Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT TẬP 9 -6



kinh này  trong  bài  kinh Tứ  Niệm  Xứ  trong kinh  Trung   Bộ   thuộc   tạng   kinh  Pali   thuộc Nikaya  trang  146.  Đoạn  kinh  này  nếu  một người  không  có  kinh  nghiệm  tu  hành  thì khó giảng giải nổi.
Bây  giờ  chúng  ta  trở  lại  bài  kinh Thất Giác Chi, từ lâu chưa có ai hỏi Thầy về Thất Giác  Chi, đến nay mới  có  một  nhân duyên tốt, con hỏi Thầy cách thức tu tập nó.
Thất Giác Chi có nghĩa là bảy chi phần giác  ngộ  giải  thoát  hay  là  bảy  pháp  dùng  trí tuệ  hiểu  biết  tu  tập  làm  chủ  sanh,  già,  bệnh, chết chấm dứt tái sanh luân hồi. Thất Giác Chi còn gọi là Thất Bồ Đề Phần. Thất Bồ Đề Phần thuộc về Hán tạng Tiểu Thừa kinh A Hàm.
Thất có nghĩa là bảy.

Bồ Đề có nghĩa là giải thoát.

Phần có nghĩa là chi phần, mỗi phần, mỗi pháp môn trong một chùm bảy pháp có sự liên hệ  mật  thiết  với  nhau  trong  sự  tu  tập  đi  đến giải  thoát  hoàn  toàn,  mà  mỗi  phần  tu  tập  đều có sự giải thoát của mỗi phần, nên gọi là Bồ đề phần hay là Giác chi.



Chi  phần  đầu  tiên  của  Thất  Giác  Chi  là
Niệm  Giác  Chi.  Vậy  niệm  giác  chi  có  nghĩa  là gì?

1- Niệm Giác Chi có nghĩa là niệm giải thoát, niệm giải thoát có nghĩa là Chánh Niệm như Chánh Niệm trong Bát Chánh Đạo, Chánh Niệm trong Bát Chánh Đạo tức là Tứ Niệm Xứ, nên đoạn kinh Thất  Giác  Chi  trên đã  có trong bài kinh Tứ Niệm Xứ. Nhưng chúng ta nên biết Chánh Niệm tức là niệm thiện. Muốn tu tập niệm thiện thì bắt đầu tu tập pháp môn Tứ Chánh  Cần.  Mục  đích  của  Tứ  Chánh  Cần  là chấp  nhận  niệm  thiện  loại  trừ  niệm  ác.  Cho nên, toàn bộ chúng tỳ kheo đệ tử của đức Phật đều phải tu Tứ Chánh Cần, rồi sau đó tùy theo căn  cơ  mỗi   người,   có   người   còn  tiếp   tu   Tứ Chánh  Cần;  có  người  tu  Tứ  Niệm  Xư; có  người tu Tứ Như Ý Túc; có người tu Tứ Vô Lượng Tâm v.v..  đều  nhắm  vào  ngăn  ác  diệt  ác  pháp  để tâm  ly dục  ly ác  pháp:  “Này   các   tỳ   kheo, trong chúng  tỳ  kheo  này,  có  những  vị  tỳ kheo  là  những  vị  sống  chuyên  tâm,  chú tâm,  tu tập Bốn  Niệm  Xứ. Các bậc tỳ kheo như vậy, này các tỳ kheo, có mặt trong chúng tỳ  kheo này.  Này các tỳ  kheo,  trong chúng tỳ  kheo này,  có  những vị  tỳ  kheo là
  
những vị sống chuyên tâm, chú tâm, tu tập Bốn Chánh Cần. Các bậc tỳ kheo như  vậy, này  các  tỳ  kheo,  có  mặt  trong  chúng  tỳ Kheo này. Này các tỳ kheo, trong chúng tỳ kheo này, có những vị tỳ kheo là những vị sống chuyên tâm, chú tâm, tu tập Bốn Như Ý Túc. Các bậc tỳ kheo như  vậy, này các tỳ kheo, có mặt trong chúng tỳ kheo này. Này các tỳ kheo, trong chúng tỳ kheo này, có những  vị  tỳ  kheo là  những vị  sống chuyên tâm, chú tâm, tu tập Năm Căn. Các bậc tỳ kheo  như   vậy,  này  các  tỳ   kheo,   có  mặt trong chúng tỳ  kheo này.  Này các tỳ  kheo, trong chúng  tỳ  kheo  này,  có  những  vị  tỳ kheo  là  những  vị  sống  chuyên  tâm,  chú tâm, tu tập Năm Lực. Các bậc tỳ kheo như vậy,  này  các  tỳ  kheo,  có  mặt  trong chúng tỳ  kheo này.  Này các tỳ  kheo,  trong chúng tỳ kheo này, có những vị tỳ kheo là những vị sống chuyên tâm, chú tâm, tu tập Bảy Giác Chi. Các bậc tỳ kheo như  vậy, này các tỳ kheo, có mặt trong chúng tỳ kheo này. Này các tỳ  kheo,  trong chúng tỳ  kheo này, có   những   vị   tỳ   kheo   là   những   vị   sống chuyên tâm, chú tâm, tu tập Thánh Đạo Tám  Ngành..”.  (Đoạn  kinh  trên  đây  trong kinh
  
Trung  Bộ  tập  3 trang 253 thuộc  tạng  Pali  Nguyên
Thủy).

Mặc dù trong chúng tỳ kheo, có người tu pháp này kẻ tu pháp khác nhưng chúng ta nên lưu ý 37 phẩm trợ đạo của đạo Phật không ra ngoài  Đạo  Đế  và  mục  đích  của  các  pháp  môn này không ngoài sự ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp để ly dục ly ác pháp, cho nên pháp môn tuy nhiều tên nhưng tùy theo sở thích của mọi người hợp với pháp môn  nào  thì tu  pháp  môn  nấy  với  đặc  tướng của  mình  chứ  không  phải  mỗi  pháp  môn có  sự riêng biệt nhau, khác nhau, các pháp môn có sự hỗ tương cho nhau, như tu pháp này thì nó làm cho sung mãn pháp khác như kinh dạy: “Nhập tức  xuất  tức  niệm,  được  tu  tập,  làm  cho sung mãn, khiến cho Bốn Niệm Xứ được viên  mãn,  Bốn  Niệm  Xứ  được  tu  tập,  làm cho  sung  mãn,  khiến  cho  Bảy  Giác  Chi được  viên  mãn.  Bảy  Giác Chi được  tu tập, làm cho sung mãn, khiến cho minh giải thoát  (vijjavimutti) được  viên  mãn”.  (Trung Bộ tập 3 trang 255).
Những  lời  dạy  trên  đây  chúng  ta  nhận xét:  tu  tập  Niệm  Giác  Chi  tức  là  tu  tập  Tứ Chánh Cần, bởi vì, ngăn ác diệt ác pháp, sanh
thiện  tăng  trưởng  thiện  pháp  tức  là  có  giải thoát  ngay  liền,  chỉ  có  người  ở  trong  ác  pháp thì mới  không  có  giải  thoát,  còn  sống  trong thiện pháp thì muôn người, vạn người đều có sự giải thoát như nhau cả không có người nào là không có giải thoát. Cho nên, Niệm Giác Chi là một  tên  khác  của  Chánh  Niệm,  Chánh  Niệm tức là Tứ Niệm Xứ mà Tứ Chánh Cần là pháp môn tu tập trên Tứ Niệm Xứ, vì thế nói đến Chánh Niệm, là nói đến Tứ Chánh Cần, Chánh tinh Tấn,  Tấn  lực,  Tấn  căn  đều  là  Niệm  Giác Chi cả. Muốn tu tập Tứ Chánh Cần thì Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý, Định Niệm Hơi  Thở tức  là  pháp  môn  Nhập  Tức  Xuất  Tức  Niệm, pháp môn Nhập Tức Xuất Tức Niệm là pháp môn  ngăn  ác  diệt  ác  pháp  rất  hiệu  quả,  cho nên người tu tập Nhập Tức Xuất Tức Niệm, làm cho  sung  mãn  khiến  cho  Bốn  Niệm  Xứ  được viên mãn, khi Bốn Niệm Xứ được viên mãn tức là  Bảy Giác  Chi  sung mãn, Bảy Giác  Chi  sung mãn khiến cho minh giải thoát được viên mãn. Do đoạn kinh trên đức  Phật  dạy, chúng ta suy ra: Tu tập Niệm Giác Chi tức là tu tập Tứ Niệm Xứ,  tu  tập  Tứ  Niệm  Xứ  tức  là  tu  tập  Chánh Niệm,  tu  tập  Chánh  Niệm  tức  là  trên  Bốn Niệm Xứ tu tập Tứ Chánh Cần, trên Bốn Niệm Xứ  tu  Tập  Tứ  Chánh  Cần  tức  là  tu  tập  Chánh



Tinh  Tấn, tu tập Chánh Tinh  Tấn tức là tu tập gồm có: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng, tu tập Chánh   Kiến,   Chánh   Tư   Duy,   Chánh   Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng tức là tu tập Thân Hành Niệm, tu  tập  Thân Hành Niệm  tức là  tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định tức là  tu tập  Định Niệm Hơi  Thở  và  đi  kinh hành,  tu  tập  Định Niệm Hơi Thở và đi kinh hành tức là tu tập Tứ Niệm Xứ,  chúng  ta  hãy  lắng  nghe  đức  Phật  dạy: “Này  các  tỳ  kheo,  trong khi tùy quán thân trên thân, tỳ kheo an trú, nhiệt tâm tỉnh giác  chánh  niệm,  để  chế  ngự  tham ưu  ở đời, trong khi ấy, niệm không hôn mê8  của vị  ấy  được  an  trú.  Trong khi niệm  không hôn  mê  của  vị  ấy  cũng  được  an  trú,  này các  tỳ  kheo,  trong khi ấy  Niệm  Giác  Chi được  bắt  đầu  khởi  lên  với  tỳ  kheo”. Vậy Niệm Giác Chi là gì?
Như  trên,  chúng  tôi  đã  định nghĩa  Niệm
Giác Chi là niệm thiện, niệm thiện tức là niệm



