sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ không
bao giờ có pháp môn này.
TRÝNG TRONG L×NG SƯ TỬ
Câu hỏi của
phật tử Luân
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Đạo Phật
duy nhất có một pháp môn đưa đến quả giải thoát khổ đau sanh tử luân hồi,
đó là pháp môn Giới, Định, Tuệ. Song hiện nay chúng con thấy phần lớn tu sĩ
không tu về giới luật nên oai nghi tế hạnh
không có, sống phạm
giới quá nhiều,
tức là họ không tu đúng pháp môn của đức Phật. Vậy chúng con xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ, những tu
sĩ này tu hành như vậy có lợi ích
gì cho Phật giáo,
cho xã hội và cho
bản thân họ, còn ngược lại thì tai hại như thế nào?
Đáp: Những
giới luật của Phật là những hành động đạo đức làm Người, làm Thánh, chứ không
phải giới luật của Phật là
pháp luật thế gian. Ở đời người ta nghe nói đến giới luật
là người ta liên tưởng đến pháp luật của một quốc gia. Không
phải như vậy
đâu, nếu chúng
ta
hiểu giới luật Phật như một pháp luật là chúng
ta đã
tự trói buộc
mình, tức là ức chế
tâm thì còn có
nghĩa lý gì là
đạo đức không
làm khổ mình, khổ
người. Vì tự lấy giới
luật mà trói buộc
mình là đã tự làm khổ mình
thì không còn gọi là
pháp tu giải
thoát. Và như vậy thì giới luật làm sao gọi là pháp môn vô lậu
được.
Phật dạy có
ba pháp môn vô lậu, nếu ai tu tập thì sẽ được giải thoát ngay liền, ba pháp môn
tu tập giải thoát đó là:
Giới giải
thoát Định giải thoát Tuệ giải thoát
Giới luật được
tu tập thì tâm được giải thoát, tâm được
giải thoát thì không
còn khổ đau, phiền não, sợ hãi,
lo toan...
Định được tu
tập thì thân được giải thoát, thân được giải thoát là làm chủ được thân bệnh
tật.
Tuệ được
tu tập thì không
gian và thời gian
không còn chia cắt và trải dài, vì thế
mà chấm dứt được sự tái sanh luân hồi.
Ba pháp môn
này có lợi
ích như vậy thế mà
tu sĩ thời
nay lại phạm
giới, phá giới
thì làm sao tâm được giải thoát.
Như lời đức Phật
đã dạy: “Những
tu sĩ phạm giới,
phá giới là những tu
sĩ không làm ích
lợi cho Phật giáo
mà còn diệt
Phật giáo giống như
trùng trong lông sư tử
sẽ giết sư tử chết”.
Những
tu sĩ
phạm giới, phá giới
là những loại ký
sinh trùng trong
xã hội, không
ích lợi cho xã hội mà
còn để cho xã
hội mang một gánh nặng vì họ.
Hỡi các bạn tu
sĩ và cư sĩ
thân mến! Các bạn là những người tu sĩ và cư sĩ của Phật
giáo, các bạn phải
tu như thế nào
cho xứng đáng là đệ
tử của đức Phật. Đừng
vì danh, vì lợi mà quên đi bổn phận trách nhiệm của
mình. Trách nhiệm của mình là phải thắp
sáng ngọn đèn chánh pháp của Phật.
Hai mươi lăm thế kỷ nay tà giáo ngoại đã xen vào
làm cho Phật giáo
ô uế, đã
làm cho Phật giáo mang đầy những
tiếng tai không tốt. Hiện giờ chúng ta là những tu sĩ và cư sĩ Phật giáo, không
lẽ chúng ta tiếp tục nối giáo cho ngoại
đạo diệt Phật
giáo hay sao?
Chúng ta phải làm cái gì?
Trước tiên,
chúng ta phải giữ gìn giới luật nghiêm túc, sống đúng phạm hạnh. Đời sống thiểu dục
tri túc, ba y một bát; sống không
chùa to
Phật lớn, lấy gốc cây làm giường nằm. Đó là giai đoạn thứ nhất chấn chỉnh
lại Phật giáo mà trách
nhiệm và bổn phận là
Tăng Ni và cư sĩ. Nếu Tăng Ni và
cư sĩ không thực hiện những điều này
thì chắc chắn Phật
giáo sẽ đi vào trong bóng đêm đen tối.
Kế tiếp,
chúng ta phải
thực hiện thiền định, thực hiện thiền định như thế nào?
Thực hiện thiền định là phải ly dục, ly ác pháp; phải diệt tầm tứ; phải
ly hỷ tưởng; phải tịnh chỉ thân hành. Để chứng tỏ cho mọi người biết
sức lực của thiền định làm chủ sự sống chết một cách cụ thể rõ ràng. Đó là giai
đoạn thứ hai để chứng minh thiền
định của đạo Phật siêu
việt như vậy, không
có một pháp
thiền nào hơn được.
Cuối cùng,
chúng ta thực
hiện trí tuệ vô lậu
để chấm dứt
tái sanh luân hồi, không gian và
thời gian không còn tác dụng lên chúng ta được
nữa. Đó là
giai đoạn thứ
ba để minh chứng
đạo Phật cụ thể, thiết
thực lợi ích rất
lớn cho loài người như vậy.
LÀM SAO PHÂN BIỆT
ĐƯỢC TU SĨ
GIÂ HAY THẬT
TRONG PHẬT GIÁO
Câu hỏi của
phật tử Luân
Hỏi: Kính thưa
Thầy, đời sống phạm
hạnh của
một tu sĩ Phật giáo
như thế nào? Làm
sao để biết được
người nào là
tu sĩ Phật giáo thật và người nào là tu sĩ Phật
giáo giả để cho chúng con khỏi bị lừa bịp.
Đáp: Đời sống
Phạm hạnh của một tu sĩ Phật giáo là đời sống đức hạnh của một bậc Thánh Tăng,
vì thế chúng ta dễ nhận xét.
Một vị Thánh
Tăng không phải ở chỗ y áo cà sa mà ở chỗ không
phạm giới luật.
Trong giới luật của một vị
tu sĩ giải
thoát thì sự ăn mặc không cần sang đẹp, nhưng phải ăn mặc
đàng hoàng, sạch sẽ dù
là chiếc y phấn tảo cũng
phải được giặt sạch sẽ.
Khi bước ra khỏi thất thì y áo phải
được tề chỉnh nghiêm trang, mặc y không được để bày da hở thịt. Ngược lại,
ăn mặc
y áo sang đẹp cũng
như ăn mặc
rách rưới lang thang
và không nghiêm
trang tề chỉnh đều là tu sĩ giả,
không phải là những bậc chân tu của Phật giáo.
Không
được trang điểm dầu thơm
chuỗi hạt, lấy gốc
cây làm giường
nằm, thường thọ trai
ngồi xếp bằng
dưới đất. Còn
trang điểm làm đẹp bằng chuỗi
hạt dầu thơm,
còn nằm trên giường cao rộng lớn,
mền êm nệm ấm, còn thích thọ thực trên mâm cao cỗ đầy, thì đây là tu sĩ giả,
không phải Thánh hạnh như vậy.
Không được cất
giữ tiền bạc châu báu, không được ở trong chùa to tháp lớn như cung đình điện
ngọc. Còn cất giữ tiền bạc châu
báu là tu sĩ giả, không phải Thánh hạnh.
Không được
ăn uống phi thời, ngày một
bữa đủ nuôi thân sống, ăn uống nhiều bữa là gánh nặng cho Phật tử, ăn uống nhiều
bữa là tu sĩ giả, không phải là bậc Thánh Tăng.
HỘ TRÌ
CÁC CĂN
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính
mong Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con để hộ
trì các căn như đức Phật dạy: “Chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ
tướng riêng”. Làm thế nào để khi sáu
căn tiếp
xúc
sáu trần không
nắm giữ tướng
chung, tướng riêng của nó?
Đáp: Sáu căn
tức là: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình;
sáu trần là: sắc (hình dáng),
thanh, (âm thanh),
hương (mùi thơm), vị
(mùi vị), xúc (cảm
giác), pháp (mọi sự việc
chung quanh ta).
Bây giờ
chúng ta phải hiểu rõ tướng chung như thế nào? Và tướng riêng như thế nào?
