Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

ba mươi bảy phẩm trợ đạo 7


“- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không  được.  Ở   đây,  bạch Thế  Tôn,  lâu nay   cho  đến   khi   chúng con  muốn, chúng  con  diệt  tầm  diệt  tứ,  chứng  và trú  Thiền  thứ  hai,   một  trạng  thái  hỷ lạc  do định sanh,  không  tầm  không  tứ, nội   tĩnh   nhất   tâm.   Bạch  Thế   Tôn, chúng con vượt  qua  sự  an  trú  kia,  làm cho khinh an  sự  an  trú  kia; chúng con chứng được pháp thượng nhân khác, một  tri kiến  thù  thắng,  xứng  đáng bậc Thánh và sống  thoải mái, an lạc”.

Nghe  xong  đức  Phật  lại  ca ngợi  và khen tặng sự tu tập của ba vị tôn giả:

“- Lành thay! Lành thay! Này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông  có  vượt  qua  sự  an  trú  kia,  có  làm cho  khinh an  sự  an  trú  kia,   và  chứng được  một  pháp thượng nhân khác,  một tri kiến  thù  thắng,  xứng  đáng bậc Thánh  và  sống   thoải  mái,  an  lạc không?”.

Ông A Na Luật trả lời tiếp:


“- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không được. Ở  đây, lâu nay cho đến khi chúng  con  muốn, chúng  con  ly  hỷ  trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc  thọ mà  các  bậc   Thánh  gọi là  xả niệm  lạc  trú,  chứng  và  trú  Thiền  thứ ba,  Bạch Thế  Tôn,  chúng con vượt  qua sự  an  trú  kia,  làm  cho khinh an  sự  an trú  kia;  chúng con  chứng  được  pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng,  xứng  đáng bậc  Thánh,  và sống thoải mái, an lạc.”

Nghe xong đức  Phật  lại  ca ngợi  khen tặng và hỏi tiếp:

“- Lành thay! Lành thay! Này các Anuruddha!Này các Anuruddha, các Ông  có  vượt  qua  sự  an  trú  kia,  có  làm cho  khinh an  sự  an  trú  kia,   và  chứng được  một  pháp thượng nhân khác,  một tri kiến  thù  thắng,  xứng  đáng bậc Thánh  và  sống   thoải  mái,  an  lạc không?”.

Mỗi lần hỏi là mỗi lần ông A Na Luật trả lời một cách phân minh  rõ ràng:


“- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không được. Ở  đây, lâu nay cho đến khi chúng con muốn, chúng con xả lạc, xả khổ,   diệt   hỷ  ưu   đã    cảm  thọ  trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không  lạc,  xả  niệm  thanh  tịnh.  Bạch Thế  Tôn,  chúng con vượt  qua  sự an  trú kia,  làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con  chứng   được   pháp   thượng nhân  khác,   một   tri  kiến   thù   thắng, xứng   đáng bậc   Thánh   và  sống    thoải mái an lạc”.
Nghe  xong  đức  Phật  rất  hoan  hỷ  ca ngợi sự siêng năng tu tập của các  các vị tôn giả:

“- Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông  có  vượt  qua  sự  an  trú  kia,  có  làm cho  khinh an  sự  an  trú  kia,   và  chứng được  một  pháp thượng nhân khác,  một tri kiến  thù  thắng,  xứng  đáng bậc Thánh  và  sống   thoải  mái,  an  lạc không?”.

Sau  khi   ông   A  Na  Luật   trình  bày nhập  các  định  hữu  sắc  xong  thì  đức  Phật


muốn  trắc  nghiệm xem các  đệ  tử  của  mình có   thể  nhập  được  các  định  vô  sắc  không? Tức là các loại định tưởng. Một khi  đã nhập được  các  định hữu  sắc  thì  các  định vô  sắc đối với các vị như A Na Luật đâu còn khó khăn,  vì thế  ông A Na Luật  trình bày  cách thức nhập KHÔNG VÔ BIÊN XỨ:

“- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không được. Ở  đây lâu nay  cho đến khi chúng con  muốn, chúng con  vượt  lên mọi   sắc   tưởng,   diệt   trừ   mọi   chướng ngại  tưởng, không   tác   ý   đối   với   dị tưởng; chúng con nghĩ  rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên
xứ”.

Kế  tiếp  A  Na  Luật  trình  bày  cách thức nhập THỨC VÔ BIÊN XỨ:

“- Bạch Thế Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an  sự an trú kia; chúng con chứng được pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng,  xứng  đáng bậc  Thánh  và  sống thoải  mái,  an  lạc...  (như  trên)...  Ở   đây, lâu nay cho đến khi  chúng con muốn; chúng con vượt  qua  mọi  Không  vô  biên


xứ,  nghĩ  rằng:  “Thức  là  vô  biên”,  chứng và trú Thức vô biên xứ... (như trên)...”.