8  - Niệm không  hôn mê có  nghĩa là tâm tỉnh  thức hoàn toàn  lúc nào cũng tự nhiên biết hơi thở ra, vô mà không cần phải gom tâm ức chế, nói cách khác là tâm không phóng dật.
không tham, không sân, không  si, không mạn, không  nghi.  Niệm  không  tham,  sân,  si,  mạn, nghi  là  niệm tâm  thanh thản, an lạc  và  vô  sự. Niệm tâm thanh thản, an lạc và vô sự là Niệm Giác Chi hay là Niệm Bồ Đề.
Ở   trong  Niệm  Giác  Chi  này  chúng  ta  suy tư, tư duy, thẩm sát các pháp thì chúng ta thấy rõ pháp ác và pháp thiện rất cụ thể rõ ràng không  còn  bị  vô  minh  che đậy  khiến  chúng  ta không lầm chấp ác pháp là thiện pháp. Khi suy tư, tư duy, thẩm sát các pháp tức đó là Trạch Pháp Giác Chi. Trạch Pháp Giác Chi là gì?
2- Trạch Pháp  Giác Chi  có  nghĩa là chọn lựa  pháp  giải  thoát,  chọn  lựa  pháp  giải  thoát tức  là  chọn  lựa  pháp  thiện.  Trong  kinh Trung Bộ  tập  3 bài  kinh Đại  Kinh Bốn  Mươi  (trang
260), đức  Phật  dạy: “Này  các  tỳ  kheo, trong khi trú  chánh  niệm  như  vậy,  tỳ  kheo  với trí tuệ  suy tư,  tư  duy,  thẩm  sát  pháp  ấy, trong khi ấy Trạch Pháp Giác Chi bắt đầu khởi  lên  với  vị  tỳ  kheo”. Ở   đây  có  nghĩa  là chọn lựa pháp thiện là lúc tâm chúng ta đang ở trong  trạng  thái  chánh  niệm,  chánh  niệm  tức là tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là  tâm  thanh  thản,  an  lạc  và  vô  sự,  từ  trạng thái  tâm  này  chúng  ta  chọn  lựa  pháp  thiện




cũng  như  dùng  câu  pháp  hướng  tâm  một  cách dễ  dàng không sợ  bị  sự  lừa đảo  của tâm mình. Chọn lựa pháp thiện có hai cách:
a- Chọn  lựa  pháp  thiện  loại  trừ  pháp  ác tức là tu  tập  Định Vô  Lậu, mà  trong kinh dạy: “Với  trí tuệ  suy tư,  tư  duy,  thẩm  sát  pháp ấy  trong khi ấy  Trạch  Pháp  Giác  Chi bắt đầu  khởi  lên”.  Khi Trạch  Pháp  Giác  Chi  bắt đầu  khởi  lên  tức  là  chúng  ta  biết  rất  rõ  pháp nào  thiện và  pháp  nào  ác  rất  cụ  thể, và  chúng ta  không còn lầm  lạc  nên diệt  trừ  các  ác  pháp và lòng ham muốn của mình  rất dễ dàng, tức là đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm.
Người  muốn  tu  Trạch  Pháp  Giác  Chi  thì giữ  gìn tâm  thanh thản, an lạc  và  vô  sự tức  là tâm tỉnh giác, ở tâm tỉnh giác đó mà Trạch Pháp  Giác  chi  thì rất  hiệu  quả,  có  nghĩa  là ngăn ác và diệt ác pháp rất dễ dàng và dùng pháp hướng tâm điều khiển không mấy khó khăn.   Cho  nên   kinh  dạy:   “Trong   khi  ấy Trạch  Pháp  Giác  Chi được  tỳ  kheo  tu tập đi  đến   viên   mãn”,   có   nghĩa   là   chúng   ta thường tu tập chọn lựa pháp nào thiện và pháp nào ác để loại trừ và thường hướng tâm đuổi ác pháp  đi  thì tâm  của  chúng  ta  thanh  thản,  an lạc, và vô sự, nhờ tâm thanh thản an lạc và vô
sự chúng ta cảm thấy sự giải thoát an lạc rất rõ ràng  và  cụ  thể,  do đó  tự  động  chúng  thích  tu tập Trạch Pháp Giác Chi vì tu tập Trạch Pháp Giác Chi có lợi ích thật sự cho cuộc sống của chúng  ta  mà   trong  kinh  dạy:  “Này   các   tỳ kheo,  trong khi tỳ  kheo  với  trí tuệ  suy tư, tư   duy,   thẩm   sát   pháp   ấy,   sự   tinh  tấn không  thụ  động  bắt  đầu  khởi  lên  với  tỳ kheo ấy”. Sự tinh tấn không có thụ động tức là tự  động  siêng  năng  có  nghĩa  là  ham  thích, thích thú tu tập Trạch Pháp Giác Chi vì cảm thấy có một kết quả giải thoát an lạc rõ ràng trong thân và tâm của mình.
b-  Chọn   lựa   câu   pháp   thiện   dùng   làm pháp  hướng tâm cho đúng đối  tượng pháp môn của  mình   đang  tu.  Ví  dụ:  đang  tu  định  Sơ Thiền mà  dùng câu  pháp  hướng tâm  “diệt  âm thanh hay tịnh   chỉ  tầm  tứ”  là  không  đúng, mà  phải  dùng  câu  pháp  hướng  tâm  “Tâm  ly dục  ly ác  pháp nhập Sơ  Thiền”. Sự lựa chọn như  vậy  gọi  là  Trạch  Pháp  Giác  Chi,  Trạch Pháp  Giác  Chi là sự chọn lựa một  câu pháp  để tâm  mình  huân  tập  sự  giải  thoát  như  ý  muốn của mình  trong ý nghĩa của câu ấy.
Vì  cảm  thấy  sự  giải  thoát  an lạc  thật  sự nên  chúng  ta  thích  thú  siêng  năng  tu  tập,  sự



thích  thú  siêng  năng  tu  tập  đó  là  Tinh   Tấn
Giác Chi. Vậy Tinh  Tấn Giác Chi là gì?

3-  Tinh   Tấn  Giác  Chi  có  nghĩa  là  siêng năng tu tập Niệm Giác Chi và Trạch Pháp Giác Chi.  Niệm  Giác  Chi  và  Trạch  Pháp  Giác  Chi như trên đã dạy là chọn lựa niệm thiện, niệm thiện tức là niệm bồ đề, niệm bồ đề tức là niệm giải thoát, cho nên siêng năng tu tập niệm giải thoát  tức  là  Tinh   Tấn  Giác  Chi.  Người  siêng năng  tu  tập  Tinh   Tấn  Giác  Chi  tức  là  người sống trong thiện pháp tức là người ly dục ly ác pháp, người ly dục ly ác pháp do ly dục sanh hỷ lạc,  vì  thế  trong  kinh dạy:  “Trong khi ấy  tỳ kheo tu tập Tinh Tấn Giác Chi đi  đến viên mãn. Hỷ không liên hệ đến vật chất được khởi  lên  nơi  vị  tinh tấn  tinh cần.  Này  các tỳ  kheo,  trong khi  hỷ  không  liên  hệ  đến vật chất khởi lên nơi  tỳ kheo tinh tấn tinh cần,  trong khi  ấy  Hỷ  Giác  Chi  bắt  đầu khởi  lên  nơi tỳ  kheo”. Bây  giờ  tâm  chúng  ta có hỷ, hỷ giải thoát là hỷ không liên hệ với vật chất tức là hỷ do ly dục ly ác pháp như trên chúng tôi đã  giảng trạch, như vậy hỷ do ly dục ly ác pháp là Hỷ Giác Chi. Vậy Hỷ Giác Chi là gì?



4- Hỷ  Giác  Chi  có  nghĩa  là  sự  vui  trong giải thoát, sự vui trong giải thoát là như thế nào? Ví dụ: Có một người chửi mình mà mình không giận người đó, thấy người tức giận quá khổ, mình  không ghét họ mà lại tọâi nghiệp cho họ, thương họ thì lúc bấy giờ nội tâm chúng ta có  một  niềm  vui  thanh  thản  nhẹ  nhàng,  niềm vui ấy gọi là Hỷ Giác Chi. Muốn tu tập Hỷ Giác Chi  thì chúng ta  hãy  nhập  vào  trạng thái  tâm ly dục  ly ác  pháp,  hay  nói  cách  khác  dễ  hiểu hơn là nhập vào Bất Động Tâm Định tức là chúng  ta  tu  tập  Hỷ  Giác  Chi.  Hỷ  Giác  Chi thuộc  về  tâm.  Khi tâm  mới  có  Hỷ Giác  Chi  và được làm cho sung mãn thì Khinh An Giác Chi phát khởi, như trong kinh đã  dạy: “Trong  khi Hỷ  Giác  Chi được  tỳ  kheo  tu  tập  đi  đến viên  mãn.  Thân  của  vị  ấy  được  tâm  hoan hỷ   trở   thành  khinh  an,   tâm  cũng  được khinh an.  Này  các  tỳ  kheo,  trong khi  tỳ kheo với ý hoan hỷ được thân Khinh An, được  tâm  cũng  khinh  an,   trong khi  ấy, Khinh An Giác Chi bắt đầu khởi lên nơi  tỳ kheo”. Như vậy Khinh An Giác Chi là gì?
5-  Khinh  An  Giác  Chi  có  nghĩa  là  một trạng  thái  an  lạc  giải  thoát  của  thân,  bởi  vì Khinh  An  Giác  Chi  thuộc  về  thân.  Khi một
người  nhập  Bất  Động  Tâm  do ly dục  sanh  hỷ và  lạc,  hỷ  và  lạc  do Bất  Động  Tâm  sanh ra là Hỷ  Giác  Chi  và  Khinh  An  Giác  Chi,  muốn  tu tập Khinh An Giác Chi thì chỉ có nhập vào Bất Động Tâm Định, cho nên nói Hỷ Giác Chi và Khinh An Giác Chi tức là nói Định Bất Động Tâm,  mà  nói  ly dục  ly ác  pháp  cũng là  nói  Hỷ Giác  Chi  và  Khinh  An  Giác  Chi,  nói  Hỷ  Giác Chi  và  Khinh  An  Giác  Chi  là  nói  kết  quả  của Bất  Động  Tâm,  kết  quả  của  Bất  Động  Tâm  là kết quả của Tứ Niệm Xứ, kết quả của Tứ Niệm Xứ  là  kết  quả  của  Niệm  Giác  Chi,  Trạch Pháp Giác  Chi  và  Tinh  Tấn  Giác  Chi,  vì  thế  trong kinh  dạy:  “Và   Bốn   Niệm   Xứ,  này  các  tỳ kheo,  tu  tập  như  thế  nào,  làm  cho  sung mãn như thế nào khiến cho bảy giác chi được viên mãn? Này các tỳ kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, tỳ kheo an trú, nhiệt  tâm  tỉnh  giác  chánh  niệm,  để  chế ngự tham  ưu ở   đời, trong khi ấy, niệm không   hôn   mê9    của   vị   ấy   được   an   trú.
Trong khi niệm  không  hôn  mê  của  vị  ấy