Đối với sắc
khi mắt vừa thấy một hình dáng toàn diện, đó là tướng chung, còn thấy rõ ràng từng
đường nét của hình dáng là tướng riêng.
Ví dụ: Khi chúng
ta vừa thoáng
thấy một hình bóng
cô gái, hình
bóng vừa thoáng
thấy đó là mắt thấy sắc tướng chung
của cô gái. Nhưng đến khi lại gần thấy rõ gương mặt,
mũi, miệng, tay chân, thân hình và cách trang sức của cô, đó là mắt thấy sắc tướng
riêng.
Chúng ta
hãy nghe đức
Phật dạy ông Anan
phòng hộ sáu
căn khi mắt
thấy sắc không nắm giữ tướng
chung và tướng riêng của nó.
Ông Anan hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Chúng con là
những tu sĩ trẻ tuổi, khi gặp người nữ thì chúng con phải làm sao?”
Đức Phật
đáp: “Không nên gặp”.
Câu hỏi của
ông Anan trên đây có nghĩa là khi mắt thấy tướng
chung của sắc thì làm
sao cho mắt đừng dính sắc?
Đức Phật
đáp: “Không nên
gặp”. Có nghĩa là
giữ gìn mắt đừng cho
thấy tướng chung của nó,
vì khi đã thấy
thì xả bỏ ra rất khó khăn. Đó là cách phòng hộ thứ nhất
của người tu sĩ đạo Phật,
có nghĩa là ngừa bệnh hơn trị bệnh.
Vì vậy,
người tu sĩ đạo Phật
muốn phòng hộ sáu căn để khỏi tiếp
xúc sáu trần thì khi đi, đứng, nằm, ngồi mắt phải
nhìn xuống, không ngó qua, ngó lại, không liếc ngược liếc
xuôi. Tai cũng vậy, cố lắng nghe mọi sự hoạt động trong thân, không được lắng
nghe âm thanh bên ngoài.
Vì Thế, đức
Phật dạy chúng ta tu tập thân hành niệm
nội hay ngoại cũng nhằm
mục đích phòng hộ mắt,
tai, mũi, miệng,
thân, ý của mình
không cho dính mắc sáu trần.
Đi
tôi biết tôi
đang đi, thở tôi biết tôi đang thở
hoặc làm việc
gì thì tôi biết tôi đang làm việc đó. Đó là pháp phòng hộ sáu
căn đệ nhất của đạo
Phật mà các
nhà học giả họ
không hiểu nên thường dạy mọi người tu trong việc làm. Pháp phòng hộ mà thành
pháp ức chế tâm thật là buồn cười
cho những người mù dắt một đám người mù đi.
Ông Anan hỏi tiếp: “Bạch
Thế Tôn! Lỡ chúng con gặp
thì sự giữ gìn không
cho mắt dính sắc thì chúng
con phải làm như thế nào?”
Đức Phật
đáp: “Đừng nói chuyện”.
Đây là cách
phòng hộ thứ hai. Có nghĩa là thấy được tướng
chung của đối tượng
thì phải mau mau tránh xa. Đừng nói
chuyện, có nghĩa là
đừng sáp lại gần, sáp lại gần tức là thấy
tướng riêng vì tướng riêng khó bỏ hơn tướng chung.
Trên đây là
hai pháp ngăn ngừa. Người tu sĩ biết dùng
pháp ngăn ngừa là
tốt nhất trong sự tu tập phòng
hộ sáu căn.
Pháp ngăn ngừa thứ nhất như ông Anan đã hỏi
đức Phật ở trên là không cho thấy tướng chung, không thấy tướng chung thì làm
sao có dính mắc được.
Pháp thứ hai
là pháp ngăn
ngừa không cho thấy tướng riêng,
mà đã không thấy tướng riêng thì làm sao
dính mắc được.
Bây giờ
chúng ta đọc lại câu hỏi: “Để hộ
trì các căn”, đức Phật dạy: “chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng”.
Chúng tôi lấy
câu chuyện ông Anan hỏi Phật để trả lời và giảng rộng cách thức hộ trì các căn
mà đức Phật
đã cô đọng
qua lời nói ngắn gọn
khiến cho chúng ta
không biết đâu mà thực hành.
Tóm lại, sự phòng hộ, hộ trì các căn là tu chánh niệm tĩnh giác
thân hành niệm thì tâm không dính
mắc sáu trần.
Đó là pháp
môn ngăn ác pháp, ly dục tuyệt vời của đạo Phật, chúng ta nên nhớ lấy mà
tu tập. Phần nhiều tu sĩ thời nay
không tu tập
phòng hộ, hộ trì
các căn, vì thế
tâm thường phóng
dật chạy theo sáu trần, do đó mà tu mãi không thành tựu.
Về cách
thức hộ trì
sáu căn như
câu chuyện ông Anan hỏi Phật
thì quý Thầy cũng đã
hiểu rồi. Nhưng câu hỏi của con ở đây nhắm vào chỗ
tu tập khi sáu căn tiếp xúc
sáu trần chứ không còn là phòng hộ,
hộ trì nữa mà là đi sâu vào phương pháp
hóa giải cho căn
và trần không dính mắc. Muốn
biết pháp hóa giải căn
và trần không dính mắc thì chúng ta lắng nghe
ông Anan hỏi Phật.
Ông Anan
hỏi Phật: “Lỡ
chúng con nói chuyện thì làm
sao?”.
Đức Phật
đáp: “Quán như
em, như chị, như mẹ”.
Trong hội
chúng này có
vua Ba Tư Nặc tham
dự nên nhà vua quỳ xuống hỏi Phật:
“Bạch Thế Tôn!
Chúng con là hàng cư sĩ không thể quán như vậy được”.
Đức Phật
đáp: “quán bất tịnh”.
Qua hai câu
trả lời trên đây chúng ta hiểu đức Phật đã dạy chúng
ta tu tập
pháp môn Định Vô Lậu. Đối
với sắc tướng của nữ
giới để không dính mắc tâm
mình thì phải quán
như em, như chị, như mẹ, và nếu còn dính
mắc thì phải quán bất tịnh.
Đối với các sắc pháp của
vạn hữu
thì ta phải quán
vô thường, khổ,
vô ngã; phải thấy sự nguy hiểm, sự tai hại, sự khổ đau của các sắc pháp;
phải tưởng nhàm
chán các sắc pháp.
Có tưởng có
quán như vậy
thì tướng chung tướng riêng không dính mắc.
Tóm lại, khi
sáu căn tiếp xúc sáu trần không nắm giữ tướng chung tướng riêng của nó
thì chúng
ta nên tu Định
Vô Lậu,
tức là diệt các ác pháp và ly dục trong ta.
Cách thức tu
tập như vậy gọi là phòng hộ, hộ trì
các căn
không nắm giữ tướng chung và tướng riêng của nó.
THẾ GIỚI
SIÊU HÌNH
Câu hỏi của
Mỹ Linh (Tú)
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong “Giáo
Án... tập 3” Thầy
nói: khi còn sống mọi hoạt động của con người đều “lưu lại” ở từ trường
trong không gian, và chỉ người
nào có tưởng
thức mạnh mới giao cảm được với tần số của từ
trường ấy mà “thấy và
nghe được” những
sự việc đã diễn
ra của người chết.
Như cô Khang bị rứt móng tay... Tóm lại, vậy là
“có” linh hồn người chết,
nhưng người thấy người không, chứ nói
“không có” linh hồn, thì mọi người không ai chịu tin hết Thầy ạ! Rồi họ
đưa ra việc cầu hồn, thấy ma...
Thưa Thầy:
Hay là Phật nói không có linh hồn,
vì nó có
nhưng không thật;
hay để con người không
nhớ thương, không ỷ lại
nương tựa tha lực?
