Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT TẬP 7 -4



chịu suy nghĩ. Thắp đèn sáng cúng dường chư Phật  là  thông  minh,  học  một  biết  mười,  điều này không bao giờ có. Nếu việc làm này có được thì thế  gian  này  không  còn  người  u tối,  đần độn, dốt nát và ngu si. Phải không quý vị?
Chỉ   cần   mua  dầu   thắp   đèn   sáng   cúng dường chư Phật là thông minh sáng suốt thì ai mà làm không được. Trong cuộc đời này có ai muốn  mình   không  thông  minh;  có   ai  muốn minh u tối, dốt nát, ngu si, đần độn; có ai muốn mình  thua kém mọi người. Phải không quý vị?
Nếu  kết  quả  chỉ  cần  mua  dầu  thắp  đèn sáng cúng dường chư Phật  là  thông minh sáng suốt   thì  chùa   sẽ   thắp   đèn   sáng   ngày   đêm quanh  năm  suốt  tháng,  nhưng  hiện  giờ  đến chùa nơi điện thờ Phật chỉ có một ngọn đèn leo lét mờ mờ ảo ảo, như vậy chứng tỏ lời dạy này không có hiệu quả, chỉ là một trò lừa đảo.

TRÙNG TRONG LÔNG SƯ TỬ
Câu hỏi của Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa Thầy! Có người xuất gia tu  hành  nhưng   không  đủ  duyên  nên  trở  về hoàn  tục, nhưng  cạo  tóc  mặc  đồ  nhà  tu  nhận của  cúng  dường  đàn  na  thí   chủ,  thưa  Thầy người này có phạm tội gì chăng?
Có người đã xuất gia thọ giới cụ túc nhưng không chịu tu hành, cứ nay đây mai đó để thỏa mãn mộng giang hồ vẫn nhận sự cúng dường của  đàn  na  thí  chủ,  người  tu  như  vậy  có  sai phạm không?
Nếu  cả  đôi  nam  nữ  tu  sĩ  này  trở  về  hoàn tục, xây  dựng cuộc  sống tu tại  gia thì  quá đẹp, tốt hơn là khoác chiếc áo nhà chùa.
Đáp:  Trong  một  đại  gia  đình  Phật  giáo hiện  giờ  có  bao nhiêu  chuyện  tồi  tệ  trong  đạo mà  thỉnh  thoảng  báo  chí Công  An  Thành  Phố Hồ  Chí  Minh  đã  đăng  tải,  giáo  chủ  này,  ông đạo kia v.v..
Còn  lắm  kẻ  ở  ngoài  đời  làm  ăn  vất  vả, nên  mượn  chiếc  áo  nhà  tu  để  thọ  hưởng  của đàn   na  thí  chủ   ‚ngồi   trong  mát   ăn   bát
 vàng‛ cho sướng thân. Nếu Nhà nước không cấm cất chùa, lập miếu thì những hạng người này sẽ cất chùa miếu nổi lên như lều quán.
Con người khôn ngoan xảo quyệt kinh khủng, lường gạt đủ mọi cách, dùng hình thức tượng  cốt  để  làm  tiền  thiên  hạ.  Lợi  dụng  sự bệnh tật, tai nạn của con người bằng cách trị bệnh, châm cứu, thuốc nam, thuốc bắc, bùa chú, nhân điện, nước thảy, tàn hương, nước tiểu, khí công, hương công, gạo lứt muối mè, tiết thực, tuyệt  thực,  dưỡng  sinh,  v.v..  đó  là  một  loại pháp môn tu hành biến dạng thành những phương thức để giữ gìn sức khỏe.
Phần đông những nơi  trị  bệnh đều  có  thờ Phật, Bồ Tát cùng các quỷ thần. Làm thuốc trị bệnh, châm cứu, bùa chú mà không lấy tiền, chỉ cần  người  bệnh  nhân  cúng  bái  Phật,  Bồ  Tát, quỷ thần nhờ các Ngài gia hộ hết bệnh. Làm phước không nhận tiền xem mạch hoặc thuốc thang, nhưng lại nhận tiền cúng Phật trong thùng phước sương.
Những phần tử này trong đạo Phật không biết  bao nhiêu  mà  kể. Từ  khi Thầy về  làm  trụ trì tu  viện Chơn Như,  khép  chặt  tu  sĩ  vào  giới luật  ăn,  ngủ,  đúng  giờ  không  được  ăn,  ngủ  phi
 thời,  sống  độc  cư không  được  nói  chuyện  ồn náo.

Những người tu sĩ tu cơm, tu áo, tu tiền, tu bạc,  tu  ăn,  tu  ngủ  chỉ  đến  đây  vài  ba hôm  là bay sạch.  Đến  giờ  này,  chỉ  còn  một  hai  người tạm gọi là được, chứ chưa nghiêm túc trong giới luật  Phật.  Nếu  Thầy  lấy  giới  luật  Phật  khép chặt sống nghiêm chỉnh thì tu sĩ Phật giáo chẳng  còn  mấy  người.  Những  người  tu  sĩ  lừa đảo  này  sẽ  không  dám  chui  vào  Phật  giáo  để lừa đảo mọi người.
Giới luật là cửa cổng chọn lựa tu sĩ Phật giáo đúng những người chân tu, những người quyết  tâm  tìm  đường  thoát   khổ.   Kinh  sách phát triển dạy người tu sĩ phá giới luật nên những  người  tu  sĩ  này  chỉ  tu  ăn,  tu  ngủ,  tu danh, tu lợi nên dựa vào tôn giáo để buôn Phật (bán  tượng  cốt),  buôn  pháp  (bán  kinh  sách) kinh doanh tôn giáo làm giàu vô đạo đức.
Chiếc  lá  chắn  của  kinh sách  phát  triển dạy phá  giới,  bẻ  vụn  giới  làm  tấm  bình  phong cho  những  người  phi   giới  luật  mới  chui  vào Phật   giáo,   mới   kinh  doanh  buôn   Phật   bán pháp.  Điều  này  chắc  ai  cũng  rõ.  Phải  không quý vị?
 Nếu  không  có  kinh sách  phát  triển  làm tấm  bình  phong che chắn  thì những  người  bất lương không thể chui vào Phật giáo làm những điều tồi tệ.
Giới luật Phật không dung túng cho những người  này, sáng họ  vào  cổng chùa, chiều họ  đã bay mất vì giới luật quá nghiêm khắc.
Cho nên, những người này sống trong giới luật chẳng nổi, nên chẳng dám vào làm tu sĩ Phật giáo.
Ở   chung quanh tu  viện  Chơn  Như  có  một số người nghèo đói thất nghiệp hoặc làm ăn vất vả, cực nhọc nên muốn vào chùa tu cho sướng thân. Nào  ngờ  bước vào cổng chùa lúc  sáng thì tối đã trốn mất, vì ngày ăn có một bữa cơm nên sống không nổi, vả lại sống không được nói chuyện  ồn  náo.  Sống  độc  cư, sống  một  mình v.v..  Chỉ  sống  có  bấy  nhiêu  đó,  cũng  đủ  thử thách những người vào đạo Phật chứ chẳng cần thử thách gì cả.
Những người tu ăn, tu ngủ, tu tiền, tu bạc, tu  danh,  tu  lợi  v.v.. Cho nên, những người  này vào  chùa  cơm  ăn  áo  mặc  đầy  đủ,  không  tốn tiền, cơm ngày ba bữa, còn được đi học cha mẹ khỏi lo. Có những Thầy khôn ngoan lanh lợi khéo  nịnh  bợ  Phật  tử  nên  có  tiền  tiêu  riêng,
 còn sắm cả xe gắn máy rất sang trọng. Nhất là quý  Thầy  giả  dạng  tu  hành  có  hình  thức  giữ giới luật, lại còn dễ gạt Phật tử, làm tiền, sống trên nhung lụa một cách đầy đủ sung túc.
Cho  nên,  đức  Phật  đã   xác  định  tất  cả những  hạng  người  này  là  trùng  trong  lông  sư tử,  sẽ  giết  Phật  giáo  chết.  Đúng  vậy,  những  tu sĩ phá giới luật Phật, đang đầy dẫy trong các chùa  Phật  giáo,  đang làm  hỏng  hết  giáo  pháp và  đạo  đức  của  đạo  Phật.  Số  tu  sĩ  trong  các chùa mà con đã nêu trong câu hỏi, là loại trùng trong  lông  sư tử,  đang  được  một  số  cư sĩ  vô minh nuôi dưỡng, để phá hoại đạo Phật cho tận gốc  rễ.  Những  tu  sĩ  này  dùng  những  danh  từ rất kêu khi họ lừa đảo Phật tử: ‚làm Phật sự‛,
‚chấn hưng Phật pháp‛ v.v..

Các con đã hiểu giới luật Phật, vị tu sĩ nào giữ  gìn  đúng  giới  luật  thì cúng  dường  còn  giữ gìn  không  đúng  giới  luật  thì nên  cảnh  giác, đừng  tiếp  tay  với  những  tu  sĩ  ngoại  đạo  của kinh sách phát triển này mà giết Phật giáo.
Giết  Phật  giáo,  tội  ấy  về  ai?  Về  các  con đấy,  vì  các  con  đã   nuôi  chúng.  Vậy,  các  con phải tránh xa những loại trùng độc này.


