Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

ba mươi bảy phẩm trợ đạo 5


Nghe   lời   dạy   này   quý   vị   có   hiểu không?  Khi  dẹp bỏ  LÒNG  HAM  MUỐN  thì chúng  ta  lại  được  TÂM BẤT  ĐỘNG, THANH THẢN, AN  LẠC, VÔ  SỰ.  Cho nên dẹp  bỏ   LÒNG  HAM   MUỐN  chúng  ta  lại được  AN  VUI  gấp  trăm  ngàn  lần.  Vậy  quý vị có bỏ  không?

Nói thế chứ của cải tài sản đất đai ruộng vườn tiền bạc bỏ  đâu phải dễ, nhất là danh thì  lại càng khó bỏ  hơn. Nghe hết khổ thì  ai  cũng  ham  nhưng  buông  bỏ hết  thì  ít ai làm được. Bởi vậy bỏ cái  gì thì  dễ chứ bỏ LÒNG  THAM,  SÂN,  SI,  MẠN,  NGHI  thì quá khó phải không quý vị?

Đời người khổ là do NGŨ TRIỀN CÁI và  THẤT KIẾT  SỬ  chính  trong  thân  tâm họ, đức  Phật  dạy  rất  rõ nhưng  đến  giờ  này có   mấy  ai  bỏ   sạch  đâu.  Chỉ  có   muội  lược
3/10 hay  5/10 mà  người  ta  cảm  thấy  mình đã an vui, nếu bỏ hết thì  đã làm Phật xong rồi. Phải không quý vị?

Biết   rõ   chân   lý   DIỆT   ĐẾ   là   một trạng  thái  giải  thoát  trong  thân  tâm  của mỗi  người  nên  Thầy  dùng  pháp  NHƯ   LÝ TÁC  Ý   mà  tác  ý  ngay  TÂM  BẤT  ĐỘNG,


THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ để giữ gìn và  bảo  vệ  nó,  khiến  cho nó  luôn  luôn  hiện tiền  trong  tâm  thì  LẬU  HOẶC  không  còn có  nghĩa là đau khổ không còn nữa. Như đức Phật  đã  dạy:  “Có  như  lý  tác  ý  lậu  hoặc chưa  sinh  sẽ  không sinh  mà đã sinh  thì bị diệt”.


































Một  người  tu  tập  cứ  bền  tâm

bền chí TÁC Ý  khi  có niệm khởi, khi  có  hôn trầm thì niệm khởi và hôn trầm sẽ bị tiêu diệt, nó bị tiêu diệt thì  chứng đạo ngay liền tại chỗ  đó.  Cho nên  tu hành khi biết  đúng Chánh  pháp  thì  tu  hành  chứng  đạo  không còn  khó  khăn  mệt  nhọc gì cả.  Thầy  đã  dạy


rất  rõ thì  quý  vị  hãy  ôm  cho chặt  pháp  để chiến thắng giặc sinh tử luân hồi.

Con đường tu tập của Phật giáo rất rõ có tám    lớp  tu  học  mà  ai  cũng  biết,  đó   là BÁT   CHÁNH   ĐẠO.   BÁT   CHÁNH   ĐẠO gồm có:

1- Chánh kiến

2- Chánh tư duy

3- Chánh ngữ

4- Chánh nghiệp

5- Chánh mạng

6- Chánh tinh tấn

7- Chánh niệm

8- Chánh định

Bởi  vậy  đến  với  đạo  Phật  là  đến  với sự  thật,  đến  với  sự  thật  là  đến  với  tri kiến thì  tri kiến  ấy  mới  đem lại  sự  bình  an cho loài người.

Bởi  sinh  ra  làm  người  mà  bản  thân con người có  một loại vũ khí  tối tân nhất để bảo  vệ  sự  sống  bình  an  yên  vui  và  hạnh phúc  của  con người.  Đó  là  tri kiến,  tri kiến


của con người rất là quan trọng. Nếu con người  cứ  để  tri kiến  ấy  nuôi  lớn  bằng NGŨ TRIỀN CÁI  và  THẤT KIẾT  SỬ  thì   con người  phải  chịu vô  vàn  khổ  đau, còn  ngược lại nuôi lớn bằng tri kiến diệt NGŨ TRIỀN CÁI  và  THẤT KIẾT  SỬ  thì  con người  sống bình an, yên vui và hạnh phúc.

Ai cũng biết con người sống bằng tri kiến,  nhưng  tri kiến  phải  được  rèn  luyện trong  nền  đạo  đức  của  Phật  giáo  qua tám lớp học như trên đã kể.

Tám  lớp  học này  phải  do  một   bậc chứng  đạo  giảng  dạy  thì  sự  tu  học mới  có kết  quả  thiết  thực.  Khi  giảng  dạy  tất  cả  tu sinh có  quyền thưa hỏi những gì không biết. Một vị tu hành chứng đạo sẽ đáp ứng những đòi hỏi của tu sinh đầy đủ, còn ngược lại người tu chưa chứng đạo sẽ không đáp ứng được.  Do  đó  đức  Phật  dạy:  “Này   các   tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Nghe Diệu Pháp? Thân Cận Với Bậc Chân Nhân (Bậc  tu  chứng  đạo),  cần  phải  trả  lời như vậy”.




























 











Đúng  vậy,  chỉ    có  thân  cận   với
những người  tu  chứng  thì  con đường  tu học mới   chứng   đạo.   Trong   đời   rất   khó   gặp


những bậc tu chứng đạo. Đó là một điều khó nhất trên đường tu tập. Tu tập các pháp không  khó  nếu  có  bậc  thiện  hữu  tri thức  tu chứng.

