Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

ba mươi bảy phẩm trợ đạo 2


Tuy Ba Mươi Bảy phẩm Trợ đạo mà không  phải  tu  tuần  tự  theo  pháp  mà  nên chọn pháp  nào  phù  hợp với  đặc  tướng  của mình  mà  tu  tập  thì  chứng  đạo  ở  pháp  đó chớ không phải tu hết cả  Ba Mươi Bảy Pháp
Môn.

Cho nên khi vào tu tập chúng ta nên chọn pháp  phòng   hộ sáu  căn  rồi  lấy  CHÂN LÝ  DIỆT  ĐẾ,  ôm  chặt  pháp  NGŨ  LỰC  tu tập  đến  khi TUỆ  LỰC  xuất  hiện  thì  chúng ta thành công.

Nếu chúng  ta không  chọn pháp  NGŨ CĂN và NGŨ  LỰC tu tập thì  chúng ta nên chọn pháp  môn  TỨ  VÔ  LƯỢNG   TÂM đây là pháp thứ ba của Phật giáo trong 37 pháp tu tập.










Bài pháp thứ            ba



















Tứ Vô  Lượng Tâm gồm có:

1- Từ Vô Lượng Tâm

2- Bi Vô Lượng Tâm

3- Hỷ Vô Lượng Tâm

4- Xả Vô Lượng Tâm


Trên đây  là  bốn  pháp,  Tứ  Vô  Lượng Tâm là pháp thứ ba của Phật giáo trong Ba Mươi  Bảy  Phẩm  Trợ Đạo.  Khi   tu  tập  bốn pháp này giúp cho tâm chúng ta mở rộng LÒNG YÊU THƯƠNG  đến với muôn loài. Nhờ LÒNG YÊU THƯƠNG  ấy mà không có một ác pháp nào tác động vào thân tâm chúng ta được, tức là chúng ta biết buông xả mọi ác  pháp  bằng  LÒNG  THƯƠNG   YÊU. Cho  nên  gọi  nó   là  TỨ  VÔ   LƯỢNG   TÂM nghĩa là  pháp  môn  dạy  chúng  ta  mở  rộng lòng thương yêu rộng lớn như đất trời.

TỨ   VÔ   LƯỢNG  TÂM chỉ   có   Phật giáo  mới  có   mà  thôi,  nó  còn  ghi  lại  trong kinh sách Nguyên Thủy cho đến ngày nay. Nếu  quý  vị  không  đủ  lòng  tin thì  hãy  tìm ngay  kinh  tạng Pali  do Hòa  Thượng  Minh Châu dịch.

Bắt đầu  tu  tập  TỨ  VÔ  LƯỢNG TÂM thì  nên tu tập tâm từ. TỪ VÔ LƯỢNG TÂM có  nghĩa là LÒNG  YÊU THƯƠNG  rộng lớn như  đất  trời  phủ  trùm  vạn  vật  không  chỗ nào là không có LÒNG THƯƠNG  YÊU ấy.

LÒNG  YÊU  THƯƠNG   ấy  không  có một  vật  gì  mà  không  thương  yêu,  thương


yêu từ cây   cỏ đất đá núi sông, từ không khí ánh sáng mặt trời mặt trăng, các tinh tú ngày đêm đều thương yêu cả.

TỪ   VÔ   LƯỢNG  TÂM có    nghĩa  là LÒNG YÊU THƯƠNG  tất  cả muôn loài còn đang sống, còn đang hít  thở không khí,  còn đang hoạt động, rung động theo không gian và thời gian.

Người  tu  tập   lòng  TỪ  VÔ  LƯỢNG TÂM là  người  tu  tập   Chánh Niệm  Tĩnh Giác, nhờ có TĨNH GIÁC nên chúng  ta mới thực hiện TỪ VÔ LƯỢNG TÂM, nhờ   có TỪ TÂM   VÔ LƯỢNG chúng  ta  mới  buông  xả tất  cả ác pháp một cách dễ dàng.

Khi   thực   hiền   được   TỪ   TÂM VÔ LƯỢNG thì  đồng thời là BI  TÂM VÔ LƯỢNG, HỶ TÂM VÔ LƯỢNG và XẢ TÂM VÔ LƯỢNG cũng xuất hiện một lượt.

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM tuy nói là bốn pháp, nhưng chỉ tu tập thành tựu một pháp là ba pháp kia đều xuất hiện đủ. Đây gọi là một  chùm  pháp,  chúng  ta  nên   chọn một trong bốn pháp này, pháp nào mà mình ưa thích   nhất  là  pháp  đó   đúng  đặc  tính của mình.


Nếu chúng ta có duyên với pháp môn TỪ  VÔ  LƯỢNG TÂM  thì  tu  tập  rất  thích thú và kết quả tu tập đâu là đạt được ngay liền.  Còn  nếu  chúng ta tu tập  mà  không  có kết  quả  tức  là  chúng  không  có   duyên  với pháp  môn  này  thì  chúng  ta  nên  thay  đổi pháp  tu  tập.  Chúng  ta  nên  chuyển  qua tu tập pháp môn NIỆM PHẬT TỨ BẤT  HOẠI TỊNH. NIỆM PHẬT TỨ BẤT HOẠI TỊNH. là  pháp  thứ  tư  trong  ba mươi  bảy  pháp  tu tập của Phật giáo.