 CÚNG DƯỜNG ĐÚNG CHÁNH PHÁP

Câu hỏi của Liễu Hương
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Những  Phật  tử đã  biết  các  tu  sĩ  tu  hành  không  có  đạo  hạnh, phá  giới  luật,  ăn  uống  phi  thời,  sống  phóng dật, chạy theo dục lạc thế gian, mà cứ cúng dường cho họ, thì cúng dường như vậy có phước báo gì không?
Hay  tạo  thêm  nghiệp  cho những  tu  sĩ  ấy. Xin  Thầy chỉ dạy cho con rõ.
Đáp: Một hôm vua Ba Tư Nặc hỏi Đức Phật: ‚Bạch Đức Thế Tôn, chúng con là hàng  cư sĩ  cúng  dường  bố  thí thế  nào  cho đúng chánh pháp?‛.
Đức  Phật  đáp:  ‚Cúng  dường  bố  thí cho cá  nhân  hay  tập  thể,  thì cá  nhân  hay  tập thể đó phải thanh tịnh‛.
Chữ “thanh tịnh” ở đây đức Phật dùng để chỉ cho những người hiền lành, có đạo đức, không  gian  xảo,  không  lừa  đảo  v.v..  Còn  tập thể thì chỉ cho những tu sĩ (các vị Tỳ Kheo) nghiêm  trì giới  luật, có  đạo hạnh thì mới cúng dường bố thí.
 Đức  Phật  dạy tiếp: ‚Nếu  cúng  dường  bố thí không đúng cách thì cũng giống như đem hạt giống tốt gieo trồng trên đất chai, khô  cằn  thì hạt  giống  sẽ  bị  hư thối‛.  Chữ “hư,  thối”  ở  đây có  nghĩa  là  không  được  phước mà còn tổn phước.

Biết một vị tu sĩ phá giới luật, phạm giới không  có  đạo  hạnh,  ăn  uống  phi   thời,  sống phóng dật, mà cứ cúng dường cho những tu sĩ này, để  họ  tiếp  tục phá  đạo Phật thì có tội rất lớn. Cũng như biết kẻ trộm cướp giết người mà che giấu, chứa nuôi  trong nhà, thì đồng tội  với kẻ trộm cướp giết người đó (tội rất nặng).
Nếu  tất  cả  tín đồ  Phật  giáo  ý  thức  biết điều này, tức là biết những tu sĩ phá giới, phạm giới luật Phật, thì chẳng ai cúng dường, bố thí, trai  Tăng  thì những  người  tu  danh,  tu  lợi  làm sao sống được, mà phá Phật giáo.
Biết  họ  tu  sai,  mà  cứ  luôn  nuôi  dưỡng  họ. Họ  bày  ra những  điều  mê  tín thì lại  tin theo, làm theo khiến cho giáo pháp của Phật càng ngày càng sai lệch. Bây giờ  nhìn  lại giáo pháp của Phật không còn thực tế, cụ thể nữa, toàn là thứ  giáo  pháp  trừu  tượng,  mơ  hồ,  mê  tín, dị đoan, lạc hậu v.v..
 Cho  nên,   cúng   dường   không   đúng   đối tượng  khiến  cho Phật  pháp  suy  đồi,  tà  pháp hưng thịnh, đạo đức con người chẳng còn. Tuy rằng,  thời  đại  của  chúng  ta  là  thời  đại  văn minh khoa học cơ giới, điện tử, tin học đã phục vụ  đời  sống  con người  rất  tiện  nghi,  nhưng  lại khổ đau về tinh thần, khiếm khuyết về đạo đức quá  lớn. Nên khắp trên thế giới không lúc  nào ngơi  nghỉ,  ngơi  chiến  tranh, không  phút  nào con người ngưng chà đạp lên con người.
Sự  lầm  lạc  phục  vụ  cho tà  giáo  ngoại  đạo của  kinh sách  phát  triển  đã   gây  bao thế  hệ trầm  luân  đau khổ.  Mà  đến  giờ  này  con người chưa thức tỉnh, luôn luôn nối giáo cho giặc cướp nước, cướp nhà.
Người Phật tử phải sáng suốt cúng dường, bố  thí cho đúng  chánh  pháp.  Đừng  nghĩ  rằng, ai  làm  tội  nấy  chịu,  mà  phải  thấy  mình   có trọng  trách  với  mình,  với  mọi  người,  với  tôn giáo  mình  đang  theo,  nó  tốt  hay  xấu  đều  do chính  mình.  Mình  theo  tôn giáo  đó,  mà  không làm  đúng lời  dạy của tôn giáo  đó, lại  làm theo tôn  giáo  khác,  tức  là  mình  phỉ  báng  tôn  giáo mình  đang theo.
Tôn giáo đưa ra những giáo lý dạy con người  sống  thiện  làm  thiện,  giúp  con người  có
 đạo   đức,  luôn  sống  trong  những  hành  động thiện,   chứ   không   có   tôn   giáo   nào   dạy  làm những  điều  ác.  Mà  chính  người  theo  tôn  giáo lợi  dụng  tôn giáo, biến giáo  pháp  sai  lệch theo ý đồ của mình,  biến dần tôn giáo thành tà giáo, ác pháp, biến tôn giáo thành đế quốc, bắt con người làm nô lệ cho những kẻ độc tài.
Bởi vậy, tôn giáo ra đời cũng do con người, làm  sai  cũng  do con người,  làm  đúng  cũng  do con người. Biết những tu sĩ phạm giới, phá giới sống không đúng phạm hạnh, sống phi  đạo đức mà cứ cúng dường cho họ sống. Đó là sự cúng dường giúp cho những Ma vương phá đạo Phật, thì sự  cúng  dường  ấy  không  có  phước  báo  mà còn tiếp  tay cho Ma vương phá  Phật pháp. Tội phá Phật pháp là tội rất lớn với nhân lọai, vì Phật pháp là đạo đức nhân bản của con người.
Cho nên, những hành động cúng dường không đúng chánh pháp, vì thế hiện giờ con người  được  xem  như  gần  mất  đi  nền  đạo  đức nhân  bản  chân  chánh  của  Phật  giáo.  Chỉ  còn lại tà pháp vô đạo đức của Ma vương, nên người tu  thời  nay  dở  chết,  dở  sống  mà  ‚đạo  chẳng ra đạo, đời chẳng ra đời‛.
Quý Phật tử là đệ tử của Phật, phải chấm dứt  ngay  hành  động  cúng  dường  phi  pháp,  để
 Phật  giáo  còn  có  một  chút  hơi  tàn,  một  chút ánh sáng mang lại cho loài người.
Nếu  nói  Phật  tử  tạo  nghiệp  cho quý  thầy thì không  đúng,  vì  quý  thầy  là  Ma  vương, mà đã Ma vương thì nó là ác pháp, lúc nào nó cũng muốn  diệt  chánh  pháp  của  Phật.  Chỉ  có  chúng ta  lầm  lạc  Phật  và  Ma  vương mà  thôi.  Nhưng quý  Phật  tử  sẽ  không  lầm  lạc  Ma  vương  và Phật.  Vì  Phật  thì giới  luật  nghiêm  chỉnh,  còn Ma vương thì phá giới.
Biết Ma vương mà lại cúng dường cho Ma vương,  đó   là   đang  sống   trong   nhà   của   Ma vương thì đừng than khổ, đừng kêu ca ‚Tại sao chúng  ta  sanh  làm  người?  Rồi  làm  người lại  làm  khổ  người  quá  vậy?  Hỡi  quý  thầy tu theo kinh sách phát triển?‛.
Theo  Ma  Vương  không  những  làm  khổ mình, khổ người mà còn làm khổ cho tất cả chúng sanh. Phật pháp càng ngày càng suy đồi, chánh pháp  càng ngày càng biến mất, tà pháp càng ngày càng hưng thịnh. Thật là đau lòng phải không quý Phật tử?
Ma Vương đội lốt tu sĩ Phật giáo nơi nơi, đâu đâu cũng thấy, cũng có những hình ảnh chướng  tai,  gai  mắt  phạm  giới,  phá  giới  đầy
dẫy,  không  đâu  là  không  thấy  trong  các  tu  sĩ phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới hiện giờ.

HÛY HỌAI CƠ THỂ  HOẶC MỘT PHẦN CƠ THỂ  ĐỂ CÚNG DƯỜNG CHƯ PHẬT CẦU VÔ  THƯỢNG  PHÁP
Câu hỏi của Mật Hạnh
Hỏi:   Kính  thưa   Thầy!   Trong  Thiền Tông  có  câu  chuyện  Huệ  Khả  chặt  cánh  tay dâng  lên  cúng  dường  Bồ  Đề  Đạt  Ma  để  cầu pháp an tâm (Phật Tánh), như vậy đức Phật có dạy  điều  này  không?  Xin   Thầy  giải  rõ  cho chúng con được hiểu.
Gần đây có một số quý Thầy đốt, chặt một lóng ngón tay trỏ để cúng dường chư Phật.
Chặt  đốt,  ngón  tay  cúng  dường  chư Phật có ích lợi gì cho bản thân? Xin  Thầy chỉ rõ cho chúng con được hiểu. Những người chặt, đốt ngón  tay  cúng  dường  chư  Phật   tu  hành  có chứng quả hay không?
 Đáp: Hủy hoại cơ thể hoặc một phần cơ thể  để  cúng  dường  chư  Phật,  mà  trong  kinh sách phát triển đã  có dạy, như trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm tựa có những câu dạy:
‚Lại thấy có Bồ Tát1
Bố thí cả vợ con
Thêm thịt cùng tay chân

Để cầu vô thượng đạo

--o0o--

‚Lại thấy có Bồ Tát Đầu mắt và thân thể Đều ưa vui thí cho Để cầu trí tuệ Phật"
Đọc qua đoạn kinh này chúng ta quán xét
thấy kinh sách phát triển lừa đảo và lường gạt dạy tín đồ bằng cách bố thí cúng dường của cải, tài sản, vợ con cho đến thân mạng.
Thứ nhất, lừa gạt để cướp đoạt tiền bạc, châu báu ngọc ngà. Lấy đạo vô thượng, hay là Phật tánh để trao đổi bằng vàng bạc, ngọc ngà châu  báu.  Ở   đây,  có  nghĩa  là  cúng  dường  chư
Phật.
1 Bồ Tát là một người cư sĩ đang tu tập
 ‚Dùng các món nhân duyên

Mà cầu chứng Phật đạo‛.

