Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO 1


BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO




Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC






BA MƯƠI BẢY
PHẨM
  
 NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO   
SÁCH BIẾU KHÔNG BÁN 




Ba       Mươi Bảy     Pháp  Trợ

Đạo” là một bảng  thống kê  các   pháp  tu hành của đạo   Phật,  từ người sơ  cơ  mới bắt đầu tu  tập cho đến khi chứng   đạo,    có


đầy đủ 37  pháp  hành, từ dễ đến khó và lý
giải rành mạch  rõ ràng.

Vì thế bài kinh   này có  tên   là   Ba Mươi  Bảy Phẩm Trợ Đạo có  nghĩa là ba mươi bảy pháp  môn giúp cho người tu chứng đạo.

Người có  hiểu biết Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ   Đạo là người tu  tập không bao giờ sai  đường lạc lối của  Phật giáo.  Vì thế trước tiên muốn tu tập theo Phật giáo chúng tôi xin  khuyên quý vị hãy nghiên cứu  kỹ ba mươi bảy  phẩm trợ  đạo rồi mới tu tập.

Khi đã  thông suốt  Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo thì không có pháp   môn nào của ngoại   đạo  mạo nhận  là của  Phật giáo để lừa gạt  quý vị được.  Ngoài Ba


Mươi Bảy   phẩm  Trợ  Đạo  này  trong
đạo Phật  không còn có một  pháp   môn  nào khác nữa. Nếu có pháp   môn  nào khác ngoài ba mươi bảy pháp  môn này là pháp môn  của ngoại đạo. Đó là điều chắc chắn mà đức Phật đã xác định như  vậy.

Bởi các pháp  môn  của ngoại đạo không bao giờ  có pháp   môn  nào giống  như trong  Ba Mươi Bảy Pháp Môn  Trợ Đạo này.

Quý vị hãy xem xét lại pháp  môn Tịnh Độ thuộc hệ  phái Bắc  Tông  dạy tu hành bằng  cách nhiếp tâm chuyên  ròng  câu Niệm Hồng  Danh Phật Di Đà. Phật Di Đà là một  đức Phật tưởng tượng của  Đại Thừa, chớ  Phật Di Đà không có  thật. Vì thế khi niệm Phật được nhất  tâm tức là ức chế ý   thức không còn


niệm khởi nên  tưởng thức hoạt  động, do  đó
người niệm Phật   liền thấy cảnh  giới Tây phương   cực lạc.

Thiền Tông   cũng bắt chước niệm Phật để được  nhất tâm. Khi nhất tâm thì ý  thức không khởi niệm vọng tưởng thì Thiền Tông gọi là thiền định.

Khi không có  niệm khởi vọng  tưởng liền gọi là Thiền định. Thiền định như vậy chỉ là Thiền định của  ngoại đạo, chớ Thiền định  của đạo  Phật không phải vậy, khi một người tu hành theo  Phật   giáo phải ly dục ly bất thiện pháp trải qua các pháp Tứ Chánh Cần  và Tứ Niệm Xứ. Khi chứng được  tâm Tứ Niệm Xứ thì mới có đủ Tứ  Thần  Túc,  khi có  đủ   Tứ  Thần Túc thì mới có  đủ  khả năng nhập  Tứ Thánh Định, còn chưa   có  Tứ Thần Túc


mà nhập  Thiền định,        đó  là Thiền định
của Thiền Tông Trung Quốc.

Trải qua  trên 10 năm tu tập những pháp môn  này, chúng tôi đã  đạt  được nhất tâm bất loạn từ ngày này sang  ngày khác, nhưng  khi xả ra thì xét  lại tâm mình  vẫn còn tham, sân, si,  mạn, nghi. Biết rõ  như vậy, chúng tôi đành  bỏ không tu tập nữa.

Trong  khi  nghiên  cứu   Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo chúng tôi thấy Đại Thừa và Thiền Tông không có  pháp  môn nào giống như  Ba Mươi Bảy  Pháp   của Phật. Do đó  chúng tôi biết ngay các Tổ hệ phái   phát   triển tưởng giải tạo ra những pháp môn tu tập ức  chế ý  thức, làm cho hết vọng tưởng. Ngược lại đức Phật  dạy: “Ý dẫn  đầu  các pháp.  Ý làm chủ.  Ý tạo tác”. Đạo  Phật không diệt ý   thức mà còn   sử


dụng  ý    thức để tạo thành lực Tứ  Thần
Túc,  Nhờ lực Tứ  Thần   Túc  mới làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết.

Cho   nên Phật   giáo Thiền Tông Trung Quốc dạy:  kiến tánh thành Phật, chẳng niệm thiện niệm ác bản  lai diện mục hiện tiền, biết vọng không theo hay biết vọng  liền buông, chăn trâu, tham thoại đầu, tham   công án, khởi nghi tình v.v…Những pháp hành này trong kinh sách  Nguyên thủy Phật không có  dạy. Vậy mà các Tổ Trung Quốc dám   cả gan mạo nhận là Phật thuyết.
Phật  giáo Nam Tông Miến Điện  dạy tu  tập thiền  Minh Sát  Tuệ bằng pháp môn nhiếp tâm phình  xẹp nơi cơ bụng.
 