Pháp  môn   NIỆM  PHẬT TỨ  BẤT HOẠI TỊNH là một pháp môn mà người ta lầm tưởng là pháp môn Tịnh Độ, Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn niệm danh hiệu Phật Di  Đà,  dùng  câu Di  Đà  ức  chế  ý  thức  để tưởng thức xuất hiện hoạt động, nên trong kinh Di Đà dạy: “Thất nhật nhất tâm bất loạn  chuyên  trì danh  hiệu  A Di  Đà  dữ chư thánh  chúng hiện  tại  kỳ  tiền”.  Câu này  có  nghĩa là  niệm Phật  Di  Đà  bảy  ngày đêm  tâm  không  loạn  thì  sẽ  thấy  cảnh  giới Cực Lạc Tây Phương và Thánh chúng. Khi chúng ta ức chế ý thức không hoạt động thì liền   ngay  đó    tưởng   thức   hoạt   động,   khi tưởng  thức  hoạt  động  thì  một  thế  giới  ảo


xuất  hiện  như  cảnh  giới  trong  giấc  chiêm bao.










Bài pháp thứ            tư









 









1- Niệm Phật

2- Niệm Pháp

3- Niệm Tăng

4- Niệm Giới

Trên đây  là  BỐN  pháp,  pháp  thứ  tư của Phật giáo theo lời dạy của Phật còn ghi


lại trong kinh sách Nguyên Thủy. Bốn pháp niệm Phật này không giống pháp môn niệm Phật trong kinh sách Đại Thừa. Bốn pháp môn niệm Phật  này  dạy  chúng ta sống như Phật, sống như các pháp, sống như chúng thánh Tăng đệ tử của Phật và sống như giới
luật.

Chữ niệm ở   đây không có  nghĩa là niệm lầm thầm trong miệng mà chữ niệm ở đây có  nghĩa là bắt chước, làm theo từng hành động  cho đúng  những  oai  nghi  chánh hạnh của những bậc chân tu.

Trong  bốn pháp môn này cũng là một chùm  pháp,  nếu  chúng   ta  chỉ  cần   tu  một pháp  trong  bốn  pháp  này  thì  cũng  thành tựu luôn cả bốn  pháp kia, vì một pháp là cả bốn pháp.
Ví dụ: Tu tập pháp thứ nhất là NIỆM PHẬT trong   pháp   môn   TỨ   BẤT   HOẠI TỊNH   thì   cũng   giống   như  tu  tập   NIỆM PHÁP, NIỆM TĂNG và NIỆM GIỚI. Cho nên  tuy  nói  là  bốn  pháp,  có  bốn   tên  khác nhau  nhưng  khi   thực  hành  thì   trong  bốn pháp này không khác nhau. NIỆM PHẬT cũng giống như NIỆM PHÁP, NIỆM PHÁP cũng giống như NIỆM TĂNG, NIỆM TĂNG


cũng  giống  như  NIỆM  GIỚI,  vì  Phật  sống như   PHÁP, như   GIỚI   và   như   CHÚNG THÁNH TĂNG.  Cho nên  người  sống  giống như Phật là người sống không sai PHÁP, người sống không sai PHÁP là người sống không  sai  khác  CHÚNG  THÁNH TĂNG; sống  không sai khác CHÚNG THÁNH TĂNG là sống đúng GIỚI LUẬT.
Muốn tu tập pháp môn NIỆM PHẬT TỨ BẤT HOẠI TỊNH thì chỉ tu một pháp môn NIỆM PHẬT mà thành tựu bốn pháp: niệm   PHẬT, niệm   PHÁP, niệm   TĂNG, niệm GIỚI.
Khi   tu   tập   NIỆM   PHẬT TỨ   BẤT HOẠI  không  hợp với  đặc  tướng  của  mình nên thường bị niệm vọng tưởng khởi hay bị hôn trầm, thùy miên, vô ký và ngoan không tấn công thì  chúng ta nên thay  đổi pháp tu tập.  Thay  đổi  pháp  tu  tập  thì  chúng  ta  tu tập ngay pháp môn TỨ CHÁNH CẦN.
Tuy  pháp  môn  TỨ  CHÁNH  CẦN  có  bốn pháp tu tập, nhưng kỳ thực chỉ tu tập một pháp mà thôi.
Dưới đây là pháp môn tu tập TỨ CHÁNH CẦN. Pháp môn TỨ CHÁNH CẦN


là  pháp  thứ  năm  trong  Ba Mươi  Bảy  Phẩm
Trợ Đạo của Phật giáo.










