam Thiền, sau khi Tam Thiền được sung mãn thì mới tu tập Tứ Thiền.
Nếu chúng ta tu tập không đúng cách thì cũng  giống  như  con bò,  chân  trước  chưa bước mà chân sau đã  bước thì con bò không thể nào đi  được.  Cũng  giống  như  vậy,  người  tu  sĩ  đạo Phật  giới  luật  chưa  nghiêm  trì mà  tu  thiền định  thì chẳng  bao  giờ  có  thiền  định  được, thiền định của những người tu sĩ phạm giới là thiền định tưởng. Đó là những người tu không đúng cách.

•  TU  ĐÚNG CĂN CƠ ĐẶC TƯỚNG

Nếu  tu  tập  không  đúng  căn  cơ của  mình thì cũng  giống  như người  nhạc  sĩ  lên  dây  đàn, căng  quá  thì đứt  dây,  chùng  quá  thì không thành tiếng.
 Do đó, khi tu hành chúng ta phải biết căn cơ của  mình.  Vậy  muốn  biết  căn  cơ của  mình thì phải biết như thế nào?
Căn cơ của chúng ta thể hiện qua nhân tướng  và  hành  tướng.  Vì thế,  khi tu  tập  chúng ta  nên  tu  tập  theo  nhân  tướng  và  hành  tướng tự nhiên của mình.
Ví  dụ:  Hành  tướng  ngoại  tự  nhiên  của mình  đi chậm, khi tu tập thì phải theo hành tướng  đi  chậm  mà  tu,  không  được  đi  nhanh, cũng không đi quá chậm. Khi hành tướng tự nhiên của mình  đi nhanh  thì tu tập không được đi  chậm  hoặc  quá  chậm  hoặc  quá  nhanh,  phải đi với tướng tự nhiên của mình.
Hành tướng nội tự nhiên của mình  khi hơi thở chậm thì nên tu tập theo hơi thở chậm, hơi thở  nhanh  thì nên  tu  tập  theo  hơi  thở  nhanh, không  nên  hơi  thở  chậm  mà  khi tu  tập  thì lại thở  nhanh  cũng  như  hơi  thở  nhanh  mà  khi tu tập  thì lại  thở  chậm,  tu  như  vậy  không  tự nhiên.  Không  tự  nhiên  thì có  sự  ức  chế  mà  có sự  ức  chế  thì có  chướng  ngại  pháp,  có  chướng ngại pháp thì không có giải thoát ngay liền, không có sự giải thoát ngay liền là tu sai pháp Phật,  tu  sai  pháp  Phật,  tức  là  tu  theo  pháp môn của ngoại đạo.
 Nhân tướng là hình  dáng của cơ thể, có người  có  nhân  tướng  cao, nhưng  cũng  có  người có   nhân   tướng   thấp,   người   đẹp,   người   xấu, người trắng, người đen, người mập người ốm, người mặt dài, mặt ngắn, mặt vuông, mặt chữ điền,  mặt  bầu,  mặt  tròn...  Tất  cả  mọi  hình tướng khác nhau đều gọi là nhân tướng.
Người   tu   theo   đạo   Phật   không   nên   vì nhân  tướng  mà  tu  tập.  Ước  mơ  có  một  tướng đẹp như Phật, 32 tướng tốt tám mươi vẻ đẹp.
Ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp có còn  đâu,  khi đức  Phật  nhập  Niết  Bàn  chỉ  còn lại  một  nắm  xương  vụn  bất  tịnh  thiêu  chưa cháy hết.
Mục đích của đạo Phật là tâm bất động trước  các  pháp  và  các  cảm  thọ  chứ  không phải tướng  tốt.  Dưới  đôi  mắt  của  Phật  thì nhân tướng  của  con người  chỉ  là  tứ  đại  duyên  hợp, bất tịnh uế trược không có đáng cho chúng ta quan tâm, nhưng trong khi tu tập chúng ta biết sử dụng nó như sử dụng một con ngựa để đi đường xa vạn dặm. Vì thế, chúng ta phải biết cách  khi thì dụ  dỗ  khi thì ra lệnh,  chứ  không bắt  ép  nó  tu  tập  nhiều  thì cũng  không  tốt  mà tu tập ít thì cũng không có lợi, không được khổ
 hạnh  ép  xác,  mà  cũng  không  được  lợi  dưỡng phá giới luật.
Ngày ngày tu  tập  phải tùy theo  đặc  tướng của  mình  mà  thực  hiện  cho đúng  pháp  thì có kết quả lợi ích rất lớn.