Muốn  cầu  chứng  được đạo quả  giải  thoát thì nên trao đổi bằng:
‚1- Vàng bạc, ngọc ngà, san hô, trân châu, ngọc như  ý, ngọc xà cừ, mã não, kim cương và các trân bảo khác cùng tôi tớ, xe cộ,  kiệu  cáng  làm  bằng  châu báu,  vui  vẻ đem   cúng  dường,   đừng   tiếc   rẻ   để   cầu chứng đạo quả‛.
Đọc đoạn kinh này chúng ta nhân xét đạo quả giải thoát của đạo Phật chẳng có giá trị gì, nó  cũng  như  những  vật  tầm  thường  của  thế gian này, vì thế đem vàng bạc ngọc ngà, châu báu  trao  đổi  mua  bán.  Và  như  vậy  đạo  giải thoát   của   Phật   giáo   rất   tầm   thường.   Phải không quý Phật tử?
Kinh sách phát triển dám đem đạo giải thoát của Phật giáo trao đổi với vàng bạc châu báu  thế  gian  thì chúng  ta  không  còn  chỗ  nào phê phán kinh sách này nữa. Một loại kinh phỉ báng Phật pháp ghê gớm. Vậy mà quý Phật tử làm  ngơ mà  hằng  ngày  còn  tụng  niệm  trì chú thì chúng tôi không biết nói làm sao hết. Thật là xót xa đau lòng lắm quý vị?

đây:

Xin quý vị đọc đoạn hai của câu kinh dưới
2- ‚Cúng  dường  cả  vợ  và  con cho chư
 Phật,  cho  người  khác  để  cầu  chứng  đạo quả  giải  thoát‛.  Đọc đoạn kinh này chúng tôi quá sợ hãi, khiếp đảm. Một người đi tìm cầu sự giải thoát của Phật giáo mà đem cả vợ con cúng dường  chư  Phật  hay  người  khác  thì thử  hỏi người ấy đạo đức của con người ở đâu?
Vợ con là những người thân thương và gần gũi  nhất  của  đời  người,  thế  mà  nỡ  nhẫn  tâm đem cúng  dường  cho chư Phật,  cho người  khác để  cầu  chứng  đạo  giải  thoát  thì đạo  giải  thoát ấy  là  đạo  gì?  Có  phải  đây  là  đạo  giải  thoát  vô đạo đức không?
Kinh sách  dạy đạo giải  thoát  phi  đạo  đức như vậy có xứng đáng cho chúng ta theo tu học không?
Làm chồng mà đem vợ con mình cúng dường chư Phật thì người chồng ấy là người chồng  gì?   Chư  Phật   nào   dám   nhận  vợ  con người  khác.  Dám  nhận  vợ  con người  khác  thì chư Phật đó có xứng đáng làm chư Phật không? Như quý bạn đã biết giới luật cấm không cho tu sĩ  nhận  cúng  đường  tiền  bạc,  trâu  bò,  heo dê
 cái, phụ nữ và trẻ con. Cho nên, tiền bạc chư Phật còn không dám nhận huống là cúng dường trâu bò, heo dê cái và phụ nữ đàn bà con nít.
Thưa quý  bạn,  kinh dạy như  vậy  có  đúng không?  Một  loại  kinh phi   đạo  đức  cần  phải ném bỏ.
Xin  quý  vị  đọc  đoạn  ba của câu  kinh  dưới đây:  ‚3- Đoạn  thân  mạng,  tay  chân,  đầu mắt của thân thể cúng dường cầu đạo vô thượng‛.
Đọc  qua những  đoạn  kinh  trên  trong  bộ kinh phát  triển  Diệu  Pháp  Liên  Hoa, mà  được mọi  người  từ  thầy  Tổ,  cho đến  ngày  nay người ta  đã  tốn  biết  bao nhiêu  giấy  mực,  để  luận  và giảng  về  bộ  kinh nổi  tiếng  nhất  trong  kinh sách phát triển: ‚Diệu pháp Liên Hoa kinh‛. Một  bộ  kinh mà  được  các  thầy  Tổ  và  tất  cả Phật tử xem là một vật quý báu nhất trong các kinh phát triển, thường ca ngợi và truyền tụng. Do bộ  kinh này  mà  có  nhiều  người,  đã  thành lập  đạo  tràng  lấy  tên  kinh làm  tên  chùa,  tên đạo   tràng   của   mình   (Chùa   Pháp   Hoa,  Đạo Tràng Pháp Hoa).
Một bộ kinh dạy người hủy hoại cơ thể để cầu đạo giải thoát.
 Xưa tổ Huệ Khả đã hủy hoại một cánh tay dâng lên Tổ Bồ Đề Đạt Ma để cầu pháp giải thoát.
Sư Trừng  Quán chặt  ngón tay cúng dường chư  Phật  để  cầu  chứng  Phật  Tánh.  Gần  đây trong hàng huynh  đệ  của chúng tôi, khi vào  tu viện Chân Không cũng có một sư đệ lúc bấy giờ thầy  ấy  chỉ  là  một  chú  Sa Di  mà  rất  gan dạ, đốt một lóng ngón tay để cầu pháp (Thầy P.T). Khi chúng  tôi  vào  tu  viện  thì vị  thầy  đó  vẫn còn băng bó vết thương.
Gần đây chúng tôi có đọc một tờ báo Công
An  TP.Hồ  Chí  Minh  năm  thứ  XXIII Bộ  mới  số
776 ngày 21 tháng 9 năm 1999 có đăng tin, tựa đề: ‚Sao lại tin những lời tà đạo?”
“Tháng 6 năm 1999,  qua nguồn tin  quần chúng. Công An huyện Củ Chi phát hiện tại xã Tân Phú Trung có hai người một nam, một nữ tụ họp  thêm  một  vài  người  dân  đến  nhà  nghe giảng  đạo.  Đều  là  hai  người  này  cùng  bị  mất một đốt ngón tay trỏ bên trái. Công An Củ Chi đã  khám  phá  và  ngăn  chặn  kịp  thời  nhóm  tà đạo  thuyết  pháp  những  điều  nhảm  nhí,   mê hoặc người nhẹ dạ cả tin,  hủy hoại thân thể, bỏ vợ, bỏ chồng để đi tu v.v..”.
 Bài báo viết tiếp: “Vào đạo phải chặt đứt ngón  tay   và  làm  công  quả”.  Đúng  vậy,  Phật giáo phát triển thường nhận những người làm công  quả  là  những  người  chuẩn  bị  để  cho xuất gia  sau này.  Những  người  này  trong  chùa  gọi họ là tịnh nhân.
Nếu  những tịnh nhân nào  tự  phát  nguyện chặt  ngón  tay  cúng  dường  chư  Phật,  để  cầu pháp  vô  thượng  thì những  tịnh  nhân  ấy  được xem  là  những  pháp  khí   của  kinh sách  phát triển. Được thầy Tổ lưu ý giúp đỡ và đào tạo họ trở thành những bậc lãnh đạo Phật giáo phát triển. Trong  giới tín đồ Phật giáo cho rằng:  “Ít ra  những  người  này  cũng  là  những  bậc  đại thượng trí  thức”.
Qua bài  kinh tựa  của  bộ  kinh Pháp  Hoa tuy   không   ép   người   khác   hủy   hoại   cơ  thể, nhưng  cũng  có  ý  đề  cao khuyến  khích  sự  hủy hoại  cơ thể  để  cầu  pháp  giải  thoát  Tối  Thượng Thừa.
Những  lời  dạy trong  kinh Pháp  Hoa này, đi ngược lại lời dạy của đức Phật, trong toàn bộ kinh sách Nguyên Thủy.
Đạo   Phật   chủ   trương   không   làm   khổ mình,  khổ  người,  thế  mà  ở  đây  chặt,  đốt  ngón tay,  hoặc  chặt  cánh  tay  dâng  lên  cúng  dường,
 thì rõ ràng là  đã  tự  làm  khổ  mình.  Từ  cha mẹ sanh ra không tật nguyền, bây giờ theo Phật giáo phát triển trở thành người tật nguyền, cụt tay,  tàn  tật.  Vậy  mà  các  thiền  sư vô  minh  ca ngợi vị Tổ thứ hai Huệ Khả là bậc Đại Thừa pháp  khí.  Chỉ  có  một  lời  ca ngợi  suông  trong kinh sách phát triển mà đã  biến vị  Tổ  thứ  hai của  Thiền  Tông  thành  một  người  tàn  tật,  thật là ngu si chạy theo danh mà tự hại mình.
Trong kinh Phật Báo Ân của kinh sách phát  triển  có  câu  chuyện  tiền  thân  Đức  Phật:
‚Xưa có  một  nhà  vua  chạy  giặc,  gặp  lúc đói khát ăn thịt con để sống”. Người mới đọc qua câu chuyện tiền thân này nghe rất hay. Nhưng  suy  nghĩ  lại,  chúng  ta  mới  thấy  bản chất  của  loài  thú  vật  hiện  lên  rất  rõ  ràng. Người ăn thịt người, cũng chẳng khác nào loài thú vật ăn thịt nhau, thì làm sao gọi là đạo đức làm người được.
Kinh  sách  phát  triển  nói  qua  sự  tưởng tượng  của  mình,  một  ngày  cắt  ba cân  thịt  ăn mà  đứa con vẫn  còn  đi  đứng  được.  Thì  thử  hỏi quý vị nghĩ sao? Người ta bị chừng một vết thương, mà còn nằm  bệnh viện cả tuần lễ điều trị. Thế mà mỗi ngày cắt ba cân thịt mà còn đi