9  - Niệm  không  hôn  mê  có  nghĩa  là  tâm  tỉnh  thức  hoàn toàn lúc nào cũng tự nhiên biết hơi thở  ra, vô mà không cần phải gom tâm ức chế, nói cách khác là tâm không phóng dật.
cũng  được  an  trú,  này  các  tỳ  kheo,  trong khi ấy  Niệm  Giác  Chi được  bắt  đầu  khởi lên  với  tỳ  kheo”. Niệm  không  hôn  mê  tức  là sự  tỉnh  thức  một  cách  tự  nhiên,  sự  tỉnh  thức một cách tự nhiên chính là tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là Bất Động Tâm Định, Bất  Động  Tâm  Định  là  tâm  ly dục  ly ác pháp, do đó lúc nào chúng ta cũng sống trong tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là Niệm Giác Chi hiện tiền, Niệm Giác Chi hiện tiền là Trạch Pháp Giác Chi hiện tiền, Trạch Pháp Giác Chi hiện tiền là Tinh Tấn Giác Chi hiện tiền, Tinh  Tấn Giác Chi hiện tiền là Hỷ Giác Chi hiện tiền, Hỷ Giác Chi hiện tiền là Khinh  An  Giác  Chi  hiện  tiền,  Khinh  An  Giác Chi  hiện  tiền  là  Định  Giác  Chi  hiện  tiền, nên kinh dạy: “Trong  khi ấy Khinh An  Giác Chi được  tỳ  kheo  tu tập.  Trong khi ấy,  Khinh An  Giác  Chi được  tỳ  kheo  làm  cho đi  đến sung mãn. Một vị có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh. Này các tỳ kheo, trong khi  tỳ  kheo  có  thân  khinh an,  an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh, trong khi ấy Định  Giác  Chi  bắt  đầu  khởi  lên  nơi   tỳ kheo”. Vậy Định Giác Chi là gì?
6-  Định  Giác   Chi   gồm   có   Bốn   Thánh Định,  Bốn   Thánh   Định  là:   Sơ  Thiền,   Nhị Thiền,  Tam  Thiền,  Tứ  Thiền.  Khi tâm  nhập được   bốn  loại   thiền   định  này   là   nhờ   pháp hướng tâm có hiệu quả tịnh chỉ các hành trong thân, nên thân tâm đều định vào nhau tức là Tâm  định trên thân,  thân định trên tâm.  Tâm định trên thân, thân định trên tâm là một nội lực  của  tâm  rất  lớn  và  vi diệu,  khiến  cho tâm nhu nhuyễn, định tĩnh, dễ sử dụng. Lúc bấy giờ hành   giả   điều   khiển   tâm   mình   bằng   pháp hướng Xả Giác Chi. Vậy Xả Giác Chi là gì?û
7- Xả Giác Chi có hai cách:

a- Xả Giác Chi thứ nhất, chúng ta không cần  nhập  định Tứ  Thiền  mà  chỉ  với  tâm  định tĩnh chúng ta nhìn các pháp với ý niệm xả ly, không một pháp nào còn dính mắc trong thân tâm  của  chúng  ta  nữa.  Toàn  cả  vật  chất  thế gian này chúng ta đã buông bỏ xuống sạch, như trong kinh dạy: “Trong khi Định Giác Chi được  tỳ  kheo  tu  tập.  Trong khi Định Giác Chi  được  tỳ  kheo  làm   cho  đi   đến  sung mãn.  Vị  ấy  với  tâm  định  tĩnh  như   vậy, khéo  nhìn sự  vật  với  ý  niệm  xả  ly,  trong khi ấy Xả Giác Chi bắt đầu khởi lên nơi tỳ kheo”. Đây  là  trong  giai  đoạn  chúng  ta  sống



bình  thường  trong  tâm  định tĩnh,  nhu  nhuyễn như lúc  chuẩn bị nhập  Tứ  Thiền, nhưng  không nhập  Tứ  Thiền  mà  ở  trạng  thái  đó,  thực  hiện Xả Giác Chi.
2- Xả Giác Chi thứ hai tức là hướng tâm đến Tam Minh. Lúc bấy giờ chúng ta chứng và trú  Thiền  Thứ  Tư,  không  khổ,  không  lạc,  xả niệm thanh tịnh có nghĩa là tịnh chỉ hơi thở hoàn  toàn.  Khi nhập  định  này  tâm  chúng  ta định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình  thản vì thế chúng ta hướng tâm đến Tam Minh một cách dễ dàng, không có mệt nhọc không có khó khăn, như trong kinh dạy: “Với tâm thuần tịnh không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc,   bình   thản   như   vậy,   tôi   dẫn   tâm hướng đến lậu tận trí. Tôi biết như thật: “Đây  là  khổ”,  biết  như thật:  “Đây  là nguyên nhân của khổ”, biết như thật: “Đây là   khổ   diệt”,  biết  như thật:  “Đây  là  con đường đưa đến khổ diệt”, biết như thật: “Đây là những lậu hoặc”, biết như thật: “Đây  là  nguyên  nhân  của  lậu  hoặc”,  biết như thật:  “Đây  là  các  lậu  hoặc  được  diệt
trừ”,  biết  như thật:  “Đây  là  con đường đưa đến các lậu hoặc được diệt trừ”.
Đoạn  kinh trên  đây  dạy chúng  ta  xả  lậu hoặc bằng Xả Giác Chi một cách cụ thể và rõ ràng,  như  trong  kinh đã  dạy:  “Trong  khi ấy Xả  Giác  Chi được  tỳ  kheo  tu  tập.  Trong khi ấy  Xả  Giác  Chi được  tỳ  kheo  làm  cho đi  đến   sung  mãn”.  Khi  Xả  Giác  Chi  được sung mãn  thì tâm  vị  ấy  biết  mình  đã  làm  chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt sanh tử luân hồi một cách rõ ràng, như lời đức Phật đã  dạy: “Tôi nhờ biết như vậy, thấy như vậy, tâm của tôi thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu,  thoát  khỏi  vô  minh lậu.  Đối  với  tự thân đã giải thoát như  vậy, tôi khởi lên sự hiểu   biết:   “Ta  đã   giải   thoát”,   Tôi   biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; không còn trở lui trạng thái này nữa”.
Đến đây sự tu hành Bảy Giác Chi của chúng ta đã hoàn thành xong.





DÙNG MỘT HAY NHIỀU CÂU
PHÁP  HƯỚNG TRONG MỘT THỜI TU

Câu hỏi của Diệu Tâm


Hỏi:  Sách  ĐVXP  II trang 145 (cũ).  Hỏi xin  các  pháp  hướng  tu  về  Định  Vô  Lậu  thì trong sách rất nhiều câu:
- Tâm phải ly dục ly ác pháp.

- Tâm phải đoạn diệt lòng ham muốn và sân si.
- Tâm phải gom vô hơi thở.

- Tâm phải tịnh chỉ tầm tứ hoàn toàn.

- Tâm phải tỉnh thức hoàn toàn, thân ngủ tâm không được ngủ.
Con thấy  nhiều câu  quá. Vậy ta nên dùng một câu suốt giờ tu hay dùng nhiều câu trong thời gian tu đó?
Đáp: Thầy cho nhiều câu pháp hướng tâm như vậy là để cho các con lựa chọn câu nào cho xứng hợp với đặc tướng của mình,  hoặc đang tu ở  pháp  môn  nào,  giai  đoạn  nào  thì nên  chọn câu  pháp  hướng tâm  ở  giai đoạn đó, pháp môn
đó cho phù hợp với sự vô lậu của pháp môn giai đoạn đó.
Điều  quan trọng  là  khi dùng  pháp  hướng tâm  là  dùng  một  câu  pháp  hướng  có  hiệu  quả hơn là nhiều câu hướng một lượt.
Ví dụ: Tháng thứ nhất, người mới bắt đầu tu Định Niệm Hơi Thở thì câu pháp hướng đầu tiên của nó là:  “Ý  Thức  phải  biết  hơi thở  ra và  hơi thở  vô  rõ  ràng”,  và  khi hơi  thở  thở đều tâm chú ý vào hơi thở thì thỉnh thoảng lại nhắc  một  câu  pháp  hướng  khác  như:  “Hít  vô tôi  biết  tôi  hít vô,  thở  ra tôi  biết  tôi  thở
ra”.