Bài pháp thứ            năm



















Tứ Chánh  Cần gồm có:

1- Ngăn ác pháp

2- Diệt ác pháp

3- Sinh thiện pháp

4- Tăng trưởng thiện pháp


Trên đây là bốn pháp tu tập của pháp môn TỨ CHÁNH CẦN. Pháp môn TỨ CHÁNH CẦN là pháp  môn thứ năm của Phật giáo theo lời dạy của đức Phật còn ghi lại trong kinh sách Nguyên Thủy.

Bốn pháp này rất quan trọng trong sự tu tập theo Phật giáo. Đây là một phương pháp giúp cho người tu sĩ Phật giáo hằng ngày sống trong thiện pháp, sống trong tâm BẤT ĐỘNG.

Ai  cũng  biết  mục  đích  của  Phật  giáo là sống trong tâm BẤT ĐỘNG. Muốn tâm BẤT ĐỘNG thì  hằng giây, hằng phút, hằng giờ,   hằng   ngày   phải   siêng   năng   tu   tập NGĂN ÁC, ngăn ác pháp tức là ngăn từng tâm  niệm  THAM, SÂN,  SI,  MẠN,  NGHI. Khi   có  niệm  khởi  lên  trong  tâm  thì   hãy mau mau dùng  pháp  NHƯ  LÝ TÁC  Ý      làm cho niệm đó  dừng  lại  và  tan  biến  mất.  Khi niệm đó  dừng lại và tan  biến mất thì  để  lại một khoảng thời gian ngắn trong tâm BẤT ĐỘNG  rồi  có  niệm  khác  khởi  lên,  khi   có niệm khác khởi lên như vậy thì  chúng ta lại tác  ý  ngăn  chặn  niệm ấy  thì  niệm ấy  dừng lại  và  tan  biến  mất,  lúc  bấy  giờ  để  lại  cho


tâm chúng  ta BẤT  ĐỘNG  một  khoảng  thời gian ngắn nữa.

Hằng ngày  chúng  ta  chỉ  cần   tu  tập một  pháp  NGĂN  ÁC  là  có   đủ  bốn   pháp DIỆT ÁC, SINH  THIỆN, TĂNG TRƯỞNG THIỆN PHÁP. Cho nên tu tập TỨ CHÁNH CẦN  không  phải  tu cả bốn   pháp  mà  chỉ  tu tập một pháp mà thôi.

Khi  vào tu tập chúng ta nên lấy pháp môn  đầu  tiên  của  TỨ  CHÁNH  CẦN  mà  tu tập  đó là pháp môn NGĂN ÁC.

NGĂN ÁC tức là ngăn các  niệm khởi, nhưng  trong  tâm  chúng  ta  có   niệm  thiện khởi thì  chúng ta phải làm sao?

Dù niệm đó thiện nhưng vì tâm chúng ta chưa ly dục  ly ác  pháp  hết nên  thiện  đó vẫn còn là ác pháp chớ không phải là thiện pháp thật sự.

Hiện giờ trong tâm chúng ta có một niệm thiện duy nhất đó là niệm thiện tâm BẤT ĐỘNG. Cho nên trong pháp môn TỨ CHÁNH CẦN dạy SINH  THIỆN TĂNG TRƯỞNG  THIỆN, tức  là  niệm  thiện  TÂM BẤT  ĐỘNG,  niệm  này  thì  không  nên  diệt mà   phải   tăng trưởng   sống   cho  được   với


TÂM BẤT   ĐỘNG   này,   còn   tất    cả  niệm thiện  khác  đều  diệt  sạch.  Nhưng  khi  tâm khởi  ra  niệm  thì  phải  mau  mau  đình  chỉ không cho chúng hoạt động, do ngăn các niệm khởi nên tâm sẽ BẤT ĐỘNG.

Tâm  sẽ  BẤT  ĐỘNG  là  chúng  ta  đã đạt được mục  đích giải thoát của  Phật giáo. Vì  thế  chúng  ta  chỉ  cần  tu  một  pháp  mà thôi, pháp NGĂN ÁC là đủ rồi. Cho nên nói tu tập TỨ  CHÁNH  CẦN  chớ  thực  ra chỉ  có tu tập pháp NGĂN ÁC. Pháp NGĂN ÁC là pháp đầu tiên trong bốn pháp của pháp môn TỨ  CHÁNH  CẦN.  Xin  quý  vị  lưu  ý  trong khi  tu tập pháp môn này.

Con đường tu tập theo Phật giáo nếu không  tu  tập  pháp  môn  TỨ  CHÁNH  CẦN thì  không bao giờ tu tập pháp nào có giải thoát cả, vì pháp môn TỨ CHÁNH CẦN rất quan  trọng,  nó  là  đệ   nhất  pháp  XẢ  TÂM của  Phật  giáo.  Cho nên những  ai  không  tu tập TỨ CHÁNH CẦN mà tu tập các pháp môn khác là không biết đường lối tu tập của Phật giáo. Không biết đường lối của Phật giáo  mà  tu  tập  thì  tu  tập  sai  làm  mất  căn bản con đường tu tập của mình.