được,  thì kinh  đó  có  vọng  ngữ  hay  không?  Có lừa đảo dối gạt người không?
Chúng ta nên đọc tiếp bài báo: “Chuyện tưởng như đùa, nhưng  hoàn toàn có thật xảy ra ngay tại  vùng  ngoại  thành  của  thành  phố  Hồ Chí Minh.
Chị  N.T.N   ở  Tân  Phú  Trung,  Củ  Chi. Theo  chồng  về  sống  ở  xã  Tân  Thới  Nhì,  Hốc Môn, cuộc sống gia đình  rất hạnh phúc với bốn mặt  con. Năm  1987, một  lần  đi chợ  Hốc  Môn thì  N gặp bà Tân, trước đây là giáo viên dạy N học  ở  Tân  Phú  Trung. Bà  Tân  cho N  biết,  bà đang tu ở chùa Vạn Đức hay còn gọi là chùa Ba mẹ, ở thị trấn Hốc Môn. Từ đó N thường xuyên lui tới  chùa  để  nghe thuyết  pháp.  Năm  1988, đứa con thứ năm chào đời được vài tháng thì  N bỗng dưng bệnh tâm thần, bỏ chồng con vào chùa ở luôn không về nhà nữa. Một mình anh N.Đ.T  chồng  N phải  gồng  gánh  nuôi  năm  đứa con thơ hết sức cực nhọc, nhất là bé mới sanh.
N  đến  làm  công  quả  tại  chùa,  ban  ngày làm  mọi  việc  lặt  vặt,  tối  nghe thuyết  pháp.  Ít lâu sau N được đưa lên chánh điện cầu nguyện để  quên chồng con, vứt bỏ  mọi  vướng bận trần thế, ăn chay trường và sống kiếp tu hành. Nguyện  xong  N  dùng  dao  chặt  đứt  một  đốt
 ngón  tay  trỏ  bên  trái,  rồi  cầm  tay  đang  chảy máu ròng chạy lên chánh điện hiến dâng một đốt  ngón  tay để  tỏ  sự  thành  kính  và  một  lòng theo đạo. N được  bà  Thiện băng bó  vết thương
lại.
Nghe tin  vợ chặt tay, anh T có mặt ngay chùa  để  hỏi  rõ  sự  việc,  thì  được  một  phụ  nữ trong chùa  giải  thích ngắn  gọn  “cúng  dường”. Anh  T kịch liệt phản đối vì việc làm kỳ cục và hết sức dã man này. Nhiều lần T đến chùa năn nỉ  vợ,  kể  cả  la  lối,  đòi  kêu  C.A bắt,  nhưng  N vẫn kiên quyết không về nhà.
Sau đó, bà Thiện đưa N về chùa ở An Phú Đông  để  sống  chung  với  bà.  N  phải  nhổ  cỏ, chăm   sóc  vườn  cây   ăn  trái   của  con  gái   bà Thiện.  Có  một  lần  N  thèm  mặn  nên  đã  lỡ  ăn một  miếng  bánh  mì  kẹp  thịt,  khi  ăn  xong  N giựt mình,  vì đã vi phạm  lời  nguyện. Để chuộc lỗi  lầm  này,  N.  dùng  dao phay chặt  thêm  một đốt ngón tay út bên phải. Chính  bà Thiện cũng băng bó vết thương cho N. C.A Hốc Môn phát hiện  sự  việc  này,  làm  việc  với  N và  không  cho N ở chùa nữa. Tuy vậy, từ đó đến nay N cũng không sống chung với chồng con.
Đến năm  1998 N.V.V  ngụ  tại  xã  Tân Phú
Trung,  Củ  Chi  bỗng  dưng  lại  bị  bệnh  nhức

đầu, thay vì đến bệnh viện thì V lại đi hết chùa này  đến  chùa  khác  ở  Củ  Chi,   Bình   Dương, Đồng Nai để trị bệnh, nhưng  không có kết quả. Nghe đồn ở thị trấn Hốc Môn có chùa Vạn Đức trị  bệnh  rất  hay  nên  V  nhanh  chân  tìm  đến nhờ  giúp  đỡ,  hy  vọng  sẽ  nhanh   chóng  khỏi bệnh.
V kể lại thuốc chữa bệnh của chùa là chén nước lạnh. Trị bệnh xong, V ở chùa làm công quả, từ Củ Chi đến Hốc Môn khá xa, sáng đi chiều  về  rất  mệt,  nhưng  V quyết  tâm  vượt  qua để được đóng góp chút ít công sức cho chùa.
Ngày 16- 2- 1999 (mùng một Tết), vì đến làm  công  quả  như  thường  lệ  thì được  bà  Tâm trụ  trì  chùa  khuyên  bảo:  “Phải  về  nhà  tu  tâm, ăn  hiền  ở  lành  và  chịu khó  nghe kinh  thuyết pháp của chùa”.
Lúc 11 giờ ngày 3- 3- 1999, sau khi đi cắt lúa về  nhà, V đứng trước tượng Phật Thích  Ca được đặt tại nhà đọc lời nguyện sẽ đi tu, không sống chung với vợ con nữa. Liền sau đó, V đã dùng  dao  chặt  dứt  hai  đốt  ngón  tay  trỏ  bên trái, chặt xong V tự băng bó vết thương. Hiện V đang  sống  chung  với  mẹ  ruột,  bỏ  vợ  cùng  hai đứa con thơ”.
 Như trên, những bài kinh của kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã  tác động rất mạnh vào lòng tin của  con người.  Họ  dám  chặt  tay,  đốt  ngón tay  hoặc  chặt  một  lóng  ngón  tay  cúng  dường chư Phật để cầu pháp giải thoát.
Giải  thoát  đâu  không  thấy,  chỉ  thấy  toàn là  sự  đau khổ,  một  sự  ngu dại  làm  khổ  mình, làm  khổ  vợ  con, làm  khổ  những người  thân và còn làm công không cho người khác, bị lừa đảo mà không biết.
Đối với tà giáo ngoại đạo, nếu chúng ta không đủ trí sáng suốt, minh mẫn thì sẽ bị những lời đường mật lừa đảo trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa như câu kinh này:
‚Đầu mắt và thân thể

Đều ưa vui thí cho

Để cầu trí tuệ Phật‛.

Muốn  đạt  được  trí tuệ  giải  thoát  của  đạo Phật, thì phải  bố  thí hay cúng dường thân thể hoặc một phần của thân thể, thì sẽ được trí tuệ giải thoát.
Do lời dạy này và những câu chuyện tiền thân đức Phật hay những chuyện cổ tích về đạo Phật như: Khi đức  Phật còn là Bồ Tát tu hạnh bố  thí, Ngài  đã  thí thân  cho cọp  ăn.  Thí  thân

cho cha  mẹ  ăn,  như  Thái  tử  Tu  Xà  Đề.  Lấy thân làm một ngàn ngọn đèn thắp sáng để cầu pháp,  như  Chuyển  Luân  Thánh  Vương  trong kinh Đại Phương Tiện Phật Báo ân. Chuyện cổ Phật giáo như Diệu Thiện còn gọi là nàng công chúa Ba, bố  thí mắt, tay để  làm  thuốc  cho cha gọi là báo hiếu của Phật giáo phát triển.
Nhưng gương bố thí thân mạng để cầu pháp, để  báo  hiếu, đối  với knh  sách phát triển thì rất  là  tốt  đẹp  và  cao thượng,  nhưng  lại  xa rời  thực  tế  và  vô  đạo  đức  làm  người  của  Phật giáo  Nguyên  Thủy.  Nhất  là  giáo  pháp  phát triển  không  có  đôi  mắt  nhân  quả,  nên  thường tỏ ra những hành động một anh hùng cá nhân vô minh, vô đạo đức với mình  (tự làm khổ mình vì người).
Đạo Phật không chấp nhận những điều này, chủ trương của đạo Phật là không làm khổ mình,  khổ  người.  Thế  mà  tin theo  lời  dạy của kinh sách  phát  triển,  đã   tự  chặt  tay,  khoét mắt, đốt tay để cúng dường cầu pháp giải thoát: Giải thoát đâu không thấy chỉ thấy một sự khổ đau của mình.  Đó  là  tự  gieo  ác  pháp  cho mình và còn làm khổ cho những người thân thương của mình  vợ con cha mẹ.
 Ngày xưa, ông Vô Não nghe một vị Bà La Môn  dạy: Chặt  được  một  ngàn  ngón  tay  người thì chứng được đạo giải thoát. Tin  lời  dạy này, ông  đã  trở  thành  một  hung  thần,  một  ác  quỷ giết người không gớm tay. Chặt tay người, xỏ xâu  thành  chuỗi,  chờ  ngày  giết  cho  đủ  một ngàn người để chứng đạo. Đó là pháp môn ác đức làm khổ người, mạng sống con người trong kinh sách  phát  triển  được  xem như  một  chiếc áo, muốn ném bỏ lúc nào cũng được (chiếc thân huyễn  mộng).  Cái  nhìn  như  vậy,  tức  là  Phật giáo bị đồng hóa pháp môn ngoại đạo, nên làm khổ  mình  mà  không  biết  còn  gọi  là  cầu  chứng trí tuệ giải thoát. Vậy trí tuệ giải thoát, sao ta lại  ngu  si  để  chuốc  lấy  sự  đau khổ  cho thân này, biến thân thể mình  thành người tàn tật?
Trong thời gian tu hành tại tu viện Chân Không,  chúng  tôi  cũng  có  một  vài  huynh  đệ chặt   hoặc  đốt   ngón  tay  để  cúng  dường  cầu pháp.  Nhưng  đến  nay  đã   30  năm  chúng  tôi nhìn  lại  những  huynh  đệ  đó  đã   không  có  sự giải  thoát,  mà  lại  cơ thể  nay đau, mai  ốm,  mà lại đau ốm những bệnh tật nan y. Cuộc đời của họ vì tin giáo pháp của kinh sách phát triển và quyết  tâm  tìm đường giải  thoát cho nên không tiếc  thân  mạng.  Dám  đốt  ngón  tay,  dám  chặt
 ngón  tay  như  cô  N.T.N  và  anh  N.V.V  v.v..  và còn  rất  nhiều  người  nữa,  thật  là  có  tâm  cầu pháp giải thoát điên dại.
Những pháp môn gì mà đưa con người đến chỗ tật nguyền, cụt tay, cụt chân. Cha mẹ sanh ra không tật nguyền, đến giờ theo Phật giáo phát  triển, người  có  quyết chí tu  hành cầu  giải thoát,  thì giải  thoát  đâu  không  thấy,  chỉ  thấy mình  bị tàn tật. Thật là đau lòng!
Bởi  tin theo  lời  Phật  dạy như vậy,  không ngờ đó là những lời của tà sư ngoại đạo, mạo nhận là lời Phật dạy để dễ bề lừa gạt người khác.
Những   người   không   biết   về   kinh   sách phát  triển  như  các  chú  C.A thì cho đó  tà  giáo ngoại đạo, còn những người có nghiên cứu kinh sách Diệu Pháp Liên Hoa thì không thể lầm là tà  giáo  ngoại  đạo.  Họ  biết  rất  rõ  trong  kinh sách phát triển dạy rất nhiều điều phi  đạo đức, lừa  đảo,  lường  gạt  người;  dạy  những  điều  mê tín và  hủy  hoại  một  phần  cơ thể,  cúng  dường chư Phật để cầu pháp tối Thượng Thừa.
Từ  ngày có  Phật giáo  truyền vào đất nước chúng ta, sự mê tín dân gian không bớt mà lại còn thêm  những sự  mê  tín khác  nữa  và  những sự hy sinh vô nhân đạo đối với bản thân mình.
 Vô  nhân đạo đối  với  mình,  là  tự  hủy hoại cơ thể  mình,  người  vô  đạo  đức  nhân  quả  là  tự làm  khổ  mình.  Xưa kia Tổ Huệ  Khả  chặt cánh tay,  Sư Trừng  Quán chặt  ngón  tay,  gần  đây  có các  Thầy như thầy  P.T - P.D, v.v.. Và  gần đây nhất là báo Công An đã đăng tin, có một số người  ở  chùa  Vạn  Đức  Hốc  Môn  đã  chặt  ngón
tay.