Phật giáo Mật Tông Tây Tạng,
các vị Lạt Ma dạy niệm các  thần chú  ức chế tâm để tưởng thức hoạt  động xuất hiện cầu  vồng, đó  cũng  là các thức lừa đảo  tín đồ phật tử.
Đem tất cả các pháp   môn  này so sánh  với Ba Mươi Bảy  Phẩm  Trợ Đạo của Phật    giáo  thì   chúng ta không thấy có một  pháp   môn  nào giống  pháp môn của Phật   giáo cả. Và như vậy  chúng tôi xác định  các pháp môn này không phải  của Phật   giáo là đúng  không sai.   Các pháp môn   này đều là của tà giáo ngoại đạo, xin quý vị lưu ý.
Cho nên  các hệ phái   tôn giáo do  các tổ Trung Quốc thành  lập, cứ   đem   pháp môn tưởng giải của mình   rồi gắn nhãn hiệu Phật giáo   để lừa đảo tín   đồ  Phật giáo.


Một người sơ  cơ  mới vào đạo như  quý vị
phật  tử làm sao  thấu hiểu pháp  nào của Phật giáo và pháp  nào của  các tổ. Cho nên rất   dễ lầm lạc vì lừa dối   của  các  tổ Trung Quốc.
Làm điều này các tổ sơ  sót quên nghiên  cứu   Ba Mươi  Bảy  Phẩm  Trợ Đạo của Phật    giáo   nên  khi phật  tử đã am tường giáo pháp này thì các tổ đã đánh mất niềm  tin với tín đồ.  Chính vì  thế mà chúng tôi không còn  tin kinh sách  phát triển nữa.
Các  tổ theo lối mòn  kiến  tưởng giải của các sư  tổ mình  trước kia tự dựng   lên một  sự  giả  dối  ngoài sức  tưởng tượng  của con  người. Họ cho rằng Phật   giáo có  84 ngàn pháp  môn. Gom hết các pháp  của tất cả  tôn giáo trên hành tinh này cũng  không


có tới 1.ooo  pháp môn huống hồ  lại có  đâu
tới 84 ngàn pháp môn.
Cái sai  của các Tổ  sư  Thiền Tông Trung Quốc cố đặt   ra pháp  môn  rồi  gán cho  Phật   giáo là không ai bắt bẻ. Nhưng Ba Mươi Bảy Phẩm  Trợ Đạo đã  xác định đạo Phật  có  37 pháp  môn  chớ không
hơn.
Thiếu nghiên   cứu về Phật giáo nên các tổ quên rằng  đức Phật chỉ  dạy tu tập ba  bảy pháp môn mà thôi, ngoài ra không có pháp  môn  nào nữa cả. Cho nên   các   hệ phái tôn giáo, của  Trung Quốc, Nhật Bản, Đại Hàn, Tây Tạng,  Ấn  Độ v.v...  hay  bất cứ  một  nước  nào trên thế giới cũng không lừa gạt  được quý vị.
Như vậy chúng ta biết rất  rõ Thiền
Tông  và Tịnh  Độ  Tông là Phật   giáo


Trung Quốc hoàn toàn chịu ảnh hưởng tinh
thần tư tưởng và pháp hành của Nho giáo và Lão giáo.  Cho   nên Phật   giáo Trung Quốc cũng  không phải Phật    giáo chuyên ròng của  Phật   giáo. Nhưng xét qua  góc độ Nho giáo thì  Nho giáo cũng không phải  là Nho giáo  chuyên  ròng  và  Lão giáo cũng  vậy nó cũng  không chuyên  ròng là Lão giáo.  Cho   nên Phật   giáo truyền sang qua Trung Quốc đã bị  ảnh hưởng với Nho giáo thì   gọi  là Đại Thừa, đã   bị ảnh thưởng với Lão  giáo thì  gọi là Tối Thượng Thừa.
Như vậy, những pháp   môn  của  các giáo phái này không phải là của  Phật giáo chánh tông, vì nó đã bị  lai căng theo Nho giáo và Lão giáo của Trung Quốc.


Từ       khi      Phật   giáo    Trung Quốc
truyền sang qua Việt Nam đến nay chưa có một vị Hòa Thượng nào làm chủ  sinh, già,  bệnh, chết như  đức Phật, thường quý vị chết trong bệânh tật đau khổ.
Khi hiểu biết được như  vậy chúng ta muốn tu  theo Phật  giáo  thì  phải nghiên cứu kinh   sách Nguyên Thủy do Hòa Thượng Minh Châu dịch ra  Việt ngữ.