Pháp môn TỨ CHÁNH CẦN như đội quân tiền phong luôn luôn đi trước khai sơn phá thạch để cho cả một quân đoàn thiện chiến  tiến  sâu  vào  căn  cứ  giặc,  nhờ  đó  nó mới  san bằng những  căn cứ  của  giặc  để  TỨ NIỆM  XỨ  đến  thành  lập  chánh  quyền  cai
trị.

Cho  nên những  ai  tu  tập  pháp  môn TỨ NIỆM XỨ mà chưa tu tập pháp môn TỨ CHÁNH  CẦN  là  không  biết  đường  lối  tu tập. Tu như vậy là sai, chẳng bao giờ có  giải thoát, vì  tu  lộn  ngược  pháp,  pháp  trước  ra sau pháp sau ra trước.

Xin  lưu ý quý vị pháp môn  TỨ CHÁNH  CẦN  bao  giờ  cũng   tu  tập   trước pháp môn TỨ NIỆM XỨ.










Bài pháp thứ            sáu



















Tứ Niệm Xứ gồm có:

1- Quán thân trên thân

2- Quán thọ trên thọ

3- Quán tâm trên tâm

4- Quán pháp trên pháp


Pháp môn TỨ NIỆM XỨ  là một pháp môn tu tập để chứng đạo, pháp môn này là một pháp môn rất quan trọng cho sự chứng đạo,  nếu ai  không  tu  tập pháp  môn này  thì không bao giờ chứng đạo, cho nên chúng ta cần  phải  thông  suốt  đường  lối  tu  tập  như thế nào đúng và như thế nào sai.

Một  lần  nữa  chúng  tôi  xin  nhắc  quý vị: phải tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN rồi sau mới tu tập đến pháp môn TỨ NIỆM XỨ, nếu không biết thì  đừng tu tập mà có tu tập thì  chỉ uổng công mà thôi.

Đừng nghe nói pháp môn TỨ NIỆM XỨ  mà  ham  tu  cao. Pháp  môn  TỨ  NIỆM XỨ dành  cho những  bậc  giới  luật  nghiêm túc,   dành   cho  những   bậc   tâm   đã   BẤT ĐỘNG  trước  các  ác  pháp  và  các  cảm   thọ, chớ không phải pháp môn này ai cũng muốn tu tập là  tu tập được. Nếu  quý vị  tu tập mà không  biết  khả  năng  trình độ  của  mình  thì đó  là  tu  tập  sai  pháp  xin  quý  vị  cần  quan
tâm.

Dưới đây là pháp môn TỨ NIỆM XỨ, một pháp môn dành cho những người  đã tu


tập   xong  NGŨ   CĂN,   NGỮ   LỰC   và   TỨ CHÁNH CẦN.

TỨ  NIỆM  XỨ  là  pháp  môn  thứ  sáu của Phật giáo theo lời dạy của đức Phật còn ghi lại trong kinh sách Nguyên Thủy. TỨ NIỆM XỨ theo BÁT CHÁNH ĐẠO thì  nó là CHÁNH NIỆM. Vậy trạng thái CHÁNH NIỆM như thế nào?

Trạng  thái   CHÁNH   NIỆM   là   một trạng  thái  tâm  BẤT  ĐỘNG,  THANH THẢN, AN  LẠC,  VÔ  SỰ,  tâm  luôn  luôn tỉnh giác trên bốn chỗ THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP. Cho nên TỨ NIỆM XỨ gọi là TRÊN THÂN QUÁN  THÂN. Tuy  nói   rằng trên thân   quán   thân   nhưng   sự   thật   là   trên THÂN quán   cả bốn  chỗ THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP.

Tuy  nói  bốn  pháp  chớ  khi  tu  tập  chỉ có  tu tập một pháp TRÊN THÂN QUÁN THÂN mà thôi.

Pháp môn TỨ NIỆM XỨ là pháp môn nhiếp tâm BẤT ĐỘNG cuối cùng của Phật giáo,  vì  chính  người  tu  tập  sống  được  với tâm BẤT ĐỘNG là đã chứng đạo. Ở đây không  còn  tu pháp  môn nào  khác  nữa.  Cho


nên pháp môn TỨ NIỆM XỨ được xem là pháp môn tu tập cuối cùng của Phật giáo gọi là CHÁNH NIỆM. Nơi đây tất  cả năng lực làm chủ thân tâm sẽ được xuất hiện trên mảnh   đất   BẤT   ĐỘNG.   BẢY   GIÁC   CHI cũng xuất hiện đầy đủ trên tâm BẤT ĐỘNG này. Vì thế quý vị đừng vội vàng tu tập TỨ NIỆM XỨ mà nên xét lại tâm mình  đã BẤT ĐỘNG  chưa, nếu  tâm  BẤT  ĐỘNG  thì  mới tu tập  TỨ  NIỆM  XỨ,  còn  chưa thì  nên  trở lại tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN.


 

Bài pháp thứ            bảy



1-  Niệm Giác Chi

2- Tinh  Tấn Giác Chi

3- Khinh An Giác Chi

4- Hỷ Giác Chi

5- Định Giác Chi


6- Xả Giác Chi

7- Trạch pháp Giác Chi

Trên đây là BẢY pháp, pháp thứ bảy của Phật giáo theo lời dạy của đức Phật còn ghi lại trong kinh sách Nguyên Thủy.