Bậc tu chứng tuy ở trước mặt nhưng không đủ duyên cũng không phải dễ gặp, dù có   gặp  nhưng  phước  duyên  không  đủ  thì lòng tin không có  và như vậy gặp cũng  như không.   Bởi   người   xưa  nói:   “Hữu   duyên thiên  lý   nan   tương  ngộ,   vô  duyên  đối diện bất tương phùng”. Đó là một bằng chứng như hiện giờ ai cũng gặp Thầy nhưng có  mấy ai đủ lòng tin tu tập chứng  đạo như Thầy không?

Cho nên  tìm một  người  tu chứng  đạo là phải đủ nhân duyên, nếu không đủ duyên thì  khó  mà  gặp  người  tu chứng.  Vì thế  quý vị tha  thiết tu hành và tu tập hết sức mình thì   đó   là  quý   vị  tạo  duyên  gặp  người  tu chứng,   nếu không  suốt  đời  quý  vị  khó  gặp lắm  dù  có  gặp  cũng  chỉ như  gặp  một  người bình  thường  chứ  không  được  truyền  trao kinh nghiệm tu tập. Dù những bậc tu chứngï có  truyền  trao  nhưng  quý  vị  nghe rồi  cũng bỏ ngoài tai.


Căn cứ theo những lời Phật dạy trên đây Thầy sẽ chỉ dạy BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ  ĐẠO  để   quý  vị  hiểu   rõ  phải  tu  tập pháp môn nào trước pháp môn nào sau.






































1/ Người  tu  sĩ  muốn  được  Nghe

Chân Pháp  Của  Phật  thì  phải  THÂN  CẬN BẬC  TU  CHỨNG ĐẠO, đã  làm  chủ  sinh,


già, bệnh, chết. Đó là pháp thứ nhất, quý vị cần phải nhớ kỹ lời dạy này.

2/ Người  tu  sĩ  muốn  có Lòng    Tin  thì phải  được  NGHE  CHÂN PHÁP  CỦA PHẬT.  Đó  là  pháp  thứ  hai  cần  phải  ghi nhớ. Nếu quên đó  là một sự sai lầm hết sức trong đường tu tập theo Phật giáo.

3/  Người  tu  sĩ  muốn  đạt  được  pháp môn Như Lý Tác Ý  thì  phải có LÒNG TIN. Đó là pháp thứ ba cần phải ghi nhớ.
4/ Người  tu  sĩ  muốn  đạt  được  Chánh
Niệm  Tỉnh Giác  thì  phải  tu  tập  NHƯ LÝ TÁC Ý. Đó là pháp thứ tư cần phải ghi nhớ.
5/  Người  tu  sĩ  muốn  Chế  Ngự  Được
Các   Căn  thì   phải  tu  tập  CHÁNH  NIỆM TỈNH GIÁC. Đó là pháp thứ năm cần phải ghi nhớ.
6/  Người   tu   sĩ   muốn   đạt   được   Ba
Thiện  Hạnh  thì   phải  tu  tập   CHẾ NGỰ CÁC CĂN (Độc Cư). Đó là pháp thứ sáu cần phải ghi nhớ.
7/ Người tu sĩ muốn đạt được Tứ Niệm
Xứ  thì  phải  tu  tập  BA THIỆN  HẠNH.  Ba
Thiện Hạnh tức là ý hành thiện, khẩu hành


thiện, thân hành thiện (Tứ Chánh  Cần). Đó là pháp thứ bảy cần phải ghi nhớ.
8/  Người  tu  sĩ  muốn  đạt  được   Bảy Năng Lực  Giác  Chi   thì   phải  tu  tập   TỨ NIỆM XỨ.  Đó  là  pháp  thứ  tám   cần  phải ghi nhớ.
9/  Người  tu  sĩ  muốn  đạt  được  Tam
Minh để  làm  chủ  sinh  tử  và  chấm  dứt  luân hồi  thì   phải  có   đủ  Bảy  Năng  Lực  Giác Chi.  Bảy  năng  lực   giác  chi  xuất  hiện  khi tâm  bất  động trên  Tứ  Niệm  Xứ.  Tâm chưa bất động  trên  Tứ  niệm  Xứ  thì  không bao  giờ  có  Bảy   năng  Lực Giác  Chi   xuất hiện. Đó là pháp thứ chín cần phải ghi nhớ.


















Ba muai  bdy  phd'm trC? dq,o











Trên  đây  là  ba mươi  bảy  pháp  tu
tập   để  làm  chủ  sinh,  già,  bệnh, chết  rất thực  tế  và  cụ  thể.  Cho nên  trong  thời  đức Phật có  nhiều Vương Tử con các nhà quý tộc bỏ gia đình, nhà cửa đi tu theo Phật như:

1- Nhóm Anuruddha  (A Na Luật Đà)

2- Nhóm Nandiya

3- Nhóm Kimbila

4- Nhóm Bhagu

5- Nhóm Kundadhana

6- Nhóm Revata

7- Nhóm Ananda

Và còn nhiều nhóm con nhà quý tộc khác nữa. Vì các  nhóm Vương Tử  này muốn xuất gia tu theo Phật, nên đức Phật bảo: “Này các Vương  Tử, các ông vì lòng  tin Ta đã xuất gia  làm chủ sinh tử, nên các ông mới từ bỏ  gia  đình, sống không gia đình. Như  vậy các ông có hoan  hỷ sống trong Phạm hạnh này không?”.


Ba lần hỏi như vậy, nhưng các nhóm Vương Tử không có nhóm nào dám trả lời. Đức Phật mới suy nghĩ Ta phải hỏi từng nhóm  một chứ họ không đại diện chung cho các nhóm   trả  lời,  vì  thế,  đức  Phật  gọi  tên từng nhóm một mà hỏi:  “Này  Anuruddha, các Vương Tử có hoan hỷ trong Phạm hạnh  này không?”.

Ông A NA  LUẬT thay mặt nhóm của mình   mà  trả  lời  Phật:  “Bạch   Thế   Tôn, thật sự chúng con hoan hỷ sống trong Phạm hạnh”.