Sau  hơn  một  tháng  tu  tập,  hơi  thở  đã thuần thục, thời gian có tăng lên từ 1 phút đến
30 phút  thì những  câu  pháp  hướng  cũng  được thay đổi hoàn toàn chỉ còn giữ câu pháp hướng đầu tiên của Định Niệm Hơi Thở và không còn sử dụng những câu pháp hướng cũ.
Ví  dụ:  Tháng  thứ  hai,  khi ngồi  kiết  già lưng  thẳng  xong thân  tâm  cảm  giác  được  yên ổn  thì dùng  pháp  hướng  tâm:  “Ý  thức  phải biết  hơi  thở  ra và  hơi  thở  vô  một  cách  rõ ràng”, khi tâm đã chú ý hơi thở ra vô đều đều thì con thỉnh thoảng khoảng 5 hoặc 10 hơi thở
lại hướng tâm một lần:  “Cảm  giác  toàn thân tôi  biết  tôi  hít vô,  cảm  giác  toàn  thân  tôi biết  tôi  thở  ra”, hoặc  “Cảm  giác  toàn  tâm tôi  biết  tôi  hít vô,  cảm  giác  toàn  tâm  tôi biết tôi thở ra”.
Tháng thứ ba con thay đổi câu pháp hướng tâm trên bằng câu: “Cảm  giác  thân hành  tôi biết tôi hít vô, cảm giác thân hành tôi biết tôi  thở  ra”  hoặc  “Cảm  giác  tâm  hành  tôi biết  tôi hít vô,  cảm  giác tâm  hành  tôi biết tôi thở ra”.
Tháng thứ tư con thay đổi câu pháp hướng tâm trên bằng câu pháp hướng khác như: “An tịnh thân  hành  tôi  biết  tôi  hít vô,  an  tịnh thân  hành  tôi  biết  tôi  thở   ra”. hoặc  “An tịnh tâm  hành  tôi  biết  tôi  hít vô,  an  tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”.
Tháng thứ năm con thay đổi pháp hướng tâm trên bằng câu pháp hướng khác như:  “Với tâm  hân  hoan  tôi  biết  tôi  hít vô,  với  tâm hân hoan tôi biết tôi thở ra”, hoặc “Với tâm giải  thoát  tôi  biết  tôi  hít vô,  với  tâm  giải thoát tôi biết tôi thở ra”.
Tháng  thứ  sáu  khi tâm  con cảm  thấy  có sức  định  tỉnh  con  thay  đổi  pháp  hướng  tâm



trên bằng câu pháp hướng khác như: “Với  tâm định tỉnh  tôi  biết  tôi  hít vô,  với  tâm  định tỉnh tôi biết tôi thở ra”.
Tháng thứ bảy khi tâm có sức định tỉnh pháp  hướng  tâm  có  hiệu  quả  hơn  thì con thay đổi pháp hướng tâm trên bằng câu pháp hướng khác như: “Quán  ly tham tôi  biết  tôi  hít vô, quán   ly  tham  tôi   biết   tôi   thở   ra”,  hoặc “Quán  ly sân  tôi  biết  tôi  hít vô,  quán  ly sân tôi biết tôi thở ra”, hoặc “Quán ly si tôi biết  tôi  hít vô  quán  ly  si  tôi  biết  tôi  thở
ra”.

Tháng  thứ   tám   khi  con  cảm  thấy  tâm mình  đã  ly tham,  sân,  si,  mạn,  nghi  thì con thay đổi pháp hướng tâm trên bằng câu pháp hướng  khác  như:  “Quán  đoạn  diệt  lậu  hoặc tôi biết tôi hít vô, quán đoạn diệt lậu hoặc tôi biết tôi thở ra”.
Tháng thứ chín khi con cảm thấy tâm con không phóng dật tâm thường định trên hơi thở một cách tự nhiên thì con thay đổi pháp hướng tâm trên bằng câu pháp hướng khác và thỉnh thoảng  hướng  tâm  như:  “Tâm  ly dục,  ly  ác pháp nhập Bất Động Tâm Định”.
Tháng  thứ  mười  nếu  con  cảm  thấy  tâm con đã  nhập  được  Bất  Động  Tâm  Định  thì con ở  trong trạng thái  Bất  Động Tâm  Định đó  con nương vào  hơi  thở  ra và  hơi  thở  vô  liền  thay đổi pháp hướng tâm trên bằng câu pháp hướng khác và thỉnh thoảng hướng tâm như: “Tâm ly dục, ly ác pháp nhập Sơ  Thiền”.
Tháng  thứ  mười  một  nếu  con  cảm  thấy tâm con đã nhập được Sơ Thiền thì con xuất ra khỏi trạng thái Sơ Thiền, tâm con trụ trên hơi thở  ra và  hơi  thở  vô  thì con  thay  đổi  pháp hướng tâm trên bằng câu pháp hướng khác và thỉnh thoảng hướng tâm như: “Tâm  phải tịnh chỉ tầm, tứ nhập Nhị Thiền”.
Tháng  thứ  mười  hai,  nếu  con  cảm  thấy tâm  con đã  nhập  được  Nhị  Thiền  thì con xuất ra khỏi trạng thái Nhị Thiền, tâm con trụ trên hơi  thở  ra và  hơi  thở  vô  thì con thay đổi pháp hướng tâm trên bằng câu pháp hướng khác và thỉnh thoảng hướng tâm như: “Tâm  ly 18  loại hỷ tưởng nhập Tam Thiền”.
Tháng thứ mười ba, nếu con cảm thấy tâm con đã  nhập  được  Tam  Thiền  thì con xuất  ra khỏi  trạng  thái  Tam  Thiền,  tâm  con trụ  trên hơi  thở  ra và  hơi  thở  vô  thì con thay đổi pháp hướng  tâm  trên  bằng  câu  pháp  hướng  khác  và
thỉnh thoảng hướng tâm như: “Tâm  phải tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền”.
Đây  là  những  pháp  hướng  tâm  để  tu  tập về  Định  Niệm  Hơi  Thở  còn  tu  tất  cả  các  loại định khác lần lượt Thầy sẽ dạy các con trạch pháp và dùng pháp hướng tâm cho đúng cách, trước  kia  Thầy  chỉ  kê  ra cho các  con biết  về pháp hướng tâm chứ chưa soạn thảo một giáo trình tu  tậâp  cho các  con. Tại  sao Thầy  không biên soạn giáo trình tu tập cho các con trước?
Tại vì, giáo pháp của kinh sách phát triển đã  dìm  mất  giáo  pháp  của  đức  Phật,  nên  lúc này cần làm rõ để cho mọi người thấy đâu là chánh pháp của đức Phật và đâu là tà pháp của ngoại đạo, cho nên sự hỏi đạo của Phật tử hiện giờ là một điều cần thiết hơn là tu tập. Sau khi hỏi đạo thấu rõ chánh pháp và tà pháp thì giáo trình tu tập sẽ được ra đời, thì sự tu tập của các con không còn khó  khăn nữa, nghĩa là  các  con được Thầy hướng dẫn từng bước tu tập, còn bây giờ  các  con hỏi  thì Thầy  chỉ  dạy lõm  bõm  mà
thôi.

Sau này  các  con sẽ  có  một  giáo  trình tu học theo đúng chương trình giáo dục đào tạo những bậc tu chứng của Bát Chánh Đạo.
HƯỚNG  TÂM  NHƯ  THẾ  NÀO CÓ HIU QUÂ?

Câu hỏi của Diệu Tâm


Hỏi:  Kính bạch  Thầy!  Xin  pháp  hướng tâm tu Định Vô Lậu, mà dùng câu pháp hướng tâm:  “Tâm  phải  gom   vô,  tâm  phải  tỉnh  thức hoàn toàn, Tâm phải diệt tầâm tứ hoàn toàn v.v…”. Như vậy pháp hướng tâm có tác dụng không?
Đáp: Tất cả các pháp môn của đức Phật tu tập đều có một mục đích nhắm vào tâm vô lậu, mà pháp môn tu tập để tâm được tỉnh thức là pháp môn căn bản nhất, có tỉnh thức mới có xả được tâm, mới ly tham đoạn các ác pháp, do đó tâm mới vô lậu. Có tỉnh thức mới quán xét các niệm hoặc các ác pháp đến để thấu suốt nó thì mới  ly tham  đoạn  diệt  được,  như  bài  pháp  tu Định Niệm  Hơi  Thở  ở  trên.  Bắt  đầu  gom tâm, tỉnh thức từng hơi thở  rồi ly tham, ly ác pháp, ly tham  ly ác  pháp  được  rồi  mới  diệt  tầm  tứ, diệt tâm tứ được rồi mới ly các loại hỷ tưởng, ly các loại hỷ tưởng được rồi mới tịnh chỉ hơi thở, tịnh chỉ  hơi  thở được rồi mới  diệt  tận lậu hoặc bằng Lậu Tận Minh.
Biết dùng pháp hướng đúng cách, đúng thời, đúng pháp, đúng giai  đoạn tu  tập  của nó, thì có  tác  dụng  và  có  lợi  ích rất  lớn  cho hành giả đang tu tập.


THÙY MIÊN HAY TÙY MIÊN

Câu hỏi của Diệu Tâm


Hỏi:   Kính  bạch  Thầy!   Danh   từ   thùy miên  là  nghĩ  ngợi  liên  tục  hết  cái  này  tới  cái kia, hay còn có nghĩa là ngủ say thưa Thầy?

Đáp: Từ  thùy miên có  nghĩa là  ngủ, buồn ngủ,  ngủ  miên  man liên  tục  không  hay biết  gì cả, đó là một trạng thái si mê, lười biếng của những người vô minh.
Thùy có nghĩa là ngủ, buồn ngủ; miên có nghĩa là triền miên, miên man, liên tục.
Thùy  miên  không  có  nghĩa  là  nghĩ  ngợi chỉ có danh từ tùy miên thì mới có sự nghĩ ngợi liên miên:
Tùy  có  nghĩa  là  theo,  bám  sát,  không  rời
ra.



Miên có nghĩa là triền miên, miên man, liên tục.
Ví dụ: Sân tùy miên có nghĩa là cơn giận không  nguôi;  tham  tùy  miên  có  nghĩa  là  lòng ham   muốn   không   bỏ   được,   ham  muốn  hoài hoài,  ham muốn liên  tục;  si  tùy  miên có  nghĩa ngu si ham ăn, ăn no mà còn ráng ăn, ham ngủ trời sáng trắng mà chưa chịu dậy, ham chơi mà quên học hành, v.v.. Đó là nghĩa của thuỳ miên và  tùy  miên  con nên  nhớ  kỹ  đừng  để  hiểu  sai và hiểu sai thì tu tập không kết quả.
Cho nên thùy miên và tùy miên hai nghĩa khác  nhau  hai  trạng  thái  khác  nhau  không giống nhau chút nào. Người tu hành phải nhận xét  cho rõ  ràng  đừng  để  nhầm  lẫn  nghĩa.  Đến đây con đã hiểu xong còn chỗ nào nghi ngờ nữa không?