Trưởng Lão Thích  Thông Lạc kính ghi








































Ba mươi  bảy  phẩm  trợ  đạo  gồm  có
theo thứ tự tu tập từ các  pháp thấp đến các pháp cao như sau:


- NGŨ CĂN gồm có:

1- Nhãn căn

2- Nhĩ căn

3- Tỷ căn

4- Thiệt căn

5- Thân căn

- NGŨ LỰC gồm có:

1- Tín lực

2- Tấn lực

3- Niệm Lực

4- Định lực

5- Tuệ lực

- TỨ VÔ LƯỢNG TÂM gồm có:

1- Từ Vô Lượng Tâm

2- Bi Vô Lượng Tâm

3- Hỷ Vô Lượng Tâm

4- Xả Vô Lượng Tâm

- TỨ BẤT HOẠI TỊNH gồm có:

1- Niệm Phật

2- Niệm Pháp


3- Niệm Tăng

4- Niệm Giới

- TỨ CHÁNH CẦN gồm có:

1- Ngăn ác

2- Diệt ác pháp

3- Sinh thiện

4- Tăng trưởng thiện pháp

- TỨ NIỆM XỨ gồm có:

1- Quán thân

2- Quán thọ

3- Quán tâm

4- Quán pháp

- THẤT GIÁC CHI gồm có:

1- Niệm Giác Chi

2- Tinh  Tấn Giác Chi

3- Khinh An Giác Chi

4- Hỷ Giác Chi

5- Định Giác Chi

6- Xả Giác Chi

7- Trạch Pháp Giác Chi


- TỨ NHƯ  Ý  TÚC gồm có:

1- Dục Như Ý  Túc

2- Tinh  Tấn Như Ý  Túc

3- Định Như Ý Túc

4- Tuệ Như Ý  Túc

Bảng  tóm  lược  trên  đây  đầy  đủ  Ba
Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo.










Bài pháp thứ  nhất





















NGŨ CĂN gồm có:

1- Nhãn căn tức là hai con mắt.

2- Nhĩ căn tức là hai lỗ tai.

3- Tỷ căn tức là hai lỗ mũi.

4- Thiệt căn tức là lưỡi miệng.


5- Thân căn tức là cơ thể.

Trên đây là NĂM CĂN trong cơ thể của  chúng  ta,  nó   thường  phóng  dật  chạy theo sáu  trần  tạo ra  muôn  vàn  sự  đau khổ cho  chúng  ta,  nên   đức  Phật  dạy  phương pháp đầu tiên là lấy NĂM CĂN tu tập. Đối với người mới bước chân vào đạo Phật mà không  tu  NĂM CĂN  là  tu  tập  sai  pháp. Người mới vào tu tập mà lo tập ngồi thiền nhập định là không biết pháp tu.

Cho  nên  bất  cứ  một  người  nào  mới đến  với  đạo  Phật  đều  phải  nghiên  cứu  Ba Mươi   Bảy   Phẩm   Trợ   Đạo.   Ba  Mươi   Bảy Pháp Môn này còn ghi chép trong kinh sách Nguyên  Thủy  được  lưu  giữ  cho  đến  ngày
nay.

Tóm lược pháp môn tu NĂM CĂN là pháp môn ĐỘC CƯ, đó là pháp để bảo vệ và hộ trì:

1- Hai con mắt

2- Hai lỗ tai

3- Hai lỗ mũi

4- Miệng

5- Thân


Muốn  bảo  vệ  giữ  gìn  NĂM CĂN  ấy được thanh  tịnh thì không nên phóng dật. Muốn tâm không phóng dật thì phải sống MỘT MÌNH. Sống MỘT MÌNH là phương pháp  tu  tập   NĂM  CĂN.  Nhờ   sống  MỘT MÌNH nên  NĂM  CĂN  không  tiếp  xúc  với các   duyên  bên   ngoài  mà  kinh  sách  Phật giáo  gọi là  NĂM TRẦN  (chỗ  này  dùng năm căn nên dùng năm trần, còn chỗ nào dùng sáu căn  mới  dùng sáu trần).  Năm  trần  gồm
có:

1- Sắc là tướng mạo hình  sắc của vạn vật  trong  vũ  trụ  như  cây   cỏ,  đất  đá,  núi sông,  các loài vật lớn hay nhỏ và con người.

2- Thinh là âm thanh,  tiếng nói, tiếng kêu,   tiếng   khóc,   tiếng   rên,   tiếng   la   hay tiếng hét v.v...

3- Hương là mùi thơm mùi thối, mùi thơm nồng nực hay mùi thối khó chịu.

4- Vị là có  mùi vị ngọt, bùi, cay, đắng, mặn, lạt.

5- Xúc là va chạm, sờ mó, rờ rẫm, xoa
bóp.


Khi  muốn  sống  MỘT  MÌNH cho được trọn vẹn thì  phải dùng pháp NHƯ  LÝ TÁC Ý thường xuyên tác ý lôi các căn vào trong thân như sau:

1- Mắt phải nhìn  vào trong thân.