Khi  nghe Anuruddha  trả  lời  như  vậy đức Phật ca ngợi ý chí tìm cầu sự giải thoát: “Lành thay, lành thay, này nhóm Anuruddha, các Vương Tử thật xứng đáng là  những  Thiện  gia   nam   tử,  vì lòng tin  xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia  đình, sống trong Phạm hạnh này,   các   ông   có   hoan   hỷ   sống   trong Phạm hạnh này không?

Trong  khi các  Vương  Tử  với  tuổi trẻ  tốt  đẹp, trong tuổi  thanh xuân,  với tóc  đen  nhánh,  có  thể  hưởng  thụ  các


dục  lạc,  cớ  sao lại  xuất  gia  từ  bỏ   gia
đình, sống không gia đình?”

Các   Vương  Tử   tuổi  còn  thanh   niên nên đức Phật cẩn thận nhắc đi, nhắc lại vì một lý  do gì, có  phải  vì mệnh lệnh  của  vua hay vì mệnh lệnh  của  kẻ  trộm  cướp  hay vì nợ  nần  hay  vì  sợ  hãi  hay  vì  mất   nghề nghiệp sinh sống?  Muốn biết  rõ những điều này, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật hỏi:

“Này  nhóm   Anuruddha,  các Vương Tử không vì mệnh lệnh của vua mà xuất gia,  từ bỏ gia  đình, sống không gia đình.

-  Hay   vì  mệnh   lệnh   của   kẻ   ăn trộm  mà  xuất  gia,  từ  bỏ  gia  đình, sống không gia  đình.

- Hay  vì nợ nần mà xuất gia,  từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

- Hay  vì sợ hãi  mà xuất  gia,  từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

-  Hay  vì  mất  nghề  sinh  sống  mà xuất  gia,   từ  bỏ   gia  đình, sống  không gia đình.


Các   Vương   Tử  nhóm  Anuruddha trả   lời:   “Thưa  không   phải   vậy,   bạch Thế Tôn”.
Nghe các Vương Tử thuộc nhóm Anuruddha  trả lời như vậy nên đức Phật hỏi tiếp:

“Hay các Vương Tử có những tư tưởng như sau: “Vì bị sinh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, não áp bức, chi phối nên  các  Vương  Tử  nhóm  Anuruddha, chỉ mong có thể thấy được sự chấm dứt toàn  bộ  khổ  uẩn  này mà đặt  trọn  lòng tin  xuất gia,  từ bỏ gia  đình, sống không gia đình, có phải vậy không?

Các   Vương   Tử  nhóm  Anuruddha trả lời: “Thưa vâng, bạch  Thế Tôn”.

Đoạn  kinh  trên  đây  đức  Phật  dạy  rất rõ: “Chỉ vì SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT  mà các  Vương  Tử  con vua  cháu  chúa bỏ  đi tu chấp nhận sống không gia  đình, không nhà cửa”. Các Vương Tử đều là những người giàu sang phú quý thế mà họ hiểu được Phật pháp, sẵn sàng buông bỏ  tất cả  không hề tiếc hối một điều gì. Đối với đời


sống   của  các   Vương  Tử   thì   đời  sống   của chúng  ta  làm  sao bằng  các Vương  Tử  này đâu, thế mà chúng ta lại bỏ không được.

Sinh,   già,  bệnh, chết  sẽ  không  chờ chúng ta đâu,  một khi  nó  đã  đến  thì  không còn  cách  nào  thương  lượng,  điều  đình  được. Cho nên ngay từ phút này phải lo cứu mình ra khỏi biển sinh tử.

Giặc sinh tử đang cai trị đất nước của chúng  ta.  Chúng  ta  đang  là  những  người dân bị nô lệ, nếu chúng ta chấp nhận làm người dân nô  lệ thì  đời đời kiếp kiếp không bao giờ làm chủ sinh già bệnh  chết.

Nếu chúng  ta không đứng lên đòi quyền làm   chủ   sinh,   già,  bệnh, chết   thì muôn  đời  ngàn  kiếp  của  chúng  ta  chỉ   là người dân nô lệ làm tay sai cho giặc sinh tử mà thôi.

Khi  nổi  lên  chống  giặc  sinh  tử  chúng ta phải có  chiến thuật, chiếc lược đấu tranh thì mới mong thắng giặc. Nếu trong tay không có bản đồ chiến thuật, chiến lược thì chúng ta có nổi lên chống giặc sinh tử thì cũng chỉ hy sinh vô ích mà thôi.


Cho  nên  trước  khi   muốn  đánh  giặc sinh  tử  thì  chúng  ta  nên  theo  một  chiến thuật, chiến lược của một người đã chiến thắng giặc sinh tử, nhờ đó nó là một kinh nghiệm   sống  hay  nói   một   cách   khác   là chúng ta có bản đồ chiến lược chiến thuật.

Muốn có bản đồ tu Phật thì chúng ta hãy lắng nghe đức  Phật dạy:  “Và xuất gia như vậy, này các Vương Tử nhóm Anuruddha,  các  người  Thiện  gia  nam tử cần phải làm gì?”.

Trước khi  thuyết pháp đức Phật thường  hay  đặt  ra  câu   hỏi   để  khiến  mọi người chú ý lời dạy của Ngài nhiều hơn.

Cho  nên  khi   xuất  gia  đi  theo  Phật giáo  tu  hành  chỉ  có  từ  bỏ  gia  đình,  sống không gia đình là đủ hay còn phải tu tập những pháp môn nào nữa?

Chúng   ta  hãy   nghe  đức   Phật   dạy: “Này  các  Vương  Tử  nhóm  Anuruddha, khi  từ bỏ gia đình, sống không gia  đình thì  tiếp  tục tu  tập  ly  dục  ly  bất  thiện pháp”.