HẠNH  ĐC CƯ

Câu hỏi của Diệu Tâm


Hỏi:  Kính bạch  Thầy!  Tu  hạnh  sống độc cư có ba giai đoạn:


1-   Sống   hạn   chế   nói   chuyện   (ít   nói chuyện).
2-        Sống riêng làm việc riêng.
3-        Sống riêng không làm việc.
Thưa  Thầy,  sống  trong ba giai  đoạn  độc cư ý nghĩa như thế nào?
Đáp: Người muốn thực hiện thiền định nhập  được  vào  các  định mà  không  sống  độc  cư thì chẳng bao giờ nhập được định cả dù họ ngồi năm bảy ngày tâm không vọng tưởng cũng chẳng nhập được thiền định.
Bởi  vì  độc  cư là  bí  quyết  nhập  các  loại định. Tại sao vậy?
Người sống độc cư không cần ngồi thiền nhiếp tâm cho hết vọng tưởng mà chỉ cần sống đúng  trong  ba giai  đoạn  độc  cư này  thì nhập các  loại  Thánh  Định một  cách  dễ  dàng  không có  mệt  nhọc,  không  có  khó  khăn  cho đến  thực hiện Tam Minh như: Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn  Minh  và  Lậu  Tận  Minh  cũng  dễ  dàng như vậy.
Sống  độc  cư không  phải  dễ  nên  phải  chia ra làm ba giai đoạn:
1-   Giai  đoạn  thứ nhất: Tập  ít nói  chuyện tức  là  chuyện  gì đáng  nói  thì nói  không  đáng thì không được nói, nhất là không được nói chuyện  phiếm.  Ở  đây  chúng  ta  nên  hiểu  tập  ít


nói chuyện có nghĩa là tập dần dần đi đến chỗ hoàn toàn không nói chuyện với ai hết để thực hiện nội tâm ly dục ly ác pháp, nếu còn nói chuyện  thì tâm  còn  phóng  dật,  tâm  còn  phóng dật là tâm chưa ly dục ly ác pháp mà tâm chưa ly dục  ly ác  pháp  thì làm  sao nhập  được  định. Nếu  một  thời  gian  tập  ít nói  chuyện  mà  tâm hồn chúng ta thích sống yên lặng một mình không  muốn  tiếp  duyên  ra ngoài  thì bước  qua giai đoạn độc cư thứ hai.

2-   Giai đoạn thứ hai: Sống riêng làm việc riêng,  trong  giai  đoạn  này  chúng  ta  còn  đọc kinh sách và nghe băng dạy về hạnh độc cư và pháp  môn  tu  tập  ly dục  ly ác  pháp.  Sau thời gian  suy tầm  nghiên  cứu  thông  suốt  đường  lối và  cách  thức  tu  tập  của  đạo  Phật  thì chúng  ta bước vào giai đoạn thứ ba của hạnh độc cư.
3-   Giai  đoạn  thứ  ba:  Sống  riêng  không làm  việc,  sống  riêng  không  làm  việc  có  nghĩa là   không  đọc   kinh  sách,   không  nghe  băng, không  làm  việc  gì  cả,  nhưng  lúc  bấây  giờ  làm việc  rất  nhiều,  suốt  trong  24  tiếng  đồng  hồ ngày đêm liên tục quan sát thân, thọ, tâm và pháp của mình  để đẩy lui các chướng ngại pháp trên đó. Cho nên, nói không làm việc chứ làm việc nhiều nhất, làm việc mà không biết mỏi mệt.
Nhờ sống độc cư và tu tập như vậy thì tâm mới không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm đã ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp là tâm đã nhập Bất Động Tâm, tâm nhập Bất Động  là  tâm  bất  động  trước  các  pháp  và  các cảm thọ, tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ là tâm thanh tịnh.
Người  đã  có  tâm  thanh tịnh tức  là  tâm ly dục  ly ác  pháp  thì nhập  Sơ Thiền,  Nhị  Thiền, Tam  Thiền,  Tứ  Thiền  và  Tam  Minh  một  cách dễ dàng bằng với pháp hướng tâm như lý tác ý.
Người tu sĩ Phật giáo mà không hiểu ý nghĩa  và  không  sống  đúng  hạnh  độc  cư thì đi tu theo đạo Phật chỉ là hình  thức, chỉ uổng một đời  tu  hành mà chẳng có ích lợi cho mình,  cho người gì cả.


SỐNG THƠ THẨN MỘT MÌNH

Câu hỏi của Diệu Tâm


Hỏi:  Kính bạch  Thầy!  Trong phần  một của  hạnh  độc  cư, tậâp  sống  thơ  thẩn  một  mình để đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm, xin
Thầy chỉ rõ. Nó có giống trạng thái sống riêng và không làm việc?
Đáp: Độc cư ở giai đoạn I, trong suốt ngày đêm chúng ta chia thời gian ra làm bốn thời sáng chiều, tối, khuya,  mỗi thời chúng ta dành riêng  ra 30 phút  tập  sống  thơ  thẩn một  mình, quan sát thân, thọ, tâm và pháp để đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm.
Đến giai đoạn II độc cư thì thời gian sống thơ thẩn một mình  được tăng lên 60 phút hoặc hơn nữa.
Đến giai  đoạn  III thì hoàn toàn sống suốt
24 tiếng đồng hồ thơ thẩn một mình,  mục đích sống  như  vậy  là  để  đẩy  lui  các  chướng  ngại pháp trong tâm như trên Thầy đã dạy.
Tóm  lại,  sống  thơ  thẩn  một  mình  để  đẩy lui  các  chướng  ngại  pháp  trong  tâm  là  sống riêng không làm việc bên ngoài mà cũng không làm  việc  bên  trong  chỉ  duy  nhất  có  một  việc làm là việc đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm  mà  thôi.  Cho nên, ở  giai  đoạn  một  nó  chỉ mới  tu  tập  với  thời  gian  ngắn  30 phút  “sống riêng và không làm việc”.


THƯỜNG BẤT KHINH  BỒ TÁT

Câu hỏi của Diệu Tâm
Hỏi:  Kính bạch  Thầy!  Thầy  bảo  không có  Bồ  Tát  mà  chỉ  do kinh  sách  phát  triển  đặt ra, sao bài tu hạnh “bằng lòng” Thầy dẫn chứng Thường Bất  Khinh Bồ  Tát?  Thật hay là huyền thoại?
Đáp: Bồ tát chỉ là một danh từ chỉ cho những  người  tu   hành  chưa  xong,  bồ   tát   độ chúng sanh, cứu khổ chúng sanh là một sản phẩm  của  kinh  sách  phát  triển,  vì  tu  chưa chứng mà độ người làm sao độ được cũng giống như  một  người  mù  dẫn  một  đoàn  người  mù  đi thì sự  nguy hiểm  trước  mắt  rõ  ràng.  Cho nên Bồ Tát Quan Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Thế  Chí,  Bồ  Tát  Phổ  Hiền,  Bồ  Tát  Văn  Thù, v.v.. là không có thật, đó là huyền thoại, còn Thường  Bất  Khinh Bồ  Tát là  một  con người  tu chưa chứng,  ông  còn  đang tu  hạnh  nhẫn  nhục, tùy thuận, bằng lòng nên gặp ai ông cũng tôn trọng và cung kính,  ông không dám khinh rẻ ai hết do đó người ta mới đặt cho ông cái tên là Thường Bất Khinh Bồ Tát, người ta đâu ngờ rằng ông đang thực hiện tâm ly dục ly ác pháp
để đạt được cứu kính  của đạo Phật, vì thế Thầy mới dẫn chứng vị bồ tát này làm gương cho chúng ta bắt chước tu hạnh “bằng lòng”.
Danh  từ  bồ  tát  cũng  giống  như  danh  từ hành  giả  có  nghĩa  là  người  đang tu,  ngược  lại kinh sách phát triển ca ngợi một vị Bồ Tát không  đúng  sự  thật  mà  còn đưa vị  Bồ  Tát  đến những  việc  làm  phi  đạo  đức,  không  công  bằng và  công  lý  của  xã  hội  loài  người  như  Bồ  Tát Quan Thế Âm.
Trong kinh sách Nguyên Thủy đức Phật có nói đến Bồ Tát, nhưng Bồ Tát chỉ là một người tu  chưa chứng:  “Này  các  tỳ  kheo, khi Ta còn  là Bồ Tát chưa chứng ngộ Chánh Đẳng Chánh Giác...”.
Đức  Phật  nói  đến  Bồ  Tát  không  có  nghĩa là  nói  đến  Bồ  Tát  Quan  Thế  Âm,  Địa Tạng, v.v.. mà nói đến người đang tu chưa chứng đạo, đó là nghĩa của kinh sách Nguyên Thủy, còn nghĩa  của  kinh  sách  phát   triển,   Bồ   Tát   là những người tu đã chứng đạo vì thương tưởng chúng  sanh  mà  chưa  chịu  thành  Phật,  luôn luôn làm Bồ Tát để độ chúng sanh, chừng nào chúng sanh thành Phật  hết  thì các  vị  này mới thành Phật. Thật là pháp khí  đệ nhất trên thế gian  này,  chỉ  có  kinh  sách  phát  triển  mới  sản



sanh  ra những  loại  tưởng  tri,  ảo  giác,  lừa  đảo này đối với những người còn vô minh như thế.
Bồ tát là một danh từ để chỉ cho những người tu hành chưa xong, háo danh muốn làm thầy  thiên  hạ.  Đó  là  một  người  mù  muốn  dẫn dắt một số người mù cùng đi thì sự khổ đau không thể nào tránh khỏi.
Thăm  và  chúc  cả  gia  đình  con vui  mạnh, tu tập xả tâm tốt để sống một đời sống thanh thản, an lạc và vô sự.

