Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT- TẬP 9 -1



Ä




BẬC A LA HÁN
Bậc A La Hán ra đời như  cánh chim trời, tung bay  khắp mọi nơi  khiến cho  vũ trụ rung chuyển, những tư tưởng mê  tín, dị đoan,  lạc hậu của loài người bị đảo lộn,  không còn  đứng vững, rơi rụng như  những chiếc lá vàng mùa thu.
Lời nói đầu



Hơn một năm, tám tập Đường Về Xứ Phật  được ra  mắt quý vị,  đến nay tập 9  ra   đời để góp thêm những   phần   còn thiếu sót của bước đường tiến tu về  xứ  Phật. Ba mươi bảy phẩm  trợ   đạo  đã được  giảng dạy  trên hai phần ba, làm sáng tỏ đường lối tu tập của đạo  Phật rất  cụ thể và rõ  ràng, không còn  có  chỗ   nào khiến cho  quý vị khó hiểu.

Chúng tôi  giảng tới  đâu thì pháp hành
kèm theo   tới đó, nếu ai chịu  khó tu  tập và lập hạnh sống đúng giới luật của Phật, thì chúng tôi tin chắc rằng quý vị sẽ tìm thấy sự giải thoát ngay liền. Sự giải thoát ngay liền đó là  một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Còn nếu quý vị không phải là  những người đi tìm sự  giải thoát nơi tâm  hồn của quý vị,  thì  khi đã đọc sách của chúng tôi, (chúng tôi  tin chắc rằng) quý vị cũng tự hổ thẹn với mình vì  đã đọc và hiểu những lời dạy đạo đức  của Phật mà không sửa mình lại còn làm  người vô đạo đức  với mình, với người, tức là  làm   khổ mình, khổ người, và như vậy quý vị sẽ cảm thấy mình chẳng khác nào như loài cầm thú, nếu quý vị cứ tiếp tục mãi làm khổ mình, khổ người như vậy thì quý

vị còn tệ hơn  loài cầm thú nữa,  đó chỉ là
những loài ác quỷ (hiểu biết mà còn làm khổ mình, khổ người là  loài quỷ dữ,  chứ không phải là loài người nữa). Phải không quý vị?
Tập 9 này chúng tôi sẽ tiếp tục trả lời tất cả những câu hỏi của quý vị, từ lâu  quý vị còn đang ôm ấp trong lòng chưa giải nghi được.
Chúng tôi  cố gắng trả lời  và làm sáng tỏ  lại đạo Phật, nhất là  đạo đức  nhân bản
- nhân quả của Phật giáo để  mọi người có đủ duyên may gặp được chánh pháp dạy về đạo đức  nhân bản - nhân quả làm người của đạo Phật. Nhờ đó quý vị thực  hiện một đời sống đạo đức cao   thượng, một đạo đức đẹp   đẽ tuyệt vời. Người sống đúng với đạo

đức  ấy, thật xứng đáng làm  người giữa  loài
người.

Tập 9, chúng tôi giảng về Thất Giác Chi để  mọi người biết  cách thực hành sống đúng bảy pháp môn giải thoát của đạo Phật. Mỗi pháp môn thực hành đều  có sự giải thoát ngay liền, nên nó được mang  tên là  Giác Chi chứ không phải đợi tu hết bảy pháp Giác Chi mới có sự  giải thoát, nhưng mỗi Giác Chi được tu tập  là có sự  giải thoát thân tâm của quý vị ngay liền tại Giác Chi đó.
Trong Bảy Giác Chi nó gồm đủ “giới, định, tuệ”, nếu một vị tu sĩ mà không giữ gìn giới luật nghiêm túc thì không thể nào tu tập Bảy Giác Chi được, cũng như  không sống đời sống phạm hạnh, không phòng hộ  sáu căn, không thiểu dục tri túc, không ba y một
bát,  không  đi  xin  từng  miếng,  từng  nhà,
không xả bỏ của cải tài sản vật chất, không đoạn lìa những tình  cảm người thân quyến thuộc, không lấy  gốc cây làm  giường nằm mà sống trong chùa to Phật lớn, vì chùa to Phật lớn, giường cao rộng, mền nệm êm ấm, sống trong nhung lụa sang giàu thì không thể nào tu theo Bảy Giác Chi được, vì ngay cuộc sống đó là  không “Giác Chi1” thì còn tu  tập cái gì là Giác Chi được nữa.
Tập 9 này chúng tôi  cố gắng vạch rõ sự hiểu lầm của quý vị, từ lâu quý vị đã cho rằng một bậc Thánh phải có những điều kiện như sau:
1/ Một vị Thánh A La Hán phải có  thần  thông  biến  hóa,  tàng  hình,  phóng



1 Giác Chi là Bồ Đề, là giải thoát


hào quang, ngồi xếp bằng bay trên hư không
như chim v.v..
2/ Một vị Thánh A La Hán phải biết  chuyện quá khứ,  vị lai của  mình,  của người khác.
3/ Một vị Thánh A La Hán phải thông suốt tam  tạng kinh điển và còn phải thông hiểu cả vũ trụ, cái gì cũng phải hiểu biết hết.
4/ Một vị Thánh A La Hán luôn luôn chịu  khổ thay  cho mọi người, thậm chí còn phải hy  sinh  tánh mạng để cho   người khác sống.
5/ Một vị Thánh A La Hán chết phải biết  ngày biết  giờ, sanh ra  phải  nhớ nhiều đời nhiều kiếp của mình.
6/ Một vị Thánh A La Hán chết phải để  lại nhiều xá lợi, hoặc để  lại bộ xương khô (nhục thân).

Đó là  những tư tưởng hiểu lầm lạc  về
một  bậc  Thánh  A La  Hán  của  đạo Phật. Một bậc Thánh của đạo Phật là những người sống đúng phạm  hạnh có nghĩa là một đời sống được gọi là  Thánh Tăng thì phải ly dục ly ác pháp, sống không làm khổ  mình, khổ  người  và  khổ tất  cả  chúng sanh, đó chính   là bậc Thánh Tăng của đạo Phật.

Bậc Thánh Tăng là  những người sống không phạm giới, bẻ vụn giới, thấy những lỗi nhỏ nhặt rất sợ hãi, luôn luôn sống đời sống giới luật  nghiêm túc,  còn sáu loại Thánh A La Hán ở trên mà quý vị tưởng tượng ra, đó là sáu loại Thánh “dỏm”, Thánh lừa đảo thiên  hạ, tạo nhân ác cho mình, Thánh vô minh  làm khổ mình, khổ người mà không

thấy, chỉ thích  chạy theo danh  lợi  hão của
cuộc sống tạm bợ trong thế gian loài người.