Khi  chúng ta tu tập tác ý tâm BẤT ĐỘNG  mà  chỉ  còn  có một   tâm   BẤT  ĐỘNG từ giờ này đến giờ khác mà không có một niệm nào xen vào chỗ tâm BẤT ĐỘNG là chúng  ta  đã  đạt  được  NIỆM  GIÁC  CHI. NIỆM  GIÁC  CHI   tức  là  tâm  BẤT  ĐỘNG trên TỨ NIỆM XỨ (trên thân quán thân).

Lúc   nào   chúng   ta  cũng   thấy   siêng năng   trong   trạng   thái   thân   tâm    BẤT ĐỘNG trên TỨ NIỆM XỨ thì đó là TINH TẤN GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái TINH TẤN  GIÁC  CHI  xuất  hiện  tâm  BẤT ĐỘNG, AN LẠC, NHẸ NHÀNG thì  đó  là KHINH  AN   GIÁC   CHI   xuất   hiện.   Trên trạng thái KHINH AN, GIÁC CHI có một niềm  vui  hoan hỷ  thì  đó  là  HỶ  GIÁC  CHI xuất  hiện.  Trên trạng  thái  HỶ  GIÁC  CHI kéo dài từ ngày này sang ngày khác mà không  mất  trạng  thái  này  là  ĐỊNH  GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái ĐỊNH GIÁC


CHI này kéo dài mãi suốt bảy ngày đêm, không có  một niệm nào xen vô xen ra thì  đó là XẢ GIÁC CHI. Khi  XẢ GIÁC CHI xuất hiện  thì  tâm  ly dục  ly ác  pháp  hoàn  toàn, lúc bấy giờ tâm không còn ngũ triền cái và bảy kiết sử nữa. Khi  NGŨ TRIỀN CÁI và THẤT KIẾT  SỬ  bị  diệt  trừ   tận   gốc  thì TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện. Khi TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện thì  tâm chúng ta đầy đủ TỨ NHƯ  Ý  TÚC.










Bài pháp thứ            tám



















1- Định Như Ý  Túc

2- Tinh  Tấn Như Ý  Túc

3- Tuệ Như Ý Túc

4- Dục  Như Ý  Túc

Trên đây  là  BỐN   pháp,  pháp  môn này  là  pháp  môn  thứ  tám  của  Phật  giáo


theo lời  dạy  của  đức  Phật  còn  ghi  lại  trong kinh Nguyên Thủy.

Tổng  cộng  lại  tất  cả  các  pháp  tu  tập của đạo Phật chúng ta có  đúng là BA MƯƠI BẢY PHÁP MÔN, ngoài ba mươi bảy pháp môn này, để thực hiện trọn đủ trong chương trình  BÁT   CHÁNH   ĐẠO   thì  không   còn pháp môn nào khác nữa, xin quý vị lưu ý đừng để giáo pháp ngoại đạo lừa đảo.

Đạo Phật chỉ  có ba mươi bảy môn tu tập  này  mà  thôi  nó  không  còn  một  pháp môn  nào  khác  nữa.  Nếu  còn  có   pháp  môn nào ngoài ba mươi bảy pháp pháp môn này thì  đó là pháp môn của ngoại đạo.

Bởi vậy  Phật  giáo  có  pháp  môn riêng của  Phật  giáo  mà  ngoại  đạo  không  bao giờ có những pháp môn ấy, cho nên ngoại đạo không  thể  nào  mạo  nhận  pháp  môn  của mình  là pháp môn của Phật giáo được. Kinh sách Đại Thừa và kinh sách Thiền Tông muốn mạo nhận những kinh sách này là của Phật thuyết nhưng không làm sao được nên Đại   Thừa   và   Thiền   Tông   mới   nghĩ  ra phương cách  gạt  tín đồ  bằng cách  dựng  lên những  trang thiền  sử  có  33 vị  Tổ  sư thiền


Ấn Độ và Trung Quốc. Kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông làm trái ngược lại với lời di chúc của đức Phật trước khi  nhập Niết Bàn: “Này  các  thầy  tỳ  kheo, sau khi  Ta  nhập diệt   các   thầy   tỳ   kheo   hãy   lấy   GIỚI LUẬT và Giáo Pháp (TỨ NIỆM XỨ) của Ta làm thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc,   không   nương   tựa   một   điều   gì khác,  đừng  lấy  ai làm  thầy  cả”.   Kinh sách  phát  triển  làm  sao gạt  được  khi  kinh sách nguyên thủy còn ghi  lại lời di chúc đó. Ba mươi bảy pháp môn của Phật còn kia thì bộ mặt dối trá bị lật tẩy quý vị có  thấy không?