Đáp: Không
phải vậy, không phải vì lý do nhớ
thương hay ỷ lại
mà đức Phật
nói không có thế giới siêu
hình, mà thật sự hoàn toàn thế giới siêu
hình không có. Trong vấn đề linh hồn người chết
có hay không,
điều này đã
mang nặng một dấu ấn trong
tâm của mọi người
là có linh hồn người
chết. Muốn xác định
cho rõ ràng điều này, thì không
có cách nào
hay hơn bằng chính người ấy phải tự nhập Tứ Thánh Định, an trú
trong ấy, rồi
dùng Trạch Pháp Giác
Chi hướng tâm đến
Thiên Nhãn Minh quan sát
thế giới siêu
hình, thì chừng đó mới
xác quyết chắc
chắn rằng: người
chết không còn có
linh hồn tồn tại
hay là không
có sự sống sau khi chết.
Ở đây,
Thầy đã giải
thích rất nhiều
về vấn đề thế giới siêu
hình, nhưng ai
là người hiểu vấn đề này.
Người tri âm khó gặp, tri kỉ khó
tìm. Người nghe được tiếng
đàn của Bá Nha, chỉ có Tử Kỳ mà thôi. Nhưng Tử Kỳ chết,
Bá Nha đập nát chiếc đàn. Vì trên đời này còn có ai nghe được tiếng đàn của
mình. Thầy cũng vậy, chỉ
có người nào
tu chứng quả A
La Hán mới hiểu được tiếng nói của Thầy.
Thầy sẽ không
phụ lòng những
câu hỏi của các
con, Thầy cố gắng
trả lời cho các
con hiểu.
Các con nên
hiểu thế giới mà loài người đang sống là một thế giới sắc tướng, có sự
sống, có vạn vật hiện hữu, thế mà đức Phật gọi nó là thế giới tưởng thì chúng
ta có tin không?
Thế giới của chúng
ta đang sống
không phải do “tưởng uẩn làm ra”
như thế giới siêu hình mà do các
duyên hợp lập thành. Vì thế, không có một vật gì thường hằng, luôn tan hoại
theo thời gian
năm tháng. Thế mà chúng
ta điên đảo tâm,
điên đảo tưởng,
điên đảo tình, điên
đảo kiến chấp
thủ mọi vật
là có thật,
là ta, là của ta v.v.. Thế giới hiện hữu là không có thật, vì thế mọi vật
thường vô thường. Trên thế gian không có một vật gì là trường cửu vậy mà mọi người
cho nó là có thật thì không
phải đó là điên đảo sao? Do cho nó có thật, nên mọi người cố làm ra
cho nhiều, cố làm ra cho nhiều nên làm ra nhiều điều ác. Do làm nhiều điều ác
nên phải thọ chịu những quả khổ đau.
Với đôi mắt của Phật nhìn mọi vật
trên thế gian này, như bong bóng nước, như hoa phù du sớm nở tối tàn,
đó là một bằng chứng
thật sự. Vì thế, đức Phật
cho rằng thế giới mà
chúng
ta đang sống
là thế giới của tưởng
tri. Vậy mà có ai tin đâu.
Chúng ta lại một lần điên đảo nữa,
cái hình bóng của thế giới hiện tượng hữu hình tưởng tri này lại cho là
thế giới siêu hình.
Ví dụ: Một cuộn
băng video thu những
hình ảnh núi, sông, nhà cửa, người và vạn vật đang sinh hoạt nhảy múa. Với những
hình ảnh này chúng ta cho đó thế giới
siêu hình sao?
Những
hình ảnh núi, sông, đất đá, cây cỏ, người
và thú vật trong băng video hiện ra và hoạt động được là nhờ dòng điện, đầu máy
và màn hình.
Còn thế giới
siêu hình cũng vậy, nó được hiện ra và hoạt động
là nhờ tưởng
uẩn của chúng ta bắt gặp và lập
thành, chứ nó không có
thật.
Các con cũng nên biết và
phân biệt tưởng cho rõ ràng. Tưởng
có hai phần cụ thể:
1- Ý thức tưởng
là chúng ta
dùng ý thức mà tưởng tượng ra một vật mà vật đó
không có ở trước mắt.
2- Tưởng thức tưởng là do năng lực hoạt động của
tưởng uẩn khiến cho những hình ảnh của thế giới sắc tướng hiện hữu của
loài người
đang sống đã
được lưu lại trong không gian trở thành
linh động, khiến cho mọi
người chưa đủ trí tuệ sáng
suốt, đang sống
trong điên đảo tâm,
điên đảo kiến,
điên đảo tưởng,
điên đảo tình mới cho những
hình ảnh ấy là có thật thế giới siêu
hình thật. Vì thế mới
có việc cầu
cơ, cầu hồn, thấy ma, thấy quỉ v.v..
PHẬT GIÁO ĐẠI
THỪA
Câu hỏi của
Thượng Toạ Sắc Tứ
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Phật
giáo Đại
Thừa có phải
là Phật giáo chánh thống không?
Đáp: Phật
giáo Đại Thừa không phải là Phật giáo chánh thống, mà là Phật giáo theo kiểu kiến
giải giáo pháp của Bà
La Môn. Hay nói cách khác Phật giáo Đại Thừa là đạo
Bà La Môn lấy tên là
Phật giáo Đại Thừa để lừa đảo tín đồ
Phật giáo. Cho
nên, nghĩa lý
toàn bộ kinh sách Đại Thừa là
Giáo pháp của
Bà La Môn chính gốc.
THIỀN ĐÔNG ĐỘ
Câu hỏi của
Thượng Toạ Sắc Tứ
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Thiền Đông Độ
có phải là của Phật giáo hay không?
Đáp: Thiền
Đông Độ không phải là của Phật giáo mà là của Lão giáo Trung Hoa (Tiên Đạo). Tư tưởng Lão
Trang Trung Hoa
phát triển, có những
điểm tương đồng với tư tưởng
kinh sách phát triển
Đại Thừa giáo, Ấn Độ giáo. Vì thế, sau này Phật giáo Đại
Thừa đồng hóa tư tưởng Lão
giáo lấy tên
là “Phật giáo Tối Thượng Thừa” hay còn gọi là “Thiền
Tông”. Chủ trương
của Thiền Tông là kết hợp Lão
Giáo và Đại
Thừa, nên thường
gọi là “Thiền Giáo đồng hành”.
Phật giáo
Đại Thừa là Phật giáo
Bắc truyền thuộc Bà
La Môn Giáo
và Ấn Độ
Giáo kết hợp và
phát triển theo
tưởng giải tạo
ra. Cho nên, những tư tưởng trong
kinh sách Đại Thừa là
tư tưởng của
hai giáo phái
này. Tư tưởng của
hai giáo phái này mang
tính chất trừu tượng, mơ hồ, ảo giác và đầy dẫy sự mê tín
v.v.. Lấy thế
giới siêu hình làm nơi an trú cuối cùng.
NIÊN LỊCH PHẬT
GIÁO
Câu hỏi của
Thượng Toạ Sắc Tứ
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Phật lịch 2.546 năm và 2.626 năm. Vậy niên lịch nào
đúng và niên lịch nào sai, xin
Thầy dạy cho chúng
con
biết.
Đáp: Hiện giờ,
tín đồ Phật giáo trong nước, cũng như ở khắp
thế giới đều
không biết rõ ngày tháng
năm sanh của đức Phật, vì lịch
sử của đức Phật không có ghi chép cụ thể. Hiện giờ tín đồ
Phật giáo đều
dùng Phật lịch
2.546 năm theo hệ
Nam Tông, chứ ít
ai dùng
2.626 năm theo hệ Bắc Tông.
Niên lịch Phật
giáo Bắc Tông không đáng cho tín đồ Phật giáo
tin tưởng, vì thế
mà không dùng niên lịch Bắc truyền.
Mặc dù lịch sử
chưa chứng minh
được Phật lịch năm
nào đúng, sai
là vì không có sử liệu
ghi chép lại
chính xác. Cho
nên, năm
2.546
và năm 2.626 đều không
đúng. Nhưng hiện giờ chúng ta dựa
vào những cuộc họp Phật giáo thế giới,
chấp nhận lấy
năm 2.546 làm niên
lịch Phật giáo.
Bây giờ phần
đông tín đồ Phật giáo
quen dùng niên lịch
Phật giáo năm
2.546 năm là
đúng hơn 2.626 năm.
THUYẾT PHÁP
45 NĂM VÀ
49 NĂM, NĂM
NÀO ĐÚNG?