Kính  ghi


THỜI KHÓA TU TẬP CHO NGƯỜI CƯ SĨ

Câu hỏi của một phật tử Miền Bắc
Hỏi:  Kính bạch  Thầy!  Xin  Thầy  hướng dẫn và chỉ rõ thời khóa tu tập cho cư sĩ tại gia, nhất  là  những  cư  sĩ  bận  việc  buôn  bán,  chỉ rảnh vào  buổi  tối, ngưỡng mong Thầy  hết lòng chỉ dẫn cho, con xin thành kính  tri ân.
Đáp: Vào mỗi tối Phật tử được rảnh rang, nên chọn ngay buổi tối  tu  tập, phải tu tập lien
tục. Khi đã chọn buổi tối, đừng bỏ qua một buổi tối  nào  cả  thì sẽ  có  kết  quả  giải  thoát  ngay liền,  đó  là  làm  chủ  được  sự  sống  của  mình,  do tâm  biết  buông xả  các  ác  pháp. Nhất  là  tu  tập được như vậy thì Phật tử sẽ sống trong mọi oai nghi  đạo đức  nhân bản  –  nhân quả cao thượng không làm khổ mình,  khổ người. Nếu không tu thì thôi  mà  đã  tu  thì phải  cố  gắng  tu  tập  hết sức mình  để trước báo ân đức của Phật, sau báo ân  của  cha mẹ,  của  Thầy  và  của  Tổ  Tiên  Ông Bà, v.v..
Trước  khi tọa  thiền  tu  Định  Niệm  Hơi Thở, con nên đến trước bàn thờ Phật, ngồi xếp bằng ngay ngắn, chắp tay trước ngực, mắt nhìn tượng Phật, con thầm ước nguyện trong lòng: “Hôm nay  con nguyện ước, mong rằng thân, miệng, ý của con không làm điều ác, xin đức Phật  chứng  minh”.  Sau khi ước  nguyện  xong, con quan sát, xem xét  từ  sáng  đến  tối  xem coi thân, miệng, ý của con có làm khổ mình,  khổ người không? Tức là có làm điều gì không phải, khiến  cho  mình   hay  người  khác  buồn,  giận, phiền não, v.v.. Nếu từ sáng đến tối không có một  việc  gì làm  khổ  mình,  khổ  người,  thì con biết rất rõ trong thân tâm của mình  hơn ai hết. Khi thấy  biết  rõ  như  vậy  con thầm  nói  trong
lòng:  “Đây  là  một  ngày  tốt lành, đẹp đẽ, thanh thản, an lạc và vô sự nhất của đời con, con xin đức Phật chứng minh cho”. Bằng ngược lại có những việc làm khổ mình,  khổ người con thầm nói  trong  lòng:  “Đây   là   một   ngày   xấu   nhất trong đời con. Con xin sám hối với chư Phật và nguyện ước khắc phục tâm con ngăn ác diệt ác pháp sẽ không làm khổ mình, khổ người nữa, ngưỡng mong đức Phật từ bi chứng giám cho con”.  Khi ước  nguyện  như  vậy  xong,  con tiếp tục  ngồi  kiết  già  hay  bán  già  lưng  thẳng,  hai bàn tay đặt vào lòng hai bàn chân tu tập Định Niệm Hơi Thở như Thầy đã dạy trong sách Đường Về Xứ Phật ở trên.
Bắt  đầu  tu tập  con  nên  cố  gắng  ngồi  từ  5’ rồi  từ  từ  tăng  dần  lên  30’.  Khi  tu tập  được  30’ con đừng  tăng  lên  nữa.  Lúc  bấy  giờ  con tu  đề mục  khác.  Ví  dụ:  Con tu  tập  Định Niệm  Hơi Thở  với  đề  mục  thứ  nhất  xong, con bắt  đầu  tu tập  đề  mục  thứ  hai, nếu  đề  mục  thứ  hai  tu  tập xong, con nên  tu  tập  đề  mục  kế  và  tu  tập  như vậy  cho đến  khi các  đề  mục  trong  Định  Niệm Hơi  Thở  tu  tập  xong hết  mới  chuyển qua pháp khác.
Thầy  gửi  cho con tập  sách  Cẩm  Nang  II
để con tham khảo thêm về pháp môn tu tập.
Thăm và chúc con dồi dào sức khỏe, tu tập xả tâm tốt.

Kính  thư


BỐN LOẠI THỨC ĂN

Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi:  Kính  bạch  Thầy!  Xin  Thầy  hoan hỷ chỉ dạy cho chúng con những điều sau đây:
Trong nẻo  thứ  năm  của Đạo  Đế  là  Chánh Mạng. Thầy mới giảng tóm tắt về bốn loại thức ăn:

1-        Đoàn thực loại thô hay loại tế.

2-        Xúc thực.

3-        Tư niệm thực.

4-        Thức thực.

Chúng  con xin  Thầy  hoan  hỷ  chỉ  dạy  cụ thể  và  những chi  tiết bốn loại  thức  ăn này. Để chúng con theo đó mà hành trì.
Đáp: Theo Phật  giáo  để  thực  hiện Chánh
Mạng thì có bốn cách nuôi thân mạng:



1-   Đoàn  thực  còn  gọi  là  đoạn  thực,  đoạn thực  có  nghĩa  là  cách  ăn,  chia  ra từng  đoạn, từng  miếng,  từng  phần  thường  dùng  tay,  đũa, nĩa, dao, muỗng v.v.. Cách thức ăn uống này thường  dùng  mũi, lưỡi, làm  thể  để  ăn các  món
ăn.

2-   Xúc  thực  còn  gọi  là  lạc  thực,  lạc  thực có nghĩa là cách ăn bằng sự cảm xúc vui buồn.
Ví dụ: Trong khi vui mừng, thấy mình  no, hoặc  khi buồn  rầu,  lo  lắng,  sợ  hãi,  tức  giận, cũng  cảm  thấy  mình  no;  trong  khi xem  hát, nghe  nhạc  hoặc  xem  bóng  đá   cả  ngày  chẳng thấy  đói.  Như  vậy  lấy  chỗ  tâm  mình  cảm  xúc mà làm thể ăn.
3-   Tư  thực  còn  gọi  là  niệm  thực.  Tư  có nghĩa là  tư  duy, suy nghĩ; thực  có  nghĩa là  ăn. Tư thực  có  nghĩa  là  cách  thức  ăn  bằng  ý  nghĩ suy tư, đó là cách thức ăn bằng ý thức tư duy.
Ví  dụ:  Một  người  đang  đói,  họ  nghĩ  đến bữa  cơm,  canh,  thực  phẩm  thơm  ngon,  sự  tư duy nghĩ về ăn uống như vậy là tư thực. Lâu ngày không ăn phở khởi tâm muốn ăn phở nên suy tư về tô phở, đó là tư thực. Trong  thời Tam Quốc  khi  Tào  Tháo  xua  quân  đi  đánh  giặc, ngang  qua một  sa mạc  quân  lính  khát  nước, Tào  Tháo  bảo:  “Phía  trước  có  một  rừng  me  và
trái  me rất  nhiều,  chúng  ta hãy  tiến  quân  đến đó  ăn  me  sẽ  đỡ  khát  nước”.  Quân  sĩ  nghe đến me  nên  nước  miếng  tiết  ra nhiều  khiến  cho quân lính không còn thấy khát nước nữa nên quân  lính  Tào  Tháo  vượt  khỏi  sa mạc,  đó  là nhờ tư thực.
4-   Thức thực là cách thức ăn bằng ý thức, khi ý  thức  khởi  ham  thích  cái  này  cái  nọ  cái kia, đó là thức thực.
Ví dụ 1: Ý thức khởi thèm muốn ăn bánh trung thu, thèm muốn ăn tức là thức thực.
Ví dụ 2: Ý thức khởi ham muốn một chiếc xe hơi, ham muốn chiếc xe hơi tức là thức thực. Khi chúng ta khởi tâm ham muốn một điều gì, một vật gì, một món ăn gì, ngay đó là chúng ta đang thức thực.
Đối với đạo Phật được xem bốn sự ăn uống này là  ác  pháp, là  bất  tịnh, là  khổ đau, là  trói buộc. Người tu hành theo Phật giáo cần phải quán xét  nhàm  chán trên bốn sự  ăn uống này. Người đời không biết tu tập nên chạy theo bốn sự ăn uống này, nên suốt đời thọ lấy biết bao nhiêu điều khổ đau, từ đời này sang đời khác.
Người tu sĩ đạo Phật cần phải cảnh giác, cần phải tu tập, cần phải quán xét và cần phải
sanh  tâm  nhàm  chán  trong  bốn  sự  ăn  uống này.

Tóm lại, bốn sự ăn uống này là bất tịnh uế trược, là ô nhiễm, là hôi thối bẩn thỉu. Người tu hành  theo  Phật  giáo  cần  phải  từ  bỏ,  cần  phải xa  lìa.   Ai  cũng  biết:  “Ăn  để  sống,  chứ  không phải  sống  để  ăn”.  Quý vị  nên nhớ  kỹ: Đừng để những loại ăn uống này làm ô nhiễm thân tâm chúng ta. Phải không quý vị?