Còn một vị Thánh Tăng của đạo Phật thì sống thật cho mình cho người, chẳng bao  giờ làm  khổ mình, khổ người có nghĩa   là chẳng bao  giờ hờn giận tức tối  ai hết dù ai có khó dễ,  mắng chửi mình, mạt sát mình thậm tệ nhưng mình vẫn an nhiên tự tại vui vẻ và chẳng hề có một lời  nặng nhẹ nói xấu ai hết,  trước mặt và sau lưng  đều đối xử như vậy. Một vị Thánh của đạo Phật luôn luôn sống có ích  lợi  cho  mình, cho người, sống biết hòa mình với mọi người, không làm  khổ mình, khổ người bằng những đức  hạnh: nhẫn nhục, tùy  thuận, bằng lòng, ăn, ngủ không phi thời và sống độc cư  một đời  sống  trầm  lặng,   nhưng   tâm  hồn  nhẹ

nhàng, thanh thoát, an vui và trước mọi cảnh
vui cũng như mọi cảnh buồn đều  thanh thản, an nhiên không hề dao động tâm.
Suốt mười bảy, mười tám  năm trời tu viện Chơn Như mở cửa  đón những người có tâm huyết muốn thắp lại ngọn đèn  chánh pháp của Phật giáo và làm gương  sáng cho hàng tín đồ, nhưng   đến nay tu  viện vẫn hy vọng có những bậc ấy. Vì vậy, Tu viện cố gắng hết mình để  đào tạo những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni ấy để  chấn chỉnh Phật giáo  lại,    nhưng   đến giờ  này  tuy  chưa  tìm thấy được một ai nhưng tu viện vẫn hy vọng và tin rằng sẽ có những người xứng đáng là đệ   tử của đức  Phật xuất hiện và nối tiếp mạng mạch của Phật giáo.

Đúng vậy, đến nay năm 2006 chúng tôi
đã tìm thấy những bậc ấy xuất hiện qua  lớp đào tạo  những bậc chứng đạt chân lý.  Khi nhuận lại  tập 9  chúng tôi  báo tin mừng này đến  quý vị để   quý vị biết  rằng Phật giáo đâu phải là  một pháp khó tu  tập như  từ lâu người ta đã tưởng: Phật pháp phải tu nhiều đời nhiều kiếp, trong khi đức  Phật xác định sự tu  tập của Phật giáo chỉ trong 7 ngày, 7 tháng, 7 năm.
Sự tu  tập của đạo Phật chỉ có hai lộ trình “thiện  và ác”, kinh sách Phật đã dạy rõ ràng và cụ thể như vậy, từ cách thức thực hành pháp đến  cách thức thực  hiện trong cuộc sống hằng ngày. Càng tu  tập càng thấy sự  giải thoát rõ ràng, càng tu  tập đời sống
  
càng an vui, hạnh phúc đầy đủ. Thế tại sao
người ta lại tu theo không nổi?

Tu theo đạo Phật thì chỉ phải chọn lấy con  đường thiện  mà đi, cớ sao  các vị tu sĩ của đạo Phật lại đi trên con đường ác, trong khi chúng tôi  đã giảng dạy cố hết sức mình, mong cho mọi người hiểu rõ sự  lợi ích của con  đường thiện  và sự  tai hại của con đường ác, thế mà có hàng trăm người về tu viện tu hành, họ tu như thế nào? Họ hành như  thế  nào?  Có  người  đã từng sống  bảy tám  năm trời tại tu viện, thế mà họ vẫn đi theo  con  đường ác, con  đường khổ đau  cho mình, cho người, có sung sướng gì đâu mà họ lại bước theo con đường ấy!
Bởi lòng người còn tham dục quá rẫy đầy, còn ôm chặt các ác pháp trong tâm, vì
thế mà giáo pháp phát triển lợi dụng lòng
tham dục ấy nên phát triển những giáo pháp lừa đảo, mê tín, trừu tượng, ảo giác, phi đạo đức, nhưng  mang  đầy tính chất tham dục trong đó khiến người tu sĩ đúng sở thích tham dục một cách dễ  dàng của họ mà không bị tín đồ chỉ trích.
Mọi người ai cũng biết giáo pháp phát triển không phải là giáo pháp của đạo Phật nhưng vì nó gợi đúng lòng tham dục của thiên hạ, nên mọi người chạy theo nó, tu tập theo nó. Kinh sách phát triển ai cũng biết  là thần thánh hoá, mê tín phi đạo đức  nhưng không ai  bỏ được, nó cũng giống  như  mọi người đều  biết   thuốc lá  và rượu là  có hại cho cơ thể, nhưng thuốc lá và rượu kích thích đúng lòng tham dục của họ,  vì thế họ có bị
bệnh lao phổi hoặc nằm đường, ngủ bụi, ngủ
bờ làm khổ vợ con dòng họ thì họ cũng không bỏ được. Người tu  theo đạo Phật thời nay cũng vậy, họ đều  rõ con  đường ác là con   đường khổ đau,  con đường thiện   là con  đường hạnh phúc, thế mà họ vẫn bám theo mãi con đường ác và chẳng bao giờ muốn bỏ.
Đạo Phật dạy con người thoát khổ bằng đạo lộ thiện,  nhưng   bản chất con người không muốn thoát  khổ  nên không  muốn đi trên lộ  trình thiện, vì  thế mà phải đành chịu khổ đau muôn đời muôn kiếp chẳng bao giờ
dứt.

Suốt  mười  bảy,  mười  tám   năm  trời
không lúc nào mà Thầy không nhắc nhở quý thầy và các con: “đây là con  đường thiện và

