Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

MƯỜI HAI CỬA VÀO ĐẠO 1



MƯỜI HAI CỬA VÀO ĐẠO
Sách  này  chỉ  kính  biếu,  không  bán!  Quý  phật tử  hay  bạn  đọc  có  nhu  cầu  thỉnh  sách,  vui  lòng liên hệ Ban kinh sách của Tu Viện Chơn Như:

ĐT: (066) 389.2911 (Tu Viện Chơn Như)
098.809.4445 (Hà Nội) Web: http://chonnhu.net
(Các thông tin đính chính có trên trang Web này)
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
MƯỜI HAI

CỬA VÀO ĐẠO
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
PL: 2556 - DL: 2012
L ỜI NÓI ĐẦU  
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
Muốn hiểu rõ 12 nhân duyên, bắt đầu chúng  ta  tìm hiểu  nguyên  nhân  nào  sinh  ra ưu bi, sầu khổ, bệnh tử của con người.  Ở đây nói  nguyên  nhân,  tức  là  nói  duyên  nào  sinh ra sự  đau khổ  của  con người.  Con người  đau khổ không phải tự nhiên mà có đau khổ.
Cho  nên  đức  Phật  đã  thấy  rõ  điều  này, nên  Ngài  mới  dạy  cho chúng ta  bài  pháp  12 nhân duyên để chúng ta hiểu cuộc đời này không  có  cái  gì xảy  ra mà  tự  nhiên.  Mọi  sự xảy ra đều có duyên cả. Hễ có duyên này đến thì trước  đó  phải  có  một  duyên  khác.  Ví  dụ, hiện  giờ  thân  đang  bệnh  khổ  thì chúng  ta biết  ngay trước  khi  bệnh  khổ  là  do chúng ta có đời sống nhà cửa, của cải, tài sản, ăn uống và chung sống với mọi người. Như vậy là do duyên SINH  mà có ƯU BI SẦU KHỔ  và BỆNH CHẾT.
13

MƯỜI HAI CỬA VÀO ĐẠO

Muốn hiểu rõ điều này, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật trả lời những câu hỏi của tu sĩ ngoại đạo Kassapa:

“Kassapa hỏi:

- Thưa Tôn  giả  Gotama, có  phải  khổ do tự mình làm ra  không?

Đức Phật trả lời:

- Không phải vậy.

- Thưa Tôn  giả  Gotama, có  phải  khổ do người khác làm ra  không?

Đức Phật trả lời:

- Không phải vậy.

- Thưa Tôn  giả  Gotama, có  phải  khổ do mình, do người khác làm ra  không?

Đức Phật trả lời:

- Không phải vậy.

- Thưa Tôn  giả  Gotama, có  phải  khổ do tự nhiên sinh ra không?

Đức Phật trả lời:

- Không phải vậy.

- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ không có không?
14

Trưởng Lão THÍCH THÔNG LẠC


Đức Phật trả lời:

- Không phải khổ không có, khổ có, Kassapa  ạ!

-  Như   vậy,   Tôn   giả   Gotama  không biết, không thấy khổ.

Đức Phật trả lời:

-   Không   phải   ta  không   biết   khổ, không  thấy  khổ,  Ta   biết  khổ,  Ta   thấy khổ”. (42 Tương Ưng tập 2)

Thông thường ai  cũng hiểu rằng:  Người  ta đau khổ là do tự mình  làm cho mình  đau khổ hoặc do người khác. Thế mà ở đây đức Phật không  chấp  nhận  KHỔ   do  mình,   do  người khác làm. Vậy khổ này do cái gì làm ra đây?

Chúng  ta  hãy  bình  tĩnh  lắng  nghe,  đức Phật  sẽ  lần  lượt  chỉ  dạy  tường  tận  một  thế giới quan tập khởi KHỔ của loài người. Nếu không  học  Phật  thì không  thể  nào  chúng  ta biết.  Nhờ  có  giáo  lý  đức  Phật  nên  chúng  ta mới hiểu khổ từ đâu mà có, không phải do chúng  ta  hay  do  người  khác  làm  khổ.  Vậy khổ  do đâu  mà  có,  chúng  ta  hãy  kiên  nhẫn chờ  đợi  rồi  lần  lượt  sẽ  hiểu  những  gì  đức Phật dạy, rất rõ ràng và cụ thể.