Hủy  hoại  cơ thể  để  được  những  gì hay đã tự làm khổ mình. Và sự tu tập như vậy đã đi ngược lại với đạo Phật. Đạo Phật chủ trương có mục  đích  hẳn  hoi.  Khi vào  đạo  là  không  làm khổ  mình,  khổ  người,  tức  là  giải  thoát.  Cớ  sao đi tu lại làm khổ gia đình,  vợ, con hay là chồng con, mà  gọi  là  đi  theo  Phật?  Đi  theo  Phật  sao làm  khổ  mình,  khổ  người,  mà  lại  chính  làm khổ  những  người  thân  thương  của  mình,   thì Phật  nào  chấp  nhận  cho quí  vị  tu  hành  như
vậy.

Chỉ  có  kinh sách  phát  triển  dạy người  tu hành   để   được   phước   báo   giải   thoát,   nhưng phước  báo  giải  thoát  đâu  không  thấy  mà  chỉ thấy  sự  đau  khổ  cho mình,  cho những  người thân thương của mình,  như trong bài báo chúng ta đã đọc ở trên.
 Hiện giờ trong đất nước chúng ta, thỉnh thoảng  nghe  báo  chí  đăng  tin vị  giáo  chủ  này đến  vị  giáo  chủ  kia  dạy  nhiều  loại  pháp  mê hoặc và lừa đảo người khác, như giáo chủ xứ Sương Mù,  giáo  chủ  Pháp  Hoa, giáo  chủ  Long Hoa Hội, giáo  chủ  Chân Không, Sư bán Khoai, Sư bán Chiếu, Sư mỏ Cày v.v..
Xét lại  các  giáo phái  này, chịu  ảnh hưởng kinh sách phát triển mà sinh ra.
Các giáo phái tà đạo của kinh sách phát triển  dạy tu  hành  một  cách  kỳ  lạ  khiến  chặt, đốt  một  ngón  tay  hoặc  một  phần  trong  thân thể của mình để cúng dường chư Phật để cầu pháp  giải  thoát,  thì kinh sách  phát  triển  ca ngợi gọi những người dám cúng dường được như vậy  gọi  là  PHÁP  KHÍ ĐẠI  THỪA.  Những người này được xem là BẬC ĐẠI BỒ TÁT.
Vì những  danh  từ  ca ngợi  rất  cám  dỗ  của kinh sách phát triển, nên khiến cho người ta dám chịu đau khổ, hy sinh thân mạng và bỏ cả vợ con hoặc chồng con. Họ làm như vậy, họ không  thấy  rằng  họ  là  những  người  không  có đạo đức, không có đạo đức với họ với những người thân, họ là những người vô minh, mù quáng đã tự làm khổ mình,  khổ người. Người tu hành  như  vậy  không  thể  gọi  là  người  tu  theo
 đạo Phật. Đạo Phật là đạo TỪ BI. Từ bi sao lại làm  khổ  thân  mình  và  làm  khổ  những  người thân của mình  (cha mẹ, vợ con hay chồng con). Và như vậy gọi là cầu giải thoát thì xin thưa cùng  quý  vị  giải  thoát  chỗ  nào?  Hay  là  giải chết? Xin quý vị trả lời.
Đọc  qua các  kinh  sách  phát  triển,  chúng ta thấy rất rõ ràng. Đây chỉ là một giáo pháp hỗn tạp, góp  nhặt  và  lượm lặt  những tưởng tri của loài người từ Đông sang Tây làm giáo pháp của mình. Tưởng là hòa đồng hay là tổng hợp giáo pháp của ngoại đạo như vậy là cao siêu, là cao thượng.  Nhưng  nào  ngờ  giáo  pháp  ấy  là một  thứ  bã  mía, giáo  pháp  ấy  giống  như chiếc áo vá nhiều thứ vải. Cho nên, kinh sách phát triển tự xưng giáo pháp mình  có 84 ngàn pháp môn, tự xưng mình  là TỐI THƯỢNG THỪA.
Khi đức  Phật  ra đời  tu  chứng  và  truyền đạo, Ngài  đã  căn dặn chúng ta:  ‚Chớ  có  tin... chớ  có  tin... v.v..  Mà  hãy  tin những  gì có lợi ích cho mình cho người, mà hãy tin những gì đừng làm khổ mình, khổ  người‛. Đây là lời cảnh giác của đức Phật xin quý vị lưu ý  để  tránh  những  tà  giáo  ngọai  đạo  đang  ẩn núp  trong  Phật  giáo  với  nhiều  hình  thức  khác



nhau khiến cho loài người vốn khổ đau lại càng khổ đau hơn.





MỜI ƠNG BÀ ĐÃ CHẾT VỀ ĂN TẾT

Câu hỏi của Liễu Nghĩa


Hỏi: Kính thưa Thầy! Hằng năm cứ đến ngày  giỗ  và  sắp  đến  ngày  Tết,  người  còn  sống ra mồ mả mời ông bà, cha mẹ đã chết có từ 60,
70 năm nay, về ăn Tết với con cháu, như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp:  Câu  hỏi  này  có  hai  cách  trả  lời  để xác định:
1- Mê tín

2- Chánh tín

Câu hỏi này mê tín như thế nào?

Như    trong  các      kinh    phát   triển   dạy:
‚Người  chết  còn  thần thức  nên nghiệp dẫn thần  thức  đi  luân  hồi.  Đó  là  hiện  tượng thế  giới  siêu  hình của  tưởng  tri‛. Nếu  còn có  thần  thức,  tức  là  linh hồn  đi  luân  hồi  tái sanh  thì đến  ngày  Tết,  ngày  giỗ  ra mộ  mời



những  người  như  ông  bà,  cha mẹ  đã  chết  lâu rồi,  về  ăn  Tết  với  con cháu,  mà  đã  đi đầu  thai rồi còn đâu về ăn Tết với con cháu, đó là sự mê tín của kinh sách phát triển. Đối với Phật giáo Nguyên  Thủy  thì con người  do các  duyên  hợp lại  mà  thành,  nên  không  có  linh hồn  và  thần thức.   Trong   kinh   Ngũ   Uẩn   đã   dạy:   ‚Thân người   gồm   có   5  duyên:   sắc,   thọ,   tưởng, hành, thức. Khi một người chết thì năm duyên này đều tan rã sạch, không còn sót một  chút  xíu  nào  cả.  Cái  còn  lại  đi tái sanh  luân hồi là  ‚Nghiệp‛.  Nghiệp là những hành động thiện, ác của con người hằng ngày huân tập mà thành. Vì thế, khi chết con người chẳng  còn  sót  cái  gì cả,  thì làm  sao về  ăn  Tết với con cháu được. Còn nghiệp là hành động thiện  ác  huân  tập  mà  thành,  thì nghiệp  làm sao về  ăn  Tết  với  những  người  thân  được.  Vì thế, mời ông bà, cha mẹ về ăn Tết với con cháu là  mê  tín không  đúng  tính cách  ‚Chánh  Tín‛ của đạo Phật.
Kinh sách  phát  triển  cho người  chết  còn có thần thức nên có cầu siêu: làm tuần 7 ngày,
21 ngày, 49 ngày, 100 ngày, giáp năm, ba năm v.v..  Đó  là  lối  mê  tín lạc  hậu  của  kinh  sách phát  triển,  trong  khi Phật  Giáo  Nguyên  Thủy



xác  định: không  có  thế  giới  siêu  hình,  thế  giới siêu hình  chỉ là thế giới tưởng tri.
Mê tín dân gian cho rằng, người chết là đàn ông có 3 hồn 7 vía (tam hồn thất phách), đàn bà có 3 hồn 9 vía (tam hồn cửu phách).
Khi người chết chỉ còn một hồn một vía sống  tại  mồ  mả,  còn  tất  cả  các  hồn  vía  khác đều  xuống  dưới  địa  ngục  âm  ty để  thọ  tội,  và tiếp tục đi tái sanh luân hồi. Do mê tín này, trở thành một tục lệ đến ngày giỗ, ngày Tết con cháu ra mộ mời ông bà cha mẹ đã quá cố lâu xa về ăn Tết với con cháu.
Từ  mê  tín của  kinh  sách  phát  triển  đến mê tín của dân gian đều đi ngược lại đường lối của đạo Phật.
Mê  tín của kinh sách phát  triển là  tạo  ra nghề   nghiệp   tụng   niệm,   cầu   siêu   để   kiếm miếng  sống  như  các  nghề  nghiệp  khác  ngòai đời.  Nhưng  quý  vị  phải  biết  nghề  tụng  niệm cầu  siêu  là  nghề  lừa  đảo  lường  gạt  người,  lấy hình  thức báo hiếu cho những linh hồn ông bà, cha mẹ được siêu thoát về miền Cực Lạc Tây Phương.
Kinh sách phát triển là loại giáo pháp mê tín có sách vở, có bài bản nên khó ai thấy được.