đây là con  đường ác, con  đường thiện đưa
đến  hạnh phúc an vui không làm khổ mình, khổ người và đây là con   đường ác đưa   đến sự  khổ đau, sự  phiền toái, sự  bất toại nguyện, sự  ưu   bi sầu khổ thường làm  khổ mình,  khổ  người  và khổ  tất  cả  muôn loài chúng sanh”.
Con  đường chánh pháp của đạo Phật là con   đường thiện, con  đường lợi  ích  thiết thực cho loài người là như vậy, nhưng mấy ai đã nghe và đã chấp nhận, còn con đường tà pháp, ác kiến, cúng tế, cầu an, cầu siêu, tụng kinh, niệm chú, bắt ấn, ngồi thiền, lên đồng, nhập xác v.v.. toàn là  những pháp mê tín, phi đạo đức  thì được mọi người tin theo, làm theo, thực hành theo một cách dễ  dàng, nhưng hoàn toàn chỉ là những sự hy  vọng hão

huyền chứ chẳng có ích lợi thiết thực cho cuộc
sống con người chút nào cả. Còn pháp chân chánh đem  lại  sự lợi  ích thiết thực cho họ thì dường như  họ nghe  rất thích  nhưng sống và thực  hành thì họ thực  hành không vô. Bởi vậy, tà  pháp và ác pháp thì dễ  thực hành, dễ   làm, còn chánh pháp và thiện  pháp tuy vậy rất khó thực hành và khó làm.
Ví dụ: Mình chửi người ta hoặc người ta chửi mình thì chuyện đó ai làm cũng được, nhưng chuyện khó làm  là người ta chửi mình mà mình không chửi lại, mình không chửi lại mà còn vui vẻ không hờn tức giận thì chuyện đó còn khó làm hơn  nữa. Vì thế, giá trị của người tu theo Phật giáo là ở chỗ này.
Chuyện tụng kinh niệm chú, bắt ấn, ngồi thiền,  niệm Phật,  lạy  sám hối,  tập  luyện
Yoga,  khí công v.v.. thì  rất dễ   dàng ai ai
cũng có thể làm  được, nhưng  ngồi mà quan sát bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp trong thân ngũ uẩn để  đẩy lui các chướng ngại pháp ra khỏi bốn chỗ này, để  đem lại  cho thân tâm một sự  giải thoát thật sự,  một tâm  hồn an vui, thanh thản, một thân tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, một trạng thái Niết Bàn vĩnh viễn cho những ai biết sống với pháp chân chánh Tứ Niệm Xứ này thì như lời  đức  Phật đã từng tuyên bố: “nội trong bảy ngày, còn chậm là bảy tháng, còn tệ hơn  nữa là bảy năm sẽ chứng đạo hoàn toàn”.
Pháp chân chánh là   tu  tập như  vậy, thế mà có người tu  đã bảy năm qua,  bản chất như thế nào thì còn nguyên như thế nấy 
không có thay đổi chút nào cả, có nghĩa   là
trong tâm  tham, sân, si, mạn, nghi và ác pháp vẫn còn nguyên không đổi thay chút nào, thậm chí chúng tôi quan  sát xét thấy có phần tham, sân, si, mạn, nghi còn nhiều hơn vì chính tu sai do ức   chế tâm  dồn nén chịu đựng, đến  khi chịu đựng  không nổi bao nhiêu ác pháp đổ ra lai láng, vì  thế mà nó còn nhiều hơn.
Trong thời đại khoa học ngày càng tiến tới triển khai một đời sống con người thực tế và cụ thể, những gì  mơ  hồ trừu tượng lừa đảo con  người từ xưa   đến nay   của các tôn giáo sẽ được phơi bày trước ánh sáng của khoa  học và kỹ nghệ hiện đại,   lúc bấy giờ các tôn giáo sẽ không còn đất đứng trên hành tinh này nữa,  nhất là  giáo pháp phát

triển  62   lập luận  của  Bà  La Môn  lại
càng rõ nét của sự  gian xảo, lừa đảo v.v.., còn nếu  Phật  giáo  Nguyên Thủy  không làm sáng tỏ  trong giai đoạn này thì cũng sẽ bị chung  số phận như kinh sách phát triển.
Nếu Phật  giáo Nguyên Thủy mất đi, là  mất đi một nền đạo đức  tuyệt vời của loài người và vì thế không còn có một nền đạo đức nào để  cho tinh thần mọi người quân bình với vật chất của khoa học.
Hiện giờ phải mở ngay một lớp học và tu tập  để đào tạo con người sống có đạo đức nhân bản - nhân quả. Nhất là  trong giai đoạn này phải có người sống có đạo đức để làm gương   sáng cho mọi người trong xã hội soi,  là   một điều cần thiết  không  thể thiếu được.

Về Phật giáo có một số người lầm
tưởng khi vào chùa đi tu là  phải ngồi thiền, tụng kinh,  niệm Phật sám hối nhiều, lúc chết để  lại nhục thân hay xá lợi, được trực vãng Tây phương. Đó là  một quan niệm đắc thiền, chứng đạo như vậy là  sai lệch, là không đúng đường lối tu  tập của Phật giáo. Nhiều khi họ còn hiểu sai lạc hơn nữa, cho rằng: Người đi tu theo Phật chứng đạo là phải có thần thông, là  phải biết  chuyện quá khứ vị lai của mọi người; là  phải biết  biến hóa, tàng hình, làm mưa,   làm gió; là  phải biết đi  trên hư không như chim bay,  đi  trên nước không chìm v.v..
Những thần thông trên đây là  những trò huyễn hóa lừa đảo người, chứ những thần thông đó làm lợi  ích  gì  cho  con  người đâu,


nó còn mê hoặc cho những tâm  hồn non yếu
tham đắm những chuyện mơ hồ, ảo giác, huyễn hóa, do   sự  tham đắm này mà bỏ cả đạo đức  làm người, quên đi bổn phận làm cha, làm mẹ,  làm chồng, làm vợ và làm con cái trong gia đình v.v..
Nói về tôn giáo thì không tôn giáo nào là  không muốn thực hiện thần thông, vì thần thông dễ   lừa đảo lôi  cuốn người theo tôn  giáo mình, chỉ có một  tôn  giáo không chấp nhận thần thông, đó là  Phật giáo. Phật giáo không dùng thần thông quyến rũ người, nhưng Phật giáo không cần và không tu  tập thần thông mà lại  có đầy đủ thần thông hơn các tôn giáo khác.


Nho giáo lấy  đạo đức tam   cang   ngũ
thường2  dạy người, nhất là lấy  lễ làm  hạnh đối  xử  nhau  trong  cuộc  sống,  Nho giáo không dùng tưởng thức tập  luyện thần thông hoặc tạo ra những điều mê tín,   dị đoan  để lường gạt, lừa đảo người làm  tiền bất chánh, tuy chấp nhận thần thông, nhưng người theo Nho giáo không bao giờ có thần thông vì giáo pháp của Nho giáo chỉ dạy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, không tu luyện tưởng lực.
Phật giáo là  một tôn  giáo tu tập  rèn luyện  đạo  đức   nhân  bản  - nhân  quả  làm người không làm khổ mình, khổ người và khổ
tất cả chúng sanh, do đạo đức nhân bản này,