Theo  như  lời  đức  Phật  dạy  trên  đây khi   từ  bỏ   gia  đình,  sống  không  gia  đình xong thì  chúng ta phải tiếp tục tu tập ly dục ly bất  thiện  pháp.  Vậy  cách  thức  ly dục  ly bất thiện pháp như thế nào?

Ly dục có  nghĩa là lìa tất  cả lòng ham muốn  của  chúng  ta,  hễ   trong  tâm  chúng khởi lên niệm ham muốn nào thì chúng ta nhất   định  không   làm   theo,   không   chạy theo, như vậy gọi là lìa.

Ly  bất  thiện  pháp  có  nghĩa là  lìa  tất cả các  ác pháp làm khổ mình,  khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Người tu theo Phật giáo nhất định thà chết chớ không làm theo những  điều  ác.  Cho  nên  người  tu  sĩ  Phật giáo  thường  tỉnh  giác  sáng   suốt  nhận  ra từng hoàn cảnh, từng đối tượng, từng hành động  việc  làm,  từng  ý  niệm  khởi  lên,  nếu xét  thấy  làm  khổ  mình,  khổ  người  và  khổ tất  cả chúng sinh  thì nhất  định không  làm và còn tránh xa. Đó là ly bất thiện pháp.

Muốn  ly dục  ly bất  thiện  pháp  cho có kết quả tốt thì  chúng ta nên sống một mình để phòng   hộ sáu căn. Lúc bây giờ trong bốn oai  nghi  đi,  đứng,  nằm,  ngồi  chúng  ta  đều


lưu ý chú tâm vào chỗ tâm  BẤT ĐỘNG. Khi tâm hoàn  toàn ly dục  ly bất  thiện  pháp  thì tâm BẤT ĐỘNG. Trong  tâm BẤT ĐỘNG có một sự an lạc, nhờ   tâm BẤT ĐỘNG an lạc đó mà các niệm tham, sân, si, mạn, nghi không khởi ra được. Vậy chúng ta hãy lắng nghe  đức  Phật  dạy  tiếp:  “Này  các  Vương Tử nhóm Anuruddha, khi  ly dục ly bất thiện  pháp.  Nếu  không  chứng  được  hỷ lạc  hay  một  trạng  thái  khác  an  tịnh hơn,  thời  dục  tham  xâm  chiếm  tâm  và an  trú,  sân  xâm  chiếm  tâm  và  an  trú, hôn  trầm  thùy  miên...  trạo  cử,  hối  quá.
..  nghi   hoặc...  bất  lạc...  giải  đãi xâm
chiếm tâm và an trú”.

Quý  vị  có  nghe lời  dạy  của  đức  Phật tu tập BA MƯƠI BẢY PHÁP VÀO ĐẠO không?  Khi  chúng  ta  TÁC   Ý,  đó  là  một pháp   trong   BA   MƯƠI   BẢY   PHÁP   VÀO ĐẠO  để   giữ  tâm  BẤT  ĐỘNG,  khi  giữ  gìn tâm BẤT ĐỘNG thì  chúng ta có một   sự cảm nhận  an  lạc  trong  TÂM  BẤT  ĐỘNG,  nếu chưa có sự an lạc là do chúng ta vận dụng công phu tu tập  để không niệm khởi vọng tưởng.  Để  không  niệm  khởi  vọng tưởng  đó là một sự tu tập sai, chịu ảnh hưởng  những


giáo  pháp  của  ngoại  đạo  như  Thiền  Tông, Tịnh Độ  Tông và  Mật  Tông Tây  Tạng v.v... Tu  tập  phải  để  tâm  BẤT  ĐỘNG  tự  nhiên thì  mới  có   an  lạc,  chính  nhờ  sự  an  lạc  đó mà niệm  vọng tham,  sân,  si, mạn, nghi không khởi lên được, cho nên tâm BẤT ĐỘNG mới kéo dài từ giờ này đến giờ khác; từ  ngày  này  sang  ngày  khác  một  cách  dễ
dàng.

Do  tâm  BẤT  ĐỘNG  từ  giờ  này  đến giờ khác, từ ngày này sang ngày khác nên đức Phật mới hỏi các Vương Tử  để  phá tâm nghi  về  tâm  BẤT  ĐỘNG  của  Phật:  “Này các   Vương   Tử   nhóm   Anuruddha,  các ông có nghĩ về Ta  như  thế nào? Các lậu hoặc nào liên hệ đến phiền não sanh khởi  hậu  hữu,  đáng  sợ   hãi,  đưa   đến quả  khổ  dị thục, hướng  đến  sanh,  già, bệnh, chết trong tương  lai, các lậu hoặc ấy chưa  được Như  Lai đoạn trừ. Do vậy Như  Lai sau  khi  suy tư  phân  tích,  thọ dụng  một  pháp;  sau  khi   suy  tư  phân tích  nhẫn thọ một  pháp; sau khi  suy tư phân tích  từ  bỏ  một  pháp; sau khi suy tư  phân  tích,   đoạn  trừ  một  pháp,  có đúng như vậy không?”.


Khi  đức  Phật  nêu  ra những  nghi  ngờ của các Vương Tử nhóm Anuruddha đối với các lậu hoặc Phật chưa diệt sạch.