Kế  tiếp  A  Na  Luật  trình  bày  cách thức nhập VÔ SỞ HỮU XỨ:

“-  Ở    đây, lâu   nay   cho  đến   khi chúng con  muốn;  chúng con  vượt  qua mọi Thức vô biên xứ, nghĩ  rằng: “Không có  vật gì”,  chứng  và trú  Vô  sở  hữu  xứ... (như trên)...”.

Kế  tiếp  A  Na  Luật  trình  bày  cách thức  nhập  PHI  TƯỞNG  PHI  PHI  TƯỞNG
XỨ:

“-  Ở    đây, lâu   nay   cho  đến   khi chúng con  muốn;  chúng con  vượt  qua mọi  Vô   sở  hữu  xứ,  chứng  và  trú  Phi tưởng phi phi tưởng xứ”.

Kế  tiếp  A  Na  Luật  trình  bày  cách thức nhập DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH:

“-  Ở    đây, lâu   nay   cho  đến   khi chúng con  muốn;  chúng con  vượt  qua Phi  tưởng  phi  phi tưởng  xứ,  chứng  và trú  Diệt  thọ tưởng  định.  Sau   khi   đã thấy   nhờ   trí  tuệ,   các   lậu   hoặc   của chúng con được đoạn  trừ”.


Kế tiếp A Na Luật trình bày khi nhập xong  các  loại  tưởng  định  thì  mới  thấy  trí tuệ  vô  lậu.  Đoạn  kinh  này  chịu ảnh  hưởng kinh sách phát triển. Khi  nhập xong DIỆT THỌ  TƯỞNG  ĐỊNH  thì  mới  có   trí tuệ  vô lậu.  Trí  tuệ  VÔ  LẬU  xuất  hiện  khi   TÂM BẤT ĐỘNG trên TỨ NIỆM XỨ bảy ngày đêm  thì   có  TỨ  THẦN TÚC.  Trong  TỨ THẦN TÚC  có   TUỆ  NHƯ  Ý   TÚC.  Trong TUỆ  NHƯ   Ý    TÚC  có   LẬU  TẬÂN   MINH. LẬU  TẬN  MINH là  trí tuệ  VÔ  LẬU.  Cho nên kinh phát triển dạy sai không đáng tin cậy. Kinh phát triển dạy theo kiến giải sắp xếp  theo thứ  lớp  từ  định hữu  sắc  đến  định vô  sắc.  Đạo  Phật  chỉ   cần   nhập  được  các định hữu sắc là đã tu tập xong. Còn các loại định tưởng là các loại định của ngoại đạo.

Chúng ta nên nhớ kỹ lại khi  đức Phật bỏ  cung vàng điện  ngọc đi tu thì  gặp hai vị thầy ngoại đạo dạy đức Phật nhập các loại Định Tưởng từ KHÔNG VÔ BIÊN XỨ TƯỞNG  đến  PHI  TƯỞNG  PHI   PHI TƯỞNG XỨ. Khi  nhập xong đức Phật thấy không  làm  chủ  sinh,  già,  bệnh, chết  nên Ngài ném bỏ như ném chiếc giày rách.


“- Chúng tôi không bao giờ nói với Tôn  giả   Anuruddha  như  sau: “Chúng tôi  là  người  đã chứng   và   an  trú  quả này, an trú  quả này”,  và nhờ  vậy,  Tôn giả Anuruddha, trước mặt Thế Tôn, đã nêu rõ (các quả chứng) cho đến sự đoạn trừ các lậu hoặc.

Chư   Tôn   giả   không   nói   với   tôi như sau: “Chúng  tôi  là  người  đã chứng và an trú quả này, an trú quả này”, nhưng   với  tâm  của   tôi,  tôi  biết  được tâm  của  các  Tôn  giả: “Chư Tôn  này  là Người  đã chứng  và  an  trú  quả  này,  an trú quả này”.

Bài  kinh  điều  đáng  lưu  ý  là  sự  sống của  ba vị  tôn  giả  luôn  luôn  giữ  hạnh độc  cư trọn  vẹn, nhất  là  tu  tập  được  cái  gì  cũng không khoe khoang nói cho người khác biết. Đó là điều cần phải ghi nhớ.

Bài kinh này được đem ra đây để  mọi người thấu rõ  biết cách ứng dụng  BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO vào đời sống tu tập của mình  nhất là những gương hạnh sống ĐỘC  CƯ  và  thức  hiện  các  pháp  làm  chủ


sinh,  già,  bệnh, chết  của  ba vị  tôn  giả  một cách thiết thực, cụ thể.