MỘT TRUYỀN THỐNG ĐẸP
“UỐNG  NƯỚC NHỚ NGUỒN,  ĂN QUÂ
NHỚ NGƯỜI TRỒNG CÂY”

Câu hỏi của Chơn Thành


Hỏi:  Kính bạch  Thầy!  “Uống  nước  nhớ nguồn,  ăn  quả  nhớ  người  trồng  cây”,  làm  nên sự  nghiệp  nhớ  ơn người Thầy  có  công dạy bảo. Đó là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam,  nhà  nào  cũng  lập  một  bàn  thờ  để  thờ Phật, Tổ tiên, ông bà và cha mẹ. Ngày giỗ ngày Tết con cháu dù công tác ở nơi đâu cũng trở về



quê  xum  hợp  với  gia  đình  và  tưởng  nhớ  đến công  ơn sinh  thành  như  trời  như  biển  của  tổ tiên, ông bà và cha mẹ.
Nhưng  cũng những ngày giỗ Tết này thường  bày  ra ăn  uống  cỗ  bàn  linh đình,  rượu chè say sưa, gà lợn thường phải giết để cúng tế, gây tốn kém về kinh  tế, gieo nhân ác với loài chúng sanh, v.v..
Để phát huy truyền thống tốt đẹp lâu đời đối với chư Phật, tổ tiên, ông bà và cha mẹ, để đền  đáp  công  ơn sanh  thành  dưỡng  dục  như trời  biển  đó,  ngày  Tết,  ngày  giỗ  nên  tổ  chức như  thế  nào  cho đúng  ý  nghĩa  đạo  đức  nhân quả làm người, không làm khổ mình,  khổ người và  khổ  tất  cả  chúng  sanh.  Xin  Thầy  chỉ  dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Ngày giỗ, ngày Tết là những ngày truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”, nhưng hiện nay người ta lạm dụng ngày  tốt  đẹp  ấy  đã  biến  thành  ngày  tụ  tập  để ăn chơi nhậu nhẹt, vì ăn chơi nhậu nhẹt nên phải sát hại chúng sanh làm cỗ linh đình,  biến dần ngày ấy thành ngày tội lỗi, biết bao nhiêu sanh linh phải chết cho ngày ấy.
Vì  sự  sống,  sự  vui  chơi  của  loài  người, nhưng  loài  người  là  một  loài  động  vật  thông minh nhất sao lại nỡ tâm sống và vui chơi trên sự đau khổ của muôn loài vật khác.
Đặt ngược lại vấn đề, trên thế gian này có một  loài  động  vật  khác  có  uy quyền  và  thông minh  hơn  loài  người  nữa,  loài  động  vật  ấy, chúng biết nuôi loài người  và các  loài  động vật khác, cứ  hằng năm  ngày Giỗ  và  ngày Tết hoặc tất cả những ngày lễ lớn, chúng đều bắt loài người và những loài vật khác ra giết và làm cỗ linh đình,  ăn  uống  nhậu  nhẹt  vui  chơi  thỏa thích thì lúc bấy giờ loài người sẽ nghĩ như thế nào đối với loài động vật đó?
Chắc chúng ta sẽ nguyền rủa loài động vật ấy là ác quỷ, là quỷ Sa Tăng, là quỷ La Sát, là loài ác thú chứ không phải loài người nữa, v.v.. Có phải vậy không quý vị?
Đến ngày giỗ, ngày Tết  và  những ngày lễ lớn  trong  năm,  so sánh  loài  người  chúng  ta hiện nay cũng vậy, chẳng khác nào như loài ác thú,  loài  quỷ  dữ,  chẳng  biết  thương  xót  muôn loài  vật  khác,  nhẫn  tâm  sống  trên  xương máu đau khổ của chúng. Làm tội ác như vậy chẳng biết thương xót, còn sinh tâm thích thú vui cười khi cầm  dao giết  hại  những loài  vật  hiền  lành
rất  đáng  thương,  nhất  là  những  loài  chó, mèo, những con vật trung thành và rất thương yêu chúng ta như những đứa con thân thương, thế mà  chúng  ta  nỡ  nhẫn  tâm  giết  chúng  để  ăn thịt,  cũng  giống  như  chúng  ta  ăn  thịt  những đứa con thương yêu của mình  sinh ra.
Nói về con chó là nói về con vật trung thành dù chúng ta có đánh đập xua đuổi chúng như thế nào, nhưng  khi gặp chủ thì chúng vẫn vẫy  đuôi  mừng  chủ.  Vậy  mà  con người  vẫn  ăn thịt chúng được.
Trong  khi các loài vật khác giãy giụa, kêu la, gào thét, rên xiết, quằn quại trên bàn tay đẫm  máu  của  loài  người  thì lúc  bấy  giờ  chúng ta chè chén vui chơi thỏa thích, mà vô tình không nghĩ đến nỗi đau thương ấy.
Chúng ta đâu biết rằng luật nhân quả sẽ không  tha  thứ  cho một  ai,  nếu  kẻ  đó  chuyên làm ác giết hại và đem thịt, da, xương, máu của chúng sanh ra bán lấy tiền hoặc nấu nướng chiên   xào,   hầm,   kho   luộc,   v.v..  thành   thực phẩm, chi dụng cho cuộc sống hằng ngày của mình,  hoặc  ăn  uống  nhậu  nhẹt  vui  chơi  thỏa thích trong lúc đó cuộc sống hiện tại của chúng ta sẽ  có  nhiều  sự  kiện xảy ra tai  nạn bệnh tật
khổ  đau không  chỉ  có  thân  mình  mà  cả  chùm nhân quả như cha, mẹ, vợ, con.
Ví dụ: Trong những ngày Tết, ngày giỗ, ngày lễ lớn v.v.. khi ăn uống nhậu nhẹt thường xảy  ra sự  rầy  rà  to  tiếng  chửi  mắng  đánh  đập với  nhau, có  khi xảy  ra án  mạng  kẻ  nằm  nhà thương  người  đi  ở  tù,  đó  là  nhân  quả  xảy  ra trong sự kiện hiện tại.
Ngày Tết, ngày giỗ là ngày truyền thống đạo đức  ân nghĩa để tỏ lòng biết  ơn sâu  xa tốt đẹp  của  dân  tộc  Việt  Nam,  nhưng  người  ta không hiểu ý nghĩa của nó, nên đã lạm dụng ngày đó ăn chơi theo  dục vọng tầm thường của kẻ  phàm  phu  tục  tử,  biến  dần  thành  những ngày tội lỗi sát hại sanh linh, chỉ để thỏa thích cho lòng  ham  muốn  theo  dục  lạc  vui  chơi  trần tục  “ăn  nhậu”  say  sưa  mất  hết  tư cách  đạo đức làm  người,  tự  chúng  ta  đã  biến  dần  chúng  ta trở  thành  những  con thú  vật  mà  không  hay biết,  mất  hết  lương  tri,  chẳng  biết  xấu  hổ  và còn hung ác như loài thú dữ. Lúc bấy giờ chúng ta đâu còn biết nghĩa lý gì đạo đức hiếu sinh, sống  trước  cảnh  tàn  ác,  tàn  nhẫn,  nhẫn  tâm giết hại và ăn thịt các loài vật như vậy, không có một chút lòng yêu  thương thì đâu còn gọi là



người  biết  ân  biết  nghĩa  đối  với  những  con người có đạo lý làm người.
Ngày đạo đức tốt đẹp ấy là ngày truyền thống văn hoá tốt đẹp của một dân tộc mà giết hại  và  ăn  thịt  chúng  sanh  như  vậy  thì không thể gọi là ngày “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ  người  trồng  cây”  của  dân  tộc  Việt  Nam, ngày  ấy  chỉ  còn  là  ngày  tụ  họp  dòng  họ  anh, em,  chị,  em,  cùng  chòm  xóm  láng  giềng  ăn uống  chè  chén  vui  chơi  say sưa một  cách  hạ liệt,  để  rồi  la  hét  chửi  mắng,  đánh  đập  nhau, xâu xé như loài ác thú.
Ngày tốt đẹp ấy không còn là ngày con cháu  tụ  họp  về  để  nhớ  cội  nguồn  của  dòng  họ Tổ  tiên,  ông  bà  đã   làm  vẻ  vang  lịch  sử  quê hương tổ quốc của dân tộc Việt Nam nữa.
Ngày  tốt  đẹp  ấy  không  còn  là  ngày  đạo đức nhân bản - nhân quả làm người biết thương yêu muôn loài sống trên hành tinh này, biết thương yêu và tha thứ cho nhau những lỗi lầm. Ngày  ấy,  bấy  giờ  trở  thành  ngày  sát  hại  sanh linh biết bao nhiêu loài vật hiền lành và vô tội phải chịu chết cho ngày ấy; ngày ấy đã biến thành ngày độc ác nhất trong năm của con người, ngày ấy là ngày tội lỗi nhất của con người; ngày ấy là ngày con người đã tạo nghiệp



tái  sanh  luân  hồi  làm  thân  loài  vật  mãi  mãi trong muôn kiếp.
Ngày  tốt  đẹp  ấy  là  ngày  tụ  họp  con cháu lại để  nhắc  nhở  con cháu  chớ  nên làm điều  ác, mất đạo đức; chớ nên làm những điều tội lỗi, những điều mất  danh giá, làm cho Tổ tiên ông bà, cha mẹ phải xấu hổ dưới tuyền đài, làm cho những người còn sống khó nhìn  mặt mọi người.
Vì thế ngày ấy là ngày giết hại sanh linh, làm cỗ bàn linh đình, xúm lại ăn uống chè chén say sưa giống  như  loài  thú  vật  chỉ  còn  biết  tụ họp để ăn nhậu, thì còn nghĩa lý gì là ngày truyền thống tốt đẹp “uống nước nhớ nguồn, ăn quả   nhớ   người   trồng   cây”   của  dân  tộc  Việt Nam.
Từ  một  ngày  mang đầy  tính chất  đạo  đức ân nghĩa tốt đẹp của một truyền thống văn hóa dân  tộc  anh  hùng,  ngược  lại  ngày  nay  nó  đã biến dần mất hết ý nghĩa cao đẹp ấy.
Nếu  chúng  ta  không  kịp  thời  sửa  sai  lại thì con cháu  của chúng ta sẽ  chạy theo  quá  đà dục  lạc  thường  tình thế  tục  “tham   ăn   thích uống” thì ngày ấy chỉ còn là ngày “ăn chơi”, nhậu nhẹt, say sưa, la lối, chửi mắng như người điên thật là tội lỗi. Ngày ấy không còn là ngày