2- Tai phải nghe vào trong thân.

3- Mũi phải ngửi mùi trong thân.

4- Lưỡi phải nếm vị cay, đắng, ngọt, bùi, mặn, lạt trong thân (miệng).

5-  Thân  phải  cảm   giác  nóng,  lạnh, mát mẻ, đau nhức trong thân.

Và   cuối  cùng   tác  ý:  năm  căn  không được nhìn, nghe, ngửi, nếm, cảm giác năm trần bên ngoài mà hãy quay vào nhìn,  nghe, ngửi, nếm, cảm giác trong thân.

Đó  là  cách   thức  tu  tập    để  giữ  gìn hạnh ĐỘC CƯ sống không bị phóng  tâm, phóng dật.

Nếu người nào vào tu viện mà không giữ  hạnh ĐỘC  CƯ trọn  vẹn thì  nên  xin  về để   ở trong gia đình  tu tập lại. Khi  nào sống ĐỘC  CƯ  được  thì  hãy  xin  vào  tu  viện  tu tập,  còn  chưa sống  được  độc  cư thì  nên  ở


trong gia đình  tu pháp xả tâm ly dục ly bất thiện pháp.

ĐỘC  CƯ là  pháp  phòng  hộ  năm  căn như chúng tôi đã nói ở  trên, pháp môn ĐỘC CƯ này  rất  quan trọng.  Nhận  xét  người  tu sĩ nào giữ gìn hạnh ĐỘC CƯ trọn vẹn là người tu sĩ tu tập có kết quả tốt, còn những vị  nào  phá  hạnh ĐỘC  CƯ thì  biết  ngay họ không  tu  tập  được  nên  cho họ  về  sống  đời đạo đức nhân bản - nhân quả trong gia đình còn có lợi ích cho mình  cho người hơn.

Bắt  đầu  vào  tu  pháp  môn  NGŨ  CĂN là  phải  sống  ĐỘC  CƯ nên  biết  ngay người tu được hay không tu được. Vì có  sống ĐỘC CƯ là tu tập được, còn không sống ĐỘC CƯ là  tu tập  không  được.  Ở  tu viện  phần  đông tu sĩ và cư sĩ đều rớt ở  giai đoạn đầu tu tập phòng  hộ NĂM  CĂN này.










Bài pháp thứ hai




















Ngũ lực gồm có:

1- Tín lực

2- Tấn lực

3- Niệm lực

4- Định lực

5- Tuệ lực


Khi   tu  tập  pháp  môn  NĂM CĂN  ở trên  tức  là  dùng  ý  thức  giữ  gìn  mắt,  tai, mũi,   miệng,   thân   thanh   tịnh  không   cho NĂM CĂN chạy theo năm trần thì  chúng ta đạt được năm thành quả,  đó là NGŨ LỰC. NGŨ  LỰC  là  pháp  thứ  II mà  trong  kinh sách Nguyên Thủy còn ghi lại và lưu giữ cho đến ngày nay.

Tóm   lược   pháp   tu   tập   NGŨ   LỰC, trước  tiên  chúng  ta  muốn  tu  tập  TÍN  LỰC thì  phải  hiểu  nghĩa rõ  ràng.  TÍN  LỰC  có nghĩa là lòng tin sâu sắc đối với Phật pháp không  bao giờ  thay  đổi,  lòng  tin bất  di  bất dịch dù  cho ai  chống  trái bài bác  Phật  giáo chúng  ta  cũng  không  bao giờ  nghe,  không bao giờ  thay  lòng  đổi  dạ,  chỉ  biết  tin vào pháp Phật.

Muốn có  được lòng tin như vậy thì chúng  ta  phải  sinh  ra  cùng   thời  với  đức Phật ra đời hoặc phải sinh làm người được gặp  một  bậc  tu  chứng  cũng  làm  chủ  sinh, già, bệnh, chết như Phật.

Đó   là   điều   cần   thiết   tạo nên   TÍN LỰC,  nếu  không  có  điều  kiện  này  thì  dù


muốn dù không lòng tin của chúng ta không mạnh mẽ, chỉ tin một cách cạn cợt.

Người  không  đủ  lòng  tin dù  có  tu  tập đúng pháp  của  Phật  thì  cũng  chỉ  tu tập  lấy có,  thường  phá  hạnh  độc  cư, đi  nói  chuyện người này đến người khác. Những người này hiện thân là MA BA TUẦN trong Phật giáo thường đi đến thất người này rồi đến thất người  khác  làm  cho mọi người  không  ai  tu tập được.

Khi   thấy  những  loại  MA  BA  TUẦN này  thì  quý thầy,  quý  cô nên   đóng  cửa  thất không tiếp giao, đừng ở  gần nên tránh xa, tránh xa những người này như tránh xa vi trùng bệnh truyền nhiễm.