 


Tâm vô lậu




Chúng ta hãy lắng nghe các vị đại
đệ tử của Phật mỗi người đều có một   kinh nghiệm tu tập khác nhau, không ai tu tập giống  ai  nhưng  kết  quả tâm  đều  VÔ  LẬU. VÔ  LẬU  là  mục đích  mà  mọi người  tu  tập đều phải đạt được, như vậy mới gọi là giải thoát. Ông  A  Nan  trình bày  sự  tu  tập  của mình  theo đặc tướng như sau:

“- Ở đây, này Hiền giả Sariputta, tỳ-kheo   nghe   nhiều,   gìn   giữ   điều   đã nghe, tích  tụ điều đã nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa cụ túc, nói lên phạm hạnh hoàn toàn  thanh tịnh,  những pháp  ấy  được vị  ấy  nghe  nhiều  và   gìn  giữ  kỹ,  được lập  lại  lớn  tiếng,  được  ý  tư  duy,  được tri kiến   khéo   quán   sát;   vị   ấy   thuyết pháp cho bốn hội chúng với văn cú viên dung,  lưu  loát,  với  mục đích  đoạn trừ mọi tùy miên. Này Hiền giả Sariputta, hạng tỳ-kheo  này  có  thể  làm  sáng chói khu rừng Gosinga”.


Ông  A Nan  đã  trình bày  sự  hiểu biết tu hành của mình  bằng cách nghe nhiều do ông làm thị giả Phật: Khi  nghe Phật thuyết giảng  là  ông  ghi  nhận  trong  tâm  từng  lời nói, từng ý nghĩa, từng hành động tu tập từ thấp   đến   cao  sơ  thiện,   trung   thiện   hậu thiện do sự tu tập như vậy sẽ làm sáng chói khu  rừng  Gosinga.  Theo  sự  trình bày  của ông   A  Nan  tu  hành  rất   căn  bản:  NGHE HIỂU RỒI  THỰC  HÀNH.  Khi ông  A  Nan trình xong  sự  tu  tập  của  mình  thì  ông  Xá Lợi Phất hỏi tôn giả Revata:

“-  Này Hiền giả Revata,  Tôn giả Ananda  đã   trả  lời  theo  sự  giải  thích của mình. Ở  đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả  Revata:   Này  Hiền  giả  Revata,   khả ái  thay   ngôi rừng  Gosinga...   (như trên)...  Này  Hiền  giả  Revata,   hạng  tỳ- kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?”.

Tôn giả Revata trình bày chỗ tu tập của  mình  là  GIỮ  GÌN  TÂM THANH TỊNH BẤT  ĐỘNG  trong  bất  cứ  giờ  nào,  ngày  nào chỗ nào cũng ở  trong trạng thái KHÔNG TỊCH   thì    sẽ   làm   sáng    chói   khu   rừng


Gosinga. Đó là kinh nghiệm tu hành của tôi xin trình bày cho các tôn giả đang có mặt trong ngôi nhà mát được nghe:

“- Ở đây, này Hiền giả Sariputta, tỳ-kheo  ưa  thích   đời  sống  tịnh cư,  vui thú  đời  sống  tịnh cư,  nội  tâm  tu  pháp tịnh  chỉ,  không  gián  đoạn  tâm  thanh tinh (thiền  định),  thành  tựu  quán hạnh,  luôn  luôn  lui  tới  các  chỗ  không tịch. Này Hiền giả Sariputta, hạng tỳ- kheo   này   có   thể   làm   sáng   chói   khu rừng Gosinga”.
Khi  nghe xong sự trình bày tu tập của tôn  giả  Revata thì  tôn  giả  Xá  Lợi  Phất  hỏi tôn giả A Na Luật, còn ông tu tập như thế nào?

“- Này Hiền giả Anuruddha, Tôn giả Revata  đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở  đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả  Anuruddha:  Này  Hiền  giả Anuruddha, khả ái thay ngôi rừng Gosinga...  (như  trên)... Này Hiền giả Anuruddha, hạng tỳ-kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?”.


Tôn Giả A Na Luật trả lời qua kinh nghiệm tu hành của mình:

“- Ở đây, này Hiền giả Sariputta, tỳ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên,   quán   sát   ngàn thế   giới.   Này Hiền giả Sariputta, ví như một người có mắt lên trên đỉnh một ngôi lầu tốt đẹp, quán sát   một  ngàn đường  vòng  xung quanh.   Cũng vậy,  này   Hiền  giả Sariputta,  tỳ-kheo,  với  thiên  nhãn thanh tịnh, siêu nhiên, quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sariputta, hạng tỳ-kheo  như  vậy  có  thể  làm  sáng  chói khu  rừng Gosinga”.

Ngài  A Na  Luật   trước  khi gặp  Phật pháp   thì   Ngài   là   người   bị   mù   đôi   mắt, nhưng  khi  gặp  chánh  pháp  của  Phật  Ngài nổ  lực  tu  tập  giữ  tâm  thanh  tịnh bất  động và chứng đạt Tâm BẤT ĐỘNG nên mỗi khi muốn nhìn  thấy Ngài đều dùng Thiên nhãn của mình  để  thấy mọi vật chớ không còn là đôi mắt thường của chúng ta nữa. Cho nên Ngài  trình bày  chỉ   có  người  tu  tập   có cái nhìn thanh  tịnh không bị nhiễm ô các dục, không bị dao động bởi các ác pháp, cái nhìn


được như vậy thì  sẽ làm sáng chói khu rừng
Gosinga.