Câu hỏi của
Thượng Toạ Sắc Tứ
Hỏi: Sai biệt giữa
Nam Tông và Bắc
Tông về
thời gian trụ thế và
thuyết Pháp của đức
Phật 45 năm theo Nam Tông 49 năm
theo Bắc Tông. Thưa Thầy bên nào đúng?
Đáp: Căn cứ
theo kinh sách Nguyên Thủy là loại kinh sách gốc của Phật thuyết nên 45 năm
thuyết Pháp đúng hơn. Còn 49 năm theo Bắc Tông là sai. Vì kinh sách theo Bắc
Tông do kiến giải của các Tổ viết ra, nên có sự
bóp méo sự thật, vì thế 49
năm thuyết pháp
không đúng. Bởi vì Bắc Tông cho bộ
kinh Bát Nhã là
quan trọng là đệ nhất
trong các kinh nên
nói rằng: Đức Phật
thuyết pháp cho hàng
Bồ Tát
20 năm mới
xong bộ kinh này.
Vì thế 49
năm thuyết Pháp là không đúng theo lịch sử chân thật của Phật giáo.
Nếu chúng
ta tính thời gian
tu chứng và bắt
đầu giảng đạo
cho đến chết thì sẽ
rõ thời gian.
KINH SÁCH
NGUYÊN THßY VÀ
ĐẠI THỪA, KINH
NÀO ĐÁNG TIN CẬY
Câu hỏi của
Thượng Toạ Sắc Tứ
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Những kinh sách nào đáng được tin cậy để tu được giải thoát xin Thầy chỉ dạy
cho chúng con được rõ.
Đáp: Kinh
sách Nguyên Thủy
là kinh sách đáng
được tin cậy nhất.
Vì đó là lời dạy của
đức Phật, tuy
rằng trong các
Tổ bên Nguyên Thủy
cũng có thêm
bớt rất nhiều, nhưng những lời dạy của Phật còn rõ
ràng nguyên gốc hơn nhiều. Còn kinh sách Đại Thừa
không
đáng tin tưởng, vì
các Tổ tự viết kiến giải
theo tư tưởng
của giáo lý
Bà La Môn mà
viết ra kinh Đại Thừa.
Nên đường lối
và cách thức tu tập đều quá sai,
từ cúng bái, tụng niệm, chú thuật đều chịu ảnh hưởng
của Bà La Môn. Cho đến pháp tu về thiền định cũng đều thuộc về thiền
tưởng của ngoại
đạo. Cho nên, Thầy Tổ
sau này tu
hành chẳng có kết quả giải
thoát.
Vì thế, kinh
sách Đại Thừa là những loại kinh sách không đáng tin cậy, nó là những loại kinh
tưởng, kinh nói không đúng sự thật, kinh nói những điều mơ hồ trừu tượng, kinh
dùng để tranh cãi hơn thua, chứ
không phải kinh dùng để tu tập giải thoát làm chủ bốn sự
khổ đau của kiếp người.
Cho nên,
kinh sách Đại Thừa các bạn phải đề cao cảnh giác, nếu các bạn không cảnh giác
thì cuộc sống tu hành của các bạn chẳng đi đến đâu, đời chẳng ra đời mà đạo chẳng
ra đạo, rất uổng phí cho một kiếp làm người.
KINH SÁCH ĐẠI
THỪA CĨ PHÂI LÀ CHÁNH PHÁP KHƠNG?
Câu hỏi của
Thượng Toạ Sắc Tứ
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Kinh Di
Đà, Di Lạc, Địa Tạng, Pháp Hoa,
Kim Cang, Lăng Nghiêm và mật chú, v.v..
có phải chánh pháp của Phật nói hay không?
Đáp: Tất cả mọi
kinh sách đã kể ra và nêu tên ở trên, toàn là kinh sách chịu ảnh
hưởng của giáo lý Bà La Môn. Từ pháp hành, cúng bái, tụng niệm cho đến pháp thiền
đều có vẻ mơ hồ trừu tượng,
mê tín. Trong các
kinh này luôn luôn tạo cách dụ dỗ
và hù dọa như:
“Dù cho
tạo tội như
núi cả. Diệu
Pháp Liên Hoa tụng mấy
hàng” hoặc “Ai
không tin kinh này đầu sẽ bị bể bảy miếng”.
Và cuối cùng kinh nào cũng tự cho mình
là đệ nhất pháp.
Đọc qua kinh
sách này nếu
người nào có trí thì nhận ngay ra liền kinh này không
phải Phật thuyết, vì thế kinh này nó
không phải là chánh pháp của Phật.
LUẬT TỨ PHẦN
Câu hỏi của
Thượng Toạ Sắc Tứ
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Những điều trong luật Tứ Phần có đầy đủ và đúng lời Phật dạy không?
Đáp: Luật Tứ Phần
là do các Tổ biên soạn, dựa theo giới kinh có thêm bớt rất
nhiều cho phù hợp với
hoàn cảnh, phong tục của mỗi người, mỗi dân tộc trên bước đường hành hóa
truyền đạo. Do sự tùy thuận vào mỗi nước, mỗi phong tục của dân tộc nên các Tổ
đã làm lệch ý Phật qua bộ giới luật Tứ Phần.
Muốn rõ được
điều này xin quý vị đọc giới đức
Thánh Tỳ Kheo
Tăng, Tỳ Kheo
Ni thì sẽ
rõ.
Bộ giới luật
này chưa được xem là đầy đủ, vì
trong kinh Nikaya Đức Phật dạy nhiều
bài kinh nói về thiện pháp, tức là giới mà trong Tứ Phần Luật không có.
Sau này có điều kiện phải được chấn chỉnh để chỉ rõ cho mọi người biết Thánh hạnh
của Tỳ Kheo Tăng và Tỳ Kheo Ni.
KINH PHẠM
VÕNG BØ TÁT GIỚI
Câu hỏi của
Thượng Toạ Sắc Tứ
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới có phải chánh pháp của
Phật chăng? Xin Thầy từ bi chỉ dạy cho
con được rõ.
Đáp: Kinh Phạm
Võng Bồ Tát Giới không phải là chánh pháp
của Phật màø là của
Bà La Môn có thâm ý muốn diệt Phật Giáo
nên mới chế ra Bồ Tát Giới.
Mục đích của Bồ
Tát Giới là bộ sách
có hình thức tổ chức người cư sĩ
thành một tổ chức để phục vụ cho Phật Giáo Đại Thừa.
Phần thứ nhất là
khuyến dụ người
cư sĩ thọ Bồ Tát Giới để góp công, góp của xây dựng đạo pháp của Bà
La Môn, nhưng
sự thật là phục vụ cho quý thầy Đại Thừa:
1/ Cúng
bái tế lễ để cho Phật
tử bỏ tiền ra đóng góp.
2/ Làm
từ thiện cũng
do Phật tử
đóng
góp.
3/ Xây cất chùa to Phật lớn cũng do Phật
tử đóng góp.
4/ Cấm Phật tử không được
tu theo Phật giáo Nguyên Thuỷ (Tiểu Thừa).
5/ Làm tất cả mọi công việc trong chùa chuyện lớn,
chuyện nhỏ hoặc chuyện nặng nề khó khăn đều do Phật tử đóng góp công sức gọi là
công quả.
Bồ Tát Giới là một bộ
sách khuyến dụ Phật tử để lừa công sức và lừa của cải, tiền
bạc của họ.
Bồ Tát Giới là một loại
kinh sách với thâm ý diệt Phật giáo. Quý vị đọc cho kỹ
lại bộ sách thì mới thấy
rõ âm mưu
thâm độc của Phật giáo phát triển Đại Thừa.
SỰ SAI BIỆT
GIỮA PHẬT GIÁO VÀ BÀ LA MÔN
Câu hỏi của
Thượng Toạ Sắc Tứ
Hỏi:
Kính thưa Thầy! Sự sai biệt giữa Bà
La Môn Giáo
và Phật Giáo như thế nào?
Đáp: sự khác
biệt giữa Bà La Môn giáo và Phật
giáo có rất nhiều sự sai
khác mà ít người để ý đến như:
1- Phật
giáo bình đẳng
không chấp nhận giai
cấp, nên giai cấp nào đến với Phật giáo đều
được hướng dẫn
tu tập như
nhau và đều được chứng quả A La Hán không khác nhau.