Quý vị cũng biết kinh sách phát triển Đại  Thừa  và  kinh  sách  Tối  Thượng  Thừa của  Thiền  Tông  Trung  Hoa cố  ý  mạo  nhận là Phật thuyết, nên xếp kinh A Hàm những lời đức Phật dạy vào hàng Tiểu Thừa để lừa đảo  mọi người.  Nhưng  khi  đọc  kinh  Nikaya nguyên gốc của Phật mới biết Đại Thừa và Tối   Thượng Thừa  là  kinh  sách  của  Phật giáo  Trung  Quốc  chịu ảnh  Khổng  giáo  và Lão  giáo  rất nặng,  cho nên  kinh  sách  phát triển và kinh sách Tối Thượng Thừa không còn là Phật giáo nguyên thủy.


Kinh  sách  phát  triển  và  kinh  sách Tối  Thượng Thừa  tu  hành  không  bao  giờ làm  chủ  SINH,   GIÀ,  BỆNH,  CHẾT.  Cho nên kinh sách này không bao giờ dám đá động  đến  việc  tu  tập  làm  chủ  sinh  tử  và chấm dứt luân hồi.










Bài pháp thứ  chín




Do   đâu chúng tôi căn cứ mà biết
Ba Mươi Bảy Pháp Môn này là của đức Phật Thích  Ca Mâu  Ni thuyết  giảng?  Do từ  các kinh sách Nguyên Thủy, xin quý vị hãy nghiên  cứu  tạng kinh  Nikaya  do HT  Minh Châu  dịch  từ  tiếng  PALI  sang  Việt  ngữ. Nhất là chúng tôi căn cứ vào bài pháp “THỨC ĂN”   trong   kinh   Nikaya   để    giải nghĩa rõ  ràng.  Vậy chúng  ta hãy  lắng  nghe đức Phật dạy: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức   ăn   cho  Minh  Giải   Thoát   (Tam Minh)?  Bảy  Giác  Chi,  cần  phải  trả  lời như vậy”.

Minh Giải thoát tức là Ba Minh:

1- Túc Mạng Minh

2- Thiên Nhãn Minh

3- Lậu Tận Minh

Túc  Mạng Minh là  một  trí tuệ  siêu việt  của  Phật  giáo.  Ai  tu  hành  có  được  trí tuệ  này  thì  nhìn  về  quá  khứ  biết  rõ  nhiều đời nhiều kiếp của mình  và của những người


khác. Biết kiếp trước chúng ta sinh ở  nước nào, làng nào, xã nào, huyện nào, tỉnh  nào, tên gì họ gì, nghèo giàu đều biết rất rõ, nhờ trí tuệ này mới biết người chết đây sinh kia chứ không có linh hồn đi đầu thai xuống địa ngục hay lên thiên đàng hay sống theo con cháu  bốn  mươi  chín  ngày  để  làm  tuần,  làm tự  rồi  mới  tái  sanhï  kiếp  khác.  Đó  là  sự tưởng tượng của các tôn giáo còn lạc hậu mê
tín.

Thiên  Nhãn  Minh  là  một  trí tuệ  thứ hai,  nó  quan sát  không  gian  vũ  trụ  không chỗ nào là không thấy. Không có một   vật gì trong không gian vũ trụ mà nó  bỏ sót dù vật ấy rất nhỏ như hạt vi trần. Xưa đức Phật dùng  Thiên  Nhãn  Minh nhìn   vào  một  ly nước  và  tuyên  bố  rằng  trong  ly nước  có  vô lượng  trùng.  Thời  gian  đó   ít ai  tin nhưng thời  đại  khoa  học có  kính  hiển  vi và  thiên văn  kính  họ  bảo  rằng  đức  Phật  nói  không
sai.

Lậu  Tận  Minh là  một  trí tuệ  thứ  ba thấu  suốt  mọi  vật,  mọi pháp  trên  thế  gian này  không  có  pháp  nào  thường  còn  toàn  là vô  thường,  không  có  pháp  nào  là  ta,  là  của ta, là  bản  ngã  của  ta  chỉ  là  theo các  duyên


hợp mà  thành  ra  vạn  vật,  vạn  pháp  rồi cũng  theo  các  duyên  tan  mà  vạn  vật,  vạn pháp hoại diệt, chứ không có một đấng Vạn Năng nào sinh thành và cũng không có  một đấng Sa Tăng nào diệt vạn vật.

Cho nên, không ai làm khổ mình và mình   cũng   không  làm  khổ  ai,  chỉ    có   12 duyên tan hợp mà khổ đau trùng trùng diễn tiếp  khổ  này  đến  khổ  khác.  Do trí tuệ  Lậu Tận Minh mà đức Phật thấy con người sống trong lậu hoặc nên chịu đau khổ vô vàn.

Người  tu  hành  muốn  có   được  ba  trí tuệ   này   thì   phải   thực   hiện   TÂM BẤT ĐỘNG trên Tứ Niệm Xứ bảy ngày đêm. Khi sống  được  bảy  ngày  đêm  TÂM BẤT  ĐỘNG thì  Bảy  Năng  Lực  Giác  Chi  lần  lượt  xuất hiện.