Khi  nghe tôn giả A Na Luật trình bài xong  thì  tôn  giả  Xá  Lợi Phật  hỏi  tôn  giả Đại Ca Diếp còn tôn giả tu tập như thế nào?

“- Này Hiền giả Kassapa, Tôn giả Anuruddha đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở  đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả   Kassapa:   Này   Hiền   giả   Kassapa, khả ái thay ngôi rừng Gosinga...  (như trên)... Này Hiền giả Kassapa, hạng tỳ- kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?”.

Nghe  hỏi   như  vậy   tôn   giả   Đại  Ca
Diếp trình bày sự tu tập của mình:

“- Ở đây, này Hiền giả Sariputta, tỳ-kheo, tự mình  sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng núi, tự mình sống khất thực, và tán thán đời sống khất thực, tự mình mặc y phấn tảo và tán thán  hạnh  mặc  y  phấn  tảo,  tự  mình sống với ba y và  tán thán hạnh ba y, tự mình sống  thiểu  dục  và  tán  thán  hạnh thiểu  dục,  tự  mình sống  biết  đủ  và  tán


thán hạnh biết đủ, tự mình sống độc cư và  tán thán hạnh sống  độc cư, tự  mình sống  không  nhiễm  thế  tục và  tán  thán hạnh  không   nhiễm   thế   tục,  tự   mình tinh cần,  tinh tấn  và   tán  thán  hạnh tinh cần, tinh tấn, tự mình thành tựu giới hạnh và tán thán sự thành tựu giới hạnh, tự mình thành tựu  thiền định và tán  thán  sự  thành  tựu  thiền  định,  tự mình thành  tựu  trí tuệ  và  tán  thán  sự thành  tựu  trí tuệ,  tự  mình thành  tựu giải  thoát  và   tán  thán  sự  thành  tựu giải   thoát,   tự  mình    thành   tựu   giải thoát tri kiến và  tán thán sự thành tựu giải thoát tri kiến. Này Hiền giả Sariputta, hạng tỳ-kheo  như  vậy  có  thể làm sáng chói khu rừng Gosinga”.

Ngài Đại Ca Diếp trình bày sự tu tập của mình  qua các hạnh buông xả của một người  xuất  gia  ly gia  cắt  ái  sống  không  gia đình  không nhà cửa chỉ còn ba y một bát đi xin  ăn  hằng  ngày  ai  cho sao cũng  ăn  được không chê cũng không khen.

Tự mình   thích   sống  trong  rừng  núi thanh  vắng,  tự  mình   thích   sống   đi  khất


thực,  tự  mình  thích  mặc  y  áo  thô  xấu,  tự mình  thích  sống  ba y một bát,  không  thích nhiều  đồ,  tự  mình  thích  sống  thiểu  dục  tri túc, từ thích  sống độc cư, không thích  nói chuyện   với   bất   một   người   nào,   tự   mình thích   sống   không  đắm  nhiễm thế  tục,  tự mình thích sống siêng năng, tự mình thích sống   giữ   gìn  giới   luật   nghiêm  chỉnh,   tự mình  thích  sống  tinh tấn giữ  gìn tâm BẤT ĐỘNG,  THANH  THẢN,  AN  LẠC  và  VÔ SỰ,  tự  mình   thích   sống  với  tri kiến  giải thoát.  Sống như ngài  Đại  Ca Diếp  như  vậy là  đã  giải  thoát chứng  đạo  rồi  còn  gì  mà không làm sáng chói khu rừng Gosinga.

Khi  ngài Đại  Ca Diếp  trình bày  xong thì  ngài  Xá  Lợi Phất  hỏi  tôn  giả  Đại  Mục Kiền Liên, còn kinh nghiệm tu hành của Ngài như thế nào?

“- Hiền giả Moggallana, Tôn giả Mahakassapa  đã   trả  lời  theo  sự   giải thích   của  mình. Ở   đây, nay  chúng  tôi hỏi  Tôn  giả  Mahamoggallana:  Này Hiền giả Moggallana, khả ái thay khu rừng      Gosinga!...       Này      Hiền      giả


Moggallana,  hạng  tỳ-kheo  nào  có  thể
làm sáng chói khu rừng Gosinga?”.

Khi  nghe tôn giả Xá Lợi Phật hỏi như vậy  thì  tôn  giả  Đại  Mục  Kiền  Liên  trả  lời như sau:

“- Ở   đây,  này  Hiền  giả  Sariputta, hai  Tỳ-kheo  đàm  luận về  Abhidhamma (A-tỳ-đàm). Các vị ấy hỏi nhau  câu  hỏi, và  khi được  hỏi,  các  vị trả  lời  được  với nhau  chớ không dừng lại (không trả lời được), và  cuộc đàm  luận về  pháp  được tiếp  tục. Này  Hiền  giả  Sariputta, hạng tỳ-kheo  như  vậy  có  thể  làm  sáng  chói khu rừng Gosinga”.