Chúng ta hãy lắng nghe các Vương Tử nhóm Anuruddha trả lời: “Bạch Thế Tôn, chúng con  không  có  nghĩ  như  vậy   về Thế  Tôn:  “các  lậu  hoặc nào liên  hệ  đến phiền não, sanh  khởi hậu hữu, đáng  sợ hãi,  đưa   đến  quá  khổ  dị thục  hướng đến  sanh,  già,  bệnh,  chết  trong tương lai các  lậu  hoặc  ấy  chưa  được  Như  Lai đoạn trừ.  Do  vậy  Như  Lai sau  khi  suy tư  phân  tích   thọ dụng một  pháp,  sau khi   suy  tư   phân   tích   nhẫn thọ  một pháp,  sau  khi   suy  tư  phân  tích   từ  bỏ một   pháp,   sau  khi   suy  tư   phân   tích đoạn   trừ   một   pháp”.   Bạch   thế   tôn chúng con nghĩ  về thế tôn như sau: “các lậu  hoặc  nào  liên  hệ  đến   phiền  não, sanh  khởi  hậu  hữu,  đáng sợ  hãi,  đưa đến  quả  khổ  dị thục, hướng  đến  sanh già  chết  trong tương  lai, các  lậu  hoặc ấy  đã  được  Như  Lai đoạn  trừ.  Do  vậy Như  Lai sau khi  suy tư phân tích  nhẫn thọ một  pháp, sau khi  suy tư  phân tích


từ  bỏ   một  pháp,  sau  khi   suy  tư  phân tích  đoạn  trừ một pháp” ”.

Khi   nghe  các  Vương  Tử   nhóm Anuruddha   không  còn  nghi  ngờ  lậu  hoặc của  đức  Phật,  nên  đức  Phật  biết  chắc  đó lòng tin không gì lay  chuyển, nên đức Phật ca  ngợi   lòng   tin ấy   và  vạch   rõ   cho  các Vương  Tử  nhóm Anuruddha   hiểu  sâu  hơn con  đường   tu   tập   của   Phật   giáo:   “Lành thay!  Lành thay!  này  các Vương  Tử nhóm Anuruddha! Các lậu hoặc liên hệ đến   phiền   não,   sanh   khởi   hậu   hữu, đáng   sợ hãi  đưa  đến  quả  khổ  dị thục, hướng đến sanh, già, bệnh, chết trong tương  lai đã  được  Như   Lai đoạn  trừ, cắt  tận  gốc  rễ,  làm  cho  như  thân  cây Ta-la không  thể  sanh    lại,  không  thể sanh  khởi  trong tương  lai.  Ví  như  này các   Vương   Tử   nhóm   Anuruddha,  cây Ta-la đầu đã bị chặt đứt, không thể lớn lên nữa, cũng vậy này các Vương Tử nhóm Anuruddha, các lậu hoặc liên hệ đến phiền não ..( như trêân).. không thể sanh  khởi  trong tương  lai.  Do vậy  Như Lai sau  khi  suy tư  phân  tích  thọ dụng


một  pháp,  sau  khi suy tư  phân tích  từ bỏ  một  pháp  sau  khi  suy tư  phân  tích đoạn  trừ   một   pháp”.   Khi  tu   tập   sống trong tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC thì  tâm tham,  sân, si, mạn, nghi  đã bị diệt  trừ  như  cây   Ta-la  bị   chặt  đứt  ngọn không  thể  sống  lại  được.  Một  sự  xác  định rất  rõ ràng   mà  chính  kim  khẩu  đức  Phật nói ra.

Khi  tu tập đạt được tâm BẤT ĐỘNG THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ thì  có  một trí tuệ  hiểu  biết  rất  đặc  biệt  mà  người  thế gian không thể nào ngờ được. Cho nên trước khi   nói  ra  điều  này  đức  Phật  dè   dặt  sợ người  thế  gian  không  hiểu  cho mình  lường gạt  họ: “Này  các  Vương  Tử  nhóm Anuruddha, các ông nghĩ thế nào? Do thấy  mục đích   đặc  biệt  nào,  Như   Lai giải  thích  sự tái  sanh  của các  đệ  tử  đã từ trần, đã mệnh  chung  nói rằng: “Vị này tái sanh  ở chỗ này, vị này tái sanh ở  chỗ  kia”.   Các  Vương  Tử  nhóm Anuruddha có lòng tin không?”.

Khi   nghe  đức  Phật  hỏi  như  vậy  các
Vương Tử nhóm   Anuruddha  khẳng  định trả


lời:  “Bạch  Thế  Tôn  đối với  chúng  con, các pháp dựa Thế Tôn làm căn bản, hướng   đến  Thế   Tôn  làm   lãnh  đạo, nương  tựa  Thế  Tôn  làm  y cứ.  Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn thuyết giảng  cho  ý  nghĩa  này.  Sau  khi   được nghe Thế Tôn, các tỳ kheo sẽ  y giáo thọ
trì”.

Sau khi  nghe các  Vương Tử nhóm Anuruddha  tin tưởng vào đức Phật không có chút lòng nghi ngờ gì cả nên  đức Phật dạy tiếp:  “Này  các  Vương  Tử  nhóm Anuruddha, Như  Lai không vì mục đích lường  gạt quần chúng, không  vì  mục đích   nịnh  hót   quần   chúng, không   vì mục đích  lợi lộc trọng vọng, danh  xưng, quyền   lợi   vật   chất,   không   vì   với   ý nghĩa: “Như vậy quần chúng sẽ biết ta”, mà  Như  Lai  giải  thích  sự  tái  sanh  các vị  đệ tử  đã  từ  trần  đã mệnh  chung  nói rằng:  “Vị  này tái  sanh ở  chỗ  này hoặc vị này tái sanh ở chỗ kia”.  Và này các Vương Tử nhóm Anuruddha, có những thiện  gia  nam  tử  có  tin   tưởng  với  tín thọ   cao   thượng,    với    hoan    hỷ    cao


thượng, sau khi  được nghe như vậy, sẽ chú  tâm  nghe  như  thật.  Như   vậy  này các   Vương   Tử   nhóm   Anuruddha,  là hạnh phúc, là an  lạc lâu đời cho các vị
ấy” .