Trong xã
hội Phật giáo
không có giai cấp nào cả, chỉ toàn là những người giới luật
nghiêm chỉnh gọi là Hiền Giả, đó là những bậc chưa chứng quả A La Hán; còn những
bậc vô lậu chứng quả A La Hán gọi là Thánh Giả, còn gọi là Trưởng Lão.
Ông Ca Chiên
Diên là người sanh ra trong giai cấp cùng đinh,
được Phật tiếp độ tu tập chứng quả A
La Hán. Đó
là đã phá
giai cấp trong xã hội lúc bấy giờ.
Cho giới nữ xuất gia chứng quả Thánh
A La Hán,
đó cũng là đập
phá tư
tưởng trọng nam
khinh nữ của
xã hội Phật giáo lúc bấây giờ.
Bà La Môn chấp
chặt bốn giai cấp trong xã
hội, cho giai cấp
mình là trên hết. Chấp nhận với tinh thần trọng nam khinh nữ của
xã hội. Đó là sự khác biệt giữa Phật giáo và Bà La Môn Giáo.
2- Phật giáo
không chấp nhận có thế giới
siêu hình, thế giới siêu
hình chẳng qua chỉ
là hình bóng của thế
giới hữu hình
con người mà thôi.
Cái
nhìn của Phật
giáo thiết thực,
cụ thể hơn, nên thế giới
siêu hình là thế giới của
tưởng tri, chứ
không phải là thế giới của liễu
tri.
Bà La
Môn chấp nhận
có thế giới
siêu hình nên không giống đạo Phật
ở chỗ này có vẻ mơ hồ. Đạo Phật phi thế giới siêu hình nên đạo Phật thực tế hơn.
3- Đạo Phật
không chấp nhận tụng niệm,
Bà La
Môn chấp nhận tụng niệm.
Đức Phật dạy: “Này Bà La Môn, một
người tụng niệm chú thuật giỏi
mà phạm giới
còn tham lam, trộm cắp, còn vọng
ngữ, tà dâm thì người ấy có xứng đáng là Bà La Môn không?”. Xin các bạn trả lời.
Một người
không tụng niệm,
không vi phạm giới
luật không giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ thì người ấy là người có xứng
đáng là Bà La Môn không?
Do sự so sánh này giữa tụng
niệm và không
tụng niệm, giữa
trì giới và không
trì giới, mà chúng ta biết rất rõ
đức Phật không chấp nhận tụng niệm. Thế mà đạo
Phật bây giờ
đi ngược lại đạo Phật
ngày xưa. Đạo Phật
ngày xưa có tiến bộ
hơn đạo Phật bây giờ. Đạo Phật
bây giờ lùi lại ở thế kỷ lạc hậu ngày xưa.
Như vậy,
đạo Phật
có sự sai
khác với đạo Bà
La Môn. Nhưng
hiện nay các
chùa mang danh là Phật giáo, mà
thật sự là chùa Bà La Môn. Vì tứ thời tụng niệm ê a, tiếng chuông, tiếng
mõ vang rền. Còn chùa Phật Giáo
không tụng niệm, chỉ
ngày đêm chuyên
cần tu tập ngăn ác
diệt ác pháp, đó
mới chính là sự
công phu tu tập của Phật
giáo. Đó là sự sai
khác giữa Bà La Môn và Phật giáo.
4- Bà La Môn
chấp nhận có tướng tốt mới thành một tu sĩ Bà La Môn, còn Phật Giáo thì không
chấp nhận tướng tốt, nên đức Phật dạy: “Người có tướng tốt
mà còn tham
lam, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, còn ăn uống phi thời, còn cất giữ tiền bạc
thì chưa thành một Bà La Môn”. Kinh sách Đại Thừa thường ca ngợi 32
tướng tốt 80 vẻ đẹp của đức
Phật, nhưng trong kinh Nguyên Thủy thì đức Phật không chấp nhận, bài
bác tướng tốt của Bà
La Môn. Như vậy các bạn nghĩ sao? Ba mươi hai tướng tốt
80 vẻ đẹp có phải là của Phật
giáo không? Đó là
sự khác biệt giữa Bà La Môn và Phật
giáo…
5- Phật
giáo không mê
tín, Bà La Môn giáo
mê tín. Kinh sách dạy mê
tín như: Kinh Địa Tạng Vương,
kinh Vu Lan Bồn,
Kinh Di Đà. Kinh Bát Dương, kinh Viên Giác…
6- Phật giáo
nương vào tự lực
của mình, Bà La Môn
giáo nương vào
tha lực của thần quyền
như: Kinh Pháp Hoa Phẩm Phổ
Môn, kinh Quy Ngươn, kinh Vô Lượng Quang, kinh Di Đà…
7- Phật Giáo
không khổ hạnh
chỉ tu tập xả tâm, Bà La Môn khổ hạnh như: đứng một
chân, ngồi kiết già
nhiều giờ khiến
cho thân mỏi mệt và
đau nhức; ăn
quá ít, mùa Đông nằm trong nước lạnh, làm cho thân chịu
nhiều khổ đau... Phật giáo
không làm khổ mình như vậy, những pháp môn của Phật giáo thường
tu tập xả tâm, đẩy lui các chướng ngại pháp trong thân, thọ, tâm, pháp. Sống một
đời sống thanh thản an lạc và
vô sự. Đó là
sự sai khác
giữa Phật giáo và Bà La Môn giáo.
8- Thiền Phật
giáo tu tập chế ngự và xả tâm, nên có bảy năng lực
Giác Chi
xuất hiện giúp cho hành giả nhập các định và
thực hiện Tam Minh. Ngược lại, thiền Bà La Môn tu tập ức chế, không xả
tâm, không ly dục ly ác pháp, nên rơi
vào thiền định tưởng.
Đó là sự sai
khác giữa đạo Phật và Bà La Môn.
9- Bà
La Môn Giáo chấp
có đấng Giáo Chủ, Phật giáo
chấp không có đấng Giáo Chủ. Người
ta tôn xưng đức Phật lên làm đấng Giáo
Chủ, nhưng
Đức Phật chỉ xem mình là một
Bà La Môn sống đúng phạm hạnh, chứ không phải như những Bà La Môn phạm
giới, phá giới, bẻ vụn giới,
chuyên cúng tế, cầu siêu, cầu an v.v..
Xin quý vị
nên đọc lại kinh Pháp Cú sẽ thấy đức Phật xác định Bà La Môn đúng và Bà La Môn
sai, rồi suy ngẫm ra mới thấy đạo Phật được mọi người suy tôn thành đạo Phật,
chứ không phải tự đức Phật thành lập ra đạo Phật như các tôn giáo khác.
Đức Phật khi
tu xong, Ngài chỉ mong đem giáo pháp chân thiện mỹ của mình, làm lợi ích cho mọi người, khiến cho mọi người
sống biết thương nhau, đem lại hạnh phúc cho nhau, không còn
làm khổ mình,
khổ người nữa, đấy
là ước nguyện của Phật cũng đủ lắm rồi, chứ Ngài đâu có nghĩ rằng: Ngày nay Phật
giáo là một tôn giáo
thật sự như vậy. Một
tôn giáo ngoài sự ước muốn của đức
Phật.
Những điều
chúng tôi nói trên đây là
một sự thật. Các bạn hãy nghe lời dạy cuối cùng của đức Phật trước khi
chết: “Sau khi Ta nhập diệt các thầy Tỳ Kheo hãy lấy giới luật
và giáo pháp của Ta làm thầy”.
Lời dạy này rõ ràng đạo Phật
không phải là một tôn
giáo mà là một
môn học về đạo đức
nhân bản – nhân
quả
có phương pháp học tập và
rèn luyện hẳn hoi.
Như vậy, đạo Phật và đạo Bà
La Môn không giống nhau, khác xa
mọi mặt.