Tôn giả Mục Kiền Liên là người đệ nhất thần thông trong các hàng đệ tử của Phật, sao ông không đem pháp tu hành nào mà  có   được  thần  thông  đó.  Ở  đây  ông  lại đem  bộ   luận   A-Tỳ-Đàm   ra  luận   bàn   thì chúng  tôi  tin rằng  đây  có  phải  là  ông  Mục Kiền Liên trả lời hay là người sau thêm vào để  hạ  bệ  các  hàng  đệ  tử  của  Phật.  Luận  A- Tỳ-Đàm là một  bộ sách lý luận chớ đâu phải là những hành động tu tập thanh  tịnh làm sáng chói khu rừng Gosinga.


Ở đây chúng ta không được ngài Mục Kiền  Liên  trình bày  sự  tu tập  như  thế  nào để trở thành một người đệ tử đệ nhất thần thông của Phật, nhưng chúng ta cũng biết Thần thông đệ nhất đều xuất phát từ tâm BẤT  ĐỘNG,  dù  muốn  dù  không  thì  ngài Mục Kiền Liên phải sống trong tâm BẤT ĐỘNG suốt trong bảy ngày đêm thì  mới gọi là đệ nhất thần thông.

Khi  tôn giả Đại Mục Kiền Liên trả lời xong liền hỏi lại tôn giả Xá Lợi Phất còn Ngài tu hành như thế nào?

“-  Hiền  giả  Sariputta,  chúng tôi đã  trả  lời  theo sự  giải  thích  của chúng tôi.  Ở   đây, nay  chúng  tôi  hỏi  Tôn  giả Sariputta: Này Hiền giả Sariputta, khả ái  thay,   khu   rừng  Gosinga!  Đêm  rằm sáng   trăng,   cây   Ta-la  trổ   hoa   cùng khắp,   hương   trời   như   được   tỏa   rộng khắp nơi. Này Hiền giả Sariputta, hạng tỳ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?”

Nghe hỏi như vậy tôn giả Xá Lợi Phật trình bày  sự  tu  tập  của  mình  để  huynh  đệ cùng nghe:


“-   Ở      đây,  này    Hiền   giả Moggallana, tỳ-kheo điều phục được tâm,   không   phải   tỳ-kheo   không   điều phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy  muốn an  trú  vào  buổi  trưa, vị ấy  an trú quả ấy buổi trưa; an  trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú  quả   ấy  vào   buổi chiều.  Hiền   giả Moggallana,  ví  như  một  vị  vua  hay  vị đại thần của vua có một tủ áo đựng đầy những áo có nhiều màu sắc khác nhau. Cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi sáng, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi sáng;  cặp  áo  nào  nhà vua  muốn mặc vào buổi trưa, nhà vua mặc cặp áo ấy vào   buổi   trưa;  cặp   áo   nào   nhà   vua muốn mặc vào buổi chiều, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi chiều. Cũng vậy, này Hiền giả Moggallana, tỳ-kheo điều phục được tâm, không phải tỳ-kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào tỳ- kheo  ấy  muốn  an  trú  vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả  nào  tỳ-kheo  ấy  muốn an  trú  vào


buổi trưa, vị ấy  an  trú  quả  ấy  vào  buổi trưa; an trú quả nào vị tỳ-kheo ấy muốn an  trú  vào buổi  chiều,  vị ấy  an  trú  quả ấy vào buổi chiều. Này Hiền giả Moggallana,  hạng  tỳ-kheo  như   vậy  có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga”.

Sự  trình bày  tu  tập  của  ông  Xá  Lợi Phất  nhiếp tâm  và  an  trú  tâm, muốn  hồi nào đều làm được hồi nấy.

“1- Tỳ-kheo điều phục được tâm, không phải tỳ-kheo không điều phục được tâm.

2- An  trú  quả  nào  vị  ấy  muốn an trú  vào buổi  sáng,  vị ấy  an  trú  quả  ấy vào  buổi sáng;  an  trú  quả  nào  vị  ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn  an  trú  vào  buổi  chiều,  vị  ấy  an trú quả ấy vào buổi chiều”.

Khi  trình bày sự tu tập cho mọi người nghe xong thì  tôn  giả  Xá  Lợi Phật  đề  nghị các  tôn giả nên đem đến hỏi Phật qua kinh nghiệm tu hành của mình đúng sai để đức Phật  chỉnh  sửa  lại.  Lời  đề  nghị quá  hợp lý


nên  mọi tôn  giả  đều  rủ  nhau đến  chỗ  Phật để  thưa  hỏi  cho cặn  kẻ.  Nhất  là  mọi vị  đều thuật lại những công phu tu hành của mình cho đức Phật nghe:

Sau khi  nghe xong các tôn giả trình bày,   đức   Phật   chỉ   trả   lời   ngắn   gọn   mà không phê bình một tôn giả nào tu tập sai pháp  cả,   có  nghĩa là  đức  Phật  chấp  nhận các tôn giả đều tu tập đúng nhưng có  điều là các ông không khéo trả lời, chỉ thẳng tâm BẤT ĐỘNG.