NHƯ  LÝ TÁC  Ý
Câu hỏi của phật tử Luân
Hỏi:  Kính  thưa Thầy!  Cho phép  chúng con thưa  hỏi  về  pháp  hướng  tâm  như  lý  tác  ý, con biết pháp trên có lợi ích rất lớn, hiệu quả tuyệt  vời  cho đường  tu  tập,  đó  là  giúp  cho trí tuệ nhạy bén nhanh  chóng và giúp cho tâm tạo ra một năng lực siêu việt không thể nghĩ lường. Xưa, đức Phật đã thành đạo và ngày nay Thầy đã nhập được Tứ Thánh Định và Tam Minh cũng đều nhờ đến pháp này. Vì vậy, chúng con xin  Thầy  chỉ  dạy  cách  thức  hướng  tâm  và  tu tập  rèn  luyện  pháp  này  như  thế  nào  để  thành tựu quả giải thoát.
Đáp: Pháp  như lý  tác  ý  là  pháp môn dẫn tâm  vào  đạo  rất  tuyệt  vời,  nhờ  nó  mà  huấn
 luyện được tâm cũng như người huấn luyện voi, cọp, gấu, v.v.. làm xiếc. Người huấn luyện thú làm xiếc, nếu không nhờ đến những loại bánh đặc  biệt  và  không  thiện  xảo  thì khó  mà  huấn luyện những loài thú hoang dã. Pháp như lý tác ý  cũng  giống  như  những  loại  bánh  kia vậy, nhưng cũng phải thiện xảo thì sự tu tập mới có hiệu quả.
Tâm của con người giống như một con thú vật rừng hoang dã. Muốn thuần phục nó để sai bảo làm việc tốt hơn theo ý muốn của mình  thì phải biết cách dùng pháp như lý tác ý đúng lúc. Có lúc thì ngọt ngào, có lúc thì cứng rắn, có lúc thì vuốt ve, nhưng có lúc thì roi vọt.
Pháp  như  lý  tác  ý  nghe  thì đơn giản  mà thực  hành  muốn  có  hiệu  quả  thì phải  vô  cùng khéo léo thiện xảo, nếu không khéo léo thiện xảo cũng chỉ hoài công mà thôi.
Ví dụ: Hằng ngày chúng ta thường hướng tâm: “tâm như cục đất không có tham sân si nữa”.  Nhưng  mỗi  lần  có  việc  đến,  tâm  tham, sân, si nổi lên là chúng ta phải ngăn chặn liền, đoạn dứt liền với một lòng cương quyết mạnh mẽ  như  sắt  đá.  Không  thể  để  cho tâm  tham sân  si  xâm  chiếm  tâm  hồn  mình.   Sự  cương quyết  dũng  cảm  mạnh  mẽ  ngăn  chặn  như vậy,
 cũng  giống  như con thú  trở  chứng  ương ngạnh thì phải  roi  vọt  đánh  trị  khiến  cho nó  sợ  thì mới có thể dễ sai nó được. Nhưng cũng không phải  lúc  nào  cũng  dùng  roi  vọt  đánh  trị,  mà cũng  phải  có  lúc  vuốt  ve,  an  ủi,  gần  gũi,  âu yếm, chăm sóc thương yêu.
Người  tu  hành biết  cách tu  tập, rèn luyện pháp  này  khéo  léo  và  thiện  xảo  như  trên  đã dạy  thì kết  quả  mau  chóng  làm  chủ  sự  sống chết và chấm dứt luân hồi không còn khó khăn như người ta tưởng.
Trong sự tu tập thiền định mà không có pháp  như  lý  tác  ý  thì không  thể  nhập  định được.   Không  nhập   được   thiền  định  mà  dạy người tu tập thiền định thì đó chỉ là thiền định miệng lưỡi mà thôi.
Bởi con đường tu theo Phật giáo mà không có  pháp  như  lý  tác  ý  thì không  phải  là  con đường  tu  theo  đạo  Phật,  mà  là  con đường  tà giáo.  Người  tu  theo  đạo  Phật  được  thành  tựu giải  thoát  là  nhờ  ở  pháp  như  lý  tác  ý,  nếu không có  pháp  như lý  tác  ý  thì không làm  sao mà giải thoát được.
Vì  thế,  pháp  như  lý  tác  ý  là  một  pháp môn  nòng  cốt  của  đạo  Phật,  “Ý   DẪN   ĐẦU,   Ý LÀM CHỦ, Ý TẠO TÁC CÁC PHÁP”. Cho nên kinh



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!