15

MƯỜI HAI CỬA VÀO ĐẠO

THƯỜNG KIẾN
VÀ ĐOẠN KIẾN
Khi   Kassapa  hỏi   bất   cứ   chỗ   nào   về “KHỔ”,  thì đức  Phật  cũng  phủ  nhận:  “Không phải vậy”. Vậy như thế nào đây?

Nên Kassapa không thể chờ lâu hơn nữa, liền hỏi Phật:

“- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nói cho con hiểu về KHỔ.

- Này Kassapa, một người tự làm Khổ mình là “Thường Kiến”.

- Này Kassapa, một người làm Khổ người khác là “Đoạn Kiến”. Và tất cả những  câu  hỏi  của  ngươi  đều  là THƯỜNG KIẾN và ĐOẠN KIẾN”.

(42 Tương Ưng tập 2)

Thông  thường,  ai  cũng  hiểu  khổ  do mình


16

Trưởng Lão THÍCH THÔNG LẠC

làm ra hay người khác làm, thế mà ở đây đức Phật phá vỡ kiến chấp thường kiến và đoạn kiến này, vì những kiến chấp này sai, không đúng. Ngoài kiến chấp đoạn kiến và thường kiến  khổ,  thì còn  có  cái  hiểu  biết  khổ  nào khác hơn?

Đoạn kinh trên đây đã xác định cho chúng ta thấy, sự hiểu biết của con người thường bị rơi vào vào hai CỰC ĐOAN: thường kiến và đoạn kiến. THƯỜNG KIẾN là bị dính  mắc vào chấp có; ĐOẠN KIẾN  thường bị dính  mắc vào chấp không.

Vì vậy trên đời này, nếu cái này có thì cái này không thể không, nếu cái kia không thì không  thể  cái  kia có.  Cho nên  không  có  một vật nào vừa có, vừa không được, có là có, mà không là không. Đó là cái hiểu biết thông thường của con người, cái hiểu biết của họ không vượt ra khỏi hai cực đoan này. Vì cái hiểu  biết  như  vậy,  nên  con người  phải  chịu khổ muôn đời, muôn kiếp. Thật đáng thương!

Sự giải thoát của Phật cũng lấy từ sự hiểu biết  của  con  người.  Từ  xưa  đến  nay,  vì  sự truyền  thừa  sự  hiểu  biết  sống  trong  ái  dục, nên sự hiểu biết ấy toàn là đau khổ. Khi đạo Phật ra đời, đức Phật dạy chúng ta hiểu biết lìa xa tâm ái dục. Lìa xa tâm ái dục là lìa xa

17

MƯỜI HAI CỬA VÀO ĐẠO

hai cực đoan thường kiến (CÓ), và đoạn kiến (KHÔNG). Vì vậy, sự hiểu biết này hoàn toàn đi đến giải thoát.

Bởi  vậy,  sự  hiểu  biết  của  con  người  rất quan trọng,  do sự  hiểu  biết  mà  đời  đời,  kiếp kiếp  phải  chịu trong  đau khổ.  Cái  hiểu  biết của loài người hiện nay là cái hiểu biết theo truyền thống từ ngàn xưa, do thủy tổ của loài người  để  lại  chỉ  biết  hiểu  như  vậy.  Mãi  đến khi đức Phật ra đời, Ngài tu hành chứng quả Vô Lậu, thấy biết vạn pháp trên thế gian này như thật,  nên  Ngài  dõng  dạc  tuyên  bố:  “Còn có  cái  hiểu  biết  khác,  cái  hiểu  biết  không nằm trong hai cực đoan CÓ và KHÔNG, cái hiểu  biết  vượt  ra ngoài  vòng  khổ  đau. Đó  là cái hiểu biết THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN”.

Như  chúng  ta  đã  biết,  tất  cả  những  câu

hỏi  của  Kassapa

đều  nằm  trong  hai  cực  đoan

“có”   và  “không”.   Vì  thế  đức  Phật   trả  lời: “không  phải  vậy”.  Đó  là  đức  Phật  trả  lời đúng,  vì con người  điên  đảo  nên  không  thấy
12  nhân  duyên  tập  khởi  khổ,  mà  cho rằng
MÌNH TỰ LÀM VÀ NGƯỜI KHÁC LÀM KHỔ.