Đạo Phật tu hành rất đơn giản không có khó khăn không có mệt nhọc, không có cầu  kỳ  như  các  tôn  giả  trình bày  pháp  tu
tập.

Chúng ta hãy lắng  nghe đức Phật trả lời pháp môn tu hành một cách đơn giản:

“Này   Sariputta,  tất   cả   đều  lần lượt  khéo  trả  lời.  Và  này  các  ông  hãy nghe  Ta  nói  hạng  tỳ-kheo  nào  có  thể làm sáng   chói   khu   rừng   Gosinga?   Ở đây, này   Sariputta,  tỳ-kheo,  sau  buổi ăn,  sau  khi đi  khất  thực về,  ngồi  kiết già, lưng  thẳng, đặt niệm trước mặt, và nghĩ   rằng:  “Ta  sẽ  không  bỏ  ngồi  kiết

Trưởng lão Thích Thông Lạc


già  này  cho  đến  khi   tâm  của  ta  được khéo giải thoát các lậu hoặc, không có chấp thủ”. Này Sariputta, hạng tỳ-kheo như  vậy có thể làm sáng chói khu  rừng Gosinga”.

Lời dạy của đức Phật tu hành rất đơn giản:  “Ta  sẽ  không  bỏ  ngồi  kiết  già  này cho đến khi  tâm của ta được khéo giải thoát các lậu hoặc, không có chấp thủ”.

Quý vị có nghe lời dạy này không? Tu hành  chỉ cần ngồi  kiết  già  hay bán  già  rồi khéo  tác  ý  để   giữ  tâm  giải  thoát các   lậu hoặc và không để  tâm dính  mắc chỗ nào cả tức  là  không  chấp  thủ.  Tu  tập   có như  vậy mà quý vị sao bị chấp thủ quá nhiều nào là tâm hết vọng tưởng, nào là tâm thanh  tịnh, nào là khinh an hỷ lạc, nào là hơi thở nhẹ nhàng, nào là vui mừng hết cở, nào là xúc động rơi nước mắt, nào là kiến tánh thành Phật,  nào  là  niệm  Phật  nhất  tâm, nào  là biết  vọng liền  buông,  nào  là  tham  công  án, tham   thoại  đầu  v.v...  Tất   cả    những   tâm niệm này là tâm chấp thủ.

Tu  tập  ở    đây  đức  Phật  dạy  rất  đơn giản  chỉ  ngồi  kiết  già  lưng  thẳng  rồi  giữ


tâm không lậu hoặc và không để tâm  dính mắc một cái gì khác. Xin quý vị lưu ý GIỮ TÂM KHÔNG LẬU HOẶC không có nghĩa là  giữ  tâm không  vọng niệm mà  GIỮ  TÂM KHÔNG GIẬN HỜN, THƯƠNG,  GHÉT, LO BUỒN,  SỢ  HÃI  v.v...  Ở  đây  có  nghĩa là TÂM THANH THẢN,  AN  LẠC VÀ  VÔ  SỰ. Khi  đức Phật xác định pháp môn tu tập đơn giản còn các vị đệ  tử trình bày pháp môn tu tập quá khó khăn và rất phức tạp.



Tnt&ng lao Thich  Thong  L c


























































Tu  theo  Phật  giáo  là  bắt  đầu  tu
tập pháp ly dục ly bất thiện pháp mà ly dục ly bất  thiện  pháp  là  phải  dùng  tri kiến, nhưng tri kiến phàm phu không thể giải thoát được, vì thế phải sử dụng tri kiến giải


thoát, nhưng tri kiến giải thoát thì  phải học tập.  Trong  đạo  Phật  có   mười  một  tri kiến giải thoát. Bởi vậy người nào muốn tu theo Phật  giáo  để  được  giải  thoát đều  phải  học những  tri kiến  này.  Vậy  mười  một  tri kiến giải thoát này như thế nào?

Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật giải thích  mười  một  tri kiến  giải  thoát để  mọi người  cùng   hiểu  biết  rõ  ràng    hơn,  để   áp dụng vào  con đường  tu  tập  của  mình  đến nơi, đến chốn,   để kết quả đạt được tâm BẤT ĐỘNG hoàn toàn.









































Đây  là  tri kiến  giải  thoát thứ
nhất chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:


“Tri  kiến  giải  thoát  thứ  nhất: Chư  tỳ- kheo, thế nào là tỳ-kheo không biết rõ các sắc?   Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo đối  với  sắc  pháp  không  như  thật  biết tất cả loại sắc thuộc bốn đại và sắc do bốn đại hợp thành. Như  vậy, này các tỳ- kheo, tỳ-kheo không biết rõ các sắc”.