Vì thế, mọi người đều sa lưới bẫy của giáo pháp này.

Nghề này đã trở thành một nghề cắt họng thiên hạ, tụng một ngọ có giá cả hẳn hòi không có  mặc  cả  được.  Trên  đây trả  lời  câu  hỏi  về  tà tín. Còn câu  hỏi này về  ‚Chánh  Tín‛ như thế
nào?

Hằng năm nhớ lại ngày mất cha, mất mẹ, mất những người thân. Hoặc những ngày tư, ngày Tết  cả  gia đình  cười  đùa, vui  chơi, thì họ lại  nhớ  đến  công  ơn của  những  người  quá  cố, nên đến nơi an nghỉ cuối cùng của những người thân thương này, tức là thăm mồ mả. Khi thấy mồ mả của những người thân, con cháu tưởng chừng những người  khuất  mặt  đang ở đâu đây, nên  mới  mời  những  người  đó  về  vui  chơi  Tết với  con cháu.  Đó  là  lòng  tưởng  nhớ  của  những người  còn  sống,  chứ  người  chết  rồi,  còn  những gì mà về ăn Tết vui chơi với con cháu.
Khi làm một việc gì mà không biết, không rõ  cứ  theo  phong  tục  thói  quen  xưa  bày  nay làm;  hoặc  tin theo  các  tôn  giáo  chỉ  dạy,  chẳng cần  suy tư  tìm hiểu  gì cả  thì sẽ  mang ý  nghĩa mê tín lạc hậu. Chính  vì làm mà không thấu rõ là  mê  tín. Còn  ngược  lại,  khi làm  việc  gì, thì phải   hiểu   rõ,   biết   rõ   việc   mình   đang  làm,
 không   bị   ảnh   hưởng   phong   tục,   tập   quán, không bị tôn giáo lừa đảo, đầy đủ ý nghĩa đạo đức làm người thì việc ấy là ‚Chánh Tín‛.


CẦU XINH PHÚC LỘC
Câu hỏi của Liễu Nghĩa
Hỏi:  Kính thưa  Thầy, đầu  năm  đi chùa để  lễ  bái  cầu  phúc, cầu  lợi,  có  lợi  lạc  gì không thưa Thầy? Nhất là ngày rằm tháng giêng thì chùa nào cũng đông nghẹt, từ sáng sớm đến khuya,   vì   người   ta   nghĩ   “Đi   lễ   quanh  năm, không bằng đi  ngày rằm tháng giêng!”.
Chúng con cúi  xin  Thầy  từ  bi  chỉ  dạy  cho chúng con được rõ.
Đáp: Đó là  phong tục mê  tín từ lâu  trong các chùa do kinh sách phát triển dạy cầu phúc, cầu  lợi  như  vậy  để  lừa  đảo  tín đồ  Phật  giáo, đem phúc  lợi  cho những  tu  sĩ  ngồi  trong  mát, ăn bát vàng hơn là phúc lợi cho tín đồ. Đi chùa để nghe pháp, nhớ lời Phật dạy về đạo đức làm người  để  sống toàn thiện. Nếu  một  người  nghe lời  Phật  dạy,  luôn  luôn  sống  toàn  thiện,  thì
 phước   lộc   đầy  đủ,   cần  gì  phải   đi  chùa  cầu phước, cầu lợi? Nếu đi chùa quanh năm, hoặc nhân  ngày  rằm  tháng  giêng  đến  lễ  Phật,  cầu chư Phật ban phúc ban lộc mà chẳng làm một điều  lành, luôn luôn làm  khổ  mình,  khổ  người, không  hề  tu  tập  nhẫn  nhục,  tùy  thuận,  vui lòng,  lúc  nào  cũng  có  phiền  não  sân  hận,  bất toại nguyện v.v.. thì có ích lợi gì? Có Phật  nào ban cho phúc lộc hay không? Đụng việc gì cũng làm to ra, la lối om xòm, chửi làng, mắng xóm, cuộc  sống lúc  nào  cũng  bỏn  xẻn,  ích kỷ,  không hề  giúp  đỡ  người  bất  hạnh  thì dù  có  lạy  Phật đến sói đầu, cầu phước, cầu lộc cũng chẳng có được  chút  nào.  Đó  là  một  việc  làm  mê  tín, mơ hồ,  phi   đạo  đức,  không  có  thánh  thần,  chư Phật,  chư Bồ  Tát  nào  ban phước,  ban  lộc  cho quý vị ấy được, vì những việc ban phước ban lộc như  vậy,  không  đúng  đạo  đức  công  bằng  và công lý.
Cầu  phúc  cầu  lợi  không  bằng  sống  đúng đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình,  khổ  người  thì cuộc  sống sẽ  có  phước  báo đầy đủ; đó chính  là hành động đối xử với nhau biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng với mọi người.



Cầu phúc cầu lợi là một việc làm mê tín trừu  tượng, ảo mộng. Vì chẳng có  ai  ban phước ban lộc  cho mình,  mà  chỉ  có  chính  mình  làm được những hành động thiện thân, miệng, ý không làm khổ mình,  khổ người đó sẽ là sự ban phước,  ban lộc  cho mình  cụ  thể,  thiết  thực  và rõ ràng.
Đi  chùa  cầu  phước,  cầu  lộc  là  việc  làm thiếu trí tuệ. Nếu chúng ta làm ác, bỏn xẻn, ích kỷ, thì thử hỏi có ai dám đem phước lộc đến chúng ta chăng?
Phước lộc  không phải  tự  dưng mà  đến với chúng  ta.  Nó  đến  với  chúng  ta  bằng  tâm  niệm tốt của chúng ta, do chúng ta biết thương người, biết  giúp  đỡ  người  trong  cảnh  bất  hạnh  tai ương, biết ban phúc ban lộc cho người gặp cảnh khó khăn.
Phước lộc đến với chúng ta phải đến với sự công bằng và công lý. Nếu ta làm xấu ác, chẳng giúp người trong cảnh khổ nạn thì khi chúng ta gặp khổ nạn chẳng có thần thánh hay ai giúp chúng  ta  được,  và  chẳng  bao giờ  có  phước  lộc đến  với  chúng  ta.  Nếu  chúng  ta  có  ban phước lộc  cho người  thì phước  lộc  mới  đến  với  chúng ta. Cho nên, chẳng cần cầu  khẩn ai  ban phước lộc  cho mình.  Phước  lộc  đều  do nơi  mình.  Thế



nên đức Phật đứng trong góc độ đạo đức nhân bản - nhân quả mà dạy chúng ta tu hành thiện pháp.  Đầu  năm  đi  chùa,  lễ  bái,  cầu  phúc,  xin lộc chẳng được phước lộc mà còn bị kẻ khác lừa đảo, lường gạt, tiền mất tật mang. Đầu năm đi chùa lễ bái cầu phúc xin lộc để rồi trở thành những  tín đồ  Phật  Giáo  mê  tín dị  đoan,  lạc hậu, bị người đời cười chê là những Phật tử ngu si, mê muội.
Đầu năm đến chùa xin được đảnh lễ bậc chân  tu  giới  đức,  để  học  hỏi  những  đức  hạnh của người thì đó là phước là lộc. Người chân tu hướng dẫn và chỉ dạy cho mình  những hành động  sống  để  được  phúc  lộc  an vui  thanh  thản và  hạnh  phúc.  Đầu  năm  đi  chùa  cầu  phúc  xin lộc như vậy mới là chân chánh vì ích lợi thiết thực cho mình,  cho người, cho xã hội và cho đất nước quê hương.
Tóm lại, đi chùa lễ bái cầu phúc xin lộc là hành động mê tín dị đoan, thiếu đạo đức, thiếu trí tuệ,  là  ngu  si  mê  mờ.  Đi  chùa  lễ  bái  bậc chân tu, xin dạy đạo đức làm  người  không làm khổ mình,  khổ người là chân chánh, không mê tín lạc hậu. Đó là người cư sĩ đệ tử Phật thông minh  và  trí tuệ,  tìm học  những  điều  phúc  lộc



chân chánh, cụ thể, thực tế,  không mơ hồ, trừu tượng...