Trong  chúng  chỉ có một con MA  BA TUẦN thì  trong chúng đó phải cẩn thận khi thấy bóng dáng con MA đó thì  nên đóng cửa thất cho chặt và ngồi thiền nhiếp tâm bất động để vượt qua loài Ma Quỷ.

Những  hành  động  tránh  xa  loài  MA BA TUẦN  là  nói  lên  lòng  tin của  mình  đối với Phật pháp không lay  chuyển, còn ngược lại những người  không  có  lòng  tin hay lòng tin chưa  đủ  thường  mở   cửa  thất  ra  tiếp


duyên.  Đó  là  những  người  thích  nói  chuyện với những loài ma này. Quý vị nên lưu ý.

Vì con đường tu theo Phật giáo không khó nhưng khó là do MA  BA TUẦN cám dỗ quý vị để  phá hạnh ĐỘC CƯ khiến cho tâm quý vị thường bị phóng dật.

Khi  có  lòng tin sâu Phật pháp thì  quý vị  rất   siêng  năng  tu  tập   không  bao  giờ biếng trễ. Khi  có lòng tin thì  mới có cố  gắng tu  tập.  Sự  cố  gắng  nỗ lực  tu  tập  hết  mình thì gọi là TẤN LỰC. Khi  hằng ngày nỗ lực nhiếp  tâm tu  tập  đúng  pháp  không  hề  sai sót một niệm nào cả, luôn luôn duy nhất có một niệm TÂM BẤT ĐỘNG từ giờ này đến giờ khác, từ đó niệm này trở thành một sức lực của niệm nên gọi là NIỆM LỰC. Khi niệm  có  lực  chúng  ta  chỉ cần niệm  là  toàn cả   thân  tâm  chúng  ta  gom lại  thành  một khối  duy nhất  không  ai  làm  gì nó bị  phân ra  được  nên  gọi  là  ĐỊNH  LỰC.  Khi   thân tâm  gom lại  thành  một  định  lực  thì  trong khối định lực đó có một   sự hiểu biết vượt ra khỏi không gian và thời gian. Sự hiểu biết không  còn  bị  lệ  thuộc  vào  không  gian  và thời gian được gọi là TUỆ LỰC. Đến đây chúng ta đã có đủ năm lực.


NGŨ LỰC này có được là do chúng ta tập NGŨ   CĂN,   khi   ngũ   căn   thanh   tịnh  thì NGŨ  LỰC  xuất  hiện  đầy  đủ.  Tuy  nói  vậy chớ trên đường tu tập NGŨ CĂN khi  tu tập một  căn nào thanh  tịnh thì  nơi căn  đó xuất hiện đầy đủ NGŨ LỰC. Cho nên NGŨ CĂN và  NGŨ  LỰC  là  những  pháp  đầu  tiên  tu theo Phật giáo, nếu chưa tu tập NGŨ CĂN, NGŨ  LỰC  mà  tu  tập  pháp  nào  cũng  mất căn bản vì vậy quý vị nên nhớ.

Có  nhiều người  bắt  đầu  tu  tập   mà không tu tập những pháp căn bản như NGŨ CĂN  và  NGŨ  LỰC  lại  tu  tập  thiền  định hoặc  niệm  Phật  nhất  tâm   cầu  vãng  sinh Cực Lạc Tây Phương hoặc tham  thoại đầu, công án hoặc niệm chú hoặc tụng kinh Pháp Hoa. Những điều tu tập như vậy chứng tỏ người  tu  tập  không  rõ  đường  đi  lối  về  của Phật  giáo.  Do tu tập  sai  pháp  như vậy  nên dù có  tu tập ngàn đời muôn kiếp cũng chẳng tu  tập  đến  đâu.  Một  bằng  chứng  hiện  giờ cho chúng  ta  biết  có  bao nhiêu  tu  sĩ  cũng như  cư sĩ  tu tập  hết  sức  nhưng  cũng  chẳng có một người nào tu làm chủ SINH,  GIÀ, BỆNH, CHẾT, vì đó là tu sai pháp không đúng  Phật  pháp.  Đọc  tiểu  sử  DANH  TĂNG


VIỆT  NAM  tập  I,  tập  II có  trên  mấy  trăm vị cao tăng Việt Nam  nhìn  lại chỉ  là những nhà học giả nhất là những vị có lối sống kỳ đặc  khác  thường  khiến  cho người  đời  tưởng là  chứng   đạo,   chớ xét  kỹ  theo  đúng  pháp của  Phật  thì  chưa có  một vị  nào  tu tập đến đâu cả. Kinh sách của các Ngài viết chỉ là kiến  giải  theo  kinh  nghiệm  bản  thân  của mình không giống chút nào của Phật dạy, nhất là lặp lại ý nghĩa kinh sách của Tổ xưa để  lại,  chỉ  là  những  lý  thuyết  suông, không có  kinh nghiệm trong tu hành làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Vì thế những kinh sách này toàn là kinh tưởng.