Câu này đức Phật  dạy rất rõ, nói đến SẮC là phải hiểu: SẮC do BỐN ĐẠI hợp thành,  không  có   SẮC  nào  mà  ngoài  BỐN ĐẠI mà có được. Vậy SẮC do BỐN ĐẠI hợp thành là gì?
Bốn đại là ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA. Một vị Tỳ kheo tu theo Phật giáo mà không hiểu SẮC là do ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA hợïp thành thì không phải là vị Tỳ kheo đệ tử Phật.

Một  người  hiểu  rõ  SẮC   là  do  BỐN ĐẠI hợp thành mà SẮC hợïp thành là pháp VÔ THƯỜNG mà vô thường là khổ. Do hiểu biết  như vậy  nên người  ấy  không  dính  mắc và không chấp đắm vào SẮC tức là không chắp đắm vào thân TỨ ĐẠI. Không chắp đắm  vào  thân  TỨ  ĐẠI  là  người  có  tri kiến giải thoát thứ nhất.








































Đây  là  tri kiến  giải  thoát thứ
hai,  chúng  ta  hãy  lắng  nghe đức  Phật  dạy:


“Tri  kiến  giải  thoát  thứ  hai:   Chư  tỳ- kheo,  thế  nào   là   tỳ-kheo   không  khéo phân biệt các tướng? Ở  đây, này các  tỳ- kheo,  tỳ-kheo  không  như   thật  biết  kẻ ngu  và  nghiệp  tướng  của  người  đó,  kẻ trí và  nghiệp  tướng  của  người  đó.  Như vậy,   này   các   tỳ-kheo,   tỳ-kheo   không khéo phân biệt các tướng”.

Tri  kiến  thứ  nhất  nói  về  SẮC  còn  ở đây  đức  Phật  dạy  tri kiến  thứ  hai  nói  về NGHIỆP TƯỚNG. Vậy NGHIỆP TƯỚNG là cái gì?

Như quý vị đều biết con người ai cũng có  thân, nhưng  thân do bốn  đại: ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA   hợïp lại mà thành  gọi là SẮC THÂN. Nhưng  tại sao mọi người lại có sắc  thân  khác  nhau;  người  có   sắc  thân  to lớn; người có sắc thân nhỏ bé; người có sắc thân đẹp đẽ, người có sắc thân xấu xí; người có   sắc  thân  trắng  trẻo;  người  có   sắc  thân đen thui,  đen thít v.v...  Tất  cả  những  hình tướng sai khác của thân người này không giống với thân người kia đều được gọi là NGHIỆP TƯỚNG.


Cho nên trên sắc thân của mọi người đều có TƯỚNG RIÊNG BIỆT.  Vậy tướng riêng biệt của mọi người này từ đâu mà có?

Do từ nghiệp mà có  các  TƯỚNG RIÊNG này. Vậy NGHIỆP là cái gì?

NGHIỆP là những hành động của Ý THỨC,  của  LỜI  NÓI,  của  TAY  CHÂN.  Ba chỗ  này  thường  là  nơi  xuất  phát  NGHIỆP. cho nên NGHIỆP gồm có  NGHIỆP THIỆN, NGHIỆP ÁC.

NGHIỆP  THIỆN  là  những  hành thân,  miệng, ý làm việc lành,  còn  NGHIỆP ÁC là do hành động thân, miệng, ý làm việc ác. Làm việc lành là không làm khổ mình khổ người, còn làm việc ác là làm khổ mình khổ người. Cho nên trong đạo Phật xác định rất   rõ thiện  ác  phân  minh  không  thể  lầm lộn được.

Các tướng riêng biệt của mỗi người khác nhau là do làm thiện nhiều hay làm thiện ít hoặc làm ác nhiều hay làm ác ít. Do sống  ác  hay thiện  mà  tướng  có  đẹp  xấu,  có cao thấp, có tật  nguyền hay không tật nguyền. Có kẻ ngu lại có người thông minh đó đều do nghiệp mà ra cả.


Tướng theo nghiệp mà có nên nghiệp đâu thì  xác định tướng đấy.
Nhờ   có tri kiến về TƯỚNG nên chúng ta sống trong chánh nghiệp thường làm những điều thiện và tăng trưởng những điều thiện.

Đây  là  tri kiến  về  NGHIỆP  TƯỚNG, nhờ   hiểu   biết   về   NGHIỆP   TƯỚNG   nên thân tâm không làm điều ác. Đó là tri kiến giải thoát thứ hai trong đạo Phật.










































Đây là tri kiến giải thoát thứ ba.

Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Tri


kiến giải thoát thứ ba: Chư  tỳ-kheo, thế nào  là  tỳ-kheo  không  trừ  bỏ  trứng  con bò  chét? Ở  đây,  này các tỳ-kheo, tỳ-kheo thọ dụng dục  tầm  khởi  lên,  không  từ bỏ, không tránh né, không chấm dứt, không làm cho không tồn tại, thọ dụng sân   tầm   khởi   lên...   (như   trên)...   thọ dụng  hại  tầm  khởi  lên...  (như   trên)... thọ dụng các ác, bất thiện pháp khởi lên,   không   từ  bỏ,   không  tránh   né, không chấm dứt, không làm cho không tồn tại. Như  vậy, này các  tỳ-kheo, là tỳ- kheo không trừ bỏ trứng con bò chét”.