1- Niệm Giác Chi

2- Tinh  Tấn Giác Chi

3- Khinh An Giác Chi

4- Hỷ Giác Chi

5- Định Giác Chi

6- Xả Giác Chi


7- Trạch pháp Giác Chi

Khi   Bảy  Giác  Chi  xuất  hiện  đầy  đủ thì  chúng ta có  đủ Tứ Thần Túc:

1- Tinh  Tấn Như Ý Túc

2- Định Như Ý  Túc

3- Tuệ Như Ý Túc

4- Dục Như Ý  Túc

Khi  có  Bốn  Như  Ý  Túc  thì  mới  nhập được  Tứ  Thánh  Định,  còn  chưa có  Bốn  Như ý  Túc  thì  không  bao giờ  nhập  Tứ   Thánh Định được, do đó ai nói nhập thiền định bảy tám ngày hay sáu bảy tháng là nhập thiền định tưởng.

Cho nên  khi  người  nào  nói  về  thiền mà nói không đúng lời dạy của Phật là biết ngay  họ  là  những  người  chịu ảnh   hưởng pháp thiền của ngoại đạo, còn không là những  người  nghiên  cứu  kinh  sách  rồi  nói ra thì chúng ta cũng biết ngay họ là những người sống trong kiến giải tưởng chớ  không biết cách thức nhập thiền định nào cả.

Như đức Phật dạy khi  nào chúng ta tu chứng thì mới dám dạy người tu, còn chưa chứng thì  đừng dạy,  nếu dạy sẽ đưa người ta


vào con đường thiền tưởng như hiện giờ các sư các  thầy  từ  Nam  Tông  đến  Bắc Tông  tu chưa xong mà  dạy  người  tu  nên  thầy  trò  tu thiền  mà  vào  bệnh  viện  trị  bệnh,  thật  là xấu hổ vô cùng.

Thiền sư dạy người tu thiền là phải làm chủ bệnh, chớ thiền sư gì mà chết trong bệnh ung thư  như thiền sư ni  Ayya Khema. Thiền  sư đã  viết  25 tác  phẩm  nói  về  thiền và  Phật  giáo,  nhưng  cái  chết  của  thiền  sư thì  sách của thiền sư không còn giá trị nữa. Vì thiền còn bệnh tật là thiền ngoại đạo.

Nếu người nào tu theo đúng pháp của Phật tâm Bất Động trên Tứ Niệm Xứ như trên  đã  dạy  thì  nhập  từ  Sơ thiền  đến  Tứ thiền thì  tất  cả bệnh đau trên thân đều đuổi ra  khỏi  thân.  Và   chính  Tứ   thiền  là  pháp môn  làm  chủ  sự  sống  chết,  có   nghĩa hành giả nhập được Tứ thiền thì  tịnh chỉ được hơi thở,  nhờ  đó   muốn  sống   chết  hồi  nào  thì cũng   rất   tự   tại,   chết   là   chết   ngay  liền. Thiền  định  như  vậy  mới  thật  sự  là  thiền định của Phật giáo.

Nhìn lại từ Đông sang Tây biết bao nhiêu là  thiền  sư. Ông  thì  bị xe đụng chết,


ông thì đi nằm bệnh viện rồi chết, những bệnh  của  quý  vị  thiền  sư đều  thuộc  về  loại bệnh nan y.

Khi   được  làm  thiền  sư  dạy  đạo  thì phật  tử  dâng cúng những  thực  phẩm  ngon bổ, càng ngon  bổ thì càng độc, do đó “thích” ăn ngon bổ nên  không có  vị nào  thoát khỏi những bệnh nan y.

Đạo Phật ly dục ly bất thiện pháp thế mà thiền sư còn thích  ăn ngon bổ  vậy xưng là  thiền  của  Phật  giáo  thì  thiền  của  Phật giáo làm sao có thiền như vậy được.

Tu hành chưa nhiếp được tâm bao nhiêu mà   đi   dạy   người   khác   tu  thật   là những người đang “háo danh” muốn mình làm thầy thiên hạ. Thật đáng chê trách.

Muốn làm thầy dạy người tu tập thì phải  có   đủ  Bảy  Năng  Lực Giác  Chi,  nếu chưa có  thì  nên  im  hơi,  lặng  tiếng  để  lo  tu tập  cứu  mình  ra  khỏi  biển  khổ.  Đó  là  điều duy nhất  quý  vị  nên làm,  đừng nghĩ đến  ai cả mà hãy nghĩ đến mình.

Muốn  tu  tập   có  Bảy  Năng  Lực Giác Chi thì  phải tìm hiểu pháp nào tu tập mà có Bảy Năng  Lực Giác  Chi,  chớ  không  phải từ


trên  pháp  môn  Bảy  Giác  Chi  tu  tập  mà  có Bảy  Giác  Chi,  quý  vị  nên  nhớ  kỹ  bài  pháp các   “THỨC ĂN”.   Nếu   quý  vị  không  biết pháp  nào  tu tập  có Bảy  Năng  Lực Giác  Chi thì  hãy  lắng  nghe đức  Phật  dạy: “Này  các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Năng Lực Bảy Giác  Chi?  Bốn  Niệm  Xứ,  cần  phải trả lời như vậy”.