10- Bà La
Môn với Phật giáo khác nhau một trời một vực. Bà
La Môn xây dựng có tiểu ngã và đại
ngã. Đại ngã là bản thể của vạn hữu ví như nước biển; tiểu ngã là thể tánh của mỗi sinh vật ví như giọt
nước. Khi một chúng sanh chết thì thể tánh ấy giống
như giọt nước
rơi vào biển cả thì chỉ còn là một khối nước. Ngược lại, Phật
giáo cho thế giới hữu sắc
và vô sắc đều
là thế giới
tưởng, không có một vật gì
thường hằng, vĩnh
viễn, luôn luôn
vô thường thay đổi từng sát na. Vạn
vật sinh ra trong vũ trụ do các duyên
hợp thành, nên
khi tan hoại thì không còn một vật
gì tồn tại. Thân tâm con người đã là
không thật thì không
còn có một vật gì, một thế giới vô hình ảo ảnh nào là chân thật cả. Vì thế, đạo Phật
là Đạo vô ngã, chứ không hữu ngã.
Mà cũng không
phải vô ngã theo kiểu Đại Thừa và Thiền Tông. Vô ngã
mà còn có Phật tánh, còn có cõi Niết Bàn, Cực Lạc Tây Phương, vô ngã mà còn có
Ngọc Hoàng Thượng Đế, vô
ngã thì không có Đại ngã và
Tiểu ngã
v.v.. Đó là những sự
khác biệt giữa Phật giáo và Bà La môn.
THÂM Ý CỦA BÀ LA MÔN VỚI PHẬT GIÁO
Câu hỏi của
Thượng Toạ Sắc Tứ
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Thâm ý của Bà La
Môn với Phật
giáo như thế
nào? Xin Thầy dạy rõ cho chúng con biết.
Đáp: Thâm ý
của Bà La Môn đối với Phật giáo là muốn
diệt Phật giáo bằng nhiều
thủ đoạn:
1/ Chế Bồ Tát giới cấm cư sĩ và tu sĩ học,
không được tu tập theo kinh sách Nguyên Thủy (Tiểu Thừa).
2/ Dùng lý luận trí tuệ Bát Nhã
đập phá chân lý của Phật
giáo. “Vô khổ,
tập, diệt, đạo”.
3/ Luồn lách đưa giáo lý của mình vào để thay thế giáo lý của Phật giáo.
4/ Đưa đức Phật
Di Lặc ra để
thay thế đức Phật
Thích Ca làm
giáo chủ Phật
giáo trong thời vị lai.
BÀ LA MÔN
Câu hỏi của
Thượng Toạ Sắc Tứ
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Bà La Môn trong kinh Pháp
Cú mà đức Phật ca ngợi
và Bà La Môn
nào mà đức Phật chê,
bài bác. Xin Thầy
dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Bà La
Môn được đức Phật khen ngợi là một Bà
La Môn sống
đúng giới luật
và chánh pháp của Phật, còn sống không
đúng giới luật và
chánh pháp của Phật thì đức Phật chê, không
chấp nhận. Vậy
chúng ta hãy đọc
lại những bài kinh Pháp Cú thì sẽ biết rõ ràng
hơn:
“Với người
thân, miệng, ý Không làm các ác hạnh Ba nghiệp được phòng hộ Ta gọi Bà La Môn”
Thân, miệng,
ý không làm các ác hạnh tức
là sống
đời sống giới
luật nghiêm chỉnh, thường tu tập các
pháp ly dục ly ác
pháp diệt ngã xả tâm, tức là
phòng hộ ba nghiệp.
“Đoạn hết
các kiết sử
Không còn gì lo sợ
Không đắm
trước buộc ràng
Ta gọi Bà La
Môn”
Đoạn hết
các kiết sử, tức là
dùng pháp ngăn ác diệt ác (Tứ
Chánh Cần) đó là Bà La Môn tu đúng pháp được đức Phật chấp nhận. Không đắm
trước buộc ràng,
tức là hộ trì
các căn: mắt, tai,
mũi, miệng, thân,
ý không cho dính
mắc sáu trần:
Sắc, thinh, hương, vị,
xúc,
pháp.
“Bỏ điều ưa,
điều ghét
Thanh lương,
không nhiễm ô
Hùng dũng thắng
mọi cõi
Ta gọi Bà La
Môn”
Thân tâm được trong
sạch không cấu uế
như vầng trăng
sáng, tịnh lặng
giữa đêm trường sâu thẳm
và
tất cả những
hữu ái đều được
đoạn trừ. Nếu
người nào giữ
thân tâm được như vậy là tu tập Tứ
Niệm Xứ được viên mãn. Người ấy được đức Phật chấp nhận là một Bà La Môn.
“Như trăng sạch
không uế Sáng trong và tịnh lặng Hữu ái được đoạn tận
Ta gọi Bà La Môn”
Tóm lại, người
được đức Phật gọi là Bà La Môn là phải sống đúng
giới luật thường
ngăn ác diệt ác
pháp “Chư ác mạc tác,
chúng thiện phụng hành”.
Một Bà La
Môn tu tập và sống như vậy chính là tu sĩ Phật giáo,
còn ngược lại là một Bà
La Môn của đạo Bà La
Môn hay
nói cách khác một tu
sĩ Phật giáo sống
phạm giới, bẻ vụn giới,
sống chạy theo danh lợi làm những điều mê tín lừa đảo
tín đồ là Bà La Môn của Đạo Bà La Môn.
LỜI GIỚI THIỆU
Bước vào rừng kinh
Pháp Cú chúng
ta ngơ ngác như người lạc lối vào rừng sâu, không biết lối
ra. Kinh Pháp Cú
cũng vậy, khi bước
vào rừng
kinh Pháp Cú,
chúng ta không
biết kinh nào đúng,
kinh nào sai. Đây
các bạn hãy đọc
một số kinh pháp
Cú mà hiện giờ
đã được dịch ra Việt ngữ:
Kinh Lời
Vàng, Tìm Hiểu và Học Tập Kinh Pháp Cú, Kinh
Pháp Cú Thí Dụ, Tích Truyện Pháp
Cú kinh v.v..
Trong số
kinh Pháp Cú nhiều như vậy, có những bài
kinh giống nhau,
nhưng cũng có những
bài kinh không
giống. Vả lại
các nhà chú giải các kinh Pháp Cú trên, chỉ ở trên ngôn ngữ giảng thuyết
và soạn viết ra. Vì thế mà khó cho chúng
ta tìm thấy cho mình
một lối đi để có
thể giải quyết
được đời sống
đau khổ cho mình.
Đọc kinh
Pháp Cú hay
thì thật là
hay, nhưng hay trong ngôn từ, chứ
không hay trong pháp hành, vì không có
pháp hành cụ thể, chỉ vì kinh
sách được biên dịch và chú giải do các học
giả, chứ không
phải hành giả.
Vì thế, chúng tôi không biết phải
hành như thế nào để
có kết quả giải
thoát những đau khổ về nội
tâm của mình.
Lúc bấy giờ
chúng tôi nghĩ rằng: Không lẽ kinh là lời Phật dạy
mà chỉ
có nói suông
như ca dao, tục ngữ sao? Nếu lời Phật dạy chỉ là lời nói suông
thì còn có
nghĩa lý gì. Phải không hỡi các bạn?
Bao
nhiêu dịch giả,
giảng sư giảng dạy, chú thích và cả những mẩu chuyện pháp cú để xác chứng
nghĩa lý của những câu kinh này. Ý muốn của những học giả là làm cho kinh
Pháp Cú rõ ràng
ý nghĩa hơn.
Chính vì lẽ
đó mà kinh Pháp Cú càng trở nên sai lệch ý Phật, tối nghĩa, mất pháp hành.
Khiến cho đọc
giả đọc kinh
Pháp Cú chỉ
thấy lời nói
như tục ngữ, ca dao, cách ngôn…
Sau khi
tu hành xong chúng
tôi đọc trở lại bộ kinh này do Phật tử ở Tu Viện Như
Lai bên Mỹ gửi về, có nhã ý muốn chúng tôi làm sáng tỏ nghĩa của những lời dạy này.
Hơn một năm
nay chúng tôi rất bận nhiều việc, nên không làm
sáng tỏ kinh này được.
Nay đã đủ duyên,
chúng tôi quyết
định làm sống lại
phương pháp tu tập Tứ
Thánh Định trong kinh Pháp Cú.