Khi  tu  tập  tâm  BẤT  ĐỘNG  đó  là  sự giải  thoát cho riêng  mình  nhưng  trong  tâm BẤT ĐỘNG nó có một sự hiểu biết ngoài tri kiến   của   mình.   Ở   đây   đức   Phật   nói   ra những điều này không phải vì khoe khoang, không  phải  làm   cho  người  ta  kính   phục mình,  không  phải nói ra để  được  mọi người cúng  dường  nhiều  vật  chất,  không  phải  nói ra để mọi người biết đến mình.  Ở đây nói ra để  mọi người hiểu trong tâm BẤT ĐỘNG có nhiều  điều  siêu  việt  mà  không  thể  lấy  trí thế gian nghĩ bàn.

Chúng   ta  hãy   lắng   nghe  đức   Phật dạy: “Ở đây này các Vương Tử nhóm Anuruddha,  các   ngươi  có   nghe:  “Tỳ kheo   với   tên   như   thế   này   đã   mệnh chung.  Thế  Tôn  có  tuyên  bố  về  vị  này: “Vị  ấy  an trú  chánh  trí. Vị tôn  giả ấy đã  được  thấy  hay  được  nghe.  Tôn  giả này  có  giới  hạnh  như  vậy,  tôn  giả  này


có trí tuệ như  vậy, tôn giả này có an trú như vậy, tôn giả này có giải thoát như vậy.  Tỳ kheo khi  nhớ đến lòng tin,  giới hạnh,  đa  văn, bố  thí  và  trí tuệ  của  vị kia,  an trú tâm trên như thật”.

Khi  chúng  ta  tu  tập  chỉ  cần  diệt  trừ được  năm  hạ  phần  kiết  sử.  Năm  hạ  phần kiết sử gồm có:

1- Tham kiết sử

2- Sân kiết sử

3- Thân kiến kiết sử (Mạn kiết sử)

4- Giới thủ kiến kiết sử

5- Nghi  kiến kiết sử

Đúng  như  lời  đức  Phật  dạy  diệt  năm hạ phần kiết sử, lúc chết liền được hóa sinh vào niết bàn không còn tái sinh làm người nữa:  “Như  vậy này  các  Anuruddha,  tỳ kheo có  nghe: “Tỳ  kheo với  tên  như thế này đã mệnh  chung.  Thế  tôn  có  tuyên bố về vị  này:  “sau khi đoạn  trừ  năm hạ phần kiết sử vị  ấy được hoá sanh,  nhập niết bàn tại chỗ ấy, không còn phải trở lui ở đời này nữa”.


Khi  còn sống giữ gìn được tâm BẤT ĐỘNG,  THANH THẢN,  AN  LẠC,  VÔ  SỰ tức là tâm ly dục ly bất thiện pháp. Tâm ly dục  ly bất  thiện  pháp  là  niết  bàn.  Cho nên sống với tâm BẤT  ĐỘNG, THANH, THẢN, AN  LẠC, VÔ  SỰ  là  đã  diệt  trừ  năm  hạ phần   kiết   sử   thì   chết   cũng   ở     chỗ   BẤT ĐỘNG  đó,  nên  gọi  là  nhập  niết  bàn.  Như lời đức Phật đã dạy ở  trên.









































Đối  với  đạo  Phật  một  người  tu
tập  làm  chủ  sinh  già,  bệnh, chết  mới  có


quyền làm thầy dạy người khác tu tập. Còn khi  tu  tập  chưa chứng  đạo  thì  không  được phép dạy ai tu tập cả, vì dạy như vậy sẽ nói sai không đúng pháp. Bởi vậy hiện giờ kinh sách  Phật  giáo  đều  do những người  tu chưa chứng đạo viết, nên viết sai không đúng lời Phật dạy khiến cho người sau không biết đường lối tu tập.

Đức Phật đưa ra một ví dụ như một người  chưa từng  biết  lõi  cây  mà  không  chịu thưa hỏi, tự mình  đi vào rừng tìm lõi cây rồi chặt  mang  về  một  số  cành  lá  nhưng  trong trí cứ  đinh  ninh  rằng  mình  đem lõi  cây  về nhà. Có một người hiểu biết lõi cây mới bảo rằng đây không phải lõi cây mà đây chỉ là cành lá của cây nó không dùng được: “Này Bà-la-môn,   ví   như    một   người   muốn được lõi cây, tìm  cầu lõi cây. Trong  khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng,  có  lõi  cây,  người  bỏ  qua  lõi  cây, bỏ   qua  giác  cây,  bỏ   qua  vỏ   trong,  bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang  đi  và  tưởng  rằng  đó   là  lõi  cây. Một   người   có   mắt   thấy   vậy   bèn   nói: “Thật sự người này không biết lõi cây, không   biết   giác   cây,   không   biết   vỏ


trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành  lá.  Người  này  muốn được  lõi  cây, tìm   cầu  lõi  cây.  Trong   khi đi  tìm   lõi cây,  trước  một  cây  lớn,  đứng  thẳng  có lõi  cây,  người  này   bỏ qua  lõi  cây,  bỏ qua  giác  cây,  bỏ  qua  vỏ  trong, bỏ  qua vỏ  ngoài,  chặt  cành  lá  lấy  chúng mang đi,  tưởng  rằng  đó  là  lõi  cây.  Và  người này  không  đạt  mục đích  mà  lõi  cây  có thể thành tựu”.

Đạo Phật tu hành không phải khó nhưng  khó  ở   chỗ  người  dạy  tu  chưa chứng đạo  vì  tu  chưa  chứng  đạo  nên  dạy  tu  sai pháp. Người tu chưa chứng đạo cũng giống người chưa biết lõi cây mà đi tìm lõi cây thì làm sao tìm được. Những ví dụ trên đây của đức Phật dạy quá thực tế, rõ ràng  và cụ thể, không còn chỗ nào nghi ngờ.