Theo  như  lời  dạy  trên  đây  của  đức Phật thì  Bốn Niệm Xứ là pháp môn tu hành sinh  ra  Bảy  Năng  Lực Giác  Chi.  Vậy  cách thức tu tập Bốn Niệm Xứ như thế nào?




























1-  Trên thân quán thân.











nào?

2-        Trên thọ quán thọ.

3-        Trên tâm quán tâm.

4- Trên pháp quán pháp.

Vậy   trên   thân   quán   thân   như   thế



Trên  thân  quán thân  có   nghĩa là

dùng  mắt  nhìn   thấy,  tai   lắng  nghe,  cảm


nhận  xúc  chạm  và  ý  thức  quan  sát  ngay trên  thân,  nếu  thân  có   đau nhức  chỗ  nào liền  biết  ngay,  thân  đi  biết  thân  đi,  thân ngồi  biết  thân  ngồi,  thân  nằm  biết  thân nằm, thân đứng biết thân đứng v.v...

Bất cứ thân làm điều gì đều biết, thân ăn  biết  thân  ăn,  thân  ngủ  biết  thân  ngủ, thân  quét  sân  biết  quét  sân,  thân  lặt  rau đều  biết  thân  lặt  rau.  Thân  ngồi  yên  biết thân  ngồi  yên  và  khi   thân  ngồi  yên  bất động  thì   biết  hơi  thở  ra  hơi  thở  vô  trên thân.  Tất  cả   hành  động  đều  được  xem  là trên  thân  quán thân.  Dù  quán hơi  thở  ra hơi  thở  vô  cũng  chính  là  trên  thân  quán
thân.

Tuy    nói    trên   thân   quán  thân nhưng thật sự là đang quán bốn chỗ: thân, thọ, tâm,  pháp.  Vì  biết  thân  là  biết  thọ, biết thọ là biết tâm, biết tâm là biết pháp,  biết  pháp  là  biết  thân.  Cho  nên trên  TỨ  NIỆM  XỨ  biết  chỗ  này  thì  liền biết  chỗ  khác.  Bốn  chỗ  này  như  một  khối tuy nói bốn nhưng mà một.

Quán thân trên thân tức là tâm tỉnh thức trên thân, nên thân xảy ra một điều gì


dù lớn lao hay nhỏ nhặt tâm đều biết rất rõ. Cho  nên  nói  trên  thân  quán  thân  chớ  kỳ thực  là  quán  TÂM BẤT  ĐỘNG,  nếu  tâm TÂM BẤT ĐỘNG suốt bảy ngày đêm là tu tập chứng đạo, nhưng trong suốt bảy ngày đêm  tâm thường  bị  hôn trầm  thùy  miên  vô ký và loạn tưởng thì  nên dùng pháp ngăn ác diệt  ác  để   mà  diệt  các  ác  pháp  này.  Nếu muốn  rõ  pháp  tu  hành  thì  nên  lắng  nghe đức Phật dạy: “Này  các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Bốn Niệm Xứ? Ba Thiện Hành, cần phải trả lời như vậy”. Đúng vậy chỉ  có lấy thiện diệt ác pháp mới không bị ức chế tâm. Theo như lời Phật dạy: “Ba thiện hạnh nghĩa là gì?”

Ba thiện hạnh là ba hành động thiện trong thân của mọi người như:






























1- Nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, ôn
tồn  nhã  nhặn,  thường  nói  lời  ái  ngữ  khiến cho người  nghe không  buồn  khổ,  không  tức giận được an vui và hạnh phúc. Không được nói lời hung dữ, không được nạt nộ người khác, không được mắng chửi người khác, không  được  nói  lời  thô  tục,  tục  tĩu,  không được  chửi  thề,  không  được  xỉa  xói  vào  mặt


người   khác,   không   được   đánh   đập   người
khác.

2- Làm những điều thiện tức làm   mọi việc không làm khổ mình,  khổ người và khổ tất  cả chúng sinh.

3- Suy nghĩ những  điều  thiện  tức  là nghĩ ngợi  những điều  không  làm  khổ  mình khổ người và khổ tất cả  chúng sinh.

Khi  thân hành, khẩu hành và ý hành không  làm  khổ  mình,  khổ  người  và  khổ  tất cả    chúng   sinh   thì   tâm   sẽ   BẤT   ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ.

Cho nên, muốn tâm được BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ thì  TRÊN THÂN QUÁN  THÂN  thường  xem  xét THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH và Ý HÀNH, nếu  mỗi  hành động đều  đem lại sự  bình  an cho mình  cho người thì  hãy làm, còn không đem  lại  sự  an  vui  cho mình  cho người  và cho tất  cả chúng sinh thì mình  nhất định không làm.

Tuy  trên   thân   quán   thân   như  vậy chưa đủ sức diệt các ác pháp, vì sáu ác pháp bên ngoài thường theo sáu căn mà vào thân tâm  làm  cho  thân  tâm  bất  an,  như  vậy



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!