423
câu kinh Pháp
Cú này được
Hoà Thượng Minh Châu dịch. Vì chúng tôi chọn lấy những câu
kinh của Hòa
Thượng Minh Châu, vì Hòa Thượng
là người dịch giả không thêm, bớt,
không sửa sai từ ngữ
mà chỉ trung thực theo chữ nghĩa dịch lại rất sát với
nguyên bản. Còn những bản
kinh Pháp Cú
khác thì chúng tôi
xem đó là
kinh phát triển
thêm bớt rất nhiều.
Như Hoà Thượng
Minh Châu đã nói:
“423 bài kệ trong kinh
này, tóm thâu
tinh hoa giáo lý đức Phật”. Như vậy 423 bài
kệ này có phải
là những
pháp hành và những kinh
nghiệm của đức Phật
trong giáo trình tu tập để đạt được đạo giải thoát.
Vì thế,
chúng tôi sẽ cố gắng
diễn đạt để quý
bạn có một
pháp hành cụ thể từ
khi bắt đầu cho đến viên mãn.
Muốn được vậy
thì chúng tôi xin quý bạn hãy buông xuống tất cả những kiến giải và kiến chấp của
quý bạn, để quý bạn hoàn toàn có một tâm
khách quan. Và
vì thế, khi
đọc xong “Những lời Phật dạy”
thì quí bạn mới
rõ thấu đường đi của đạo Phật từ
A đến Z hay nói cách khác, từ căn bản đến Tam Minh.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Trong 423
bài kệ này chính là lời dạy của đức Phật
như Hoà Thượng
Minh Châu đã xác định: “Giá trị bất hủ của
kinh Pháp Cú là ở chỗ này, và ta cảm thấy không còn có sự trung
gian của các vị Tổ sư kết tập kinh điển”, nhưng
theo chúng tôi nghĩ: Sự thêm bớt của người sau không thể nào tránh khỏi.
Riêng chúng
tôi đọc kinh
Pháp Cú thấy ngay
được pháp hành
và nền đạo đức nhân bản- nhân quả của đạo Phật.
Để làm sáng
tỏ đạo đức của đạo Phật qua
423 bài kệ,
và xác chứng cho mọi người biết rằng: Đạo Phật có một nền đạo đức nhân bản thật sự
mà trong kinh Pháp
Cú đã nói
lên tất cả rõ ràng, cụ thể.
Cuối cùng,
chúng tôi chỉ ước mong quí bạn hãy lắng nghe những lời chúng tôi diễn đạt với một
tâm hồn vô tư trong sáng, thì sẽ có lợi
ích rất lớn cho các bạn, còn nếu các bạn cố chấp, tự ái, mặc cảm… thì chẳng lợi
ích gì cho các bạn mà khiến cho
các bạn thêm căm tức.
Kính thưa
các bạn! Chúng
tôi chú giải kinh
Pháp Cú là vì
muốn đem lợi ích cho các bạn, chứ riêng chúng tôi thì phải
hao tâm tổn sức. Chúng tôi
mong ước mọi
người, khi đọc
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
những lời
chú giải này, hiểu rõ cách thức tu tập và thực hành có kết quả ngay liền.
Kết quả giải thoát
của mọi người
ra khỏi ác pháp và
tâm tham, sân,
si, thì đó
là một niềm vui chân thật của
chúng tôi.
Kết quả giải thoát
của mọi người
là nói lên được giá trị của
kinh Pháp Cú này. Và cũng nói lên được
nền đạo đức nhân bản-
nhân quả của kinh này.
Sau khi nghe
lời dạy chân thật này của Phật, không gì hơn
là mọi người
phải nghiêm túc thực
hành mang lại kết quả thực sự.
Đó là đền đáp ơn Phật.
Lời dạy của
đức Phật không phải là thứ bánh vẽ, chỉ có lời dạy của ngoại đạo mới mang đến cho chúng
ta một hy vọng mà
không bao giờ đạt được.
Kính ghi
Tu Viện Chơn
Như
Tháng 5 năm
2002
LỜI TỰA GIỚI THIỆU KINH PHÁP CÚ CỦA HÒA THƯỢNG MINH
CHÂU
Tôi dịch tập Dhammapada
ra tiếng Việt để cúng
dường Phật đản
2513 (1969). Quyển kinh
Dhammapada thuộc tập
Khud daka Nikaya (Tiểu
bộ kinh) được
xem như quyển Thánh kinh trong Phật giáo và trở thành
một trong những tập sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trong kinh sách Phật giáo. Không những 423 bài kệ trong
kinh này tóm thâu tinh hoa giáo lý đức Phật,
nhưng nhiều bài kệ đã trở thành những lời dạy chính đức Phật
thân thuyết. Và đọc những bài kệ này, chúng ta cảm thấy như
thân nghe chính lời Phật dạy từ hơn
2000 năm
vang lại. Giá trị bất hủ của tập Dhammapada
là ở chỗ
này, và ta cảm thấy không
còn sợ trung gian
của các vị Tổ sư kết tập kinh điển.
Chúng tôi
cho dịch theo thể kệ năm chữ một, để thật
trung thành với nguyên
văn, và quí vị sẽ thấy rõ sự cố gắng
của chúng tôi, đã dịch hết sức
sát với nguyên
văn, và nhiều
bài kệ có thể xem không thêm, không bớt, một chữ Pali
chúng tôi cũng cố gắng tôn trọng đến mức
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
tối đa. Vì đây
là thể kệ chứ không
phải là thể thơ
nên không có thi
hóa trong bản dịch của
tôi.
Dịch tập
Dhammapada này ra thể kệ, chúng tôi chỉ
có một tâm nguyện mong sao những lời dạy
này của đức Phật sẽ
soi sáng dẫn đường
cho mọi hành động,
tâm tư, ngôn ngữ
của chúng ta. Và ở trong một thời
đại đầy máu lửa đau thương nước mắt, đầy
những phân hóa, hỗn tạp, hận thù, láo khoét, những lời dạy này của đức Phật
xoa dịu một phần nào
cho tâm tư đã quá căng
thẳng hay buồn nản của con người Việt Nam, làm con người Phật tử
trở lại con người Phật tử.
Vạn Hạnh
ngày Phật Đản 2513(1969)
Tỳ Kheo
Thích Minh Châu Viện Trưởng Viện
Đại Học Vạn
Hạnh.
XÁC ĐỊNH CßA
ĐỨC PHẬT VỀ
“Ý THỨC” CßA
CON NGƯỜI CĨ TẦM QUAN TRƯNG NHẤT TRONG
ĐẠO PHẬT
LỜ I PHẬT DẠY
“Tâm dẫn đầu
mọi pháp Tâm chủ, tâm tạo tác Nếu nói hay hành động Với tâm tư ô nhiễm
Khổ não sẽ
theo ta
Như xe theo vật kéo”.
(Kinh Pháp
Cú: I.Yamakavagga.
Phẩm Song Yếu).
CHÚ GIẢ I:
Đức Phật nói
đến tâm, tức là nói đến cái biết của con người, nhưng cái biết của con người có
ba cái:
1/ Cái
biết của ý thức (cái
biết do sự phân biệt của sáu thức hằng ngày).
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
2/ Cái
biết của tưởng thức (cái biết
trong giấc mộng).
3/ Cái
biết của tâm thức (cái
biết của thức uẩn, cái biết siêu
không gian và thời gian, cái biết để thực hiện Tam Minh vô lậu của bậc A La
Hán).
Vậy chữ tâm
trong kinh Pháp Cú ở đây là cái biết nào cho đúng với nghĩa của nó này?
Xin thưa
các quý bạn,
chữ tâm ở đoạn
kinh này đã làm
cho nhiều người đọc dễ hiểu sai ý Phật.
Theo kinh
nghiệm tu hành của chúng
tôi thì chữ tâm mà
nhà học giả dịch dùng ở đây, chúng ta phải hiểu nó là “ý thức phân biệt
hằng ngày trong cuộc
sống của chúng
ta”. Nó chính là tri
kiến của
mỗi người đang sử
dụng hằng ngày.
Con đường tu
tập của đạo Phật lấy ý thức phân biệt làm vũ khí tiến quân tấn công
giặc tham, sân, si; giặc sinh tử luân hồi. Đó là ý của bài kinh này vậy.