Khi   đọc   cuốn   DANH  TĂNG VIỆT NAM chúng tôi rất xấu hổ, là những danh tăng Việt Nam chỉ là kiến thức hữu học thế gian huân tập những kiến thức trong kinh sách  Đại  Thừa  của  các học  giả  Trung  Hoa, chớ   Kinh   sách   Phật   giáo   của   Việt   Nam chẳng có cuốn sách nào cả. Ngay cả dòng Thiền lớn nhất của Việt Nam TRÚC LÂM YÊN TỬ cũng  chịu ảnh  hưởng  THIỀN TÔNG và TỊNH ĐỘ TÔNG Trung  Hoa. Việc khéo léo thiện xảo của vua Trần Nhân Tông biết  hợp  hai  giáo  pháp  của  hai  tông  phái


lớn nhất của Trung Quốc này lại lập thành pháp môn tu hành cho dòng thiền TRÚC LÂM Việt Nam. Có những người không hiểu biết mới hãnh diện cho rằng Việt Nam cũng có   dòng  thiền  không  thua  vì  Trung  Quốc, chớ kỳ thật Thiền Tông Việt Nam, THIỀN chẳng  ra  THIỀN  mà  TỊNH  thì   chẳng  ra TỊNH.

THIỀN  gì  mà  còn  tụng niệm  (Tâm kinh  bát  nhã).  TỊNH  gì mà  còn  tham  công án,  tham  thoại đầu,  biết  vọng liền  buông. Có lẽ đây là THIỀN  TỊNH song tu, THIỀN TỊNH  song tu  đó  là  lời  nói  che đậy  sự  tu hành  của  THIỀN  TÔNG  VIỆT  NAM  bị  bế
tắc.

Đọc hết kinh sách Phật giáo và Thiền Tông Việt Nam chúng tôi chẳng thấy có  một cuốn  sách  nào  là  của  Việt  Nam  cả  toàn  là lai căng ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo và Thiền Tông Trung Quốc.

Tại sao một dân tộc Việt Nam có  một nền  văn  hóa  riêng  biệt  không  thua  vì  văn hóa các nước trên thế giới, thế mà bị ảnh hưởng   Phật   giáo   Trung   Quốc   rất   nặng không tự mình  vươn lên xây dựng cho mình


một   nền  văn  hóa   đạo  đức  Phật  giáo  mà không  chịu ảnh  hưởng  Phật  giáo  Ấn  Độ  và Trung Quốc và bất cứ một nước nào mang Phật giáo đến với đất nước chúng ta.

Đọc lịch sử Phật giáo Việt Nam chúng ta  thấy  rất   rõ  Phật  giáo  truyền  vào  Việt Nam đi vào ba ngõ:

1- Ngõ thứ nhất  từ Trung Hoa đến.

2- Ngõ thứ hai từ Ấn Độ sang.

3- Ngõ thứ ba từ Lào, Thái Lan và
Campuchia sang.

Từ  Trung  Hoa  truyền  đến  Việt  Nam có hai dòng tư tưởng Phật giáo:

Dòng tư tưởng thứ nhất, đó là Phật giáo  Tịnh Độ  Tông  do ảnh  hưởng  Nho  giáo nên dòng tư tưởng mang tính chất mê tín hoang đường lạc hậu thường hướng dẫn giới bình dân vì giới này dễ tin.

Như chúng ta ai cũng biết Phật giáo Tịnh Độ  Tông  từ  Trung  Quốc  truyền  sang Việt  Nam  là  dòng  tư  tưởng  mê  tín. Đó  là một Phật giáo  không còn nguyên chất  Phật giáo Ấn Độ, nó chịu ảnh hưởng tư tưởng Khổng giáo, Trang  Tử  Trung  Quốc, mà sinh


ra   một   loại   Phật   giáo   mê   tín,  lạc   hậu thường lấy sự cúng bái, tụng niệm làm công phu tu hành của mình.  Cho nên khi  có bệnh tật hay tai  nạn thì  tụng kinh cầu an, nếu có người chết làm ma chay thì  tụng niệm kinh cầu    siêu.   Khi   tụng   niệm   kinh   cầu    siêu thường đánh chuông, khỏ mõ, và trống kèn, đàn nhạc theo giọng tụng kinh niệm Phật ê, a  giống  như  ca  hát  mà  các   nhạc  sư  gọi NHẠC ĐẠO.

Chính  vì muốn ru hồn người vào cảnh mộng   nên   các  nhà  sư  Đại  Thừa  mới  xây dựng một  thế  giới  siêu  hình  Cực  Lạc  Tây Phương để linh hồn người chết có chỗ  nương tựa. Cho nên lấy sự cúng bái tụng niệm làm đường công phu: Trưa, chiều, tối khuya, chuông,  mõ, trống, phách, đẩu nhịp nhàng theo giọng tụng niệm cao thấp ngâm nga giống như hát bộ.