18

Trưởng Lão THÍCH THÔNG LẠC
DUYÊN
VÔ MINH SINH
Chúng tôi  xin lập lại  câu trên, khi  nghe đức Phật trả lời không phải vậy. Lúc bấy giờ ngoại  đạo  Kassapa  lấy  làm  ngạc  nhiên  nên mới  thỉnh  cầu  đức  Phật  chỉ   dạy,  đức  Phật bảo:  “Từ  bỏ  hai cực  đoan   ấy,  Như   Lai thuyết   pháp   theo   con   đường    TRUNG ĐẠO”. (42 Tương Ưng tập 2)

Vậy con đường trung đạo như thế nào?

Chúng  ta  hãy  lắng  nghe  đức  Phật  giảng dạy,  để  tri kiến  chúng  ta  có  sự   hiểu  biết không  còn  bị  rơi  vào  hai  cực   đoan  có  và không. Chính  nhờ sự hiểu biết mới mẻ này có thể giúp chúng ta thoát mọi sự khổ đau. Vậy quý vị cùng chúng tôi hãy chú ý lời đức Phật dạy:

“-  Này   Kassapa,   con   đường   TRUNG

19

MƯỜI HAI CỬA VÀO ĐẠO


ĐẠO  là  con đường  vượt  ra khỏi  hai cực đoan,  gồm có 12 nhân duyên:

Từ  duyên  VÔ  MINH  khởi  nên  duyên
HÀNH khởi.

Từ duyên HÀNH  khởi nên duyên THỨC
khởi.

Từ duyên THỨC  khởi nên duyên DANH SẮC   khởi.

Từ  duyên  DANH SẮC  khởi  nên  duyên
LỤC NHẬP khởi.

Từ  duyên  LỤC  NHẬP  khởi  nên  duyên
XÚC khởi.

Từ  duyên  XÚC   khởi  nên  duyên  THỌ
khởi.

Từ       duyên            THỌ    khởi    nên     duyên            ÁI
khởi.

Từ   duyên   ÁI         khởi   nên   duyên  HỮU
khởi.

Từ  duyên  HỮU  khởi  nên  duyên  THỦ
khởi.

Từ  duyên  THỦ  khởi  nên  duyên  SINH
khởi.

Từ duyên SINH khởi nên duyên ƯU  BI,

20



SẦU KHỔ, BỆNH TỬ khởi.

Từ  duyên  ƯU  BI,  SẦU  KHỔ,  BỆNH  TỬ
khởi nên duyên VÔ MINH khởi.

Như  vậy  là  toàn  bộ  khổ  uẩn  này  theo
12 duyên tập khởi...” (42 Tương Ưng tập 2)

Do từ duyên VÔ MINH mà 12 nhân duyên này mới tập khởi được. Và vì vậy  SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT mới có. Chính sinh, già, bệnh, chết là nguồn gốc do duyên vô minh, chứ không phải tự mình hoặc người khác làm ra sinh,  già,  bệnh,  chết.  Bây  giờ  quý  vị  đã  hiểu rõ chưa?

Có hiểu như vậy mới biết nguyên nhân qui luật  nhân  quả  theo  12 nhân  duyên  này  mà qui  định  phước  hay tội  của  loài  người,  không sai  một  hào  li nào  cả.  Vì  vậy  nhân  nào  quả nấy, làm ác thì phải chịu khổ đau chứ không có  mình  và  người  khác  làm  khổ,  mà  chính nhân  quả.  Vì  con  người  không  thông  hiểu nhân  quả,  xem  thường  nhân  quả  nên  làm theo sự ham muốn (ái dục), vì thế tạo ra biết bao  nhiêu  là  ác  pháp.  Do  tạo  ra  nhiều  ác pháp  nên  phải  gánh  chịu sự  khổ  đau, nhưng lại không hiểu nên đổ thừa người này người khác làm khổ mình,  hay hoặc than trời trách đất  sao không  ban  cho mình  một  cuộc  sống


bình an.