2 -Tam  cang tức là quân thần cang, phụ tử cang, phu thê cang.
Ngũ thường tức là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín

nên đạo Phật không chấp nhận thế giới siêu
hình và thần thông, vì có thế giới siêu hình và thần thông là sẽ sinh ra nhiều điều mê tín,  dị đoan.  Những điều mê tín, dị đoan   là những điều lừa đảo, lường gạt người, đó là những điều phi đạo đức  mà Phật giáo không chấp nhận.
Người nào tu theo đạo Phật mà hướng về thần thông và thế giới siêu hình là những người đi ngược lại Phật giáo, phản bội Phật giáo, làm  ô uế Phật giáo, làm mất thanh danh Phật giáo, làm mất nền đạo đức nhân bản – nhân quả của loài người thì  người đó phải tự xấu hổ, phải tự cảm thấy mình đã làm một tội ác tày trời.
Hơn hai ngàn năm trăm năm bởi những tham vọng của con người, Phật giáo đã chia

ra làm nhiều bộ phái, từ đó nền đạo đức của
Phật giáo đã bị dìm   mất. Con  người trên hành tinh này càng ngày càng đông hơn và càng đông hơn thì  nhu cầu của sự  sống đòi hỏi phải gia  tăng lên, vì thế con người phải trực diện khắc phục thiên  nhiên để   đem lại sự sống cho nhau, nhưng vì không có đạo đức nên con người phải giày xéo lên nhau vì  tâm tham dục; vì miếng cơm manh áo, tranh giành mạnh thắng yếu thua, gian xảo thì no đủ, giàu sang, còn thật thà thì đói khổ, nghèo cùng.
May mắn thay trong cuộc sống của loài người còn có một đạo luật nhân quả tuy thưởng phạt  vô hình  nhưng  rất  công  minh, chánh trực, ai làm  ác thì phải lãnh  đủ bản
án thọ bao  nhiêu tội  khổ, ai làm  thiện  thì
hưởng được phước báo, hạnh phúc, an vui.

Từ  tập   1  đến  tập   9  Đường  Về Xứ Phật đã chỉ cho quý vị rõ nền đạo đức nhân bản – nhân quả của đạo Phật rất cần thiết và lợi  ích  rất  lớn  cho   cuộc  sống của  loài người trên hành  tinh  này. Vì thế,  tăng  ni cũng như  quý vị nam  nữ cư  sĩ phật tử hãy mạnh dạn dẹp  bỏ bài trừ những thần thông bùa chú, thế giới siêu hình và những sự  mê tín  dị đoan  mà kinh sách phát triển bày vẽ đủ mánh khóe gian xảo để  lừa đảo con người.
Nếu quý vị cứ theo kinh sách phát triển mà thực hiện những điều thần thông bùa chú và những sự  mê tín  dị đoan  thì  làm sao  nền đạo đức  nhân bản của Phật giáo sống lại được, nếu nó không sống lại được
thì  loài  người  trên  hành  tinh  này  còn  khổ
biết bao!

Hôm này chúng ta không nên để lỡ mất một cơ  hội dựng lại  nền đạo đức  này, mong  sao  mọi người đoàn kết với nhau  để làm  một việc làm lợi  ích  lớn, có đầy đủ ý nghĩa lịch sử đạo đức của loài người.

Kinh ghi
Trưởng lão Thích Thông Lạc

KINH VIÊN GIÁC

Câu hỏi của Diệu Quang


Hỏi: Kính bạch Thầy! Sau khi đọc kinh Viên Giác thấy có một đoạn kinh  nghi ngờ, con xin ghi chép ra đây để Thầy dạy cho chúng con hiểu  “- Này  thiện  nam!  Đây  là  25 pháp  tu  của Bồ  Tát. Vậy  các  Bồ  Tát phải  y theo đây mà  tu hành.
Nếu  các  Bồ  Tát  hiện  tại  và  chúng  sanh đời sau, muốn y theo 25 pháp môn này mà tu hành,  thì  phải  giữ  giới  thanh   tịnh,  tâm  suy nghĩ vắng lặng và phải trải qua 21 ngày thành tâm sám hối, rồi viết 25 pháp môn này vào mỗi miếng  giấy,  niêm  lại  kỹ,  để  trên  bàn  thờ  Phật và chí tâm cầu khẩn, rồi tùy tay hành giả rút một miếng giấy, khi mở ra xem thì  hành giả sẽ biết trình độ của mình  tu pháp Đốn hay Tiệm. Song  nếu  hành  giả  một  niệm  nghi  ngờ,  thì chẳng thành tựu”.
Kính  thưa Thầy, con thấy trong kinh  dạy làm như vậy chẳng khác nào như bói toán, làm một việc  cầu  may. Đây  có  phải  kinh  Viên  Giác dạy  làm  một  việc  mê  tín  không  thưa  Thầy?

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP IX


Thấy kinh  dạy như  vậy tâm chúng con sinh  ra nghi ngờ, mong Thầy giải nghi cho chúng con.
Đáp: Đến với câu hỏi này thì đã có một cư sĩ ở miền Bắc nhận ra kinh này là đã  dạy điều mê tín, kinh mà dạy điều mê tín là tà kinh chứ không thể gọi là chân kinh.
Kinh Viên Giác không phải kinh sách Phật thuyết, do các Tổ thuyết, nhưng các Tổ khôn  khéo  gán  cho Phật  thuyết  để  dễ  lừa  đảo tín đồ  Phật  giáo. Tín  đồ  Phật  giáo  cũng dễ  tin tưởng  tất  cả  kinh đều  do Phật  thuyết,  vì kinh sách  phát  triển  tập  kinh  nào  cũng  bắt  đầu bằng câu:  “Như  thị  ngã  văn  nhất  thời  Phật  tại Xá  Vệ  Quốc, kỳ thọ  Cấp  Cô  độc viên dữ...”,  chỉ nội câu này cũng đủ lừa đảo người khác rồi.
Kinh  sách   phát   triển   nào   cũng   có   hai phần:
1.        Dụ dỗ

2.        Hăm dọa.

Đầu  kinh thì dụ  dỗ  như  kinh Pháp  Hoa

dạy:
“Dù cho tạo tội hơn  núi cả

Diệu Pháp Liên Hoa  tụng mấy dòng”
Cuối kinh thì hăm dọa: “Ai  chê  kinh Pháp Hoa và làm não loạn người nói pháp thì  đầu sẽ bể làm bảy mảnh như quả A lê”.
Kinh sách  phát  triển  lần  lượt  quý  vị  đọc kỹ  lại  sẽ  thấy rõ  sự  dụ  dỗ,  hù  dọa,  trừu  tượng, lừa đảo, lường gạt, mê tín, phi đạo đức v.v..
Kinh Viên Giác  là  một  loại  kinh sách của các Tổ đã mượn ý Chân Không của Ngài Long Thọ rồi dùng danh từ Viên Giác để che mắt tín
đồ.