Nếu  một  người  có  tri kiến  giải  thoát thứ  ba  này  thì  rất  thông  suốt  những   tâm niệm ham muốn, những tâm niệm sân  hận, những tâm niệm làm khổ mình làm khổ người.  Khi  những  tâm  niệm  đó   khởi  lên nhất định  họ không bao giờ nuôi dưỡng lòng ham  muốn,  lòng  sân  hận,  lòng  làm   khổ mình  khổ người. Họ sẽ chấm dứt, diệt ngay những  tâm niệm ấy. Những  tâm niệm ấy là những  tâm niệm  đau khổ.  Bởi  tri kiến  giải thoát thứ  ba là  tri kiến  hiểu  về  lòng  ham muốn,  về  lòng  sân  giận,  về  những  ý  suy nghĩ làm khổ mình,  khổ người. Khi  tri kiến


hiểu  rõ  các  ác  pháp  đó   thì  khi tâm  niệm khởi  lên  những  ác  pháp  đó  nó  liền  diệt  và loại trừ ra khỏi tâm.

Tóm  lại  chúng  ta  đã  học được  ba tri kiến giải thoát:

1-  Tri kiến  về  SẮC  THÂN do  BỐN ĐẠI hợp thành.

2- Tri  kiến về NGHIỆP TƯỚNG.

3- Tri  kiến về DỤC TẦM, SÂN TẦM, HẠI TẦM.










































Kế  tiếp  chúng  ta  học tri kiến
thứ tư. Muốn hiểu rõ tri kiến giải thoát thứ


tư  thì  chúng  ta  hãy  nghe  lời  dạy  của  đức Phật: “Tri kiến giải thoát thứ tư: Và này các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo không băng bó vết thương? Ở đây, này các tỳ- kheo,  tỳ-kheo,  khi mắt  thấy  sắc,  nắm giữ tướng chung, nắm giữ tướng riêng. Những   nguyên   nhân gì   làm   cho  con mắt  không  được  chế  ngự, khiến  tham ái,  ưu  bi,  các  ác  bất  thiện  pháp  khởi lên; tỳ-kheo không tự chế ngự nguyên nhân ấy,  không  hộ  trì con mắt,  không thực hành  sự   hộ  trì con  mắt.  Khi   tai nghe tiếng... mũi ngửi hương...  lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy nắm giữ tướng chung, nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham   ái,  ưu  bi,  các  ác  bất  thiện  pháp khởi lên; tỳ-kheo không chế ngự nguyên nhân ấy,   không   hộ   trì ý   căn,   không thực hành sự hộ trì ý căn. Như  vậy, này các  tỳ-kheo,  là  tỳ-kheo  không  băng  bó vết thương”.

Tri  kiến  giải  thoát thứ  tư  là  tri kiến phòng   hộ sáu căn tức là sự hiểu biết giữ gìn


mắt,   tai,   mũi,   miệng,   thân,   ý   của   mình không  cho  dính  mắc  chấp  đắm  sáu  trần: sắc,  thinh, hương,  vị,  xúc,  pháp.  Muốn  giữ gìn được  như vậy  thì  phải  sống  độc  cư trọn vẹn. ĐỘC CƯ là một phương pháp phòng   hộ sáu  căn  đệ nhất.  Người  biết  sống  ĐỘC  CƯ là người có tri kiến giải thoát thứ tư.










































Tri kiến giải thoát thứ năm, muốn
hiểu rõ nó chúng  ta hãy lắng nghe đức Phật


dạy:  “Tri  kiến  giải  thoát  thứ  năm:  Và này  các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo không  xông  khói?  Ở    đây,  này  các  tỳ- kheo,   tỳ-kheo   không   có   thuyết   giảng rộng rãi cho các người khác biết Chánh pháp   mình  được   nghe,   được   thọ  trì. Như   vậy,   này   các   tỳ-kheo,   là   tỳ-kheo không xông khói”.

Khi   chúng  ta  đã  thông  suốt  bốn  tri kiến giải thoát trên  đây là chúng ta có  một đời sống bình  an không có một   ác pháp nào tác động làm tâm chúng ta buồn khổ lo  rầu ưu bi phiền não. Khi tâm chúng ta được giải thoát như vậy chúng ta nên đem dạy lại cho người khác hiểu biết để  mọi người được giải thoát như chúng ta.

Đến tri kiến giải thoát thứ năm Phật dạy:  Mình   nên  đem  những  điều  hiểu  biết của  mình  đã  được  giải  thoát dạy  lại  cho người khác để họ cùng giải thoát như mình.

Tri   kiến  giải  thoát thứ  năm  là  thực hiện  lòng  tốt  của  mình  với  mọi  người,  đem sự  lợi  ích của  mình  cho mọi người  để  cùng nhau lợi ích.





0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!