Một  người  mới  nghe  được  pháp  xả tâm ly dục ly ác pháp bằng pháp như lý tác ý giữ tâm BẤT  ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC và  VÔ  SỰ  là  tuyệt vời  về  nhà  tập thử thấy có kết quả xả được tâm dục và các ác pháp chút ít liền gặp ai cũng đem pháp này ra dạy đạo làm như mình  đã chứng đạo. Đó


là  một điều  sai  hết sức.  Mình  tu chưa xong mà đi dạy đạo là một việc làm cấm kỵ nhất trong Phật giáo.

Đạo Phật là đạo vô ngã thế mà đi dạy đạo  lúc  tu  hành  chưa xong  thì  chỉ   có  nuôi ngã làm cho ngã lớn hơn thì  đó  là đi ngược lại  đạo  Phật.  Cũng  giống  như  các  sư thầy Đại Thừa dạy người cúng  dường tam  bảo sẽ được phước báu lớn. Đây cũng giống như người chặt lấy cành lá mà tưởng là lõi cây. Thật là vô minh  mà không biết.

Lần thứ hai đức Phật lại nhắc nhở muốn tu hành chứng đạo thì  chỉ có người tu chứng  đạo  mới  dẫn  đắt  đi  đến  chứng  đạo, còn  những  người  chưa chứng đạo  mà  hướng dẫn  tu chứng đạo  thì cũng  giống  như người không biết lõi cây mà vào rừng chặt một miếng vỏ cây ngoài mang về và bảo đó là lõi cây. Người hiểu biết lõi cây  bảo rằng   đó chỉ là  vỏ  ngoài  cây   chớ   không  phải  lõi  cây. Chúng   ta   hãy   lắng   nghe  đức   Phật   dạy: “Này  Bà-la-môn,  ví  như  một người muốn được   lõi   cây,   tìm   cầu   lõi   cây. Trong  khi  đi  tìm  lõi  cây,  trước  một  cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua  lõi  cây,  bỏ  qua  giác  cây,  bỏ  qua  vỏ


trong, chặt  vỏ   ngoài,  lấy  chúng  mang đi,  tưởng  rằng  đó  là  lõi  cây.  Một  người có mắt thấy vậy bèn nói: “Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không  biết  cành  lá.  Người  này muốn được   lõi   cây,   tìm   cầu   lõi   cây. Trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây,  người  này  bỏ   qua  lõi  cây,  bỏ   qua giác   cây,   bỏ    qua   vỏ    trong,  chặt   võ ngoài, lấy  chúng  mang  đi,  tưởng  rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích  mà lõi cây có thể thành tựu”.

Qua lời dạy trên đây của đức Phật chúng  ta  có thể   nhậân  xét  và  biết  rõ  các  sư thầy dạy người tu tập để  làm chủ sinh, già, bệnh, chết  mà  chính  các  sư thầy  cũng  chưa làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Vì vậy các sư thầy biết pháp gì làm chủ sinh, già, bệnh, chết mà dạy người tu.

Nhìn  những  tu  sĩ  Phật  giáo  hiện  giờ chỉ lấy cái học bằng tiến sĩ này bằng tiến sĩ khác rồi dạy tín đồ  tu tập.  Các ông sư thầy tiến  sĩ  này  cũng  giống  như  những  người  đi


tìm lõi  cây  mà  chẳng  biết  lõi  cây,  chặt  lấy vỏ cây trong mà cho đó là lõi cây.

Trong  kinh  sách  Phật  dạy  mọi người phải cân nhắc khi muốn làm thầy dạy người tu thì  phải tu chứng đạo có  nghĩa là làm chủ được  bốn  sự  khổ  đau của  kiếp  người  sinh, già, bệnh, chết.

Người không hiểu biết lõi cây chặt lấy vỏ  trong  cây  tưởng  là  lõi  cây  mang  về  bảo với  mọi người  là  lõi  cây.  Việc  làm  đó  cũng giống  như  các   sư thầy  Đại  Thừa  tu  hành chưa chứng đạo lên tòa thuyết pháp dạy tín đồ  lạy sám hối hồng  danh chư Phật để  tiêu tai  giải nạn và được nhiều công đức nhờ chư Phật  gia  hộ  hoặc  dạy   niệm Phật  cầu  vãng sinh  để   khi  chết  được  sinh  về  cõi  cực  lạc Tây   Phương.  Dạy   đạo   như   vậy   làm   sao người tu hành làm chủ được sinh, già, bệnh,
chết.
Một  người  không  biết  lõi  cây,  bỏ  lõi, bỏ cành  lá, bỏ  vỏ ngoài, bỏ  vỏ trong của cây mà  chỉ  lấy  giác  cây  cho đó  là  lõi  cây,  hành động  vậy  làm  sao làm  chủ  sinh,  già,  bệnh, chết được.


Chúng   ta  hãy   lắng   nghe  đức   Phật dạy: “Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được   lõi   cây,   tìm   cầu   lõi   cây. Trong  khi  đi  tìm  lõi  cây,  trước  một  cây lớn đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, chặt   lấy giác cây, mang  đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt được mục đích  mà lõi cây có thể thành tựu”.

Một lần nữa đức Phật dạy: Người không biết lõi cây mà đi tìm lõi cây cũng giống như người chưa biết pháp tu mà nghe người ta dạy tu thì  liền tu không cần tư duy suy nghĩ cho chín chắn nên đã  tu sai pháp, vì thế mà tu không chứng đạo uổng công sức và phí một đời tu tập.

Muốn  tu chứng đạo  thì  nên tìm người tu  chứng  đạo.  Người  tu  chứng  đạo  sẽ  dạy như thế nào thì  tu như thế nấy thì  sẽ chứng
đạo.

Cho nên  trong  cuộc  đời  tu hành phải tìm  một  người  tu  chứng,  nhưng  tìm  một người tu chứng đạo là khó vô cùng.