Câu kinh thứ
nhất trong kinh Pháp
Cú đức Phật đã
xác định cho
chúng ta biết
“Ý thức” của con người
rất quan trọng trong
vấn đề tu tập theo đường hướng của đạo Phật. Vì ý
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
thức chủ động
tạo tác mọi vấn đề trong cuộc sống tốt hoặc xấu đều do
nó. Ngoài ý thức ra thì con người không có một vật gì
để chủ động điều khiển thiện hay ác pháp được.
Do thấu suốt
được lý này, nên bốn chân lý của đạo Phật mới ra đời
để giải quyết
mọi sự khổ đau của kiếp con người.
Cho nên,
Chánh kiến và
Chánh tư duy trong
Đạo Đế là gì
các bạn
có biết không?
Đó là ý thức các bạn ạ. Ý
thức dẫn đầu trong giáo pháp của
đức Phật một cách rõ ràng và cụ thể.
“Tâm dẫn đầu
mọi pháp
Tâm chủ, tâm
tạo tác”
Hai câu này là một pháp hành rất cụ thể. Đó là
pháp hướng tâm “Như
lý tác ý”. Tức là “pháp dẫn tâm vào đạo”, nghĩa là khi biết
tâm là ý thức dẫn đầu mọi pháp thì có đường đi để đạt được mục đích bất động
tâm không còn khó khăn.
Hai câu kệ này
đã xác định cho chúng ta biết
chỉ có loài
người mới có một phương tiện tối ưu như vậy.
Nếu chúng ta biết sử dụng nó, thì nó sẽ giúp chúng ta thoát khổ của kiếp
làm người, còn nếu chúng ta không biết sử dụng, để tự nó dẫn dắt
chúng ta đi,
thì chắc chắn cuộc
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
đời sẽ
đen tối và sự đau khổ
triền miên bất
tận.
Nếu biết được
“tâm dẫn đầu mọi
pháp” thì giờ này chúng
ta đâu có
đau khổ. Phải không hỡi các bạn?
Vì nó dẫn đầu, tức là
nó làm chủ mọi
pháp. Làm chủ mọi pháp, trong mọi pháp đó, phải
có pháp sanh,
già, bệnh, chết.
Nhưng cớ sao con người lại
không làm chủ những điều
này?
Con người
không làm chủ
được những điều này, là vì con
người không biết cách điều khiển “ý”, để
nó làm chủ mọi pháp.
Cho nên, hiện
giờ “các pháp dẫn đầu tâm”, chứ không phải “tâm dẫn đầu mọi pháp”. Phải không hỡi
các bạn?
Các pháp dẫn
đầu tâm, vì thế tâm thường phải chịu đau khổ.
Hôm nay đức
Phật xác định: “Tâm dẫn đầu các pháp”
chúng ta đã
sáng mắt ra và đã
hiểu rõ lời dạy
này như
ánh đuốc soi vào đêm
tối. Lời dạy này
như chúng tôi
đã nói ở trên là một pháp hành cụ thể “dẫn tâm vào đạo,
chứ đừng dẫn đạo vào tâm”.
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Nhờ hiểu biết
câu này, nên hằng ngày chúng ta dẫn tâm vào đạo: “tâm như đất,
lìa tham, sân, si
cho sạch; tham,
sân, si là pháp
khổ đau phải xa lìa, viễn
ly”. Đó là câu trạch pháp đầu
tiên để thực hiện dẫn tâm vào thiện
pháp và dẫn tâm diệt trừ
ác pháp “Tâm dẫn đầu mọi pháp”.
Lời chú giải
này là một trong những kinh nghiệm
tu hành của
chúng tôi đã
mang đến kết quả giải thoát một
cách cụ thể rõ ràng. Chúng tôi chú giải câu kệ này, để các bạn hiểu những lời dạy
của đức
Phật không còn
là thứ ngôn ngữ suông, mà từ lâu
các bạn chỉ biết nó là một lời nói đúng và rất hay, chứ không ngờ nó là một
phương pháp tu hành căn bản nhất của đạo
Phật. Nếu lời
chú giải này
có lợi ích thật sự cho các bạn thì các bạn hãy thực
hành, còn nếu không
lợi ích thì xin các bạn
ném bỏ nó, như ném bỏ một chiếc
giày rách.
“Tâm dẫn đầu
các pháp”, khi biết
nó là pháp ác thì
các bạn có nên để tâm của các bạn dẫn pháp ác đó vào thân tâm bạn không?
Nếu bạn
là một người mất trí
thì mới dùng tâm mình dẫn pháp ác vào
tâm để mình chịu khổ đau. Phải không các
bạn?
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
Muốn làm
sáng tỏ pháp dẫn tâm, nên đức Phật
đã răn nhắc chúng ta bằng những
câu kệ kế tiếp sau:
“Nếu nói hay
hành động
Với tâm tư ô
nhiễm”
Câu kệ đầu
có nghĩa là “nói hay hành động” tức là dẫn
tâm, còn câu kế “với tâm tư
ô nhiễm” tức là ác pháp.
Hai câu kệ này có nghĩa là “dẫn tâm vào ác pháp”.
Dẫn tâm
vào ác pháp
thì sẽ như thế
nào các bạn? Đức Phật xác định:
“khổ não sẽ
theo ta
Như xe theo vật kéo”
Bốn câu kệâ
này có nghĩa là: Nếu người nào dẫn
tâm vào ác
pháp thì sự đau khổ
sẽ không bao giờ mất, nó luôn
luôn như chiếc xe theo vật kéo, phước còn
thì chưa thấy tai họa, đến khi phước hết thì họa khổ sẽ đến liền.
Tâm tư
ô nhiễm, tức
là tâm ác,
tâm làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.
“Tâm dẫn đầu
các pháp” là một pháp môn rất cụ thể, giúp cho mọi người thoát khổ ngay liền. Nó
là pháp môn vừa ngăn
ác pháp
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
mà cũng vừa
diệt ác pháp rất tuyệt vời. Nếu ai biết
áp dụng thực
hành thì tâm hồn sẽ thanh thản, an lạc và
vô sự, bất động trước
các pháp ác và cảm thọ.
Chúng tôi
xin nhắc lại toàn bộ bài kệ:
“Tâm dẫn đầu
mọi pháp Tâm chủ, tâm tạo tác Nếu nói hay hành động Với tâm tư ô nhiễm
Khổ não sẽ
theo ta
Như xe theo vật kéo”.
Bài kệ này
rút ra được bài pháp thực hành cụ thể như:
1- Pháp dẫn
tâm “Như lý tác ý”.
2- Không nên
dẫn tâm vào ác pháp.
3- Phải tĩnh thức trên mọi hành động của thân, tâm để tránh
và dẫn tâm xa
lìa các ác pháp.
Chỉ một bài
kệ này đã giúp cho người theo đạo Phật thấy được tâm giải thoát bằng những hành
động cụ thể dẫn tâm vào đạo.
Trong bài kệ
này có một tích chuyện mà chúng tôi không
chấp nhận, đó
là câu chuyện
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VI
của Trưỡng
Lão Cakkhapãla, vì không thấy đường nên đi kinh hành làm chết côn trùng rất nhiều trong
một đêm mưa
gió loài côn
trùng xuất hiện.
Thưa
các bạn!
Câu chuyện này thật là vô lý.
Trưởng Lão Cakkhapãla là người đã chứng quả
A La Hán, thế
mà không sáng
suốt nhận định được
côn trùng xuất
hiện được sau cơn mưa. Đó là cái sai thứ nhất.
Người chứng
đạo vô lậu, lòng từ, ban rải khắp
cùng, có đâu lại nỡ
tâm đi kinh
hành để vô tình giết
hại chúng sanh. Đó
là cái sai thứ
hai.
“Tâm dẫn đầu
các pháp” là một vị tu sĩ như
Cakkhapãla không biết
sao? Không dẫn tâm được sao?
Nếu dẫn
tâm thì làm sao có
vô tâm giết hại chúng sanh. Đó là cái sai thứ ba.
Nếu bảo rằng
bài kinh ví dụ này là để đức Phật
xác định câu kinh
Pháp Cú này,
khi vô tâm không tội. Theo chúng tôi nghĩ đạo Phật là đạo trí tuệ,
đạo sáng suốt, đạo tĩnh
thức, định tĩnh thì làm sao có
vô tâm được.
Phải không các bạn? Đó chỉ là Đại
Thừa kiến giải theo kiểu
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!