KINH SÁCH PHÁT TRIỂN

Câu hỏi của Liễu Nghĩa
Hỏi:   Kính  thưa   Thầy!   Con   có   mấy quyển   kinh    như:   Lương   Hoàng   Sám,   kinh Phương  Quảng,  kinh   Địa Tạng  Vương,  kinh Dược Sư, kinh  Diệu Pháp Liên Hoa v.v.. Những quyển  kinh   này  chùa  nào  cũng  có  lịch tụng niệm hằng năm theo khóa lễ. Vậy những quyển kinh   này  có  phải  là  kinh   của  đức  Phật  hay không?  Xin  Thầy  chỉ  dạy  cho chúng  con được
rõ. Đáp: Những kinh sách mà con đã  hỏi không phải do Phật thuyết, mà do các Tổ soạn viết  ra  sau  này,  theo  kiến  giải  của  từng  bộ phái.  Mỗi  bộ  phái  khi được  thành  lập  và  trọn quyền  nắm  giữ  bộ  phái  của  mình,  thì các  Tổ biên soạn viết kinh sách theo sự vay mượn của giáo  pháp  ngoại  đạo.  Trong  lúc  đức  Phật  còn tại  thế  thì Ngài  đã  rống lên  tiếng  rống  con sư

tử, đập sạch các hệ tư tưởng lường gạt người bằng  sáu  mươi  hai  lý  luận,  làm  chấn  động  cả đất trời (toàn thế giới).
Sau khi đức  Phật  tịch,  không  ai  còn  nắm được  giềng  mối,  và  quyền  lãnh  đạo  Tăng  đoàn thì đã  bị  các  Tổ  sư ngoại  đạo  vì  danh,  vì  lợi nên phân chia Phật giáo làm 20 bộ phái. Mỗi người chiếm lĩnh một nơi, rồi soạn viết kinh sách theo sáu mươi hai lập luận của ngoại đạo. Vì  thế,  kinh  sách  phát  triển  mà  con đã  kể  ở trên,  không  phải  là  kinh  sách  của  Phật  mà  là kinh sách của Bà La Môn, bị ngoại đạo phân hóa. Kinh sách ngoại đạo phân hóa ngày nay không còn mang tánh chất Phật giáo Nguyên Thủy, chỉ  còn một  số  danh từ  do đức  Phật  dạy mà thôi, nội dung toàn là của ngoại đạo.
Cho nên, từ khi Phật giáo chia ra làm nhiều  bộ  phái  thì sự  tu  tập  và  đời  sống  đức hạnh của người tu sĩ không còn thấy nữa. Chỉ toàn  là  tu  sĩ  danh  lợi,  chạy  theo  thế  giới  siêu hình,  cúng  bái  tụng  niệm  như  trong  các  chùa, có   lịch  tụng  niệm   các   kinh  này  hằng  năm tháng  để  cầu  an,  cầu  siêu  cho  tai  qua,  nạn khỏi...  Đó  là  kinh  sách  của  ngoại  đạo  phát triển  đã  dạy mê  tín không  đúng  đạo  đức  nhân quả,  dạy những  điều  phi  đạo  đức.  Các  con hãy
 giữ lại, để làm  kỷ  niệm  một  thời  vàng son của loại  kinh  sách  này.  Nó  đã  dẫn  dắt  bao nhiêu thế hệ người tu hành đi trên lộ trình mê tín và kết  quả  chỉ  uổng một  đời  tu  mà  thôi, chẳng có gì.  Phật  giáo  chỉ  còn  là  cái  tên,  thực  chất chẳng có gì là của Phật giáo cả.


HÌNH  ÂNH QUAN THẾ  ÂM BỒ TÁT
Câu hỏi của Liễu Nghĩa
Hỏi:  Kính thưa  Thầy,  gia  đình  con có thờ hình ảnh Quan Thế Âm Bồ Tát. Khi nghe Thầy giảng trong băng Bồ Tát Quan Thế Âm không  có  thật,  mà  chỉ  là  sự  tưởng  tượng  của con người. Trước kia, con chưa được biết, nên được  sư ở  chùa  cho về  thờ  gần  hai  năm  nay. Bây  giờ  con rất  áy  náy  trong  lương  tâm,  điều này nên để thờ hay thay bằng tranh Phật khác? Xin  Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho con được rõ.
Đáp: Bồ Tát Quan Thế Âm là một vị Bồ Tát  tưởng  tượng  của  kinh sách  phát  triển,  chứ không có một Bồ Tát trong lịch sử loài người. Cũng  như  Bồ  Tát  Di  Lặc  cũng  chỉ  là  một  Bồ



Tát  tưởng  tượng.  Khi thấy  ai  hay  cười  hề  hề đều  cho đó  là  Bồ  Tát  Di  Lặc.  Gần  đây,  có  một số nhà học giả dạy người tu hành luôn luôn tập một  nụ  cười.  Vì  thế,  có  nhà  học  giả  dạy:  ‚Hít vô  tôi  mỉm  miệng  cười,  thở  ra tôi  mỉm miệng cười‛.
Cách thức cười như vậy, cũng giống như người Hoa kiều buôn bán ở Chợ Lớn, luôn lúc nào  cũng cười hề  hề, làm  vui lòng khách hàng. Nhiều người tập vui cười ngoài mặt, nhưng bên trong thì tham, sân, si còn hơn những người không  tu.  Đạo  Phật  chỉ  duy  nhất  có  một  đức Phật lịch sử trong loài người, đó là đức Phật Thích  Ca Mâu  Ni, người đã  tự  tìm ra một giáo pháp tu hành, để đi đến giải thoát, sự đau khổ của kiếp người.
Là  đệ  tử  của  đức  Phật,  các  con nên  thờ một vị  Phật duy nhất, để tỏ lòng biết ơn, đó là thờ  đức  Bổn  Sư Thích  Ca Mâu  Ni Phật.  Muốn thay  đổi  hình  tượng  thờ  phụng  trong  nhà  thì hình  ảnh  Quan Thế  Âm  Bồ  Tát  con nên  đem gửi lại chùa, hoặc đem thiêu đốt.
Nên  thỉnh  hình  ảnh  đức  Phật  Thích  Ca đang ngồi thiền tại cội bồ đề, bên dòng sông Ni Liên dưới ánh trăng đêm khuya, về thờ phượng thì mới đúng tư cách là tín đồ Phật giáo.
 BA HỒN BÂY VÍA, BA HỒN CHÍN VÍA
Câu hỏi của Liễu Nghĩa
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Người  chết  mới tắt thở, có tục lệ, nếu đàn ông thì  cho 7 hạt gạo nếp  cộng  7 hạt  muối  trắng  vào  miệng,  đàn  bà thì  9. Làm như  vậy có đúng không thưa  Thầy? Xin  Thầy  dạy  cho chúng  con được  rõ.  Người nào tín  đồ Phật giáo thì  cho một quyển kinh  kỳ cầu nhỏ bằng bao thuốc lá để vào túi áo cho người chết mang đi,  để quỷ sứ biết là đệ tử của Phật, không tra khảo buộc tội.
Người nào được làm lễ quy y Tam  Bảo thì được phát cho hai tờ điệp. Khi chết, một tờ đem thiêu đốt cháy thành tro than  đem đi bỏ xuống giếng  hoặc  mang  ra sông  bỏ,  1 tờ  xếp  nhỏ  để vào lòng bàn tay người chết mang đi.  Làm như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Sau khi đọc lại những sách nói về phong tục dân gian trong ba miền Nam, Trung, Bắc ta thấy dù lý luận kiểu nào, các tập tục đó cũng chỉ là mê tín mà thôi.
Đối  với  đạo  Phật,  thân  tứ  đại  này  khi rã tan thì đất, nước, gió, lửa phải trả về đất, nước,
 gió, lửa, có còn gì đâu mà phải bỏ gạo muối vào miệng  để  đem  theo  ăn  uống  như  người  còn sống. Thường tục lệ dân gian người ta cúng cô hồn, tức  là  những vong hồn người  chết  oan ức, chết tức tối, không đi đầu thai được, họ cúng bằng gạo và muối.
Do đó suy ra, chúng ta cũng nhận ra được người  nam  chết  cho bảy  hạt  gạo  và  bảy  hạt muối vào miệng, để nhờ đó mà linh hồn và phách vía không còn đói khát trong lúc chưa đi đầu thai. Từ chỗ tưởng tri, người ta suy tưởng thế  giới  siêu  hình  và  cho rằng  người  chết  là chết thân tứ đại, còn riêng linh hồn thì bất tử, bất  biến,  không  thay  đổi  và  không  bao  giờ
chết.

Bảy hạt gạo và bảy hạt muối hay chín hạt gạo  và  chín  hạt  muối,  đó  là  sự  tưởng  tri của tình cảm con người đối với người thân đã  chết. Họ nghĩ rằng số gạo và muối như vậy, đủ dùng trong  thời  gian  tiếp  tục  đi  tái  sanh mà  không bị đói.
Người ta không hiểu rằng khi một người chết,  bỏ  cái  xác  thân  cằn  cỗi  này  thì tiếp  tục ngay với cái xác thân mới trong bào thai, giống như  ngọn  đuốc  này  vừa  tắt  thì được  mồi  sang ngọn  đuốc  khác,  cây  đuốc  cũ  đã  thành  cát  bụi
 không còn một vật gì lưu lại. Vì không còn một vật  gì lưu  lại  nên chẳng có  đi đâu  và  chẳng có thời gian chờ đợi xuống địa ngục hay lên Thiên đàng hoặc đi tái sanh.
Cây  đuốc  cũ  và  cây  đuốc  mới  thì có  khác nhau, nó có vô số hình  tướng khác nhau nhưng lửa thì như nhau, dù lửa than và lửa ngọn, hoặc ngọn  lửa  lớn  hoặc  nhỏ,  tánh  lửa  vẫn  là  một (tánh nóng, ấm) chứ không hai ba được.
Cây   đuốc   dụ   cho  thân   nghiệp   của   con người,  nó  có  nhiều  hình  thức  khác  nhau,  như làm  thân  người,  đàn  ông,  đàn  bà,  hoặc  làm thân trâu, bò, heo, dê, cọp, chó, gà vịt, mèo chuột, cá tôm, chim, côn trùng, sâu  bọ, rắn rít, ong  bướm,  v.v..  Tất  cả  đều  là  thân  tứ  đại, nhưng hình  dáng không giống nhau, dù rất nhỏ như vi trùng cũng là thân tứ đại mà có, lớn như chim  đại  bàng  bay  che mát  nửa  bầu  trời  thì cũng là thân tứ đại.
Lửa dụ cho nghiệp của chúng sanh, nghiệp thì  di  chuyển  linh động  trong  thiện  và  ác  liên tục không có kẽ hở. Vậy nghiệp luôn luôn vận hành không gián đoạn phút giây nào cả.
Thân  thì có  tiếp  nối  thân  này  thân  khác (thân người, thân chúng sanh), còn nghiệp thì liên tục dù thay đổi bao nhiêu thân, thì nghiệp