Người tu không chứng đạo cũng giống như  người  không  biết  lõi  cây.  Các  sư thầy


Đại Thừa và các Thiền sư Đông Độ không biết phương pháp tu tập làm chủ sinh, già bệnh  chết  mà  dạy  tín đồ  kiến  tánh thành Phật  hay  dạy  chẳng  niệm  thiện  niệm  ác bản  lai  diện  mục  hiện  tiền.  Biết  vọng liền buông Thiền Tông  cũng giống như người lấy giác  cây  mà  cho đó  là  lõi  cây.  Cho nên  đức Phật  dạy  rất  cụ  thể:  Một  người  không  biết lõi cây, bỏ lõi, bỏ cành lá, bỏ vỏ ngoài, bỏ vỏ trong, chỉ lấy giác cây mà cho đó là lõi cây.

Do biết  đời  là  đau khổ  nên  mới  xuất gia tu hành từ bỏ  gia đình,  sống không nhà cửa chỉ ngày ngày đi xin ăn mà thôi, nhờ đó đời sống không bị ràng buộc bởi bất cứ  một điều gì, nên mới gọi  đó  là giải thoát Chúng ta hãy lắng nghe lời Phật dạy:  “Cũng vậy, này Bà-la-môn,  ở  đây, có  người  do lòng tin  xuất  gia  từ  bỏ  gia  đình sống  không gia  đình: “Do  ta   bị   trong  sanh,   già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm  đắm trong đau  khổ, bị chi  phối bởi đau  khổ, rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt”.

Nhưng  khi  đã  xuất  gia  làm  một tu sĩ thọ giới cụ túc đầy đủ thì  được phật tử cung


kính  cúng  dường,  do cung kính  cúng  dường nên  lợi  dưỡng  nhiều, vì  vậy  vị  tu  sĩ  này chìm  đắm  trong  danh  vọng. Do chìm  đắm trong  danh  vọng vị  này  không  còn  lo  tu hành  gì  cả  nên    cuộc  đời  vẫn  bị  trôi  lăn trong vòng sáu nẻo luân hồi khổ đau. Đức Phật  biết  rõ  điều  này  nên cảnh  giác  các  vị tu  sĩ  đã  xuất  gia  thọ  cụ  túc  giới:  “Vị  ấy xuất  gia  như  vậy,  được  lợi  dưỡng,  tôn kính,  danh   vọng.   Do   lợi   dưỡng,   tôn kính, danh  vọng  này,  vị ấy  hoan  hỷ,  tự mãn. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh  vọng này,  vị  ấy  khen  mình,  chê  người:  “Ta được   lợi   dưỡng   như   vậy,   được   danh vọng như  vậy,  còn  các  tỳ-kheo  khác  ít được  biết  đến, ít có  uy quyền”.  Và vị  ấy không  phát  khởi  lòng  ao ước  và không cố  gắng  tinh  tấn  để   chứng  được  các pháp  khác  cao  thượng  hơn,  thù  thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như  một người muốn được   lõi   cây,   tìm   cầu   lõi   cây. Trong  khi  đi  tìm  lõi  cây,  trước  một  cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua  lõi  cây,  bỏ  qua  giác  cây,  bỏ  qua  vỏ


trong,  bỏ   qua  vỏ   ngoài, chặt  cành  lá, lấy  chúng mang   đi,  tưởng  rằng  đó  là lõi  cây.  Và người  ấy  sẽ  không  đạt được mục đích  mà  lõi  cây  có  thể  thành  tựu. Này Bà-la-môn, Ta  nói rằng: Người này giống như ví dụ ấy”.

Người  xuất  gia  chỉ  mới  được  sự  cung kính   cúng  dường  mà  đã  tự  mãn  thì   cũng giống như người tìm lõi cây mới chặt được cành lá  mà  hân  hoan cho mình  đã  được  lõi cây thì  đó là tự giết mình  trên đường tu tập, vì  con đường  tu  còn  dài,  chừng  nào  tu  tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết xong thì mới không còn tu tập nữa.

“Rồi  vị ấy  xuất  gia như vậy, được lợi  dưỡng,  tôn  kính, danh   vọng. Vị  ấy không   vì   lợi   dưỡng,   tôn   kính,  danh vọng này, hoan  hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì  lợi  dưỡng, tôn  kính, danh  vọng này, khen   mình,  chê  người.  Và  vị   ấy  phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn,  thù  thắng  hơn  những  lợi  dưỡng, tôn kính, danh  vọng. Vị ấy không trở thành  biếng  nhác  và   thụ động. Vị ấy


thành  tựu  giới  đức.  Vì  thành  tựu  giới đức   này,   vị   ấy   hoan   hỷ,   tự   mãn.   Vì thành   tựu   giới   đức   này,   vị   ấy   khen mình, chê người: “Ta trì giới, theo thiện pháp.  Các tỳ-kheo  khác  phá  giới,  theo ác   pháp”.  Và  vị   ấy  không  phát  khởi lòng  ao ước  và  không  cố  gắng tinh tấn để  chứng  được các pháp  khác cao thượng hơn, thù thắng hơn giới  đức. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như  một người muốn được lõi cây, tìm  cầu lõi cây. Trong  khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng,  có  lõi  cây,  người  ấy  bỏ  qua  lõi cây,  bỏ  qua  giác  cây,  bỏ  qua  vỏ  trong, chặt lấy vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng  rằng  đó  là  lõi  cây.  Và  người  này sẽ  không đạt được  mục đích  mà lõi  cây có  thể  thành  tựu.  Này  Bà-la-môn,  Ta nói  rằng,  người   này  giống   như   ví  dụ
ấy”.

Người tu sĩ mới giữ được giới luật nghiêm chỉnh mà đã tự mãn thì  cũng giống như người đi tìm lõi cây chỉ lấy vỏ ngoài cây



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!