Những  điều  con hỏi  là  đúng  sự  thật,  kinh này  dạy  bói  khoa  là  một  điều  mê  tín. Những kinh sách phát triển mê tín lừa đảo này không đáng  cho người  phật  tử  tin cậy.  Từ  lâu  quý  vị đã   lầm  lạc  không  hiểu,  hôm  nay  đã  hiểu  thì quý  vị  từ  bỏ,  xa  lìa  nó  như  từ  bỏ  xa lìa  một bệnh truyền nhiễm.



Ø         À         Ù         Ä         Ä


ĐỨC PHẬT TU TẬP PHÁP MƠN NÀO TRONG 49  NGÀY CHỨNG ĐẠO?

Câu hỏi của Diệu Quang


Hỏi:   Kính  thưa   Thầy!   Sáu   năm   khổ hạnh, đức Phật tu tập theo pháp môn của ngoại đạo  thì  không  nói,  chỉ  nói  đến  49 ngày  tu tập mà đức Phật đã chứng đạo. Vậy đức Phật tu pháp  môn gì? Xin  Thầy  chỉ  dạy  cho chúng con được rõõ.
Đáp:  Đức  Phật  cắt  ái  xuất  gia  tu  hành trong thời kỳ Bà La Môn Giáo chia làm sáu bộ phái, lấy kinh Vệ Đà làm tiêu chuẩn pháp môn tu tập, nhưng theo tưởng giải riêng biệt của sáu vị Đại sư mà người đương thời gọi là Lục sư, nhưng  sáu  bộ  phái  này  được  xem  là  một  giai cấp Bà La Môn lãnh đạo tinh thần quần chúng lúc bấy giờ.
Sáu năm tu khổ hạnh, đức Phật đã thực hành tất cả những pháp môn khổ hạnh của sáu phái này, nhưng kết quả chẳng tìm thấy sự giải thoát, thậm chí như đức Phật đã  nhập đến Phi Tưởng  Phi  Phi  Tưởng  Xứ  Định mà  vẫn  không tìm thấy  sự  giải  thoát,  nên  đức  Phật  ném  bỏ
các  pháp  môn  này  như  ném  bó  những  chiếc giày  rách,  thế  mà  đời  sau này  các  Tổ  dám  cả gan đem bốn loại  thiền tưởng vô  sắc  này ghép vào  pháp  môn  của  Phật  để  lừa  đảo  tín đồ,  sau này có dịp chúng tôi sẽ nói rõ về bốn loại thiền vô sắc này để quý vị thấy rõ dã  tâm của các vị sư Bà  La  Môn  lồng  giáo  pháp  của  mình  vào giáo pháp của đức Phật để đánh lừa phật tử. Vì thế, sau này đức Phật gọi các pháp môn của sáu vị Sư này là ngoại đạo, nên trong kinh Nguyên Thủy thường có danh từ: “Lục sư  ngoại  đạo”,  là để chỉ cho pháp tu hành không giải thoát.
Vậy đức Phật đã tu pháp môn nào chứng đạo?  Trong  khi các  pháp  môn  của  ngoại  đạo đức Phật đã thực hành không có một pháp môn nào mà Ngài không tu tập.
Như vậy, được xem đức Phật đã không còn pháp môn tu tập. Vậy chúng ta trở lại bài kinh Đại  Saccaka trong  kinh Trung  Bộ  tập  1. Sau khi đức Phật khổ hạnh tận cùng bằng sự ức chế thân để thoát khổ, nhưng cuối cùng vì tiết thực ăn  quá  ít cơ thể  kiệt  quệ  đến  nỗi  không  đứng dậy được, lúc bấy giờ Ngài hồi tưởng lại lúc còn bé,  khi theo  vua cha đến làm  lễ  hạ  điền:  “Này Aggivessana, rồi Ta suy  nghĩ như sau:  “Ta biết, Trong  khi   phụ   thân   Ta,  thuộc   dòng  Sakka



(Thích   Ca)  đang  cày  ruộng  và  Ta  đang  ngồi dưới  bóng  mát cây  (jambu)  diêm  phù  đề  (hồng táo),  Ta ly  dục  ly pháp  bất  thiện chứng  và  trú Thiền  Thứ  Nhất,  một  trạng  thái  hỷ  lạc  do ly dục sanh có tầm có tứ”. Khi  an  trú như vậy, Ta nghĩ: “Đạo lộ này có thể đưa  đến giác ngộ chăng?”. Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy,  ý  thức  này  khởi  lên  nơi  Ta:  “Đây  là  đạo  lộ đưa  đến giác ngộ”. Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ:  “Ta  có  sợ  chăng  lạc  thọ  này,  một  lạc  thọ ly dục ly pháp bất thiện?” Này Aggivessana, rồi Ta suy  nghĩ:  “Ta  không  sợ  lạc  thọ  này,  một  lạc thọ ly dục ly pháp bất thiện”.
Rồi  này  Aggivessana, Ta  suy   nghĩ:  “Nay thật không dễ gì chứng đạt lạc thọ ấy, với thân thể ốm yếu kinh  khủng như thế này. Ta hãy ăn thô thực, ăn cơm chua  trở lại”. Rồi này Aggivessana, Ta  ăn  thô  thực,  ăn  cơm chua trở lại thì  lúc bấy giờ, này Aggivessana, năm vị Tỳ kheo đang  hầu  hạ  Ta suy   nghĩ:  “Khi  nào  Sa Môn  Gotama  chứng  pháp,  vị   ấy  sẽ  nói  cho chúng  ta  biết”.  Này  Aggivessana, khi  thấy  Ta ăn thô thực, ăn cơm chua trở lại, các vị ấy chán ghét  Ta, bỏ  đi  và  nói:  “Sa  Môn  Gotama nay sống đầy đủ vật chất, từ bỏ tinh  tấn, trở lui đời sống sung túc”.