PHẬT GIÁO  TỊNH  ĐỘ  TÔNG  từ Trung  Hoa truyền  sang qua Việt  Nam  gây ảnh hưởng  tư tưởng  mê  tín rất nặng cho cả một dân tộc Việt Nam cho đến ngày nay đã trở  thành  một  nếp  sống  tư  tưởng  văn  hóa mê tín lạc hậu.


Cho  nên   hiện   giờ   muốn   bỏ  một    truyền thống văn hóa  mê tín không phải dễ. Đó là một   việc   làm   hết   sức   khó   khăn.   Trong những  năm  phong  trào  Việt  Minh nổi  dậy ra  lệnh  cấm dẹp  những  mê  tín này  nhưng khi  phong trào  Việt  Minh thay  đổi  thì  nạn mê  tín lại tràn lan  khắp nơi  còn nhiều  hơn
nữa.

Theo chúng tôi  nghĩ muốn  dẹp trừ  tư tưởng Phật giáo mê tín thì  không có  gì bằng là nên mở những  lớp học đạo đức nhân bản
- nhân quả   khiến mọi người am hiểu đâu là chánh tín và đâu là  mê tín. Nhờ   có sự  hiểu biết Chánh tín của Phật giáo thì  tệ nạn mê tín trong  dân  gian  sẽ  dần  dần  được  quét sạch.  Nói  về  tư  tưởng  mê  tín được  truyền thừa  lâu  đời  thì  không  có một   thế  lực  hay một  quyền  uy  nào  mà  cấm  được,  chỉ   có  ý thức con người biết nó là mê tín thì  mới dẹp bỏ được. Dòng tư tưởng mê tín này đã trở thành  một  nền  văn  hóa  của  dân  tộc  Việt Nam. Cho nên hiện giờ muốn dẹp bỏ  những mê  tín lạc  hậu  này  thì  bắt  đầu  phải  biên soạn  sách  giáo  khoa  đạo  đức  nhân  bản  - nhân  quả  từ  tiểu  học, trung  học  và  đại  học


để  giúp  các  em am tường  những  mê  tín lạc hậu đó từ đất nước Trung Quốc truyền sang.

Dân tộc  Việt Nam  đã chịu ảnh hưởng dòng tư tưởng văn hóa của Phật giáo mê tín Trung Quốc truyền sang mà đến giờ này muốn bỏ mà chưa bỏ được, nhìn cảnh đồng bào dân tộc chúng ta đã hao tốn biết bao nhiêu tiền  bạc  mua  vàng  mã  để   rồi  đem thiêu đốt, nếu hằng năm trong cả nước tính ra  phải  tiêu  phí  có  hằng  tỷ  bạc  về  vấn  đề mê tín lạc hậu này thật là đau lòng.

Dòng  tư  tưởng   thứ   hai  đó  là   Phật Thiền  Tông  chịu ảnh  hưởng  tư  tưởng  Lão giáo nên dòng tư tưởng này mang tính triết lý hướng dẫn  giới  trí thức nên thường dùng lý  luận  đề   cao triết  học TÁNH KHÔNG, nhờ  triết  học tánh không  nên   dễ  thu  hút giới tri thức.

Phật giáo THIỀN TÔNG lấy lý luận dẫn chứng khoa học làm chỗ  dựa vững chắc nên  dễ lừa gạt giới trí thức một cách dễ dàng,  nhất  là  khi   truyền  sang  qua  Nhật Bổn  được  người  Nhật  triển  khai  tận  cùng loại tư tưởng Phật giáo này.


Đại  diện  cho Phật  giáo  Thiền  Tông  Nhật Bổn có  đại sư SUZUKI, ông đã viết sách thiền làm nổi sóng  các nước Đông Nam Á Châu.  Từ năm 1970 đến năm 1980 người ta hướng về Thiền Tông như làn sóng ào ạt, nhưng từ năm 1980 đến nay làn sóng thiền Tông mới  lần  lần xuống cấp.  Bởi vì THIỀN TÔNG lý luật rất hay nhưng tu chứng đạo thiền thì  không ai tu tập được. Có đạt  được cũng  chỉ  lọt  vào  trạng  thái  KHÔNG TƯỞNG.