liên tục mượn thân này, thân nọ mà hoạt động thành nhân quả thiện ác. Nghiệp thiện ác nối tiếp  từ  thân  này,  thân  khác  và  cứ  mãi  hoạt động như vậy nên đức Phật gọi là tái sanh luân hồi mãi mãi.
Tín  ngưỡng mê  tín, cho rằng con người  có hồn và vía, đàn ông có 3 hồn 7 vía, đàn bà có 3 hồn  9 vía.  Người  ta  tưởng  tri,  khi một  người chết 3 hồn đi xuống địa ngục bị hành tội, khi mãn tội thì đi đầu thai; còn 7 vía đàn ông, và 9 vía  đàn  bà  thì ở  lại  dương  gian  vất  vơ,  vất vưởng đói khát. Cho nên khi chết, người ta cho vào miệng hoặc 7 hạt nếp hoặc 9 hạt nếp để 7 vía  hoặc  9  vía  đó,  có  mà  sống  không  có  đói khát, hoặc lấy trong miệng mà tiêu phí.
Đó  là  sự  mê  tín, nhưng  cũng  nói  lên được tình thân  thương  của  người  sống  đối  với  người đã  chết. Nhưng  vì sự mê  tín lạc  hậu đó  mới có những kẻ trộm hay quật mồ, cạy quan tài lấy vàng  bạc,  của  báu  đã   được  chôn  theo  người chết. Một  việc làm mê  tín lạc  hậu  cũng đã  đưa đến nhiều điều tai hại, nhất là khi quật mồ người chết, mùi hôi thối của tử thi bay ra làm ô nhiễm một vùng.
Người chết là hết, không còn ăn uống và tiêu  xài  vàng  bạc  tiền  của  như  lúc  còn  sống.
 Người  chết  chỉ  còn  nghiệp  tiếp  tục  tái  sanh luân hồi, tức là hành động thiện ác nối tiếp sự sống. Người chết là đang tiếp tục sống và người sống đang tiếp tục đi dần đến sự chết. Nếu hiểu được như vậy thì chúng ta không còn mê tín lạc hậu,  không  còn  làm  hao tài  tốn  của  một  cách vô lý. Chết là hết một kiếp thân nhân quả, còn có gì đâu mà xài tiền bạc và mặc quần áo?
Vì  mê  tín người  ta  tưởng  rằng  người  chết cũng như người đang sống ở trên dương gian (dương  gian  âm  phủ  đồng  nhất  lý).  Hiểu  như vậy là  cái  hiểu  của tưởng tri (hiểu  bằng tưởng) không đúng, không thực tế, là hiểu mơ hồ trừu tượng.  Cái  hiểu  đó  đã  khiến  cho người  ta  hao tốn tiền của rất nhiều bằng cách mua giấy tiền vàng  mã,  rồi  đem đốt.  Thật  là  lãng  phí,  nhảm nhí,  chẳng  có  linh hồn  nào  sử  dụng  quần  áo giấy và tiền bạc giả đó, nó chẳng ích lợi cho người sống cũng như người chết.
Tóm  lại,  mê  tín là  sự  ngu si  dại  dột  của những  con người  còn  lạc  hậu  trong  những thời kỳ  bộ  lạc  xa xưa, khi loài  người  còn  ăn  lông  ở lỗ.





KINH CỈU KỲ VÀ ĐIỆP PHÁI

Câu hỏi của Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính thưa Thầy! Người tín đồ Phật giáo nào hay đi chùa được cho một quyển kinh kỳ  cầu  nhỏ  bằng  bao thuốc  lá  để  khi  chết  bỏ vào  túi  áo  mang  theo. Khi  gặp  quỷ  sứ  tra xét đưa cuốn  kinh  này  ra, quỷ  sứ  biết  đó  là  đệ  tử của  Phật   không  tra  xét   và   không  buộc  tội. Người  nào  đến  chùa  được  làm  lễ  quy  y  Tam Bảo thì  được phát cho hai tờ điệp. Khi chết một tờ đem thiêu đốt cháy thành tro than đem bỏ xuống giếng hoặc  mang ra sông bỏ, một  tờ  xếp nhỏ  để  vào  lòng  bàn  tay  người  chết  mang  đi. Làm như vậy có đúng không thưa  Thầy? Mong Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Điệp phái quy y Tam Bảo là do Phật giáo bị phân chia ra làm nhiều bộ phái, các Tổ muốn biết số người theo Phật giáo bao nhiêu nên lập ra điệp phái.
Khi truyền  giáo  từ  Trung  Quốc  rồi  sang Việt Nam, các Tổ của kinh sách phát triển biến tờ điệp phái thành loại giấy thông hành cho người  chết.  Khi xuống  địa ngục,  nhờ  những  tờ
 điệp phái này mà vua Diêm Vương cùng quỷ sứ giảm  khinh  tội  trạng  và  sớm  được  đầu  thai. Nếu ai không có giấy này thì không được giảm tội,  và  có  thể  ở  tù  chung thân  không  được  đi đầu thai. Đây cũng là một sự lừa đảo, lường gạt của  các  nhà  sư phát  triển,  lôi  cuốn  người  khác theo  tôn giáo mình.  Cũng như trong thời Pháp thuộc, ở  Việt  Nam,  người  dân bản xứ  nào được giấy tờ giặc Pháp cấp nhập quốc tịch Pháp, thì hưởng mọi  quyền lợi và không bị bắt bớ tù tội. Cũng giống như vậy, người nào được làm lễ Quy Y  Tam  Bảo  là  được  ‚nhập  quốc  tịch   Thích Ca‛  và   như   vậy,   quỷ   sứ,   vua  Diêm   Vương không hành phạt.
Thật  là  một  điều  bất  công,  phi   đạo  lý. Sống trên dương gian chuyên làm điều ác, chỉ cần có giấy điệp phái của các kinh sách phát triển,  thay  Phật  cấp  cho là  khỏi  bị  tù  tội!  Còn những  người  khác  không  quy  y  Tam  Bảo  thì sao?  Họ  bị  hành  hạ  và  bỏ  tù  chung thân  suốt đời, không cho đi đầu thai thì thật là bất công, không còn công lý  chút  nào  cả  như trên chúng tôi  đã  nói.  Các  kinh  sách  phát  triển  đã  biến Phật  giáo  thành  một  tôn  giáo  mê  tín, chuyên lừa đảo, lường gạt người khác, bằng những điều mê  tín, lạc  hậu,  phi  đạo  đức.  Trong  khi đức



Phật  xác  định  kẻ  nào  giết  hại  chúng  sanh, trộm  cắp,  tà  dâm,  vọng  ngữ,  uống  rượu  sẽ  bị đọa địa ngục. Thế mà các kinh sách phát triển dạy  ngược  lại  lời  dạy  của  đức  Phật,  làm  một điều  gian  xảo,  lừa  dối,  chỉ  cần  có  giấy  chứng điệp là thoát tội địa ngục!
Các kinh sách phát triển lại còn dạy rằng: Khi trẻ con mới sanh đem vào chùa quy y Phật, sẽ không bị tà ma quỷ quái bắt làm cho đau bệnh, hay hoặc trẻ mới sanh đem đến chùa quy y Phật sẽ được mạnh giỏi và không bị đau ốm, nhờ  chư Phật  phù  hộ  cho mạnh  giỏi. Trên  đây là những điều mê tín mà quý Thầy trong các chùa thường dạy tín đồ như vậy, để  thu hút tín đồ thường đến chùa cúng  bái, để các Thầy ngồi không mà thọ hưởng. Chẳng tu hành gì cả, chỉ cần dạy bảo những điều mê tín đó là ngồi mát, ăn bát vàng.
Gần đây, khoảng mười năm nay có xuất hiện  một  loại  kinh nhỏ  bằng  gói  thuốc  hút  có tên là kinh Kỳ Cầu, do một vị thầy Bà La Môn tưởng ra biên soạn. Trong kinh Kỳ Cầu đã dạy: “nếu  có  quỷ  sứ  hay  vua  Diêm  Vương tra  hỏi  thì đưa  kinh  Kỳ  Cầu  ra, liền  không  bị  tra hỏi  và được đi tái sanh không sa địa ngục”. Kinh viết:

‚Mạng chung số thác



Quỷ sứ hỏi câu

Đã có Kỳ Cầu

Diêm Vương tra hỏi

Đứng lại mà nói

Đã có Kỳ Cầu‛

(trang 2, 3).

Đó  là  một  loại  kinh mê  tín, phi  đạo  đức, một lối lừa đảo của những tà sư ngoại đạo. Nếu làm  tội  lỗi  tức  là  làm  ác,  thì chỉ  có  làm  việc thiện mới chuyển hóa được thoát cảnh khổ hay là cảnh địa ngục, chứ không phải có kinh Kỳ Cầu  là  tiêu  tai  thoát  nạn.  Thật  là  những  tà giáo Đại Thừa bày ra nhiều điều phi đạo đức!
Kinh  Kỳ  Cầu  là  một  loại  kinh  tà  giáo ngoại đạo mượn danh Phật pháp, để lừa đảo tín đồ Phật giáo làm việc mê hoặc, đánh lạc hướng chân chánh của Phật giáo. Kinh Kỳ Cầu giống như giấy thông hành của giặc Pháp cấp cho những người dân bản xứ trong vùng chúng đã kiểm soát trong thời chiến tranh. Trong kinh này còn dạy: “Nếu  ai  có  kinh này  thì chư  Phật mới biết mà cứu độ”.
‚Chẳng có Kỳ Cầu

Phật mới biết đâu



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!