Và  này  Agivessana,  sau  khi  Ta  ăn  thô thực  và  được  sức  lực  trở  lại,  Ta  ly  dục  ly  bất thiện pháp, chứng và trú Thiền Thứ Nhất, một trạng thái  hỷ  lạc  do ly dục sanh, có  tầm  có tứ. Này  Agivessana, như  vậy  lạc  thọ  khởi  lên  nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Diệt  tầm  tứ  chứng và  trú  Thiền  Thứ  Hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không  tứ  nội  tĩnh nhất  tâm.  Này  Agivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm  sự  lạc  thọ  mà  các  bậc  Thánh  gọi  là  xả niệm  lạc  trú, chứng và  trú  Thiền Thứ  Ba. Này Agivessana,  như  vậy  lạc  thọ  khởi  lên  nơi  Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Xả lạc xả khổ diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền Thứ Tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Agivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không  cấu  nhiễm,  không  phiền  não nhu nhuyễn,  dễ  sử  dụng,  vững  chắc, bình  tĩnh như vậy.  Ta  dẫn  tâm,  hướng  tâm  đến  Túc  Mạng Minh, Ta  nhớ  đến  các  đời  sống  quá  khứ  như
một  đời,  hai  đời,  ba  đời,  bốn  đời,  năm  đời, mười  đời, hai  mươi  đời, ba mươi đời, bốn mươi đời,  năm  mươi  đời,  một  trăm  đời,  một  ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và nhiều thành kiếp. Ta nhớ  rằng:  “Tại  chỗ  kia Ta có  tên  như thế  này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi  chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này”.  Như vậy  Ta nhớ  đến  nhiều  đời  sống  quá khứ  cùng với  các  nét đại  cương và  các  chi  tiết. Này Agivessana, đó là Minh thứ nhất Ta đã chứng được trong đêm canh một, vô minh  diệt, minh   sanh,  ám  diệt,  ánh  sáng  sanh,  do  Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh  cần. Như vậy,  này  Agivessana  lạc  thọ  sanh nơi  Ta  được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Với  tâm  định tĩnh, thuần  tịnh trong sáng không   cấu   nhiễm,   không   phiền   não,   nhu nhuyễn,  dễ  sử  dụng,  vững  chắc, bình  tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử  của  chúng  sanh.  Ta  với  thiên  nhãn  thuần tịnh  siêu  nhân  thấy  sự  sống  chết  của  chúng
sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ  cao sang,  người  đẹp  đẽ  kẻ  thô  xấu,  người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh  nghiệp của họ. Những chúng sanh là ác hạnh về thân và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến tạo các nghiệp theo tà kiến; những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ ác thú  đọa  xứ  địa  ngục.  Còn  những  chúng  sanh làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ  báng  các  bậc  Thánh,  theo chánh  kiến  tạo các  nghiệp  theo chánh  kiến;  những  vị  này  sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên các thiện  thú  cõi  Trời,  trên  đời  này.  Như  vậy  Ta với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống  chết  của  chúng  sanh.  Ta  biết  rõ  rằng chúng  sanh,  người  hạ  liệt  kẻ  cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều  do  hạnh  nghiệp  của  họ.  Này  Agivessana, đó  là  Minh thứ  hai  Ta  đã  chứng  được  trong đêm  canh  giữa,  vô  minh  diệt,  minh  sanh,  ám diệt,  ánh  sáng  sanh,  do ta  sống  không  phóng dật,  nhiệt  tâm  tinh   cần.  Như  vậy  này Agivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không     cấu     nhiễm,           không            phiền não,            nhu



nhuyễn, dễ sử dụng vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm hướng tâm đến lậu tận trí. Ta biết  như thật: “Đây là  khổ”,  biết  như thật: “Đây là  nguyên  nhân  của  khổ”,  biết  như thật:  “Đây là   sự   diệt   khổ”,   biết   như  thật:   “Đây   là   con đường đưa  đến diệt khổ”, biết như thật: “Đây là những  lậu  hoặc”,  biết  như thật:  “Đây  là  sự  diệt trừ các lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là con đường  đưa  đến  sự  diệt  trừ  các  lậu  hoặc”,  nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta  thoát  khỏi  dục  lậu,  thoát  khỏi  hữu  lậu, thoát khỏi vô minh  lậu. Đối với tự thân đã giải thoát  như vậy,  Ta khởi  lên  sự  hiểu biết: “Ta đã giải  thoát”.  Ta đã  biết:  “Sanh  đã  diệt,  phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”. Này Agivessana,  đó  là  Minh thứ  ba mà  Ta  chứng được  trong  đêm  canh cuối, vô  minh  diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta không phóng dật, nhiệt tâm tinh  cần. Như vậy, này Agivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi  phối tâm Ta”.
Trên đây là một đoạn kinh xác định rõ ràng  pháp  môn  mà  đức  Phật  đã  tu  tập  chứng đạo trong 49 ngày dưới cội cây Bồ Đề, thế mà thầy  Tổ  không  dạy chúng  ta  tu  học  pháp  môn
này mà lại dạy chúng ta ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, bái sám, niệm chú, kiến tánh thành Phật  v.v..  như  vậy  có  trái  với  pháp  môn  của Phật  chăng?  Nếu  đức  Phật  tu  tập  một  pháp môn đã được chứng đạo mà lại dạy chúng ta tu những  pháp  khác  không  phải  là  pháp  chứng đạo  của  Phật,  chắc  chắn  nếu  điều  này  khi đức Phật còn tại thế Ngài không dạy chúng ta như vậy. Vậy ai đã làm điều này xin quý vị suy ngẫm?
Bởi đức Phật đã rõ tâm danh lợi của người sau, nên  trước  khi vào  Niết  Bàn  Ngài  di  chúc: “Này  các  tỳ  kheo, hãy  lấy  giới  luật  và  giáo pháp của Ta  mà làm Thầy, làm chỗ nương tựa tu hành  vững  chắc”. Lời di chúc này còn đó, nhưng  đệ  tử  của Người  đã  đi  theo  vết chân danh  lợi  của  các  Tổ  mà  chôn  vùi  giáo  pháp chân  chánh  của  Ngài  dưới  lớp  tà  giáo  mê  tín, phi  đạo đức, trừu tượng, mơ hồ, lừa đảo, dụ dỗ, dối gạt, hù dọa tín đồ.
Bây giờ  quý  vị  đã  rõ  49 ngày dưới cội  cây Bồ  Đề  đức  Phật  đã   tu  tập  Tứ  Thánh  Định. Trong  suốt  49 ngày  đêm  đức  Phật  đã  tinh cần năng nổ tu tập Sơ Thiền, nghĩa là 49 ngày đêm ấy  Ngài  giữ  gìn  tâm  mình  không  cho phóng dật,  nên  Ngài  thường  nhắc  đi  nhắc  lại  câu  nói