mang  đầy  đủ  ý  nghĩa  văn  hoá  cao thượng  và đẹp đẽ của một dân tộc Việt Nam nữa.
Đứng trên nền tảng đạo đức nhân bản - nhân quả  làm  người không làm  khổ  mình,  khổ người  mà  chỉnh  đốn  lại  ngày  ấy  để  mang  đầy đủ  ý  nghĩa  văn  hóa  cao thượng  và  cao đẹp  của nó,  xứng  đáng  là  ngày  truyền  thống  văn  hóa của  dân  tộc  Việt  Nam  “Uống  nước  nhớ  nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”:
1-   Ngày ấy bác, chú, cô, dì, cha, mẹ, anh, chị,  em, con cháu  phải  tụ  họp  về  đầy  đủ  nơi nhà  thờ  Tổ tiên, ông bà, không được vắng mặt dù có  đi làm  việc  và ở  đâu  xa cũng phải trở về họp  mặt  cho đầy  đủ,  để  nói  lên  được  tình sâu nghĩa nặng, đạo đức cao đẹp ân nghĩa làm người,   “uống   nước   nhớ   nguồn,   ăn   quả   nhớ người trồng cây”.
2-   Ngày   ấy   không   được   giết   hại   sanh linh, vì  ngày  ấy  là  ngày  ân  nghĩa,  không  thể đem sự  đau khổ  chết  chóc  của  muôn  loài  vạn vật  ra làm  ân  làm  nghĩa  đối  với  Tổ  tiên,  ông bà, cha mẹ của chúng ta được; ngày ấy chỉ là ngày họp mặt của dòng họ, để nói lên con cháu của dòng họ này là những người hiền lành sống có  đạo đức  không làm  khổ  mình,  khổ  người  và khổ  muôn  loài  chúng  sanh.  Nếu  ngày  ấy  giết



hại sanh linh làm cỗ linh đình thì còn nghĩa lý gì  gọi  là  làm  ân,  làm  nghĩa  của  những  con người  có  đạo  đức  nhân  bản  –  nhân  quả  biết thương  mình,   thương  người  và  thương  muôn loài  vạn  vật.  Ngày  ấy  xương  thịt  của  chúng sanh nằm trên cỗ bàn la liệt như một bãi chiến trường  thì mất  hết  ý  nghĩa,  ân  nghĩa  cao đẹp của  những  ngày  ấy  đối  với  Tổ  tiên.  Vì  thế, tuyệt nhiên ngày ấy không được đổ máu dù một giọt máu rất nhỏ. Tại sao vậy?
Tại  vì, ngày ấy Tổ  tiên, ông bà của chúng ta đã  đi tái sanh làm muôn loài vạn vật, tuy là Tổ  tiên,  ông  bà  của  chúng  ta  nhưng  đã  mang lốt  chúng  sanh  làm  loài  vật  thì chúng  ta  đâu còn  biết  được.  Xưa  lúc  đức  Phật  còn  tại  thế, Ngài  đi  xin  đến  một  nhà  nọ,  có  một  con chó chạy ra sủa Ngài, Ngài liền nói chuyện với con chó:  “Này  con  chó  kia,  nhà  ngươi  có  biết  trước kia  nhà  ngươi  là  ai  không?  Con chó không còn sủa nữa đứng lắng tai nghe, Đức Phật nói tiếp: “Trước kia nhà ngươi là chủ nhân của ngôi nhà này,  khi  chết  nhà  ngươi  không  kịp  trối  trăng cho các con cháu biết nhà ngươi đã có giấu một số  vàng  trong nhà,  vì  thế  sau khi  chết  nghiệp tiếc  của  cải  của  nhà  ngươi  mà  phải  chịu tái sanh làm  thân  chó  để  giữ  gìn  của  cải  đó”.  Từ



khi nghe đức  Phật  nói  như vậy,  con chó  bỏ  ăn và  chẳng  bao lâu  con chó  chết.  Do câu  chuyện này chúng ta suy ra: “Nghiệp sát sanh của Tổ tiên,  ông  bà,  cha  mẹ  của  chúng  ta  làm  sao tránh  khỏi  tái  sanh làm  thân  loài  vật,  từ  loài gia  súc  nuôi  trong nhà  như:  gà,  vịt, heo, dê, ngựa,  bò,  mèo,  chó  v.v..  cho đến  các  loài  cá, tôm, rùa, trạnh v.v.. coi chừng đều là Tổ tiên, ông bà, cha mẹ  của chúng ta tái  sanh, do lòng thương  yêu  con cháu  không  muốn  xa lìa  hoặc do nghiệp sát sanh mà phải chịu làm thân thú vật”.  Xưa đức  Phật  còn  tại  thế,  Ngài  đã  thuật lại cho chúng ta nghe một  câu  chuyện:  “Có  hai vợ   chồng   nhà   kia,   người   chồng   bệnh   chết, nhưng   vì  quá   thương   cô   vợ   trẻ,   do  nghiệp thương  ấy  người  chồng  tái  sanh làm  con dòi  ở trong lỗ mũi vợ, khiến cho cô vợ trẻ này đau nhức  trong lỗ  mũi  rất  khó  chịu, một  hôm  cô đến nhờ một vị thầy thuốc trị dùm lỗ mũi, vị thầy  thuốc  dùng  kẹp  bắt  ra một con dòi, cô  vợ trẻ  trông  thấy  con dòi  quá  sợ  và  từ  đó  chứng bệnh  đau  lỗ  mũi  không  còn  nữa”.  Đối  với  con mắt  hữu  hạn  của  chúng  ta  đâu  nhìn  qua được lốt  nghiệp, vì lòng yêu  thương con cháu, vì trả nợ  miệng  bà  con xóm  làng  nên  giết  hại  sanh linh làm  cỗ  bàn  linh đình,  nên  ngày  nay  làm thân  súc  vật  để  con cháu  giết  lại  làm  cỗ  đãi
người,  đó  là  luật  nhân  quả  trả  vay  vay  trả muôn đời muôn kiếp vô cùng tận không bao giờ dứt,  nếu  chúng  ta  không  sáng  suốt  đình  chỉ ngay  bàn   tay   đẫm   máu   thì  chúng   ta   cũng không thoát khỏi nợ máu này, đừng lạm dụng ngày nhớ ân Tổ tiên ông bà cha mẹ rồi lại giết hại  Tổ  tiên  ông  bà  cha mẹ  của  mình  thì còn nghĩa lý  gì đạo lý  làm  người?  Ngày nhớ  ơn lại trở thành ngày phi ơn.
Đối  với  đạo  Phật,  ngày  giỗ,  ngày  Tết  và tất  cả  những  ngày  lễ  lớn  trong  năm  nên  tổ chức  đúng  ý  nghĩa  đạo  đức  làm  người  tức  là phải tổ chức đúng theo đường lối đạo đức nhân bản - nhân quả trong Bát Chánh Đạo:
1/        Chánh Kiến

2/        Chánh Tư Duy

3/        Chánh Ngữ

4/        Chánh Nghiệp

5/        Chánh Mạng

6/        Chánh Tinh  Tấn

7/        Chánh Niệm

8/        Chánh Định

Những ngày giỗ, ngày Tết và tất cả những ngày  lễ  lớn  trong  năm  thì nên  tổ  chức  đúng



theo  năm  nẻo  trong  Bát  Chánh  Đạo.  Vậy  tổ chức theo Chánh Kiến như thế nào?
Tổ chức những ngày ấy đúng chánh kiến theo đạo Phật như:
1-   Thứ  nhất  không  nên  giết  hại  chúng sanh làm cỗ linh đình.
2-   Thứ hai không được tế lễ, cúng kiến lễ bái  cầu  siêu  cầu  an theo  kiểu  mê  tín, dị  đoan, tin có  linh hồn  người  chết  về  ăn  uống,  phù  hộ con cháu.
3-   Thứ  ba không  nên  lạm  dụng  ngày  đó tụ  họp  ăn  uống  nhậu  nhẹt  say sưa la  hét, chửi mắng, đánh lộn, v.v..
4-   Thứ  tư  không  được  dùng  ngày  đó  làm cỗ linh đình trả nợ miệng làng xóm.
Muốn tổ chức những ngày ấy đúng chánh kiến đạo đức ân tình nghĩa nặng của những người đệ tử Phật thì phải.
•  Thứ nhất trên bàn thờ tổ tiên phải được quét dọn sạch sẽ không chưng hoa chỉ có quả, đèn hương phải trang nghiêm.
•  Thứ  hai  mọi  người  về  tụ  họp  đều  phải mua sắm những thực phẩm thực vật  hoặc bánh trái cây, v.v.. tránh mua sắm thực phẩm động vật và bông hoa.



5-  Thứ năm tránh mọi sự lo lắng, nhọc nhằn cho người giữ gìn nhà thờ Tổ tiên, bằng cách khi mọi người về họp mặt trong những ngày ấy đều phải mua và mang về theo nhiều hoặc  ít trái  cây  thực  phẩm  để  tỏ  lòng  biết  ân qua hiện  vật  của  ít lòng  thành  còn  người  nào nghèo  quá  thì cũng nên về  cho đông đủ  để  nói lên ý nghĩa cao đẹp của sự biết ơn sâu dày như trời biển của tổ tiên, ông bà, cha mẹ mà không cần phải mua sắm vật gì.
6-   Thứ  sáu,  ngày  ấy  trong  dòng  họ  phải có một người hiểu biết lịch sử và gia phả của dòng  họ,  đứng  lên  nhắc  lại  công  ơn  Tổ  tiên, ông  bà,  cha mẹ  để  cho con cháu  biết  và  khích lệ sách tấn con cháu sống đúng đạo đức làm người   không   làm   khổ   mình,   khổ   người   và không làm khổ muôn loài vật khác. Con cháu phải nhớ học tập tốt có đức, có tài, làm việc siêng năng cần mẫn thanh liêm, luôn luôn làm sáng tỏ danh đức dòng họ Tổ Tiên, không được làm ô nhục, làm xấu ô danh dòng họ, phải làm cho danh thơm, tiếng tốt.
7-   Thứ  bảy,  ngày  ấy  bác  chú,  cô  dì, anh chị em, con cháu nội ngoại gần xa đều về đông đủ  để  biết  được  nhau không  còn  xa lạ,  ông  bà biết con cháu, con cháu biết ông bà, ngày ấy là



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!