Qua mọi sự  kiện  trên  chúng  ta  nên lưu  ý  pháp  môn  nào  tu  tập  được  và  pháp môn nào tu tập không được. Mục đích tu tập của Phật giáo không phải diệt ý thức. Vì ý thức vốn là điều kiện cần thiết cho sự làm chủ  thân  tâm  nên  đức  Phật  Thích  Ca Mâu Ni  dạy: “Ý làm chủ,  ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp”.  Nếu ý  thức  bị ức  chế  như   Tịnh  Độ Tông, Thiền Tông và Mật Tông thì  đó  là tu tập sai pháp của  Phật giáo.  Phật giáo lấy ý thức  dẫn  tâm  vào  đạo.  Cho  nên  đạo  Phật mới  có  pháp  môn  NHƯ  LÝ  TÁC  Ý   như  lời đức Phật đã dạy trong kinh LẬU HOẶC: “CÓ  NHƯ   LÝ  TÁC   Ý    LẬU  HOẶC  CHƯA SINH  SẼ KHÔNG SINH  MÀ ĐÃ SINH  THÌ


BỊ DIỆT”.  Câu này  dạy  quá  rõ ràng, nhờ đó chúng ta mới  biết Phật giáo  Thiền Tông và Phật  giáo  Tịnh Độ Tông Trung  Quốc không phải  là  Phật  dạy  mà  do các  tổ  Trung  Quốc tu hành chưa tới nơi tới chốn rồi kiến giải viết ra kinh sách theo kinh nghiệm tu tập của mình.
Khi   văn   hóa   Phật   giáo   từ   Ấn   Độ truyền sang thì  người Trung  Quốc mượn nền văn hóa  đó khéo tự chế biến thành một nền văn  hóa  Phật  giáo  Trung  Quốc  làm  dồi  dào cho văn  hóa  đất  nước  mình,  thật  là  tuyệt vời.

- Ngõ thứ hai từ Ấn Độ Phật giáo truyền   sang  vào   miền   Bắc   đất   nước   ta, nhưng dân tộc Việt Nam đã chịu  ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc nên họ không theo, vì thế  các nhà sư Ấn Độ trở về nước. Do những điều kiện này mà di tích văn hóa Phật giáo Ấn  Độ  không  có   lưu  lại  đền  tháp  chùa  ở miền Bắc Việt Nam.

- Ngõ thứ ba Phật giáo Nam Tông từ Lào,  Thái  Lan,  Campuchia  truyền  sang, vì thế   mà  những   tỉnh  sát  ranh   giới Camphuchia,  Lào  có  một    số  người  theo  tu


tập, nhưng phần đông họ là người Việt lai Campuchia, chớ người Việt chính gốc thì không theo.

Như vậy chúng ta thấy rất  rõ dân tộc Việt  Nam  chịu ảnh  hưởng  văn  hóa   Phật giáo Trung  Quốc rất sâu nặng, không thể có một tư tưởng Phật giáo nào làm thay  đổi tư tưởng họ được.

Như  chúng  ta  ai  cũng  biết,  nếu  dựa theo dòng lịch sử Phật giáo truyền sang qua đất  nước  chúng ta  thì Phật  giáo  không  còn là của Phật giáo chính gốc nữa mà là một Phật  giáo  lai  căng.  Phật  giáo  lai  căng  là một loại Phật giáo tu hành uổng công vô ích vì  tu  hành  chẳng  đến  đâu  cả   mà  còn  làm hao tốn tiền của một cách vô ích...

Phật giáo hiện giờ là Phật giáo Bà La Môn  giáo,  cho nên  không  ai  tu  chứng  làm chủ  sinh,  già,  bệnh,  chết  được,  nếu  chúng tôi không ra công dựng lại Chánh pháp của Phật, chắc không còn ai biết Phật giáo chân chánh gì nữa.

Cho nên nói NGŨ LỰC mà nhận ra đúng Chánh   pháp  của  Phật  thì  tu  tập  lần lượt  xuất  hiện  đủ  NĂM  LỰC,  còn  nhận  ra


không  đúng Chánh  pháp  của  Phật  thì  khó có NĂM LỰC được. Tại sao vậy?

Vì lòng tin phải đặt đúng chánh Pháp của  Phật  thì  siêng  năng  tu  tập  mới  có  kết quả  tốt  đẹp,  còn  không  đúng  chánh   pháp của  Phật  thì  tu  tập  không  bao giờ  có   kết quả nên  dù có  siêng năng cũng  chỉ một  thời gian  mà  thôi.  Chính  siêng  năng  là  nhờ  tu tập  có kết quả, còn tu tập không kết quả thì không sao siêng năng được. Phải không quý
vị?

Khi  tu tập siêng năng đúng pháp thì NIỆM LỰC hiện tiền mà niệm lực hiện tiền từ  giờ  này  sang giờ  khác  thì  đó   là  ĐỊNH LỰC.  Khi  định lực  ngự trị  trong tâm chúng ta  suốt  bảy  ngày  đêm  thì   tâm  rất  thanh tịnh, giống  như nước  hồ  trong  xanh,  vì thế tất  cả mọi sự  việc  trong  quá  khứ  hay tương lai  khi  chúng  ta  muốn  biết  thì  chúng  hiện ra  rất  rõ.  Do  đó  mà  danh  từ  trong  kinh Phật gọi đó là TUỆ LỰC.

Tới đây con đường tu tập của chúng ta đã hoàn mãn tâm luôn luôn BẤT ĐỘNG. Do sự  bất  động  này  mà người  tu hành làm  chủ sự sống chết dễ như trở bàn tay.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!