này  với  chúng  tỳ  kheo:  “Do   Ta  nhiệt   tâm tinh cần  sống  không  phóng  dật  mà  chứng được  như vậy”  (kinh Trung Bộ), và lời di chúc sau cùng của Ngài  trước  khi nhắm  mắt  lìa đời: “Này  các  Thầy  tỳ  kheo, chớ  có  phóng  dật. Ta chính nhờ không phóng dật mà thành Chánh Giác, vô lượng điều lành đều nhờ không phóng dật mà có được.
Tất  cả  vạn  vật  đều  vô  thường,  hãy tinh tấn  chớ  có  phóng  dật”.  (kinh  Trường  A Hàm).
Cho nên,  trong  49 ngày  đêm  tinh cần  tu tập   tâm   không   phóng   dật   Ngài   đã    thành Chánh  Giác.  Tâm  không  phóng  dật  tức  là  tâm ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp là tâm nhập   Bất   Động,   từ   bất   động   liền   nhập   Sơ Thiền.
Như vậy, trong suốt 49 ngày đêm đức Phật chuyên cần, năng nổ, tu tập  đẩy lui các chướng ngại pháp trên bốn chỗ thân, thọï, tâm và pháp, nhờ  có  tu  tập  như  vậy  nên  tâm  không  phóng dật,  tâm  không  phóng  dật  là  tâm  có  đủ  năng lực  nhập  các  loại  định  khác  và  dẫn  tâm  đến Tam  Minh  một  cách  dễ  dàng  không  có  khó khăn, không có mệt nhọc.
Vì thế, ngày thứ 49 và đêm đó Ngài đã hoàn tất  Tam Minh chứng quả  giải  thoát hoàn toàn.
Bây giờ, quý vị đã rõ pháp môn nào đức Phật tu tập đã thành Chánh Giác, vậy quý vị hãy cố gắng tu tập không còn sợ sai lạc pháp, Ngài  đã  tu  được  thì chúng ta cũng tu được  như Ngài,  chứ  đâu  thua  gì  Ngài.  Hãy  cố  gắng  lên quý vị chớ có chểnh mảng, mất thân rồi khó kiếm được thân sau.



CÁC PHÁP  ĐỀU KHôNG

Câu hỏi của Cháu Dũng (ngày 20/4/2000)
Hỏi: Kính bạch Thầy! Trong sách Thầy thường  hay  nói  là  người  muốn  tu hành  giải thoát thì phải thực hiện không làm khổ mình, khổ  người,  cắt  ái  ly  gia,  ly  dục  ly  ác  pháp, hướng thiện tăng trưởng thiện, diệt ác ly ác pháp,  xả  tâm  v.v..  còn  sách  của  Thầy  Thanh Từ,  thì  coi  “Bát  Nhã  Tâm  Kinh”  là  cứu  cánh, tức  là  lấy  cái  nhìn  mọi  sự  đều  “không”  để  tu. Theo con hiểu  thì  hai  pháp  đều  có  thể  hỗ  trợ
cho nhau. Từ cái nhìn  mọi sự đều không hướng ta tới  không  làm  khổ  mình,  khổ  người,  ly  dục ly ác pháp cũng đâu có mâu thuẫn gì? Vậy con thấy trong sách của Thầy có nói là kinh  sách phát  triển  hay thiền  định Trung Hoa là  xuyên tạc giáo lý của Phật, mong Thầy giải thích  cho con hiểu.
Đáp:   Kinh  sách   Nguyên   Thủy   của   đức Phật  và  Kinh sách  phát  triển  tưởng  giải  về  lý thì giống nhau, nhưng Kinh sách phát triển không  có  pháp  hành,  không  có  lối  sống  đúng giới  luật;  thường  sống  phạm  giới,  phá  giới,  bẻ vụn  giới  luật  Phật  và  sống  trong  ô  nhiễm  dục lạc  thế  gian, nhưng  khéo lý luận che đậy bằng cách thấy mọi pháp đều “Không”, đó là sự lừa đảo  bằng  ngôn  ngữ  để  che  mắt  tín đồõ  Phật giáo. Thấy các pháp đều không sao quý thầy lại không sống không? Vì thế các thầy theo kinh sách  phát  triển  sống  ô  nhiễm  chạy  theo  dục lạc,  nên  có  chùa  to  Phật  lớn,  vật  chất  đầy  đủ, ăn uống phi thời, mặc y áo sang đẹp, đắt tiền giống  như  nhà  giàu.  Đi  ra thì như  vua chúa tiền  hô,  hậu  ủng,  Phật  tử  đông  đảo  kẻ  trước người  sau,  thế  mà  nhìn mọi  pháp  đều  “không”. Như vậy cháu có tin là không chăng? Nói “không”  mà lại “có”  và còn chạy theo cái có thì
chúng  ta  có  tin lời  nói  của  họ  không?  Từ  chỗ không có một chiếc xe đạp, khi làm trụ trì một thời gian thì cả xe hơi họ cũng có.
Còn Kinh sách Nguyên Thủy dạy các vị tu sĩ  phải  sống  đúng  phạm  hạnh,  không  có  chùa to Phật lớn, đời sống chỉ có ba y một bát, ăn ngày một bữa, mặc y áo thô xấu, mà còn phải luôn  luôn  cảnh  giác  phòng  hộ  sáu  căn  bằng Giới  luật  để  giữ  gìn  đức  hạnh  của  một  bậc thánh  Tăng.  Đối  với  tu  sĩ  Nguyên  Thủy,  như vậy  chưa được  gọi  là  ly dục  ly ác  pháp  mà  còn phải  thực  hành  ngày  đêm  liên  tục:  “Ngăn  ác, diệt ác pháp” để khắc phục tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình bằng các pháp định như: Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Sáng Suốt, Định Vô Lậu v.v..
Có sống không ô nhiễm, có thực hiện các pháp  định như vậy, thì mới có thể ly dục ly ác pháp, mới không làm khổ mình,  khổ người.
Nếu một người quyết tâm tu hành để cầu giải  thoát  mà  cứ  nhìn  các  pháp  đến  đều  thấy nó  là  “không”,  thì đó  là  một  lối  tu  tập  ức  chế tâm,  một  lối  tu  tập  chịu  đựng,  không  phải  là giải  thoát.  Nếu  bảo  rằng  các  pháp  đều  không thì chúng  ta  thử  lấy  cây  đánh  vào  thân  ta  thì ta  có  cảm  giác  đau không?  Nếu  không  đau là



không,  còn  có  đau  là  có,  còn  có  đau  mà  nói không đau là nói không thật, hoặc nói đau mặc kệ  nó,  đó  là  người  không  trí sáng  suốt,  người không hiểu biết, người chai lỳ, v.v.. Bởi vậy Tổ Sư Tử thấy hiểu biết cái gì cũng không mà phải chịu chết oan mạng, cũng do “Không” của Bát Nhã  Ba La Mật  mà  ra nông  nỗi  này  (Ngũ  uẩn giai không).
Kinh  sách  phát  triển  thường  xuyên  tạc giáo pháp của đạo Phật và gọi giáo pháp của Phật làø Tiểu Thừa, Thanh  Văn, ngoại đạo, cấm không  cho  tín đồ  Phật  giáo  tu  tập,  còn  gọi những người tu theo giáo lý Nguyên Thủy của Phật  là  “tiêu  nha   bại  chủng,  chồi  khô  mộng
lép”.

Tứ  Diệu  Đế  là  bốn  chân  lý  của  đạo  Phật bất di bất dịch, không ai thay đổi được chân lý ấy, thế mà kinh sách phát triển dạy: “Vô khổ, tập,   diệt,   đạo”.   Tu  mà  chỉ  biết  các  pháp  cả thiện lẫn ác đều “không” là trở thành cây, đá.
Đạo Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện”. Thiện là pháp không  làm  khổ  mình,  khổ  người,  pháp  không làm khổ mình,  khổ người là pháp giải thoát, là đạo  đức  nhân  bản  - nhân  quả  làm  người,  còn nếu thấy các pháp thiện cũng là “không” thì trở
thành  cây,  đá,  tu  mà  thành  cây,  đá  thìø  tu  làm gì?

Bởi  vậy,  từ  khi có  sự  hý  luận  của  Ngài Long  Thọ  “Trung  Quán  Luận”  là  một  tai  hại rất lớn cho tín đồ Phật giáo từ thế hệ này đến thế  hệ  khác  chỉ  toàn  là  ăn  thứ  bánh  vẽ,  cho nên không một vị tu sĩ nào đạt được giải thoát, đến  khi chết  không  có  vị  nào  mà  không  đau khổ  cả,  họ  đều  lăn  lộn  trăn  trở  trên  giường bệnh  một  cách  khổ  đau  không  thua  gì  người thế tục.


THẾ GIỚI SIÊU HÌNH

Câu hỏi của cháu Dũng
Hỏi:   Trong  một   cuốn   sách   thấy   biên soạn  từ  Chơn  Như,  xong  không  biết  có  phải Thầy viết hay các đệ tử của Thầy có nói rằng: “Có  một đứa bé  chăn  trâu  đột  nhiên  ngã  lăn  ra ruộng kêu nóng giẫy giụa đau đớn. Sau đó tỉnh lại  trên  quần  áo  có  nhiều  vết  cháy  và  nó  nói rằng bị rơi vào một tòa thành lửa, người viết cuốn sách có  giải  thích,  đó  là  dư báo  hỏa ngục từ kiếp trước. Sau đó nhiều cuốn sách của Thầy



lại  viết  là  không  có  địa  ngục  thiên  đàng,  thế giới siêu hình  chỉ là tưởng thức. Vậy có gì mâu thuẫn giữa hai cuốn sách này?

Đáp:  Cháu  đã   được  đọc  một  cuốn  sách của  thầy   Chân   Quang  viết   “Luận   Về   Nhân Quả”. Trong cuốn sách này thầy Chân Quang nhờ Thầy đề tựa giới thiệu, chứ Thầy không có viết cuốn sách này. Cuốn sách này được Thầy góp ý với Thầy Chân Quang “Viết về Nhân Quả mà   dùng   tưởng   thì  sai”   nhưng   Thầy   Chơn Quang nghe hay không nghe đó là quyền của Thầy,  cho nên  mới  có  câu  chuyện  hoang tưởng chú bé mục đồng cảm giác lửa cháy rồi người ta huyền thoại thêm thắt, tạo thành cõi Địa Ngục để  lừa  bịp  mọi  người  như  vậy,  chứ  kỳ  thực không có cõi Địa Ngục, đó là một loại hoang tưởng  của  tưởng tri tạo  ra, nhưng  những người không  hiểu  biết  thì tin theo,  còn  ngược  lại  đối với  những người  hiểu  biết  thì đó là  câu  chuyện đời xưa của trẻ con.

Thầy Chân Quang là một học giả, còn Thầy là  một  hành giả. Sau khi nhập  Tứ Thiền xong Thầy hướng tâm đến Tam Minh, nhưng quan sát tìm thế giới siêu hình  thì không thấy có cảnh giới nào cả, mà chỉ thấy toàn là cảnh giới  tưởng  do tưởng  uẩn  của  con người  tạo  ra.



Muốn vào cảnh giới siêu hình  tưởng thì phải ra khỏi  Bốn  Thiền,  nương  theo  hơi  thở  dừng  ý thức, khi ý thức dừng thì tưởng thức hoạt động, lúc bấy giờ chúng ta đang ở trong thế giới siêu hình  tưởng  giống  như  người  đang  nằm  chiêm bao. Cho nên, giấc mộng cũng là một thế giới siêu hình  trong tưởng tạo ra.

Hầu  như  các  kinh  sách  của  học  giả  đều viết  theo  tưởng  pháp  do tưởng  uẩn  tạo  ra. Vì thế kinh sách nào của các Ngài biên soạn đều dựng lên thế giới siêu hình.  Cho nên, chúng ta không nên trách thầy Chân Quang





KHƠNG  CĨ CÂNH GIỚI NIẾT BÀN, TU RỒI VỀ ĐÂU?

Câu hỏi của cháu Dũng


Hỏi: Kính bạch Thầy! Người tu giải thoát trong kiếp này thì về đâu thưa Thầy? Vì Thầy  nói  là  không  có  cả  cảnh  giới  Niết  bàn, vậy nơi đó gọi là gì?



Đáp:  Thầy  đã  xác  định  không  có  cảnh giới Niết Bàn mà có trạng thái Niết Bàn, trạng thái Niết Bàn như đức Phật đã  dạy trong kinh Tứ Diệu Đế, nó được gọi là “Diệt  Đế”. “Diệt  Đế” là một trạng thái lìa xa và đoạn dứt tâm ái dục và các ác pháp. Khi người tu hành xong thì lúc nào  họ  cũng  ở  trong  trạng  thái  đó,  như  đức Phật thường dạy ở trong trạng thái đó là nhập vào Bất Động Tâm Định. Nhập vào Bất Động Tâm Định là nhập vào Niết Bàn. Niết Bàn là một trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự của thân tâm, dù cho bất cứ các cảm thọ hay các ác pháp nào đến cũng không làm cho họ dao độâng tâm được.

Chúng  ta  hãy  lắng  nghe  đức  Phật  xác định Niết Bàn: “Này Bà La Môn, khi vị ấy cảm  thọ  tham  ái  được  đoạn  tận,  không  có dư tàn, cảm thọ sân đoạn tận không có dư tàn, cảm thọ si được đoạn tận không có dư tàn. Như vậy này Bà La Môn Niết Bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian đến để  mà  thấy,  có  khả  năng  hướng  thượng, được  người  trí giác  hiểu”.  (Tăng  Chi  tập  1 trang 285).


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!