Cho nên mọi sự đau khổ của đời người chỉ vì con người  VÔ  MINH  mà  tạo  ra sự đau khổ đó.

Muốn cho thoát khổ con người phải diệt sạch vô minh. Vậy diệt sạch vô minh bằng cách nào?

Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Duyên vô minh diệt”.



DUYÊN
VÔ MINH DIỆT
Muốn  sinh,  già,  bệnh,  chết  chấm  dứt thì phải  đoạn  diệt  hoàn  toàn vô  minh.  Muốn đoạn diệt vô minh chúng ta phải diệt cái gì trước. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:

“Từ VÔ MINH diệt các HÀNH diệt. Từ HÀNH diệt nên THỨC diệt.
Từ THỨC diệt DANH SẮC diệt.

Từ DANH SẮC diệt LỤC NHẬP diệt. Từ LỤC NHẬP diệt XÚC diệt.
Từ XÚC diệt THỌ diệt. Từ THỌ diệt ÁI diệt. Từ ÁI diệt HỮU diệt.


Từ HỮU diệt THỦ diệt. Từ THỦ diệt SINH diệt.
Từ  SINH diệt  ƯU  BI,  SẦU  KHỔ,  BỆNH TỬ diệt.

Từ ƯU BI, SẦU KHỔ, BỆNH TỬ diệt VÔ MINH diệt.

Như  vậy toàn bộ khổ uẩn 12 nhân duyên  này  đoạn  diệt.  Thì tất  cả  các  khổ của con người đều bị diệt”. (42 Tương Ưng tập 2)

Theo như lời đức Phật dạy ở trên, người không hiểu 12 nhân duyên là người không sáng suốt (người mù mờ) nên luôn luôn bị  VÔ MINH che đậy, từ đó mới bị THAM ÁI trói buộc. Vì thế, thân tâm luôn luôn chạy theo 12 nhân duyên sinh khởi, chịu mọi khổ đau sinh, già, bệnh, chết. Và chính  không đoạn diệt 12 nhân  duyên,  nên  khi thân  hoại  mạng  chung phải  tiếp  tục  tái  sinh  luân  hồi  và  chịu muôn vàn  sự  khổ  đau  không  bao  giờ  dứt.  Trong Kinh  Tương  Ưng,  đức  Phật  dạy:  “Này  các thầy  tỳ  kheo,  các  thầy  bị  VÔ  MINH  che đậy  nên  mới  bị  THAM ÁI  hệ  phược,  thân này  của  người  ngu  được  sanh  khởi.  Vô minh  ấy,   người   ngu   không   đoạn   tận. Tham ái ấy, người ngu không tận trừ. Vì


sao?

Này   các   tỳ   kheo,   người   ngu   sống Phạm hạnh không phải vì chân chính đoạn trừ khổ đau.  Do vậy người ngu, khi thân  hoại  mạng  chung,  đi đến  một  thân khác. Do đi đến một thân khác, người ấy không thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết, sầu,   bi,   khổ,   ưu,   não.   Ta   nói   rằng: “Người  ấy  không  thoát  khỏi  đau  khổ”. (50 Tương Ưng tập 2)

Một người hiền trí thông suốt 12 nhân duyên, nên họ biết 12 nhân duyên này đều là một  chuỗi  vòng  tròn  không  có  lối  thoát  ra, chỉ  có  đoạn  trừ  VÔ  MINH.  Nhưng  khi  đoạn trừ  vô  minh  thì tâm  trí sáng  suốt  vô  cùng, nhờ  tâm  trí sáng  suốt  nên  họ  chấp  nhận sống đời sống phạm hạnh để tận trừ 12 nhân duyên, nên mới thoát ra khỏi sinh, già, bệnh, chết, ưu bi, sầu khổ...

Chúng  ta  hãy  lắng  nghe  đức  Phật  dạy: “Và này các tỳ kheo, bị vô minh che đậy, nên mới bị tham ái hệ phược, thân người hiền trí được sinh khởi. VÔ MINH ấy, người Hiền trí đoạn tận. THAM ÁI ấy, người hiền trí tận trừ. Vì sao?

Này  các  tỳ  kheo,  người  hiền  trí sống


Phạm hạnh, vì chân chánh đoạn trừ khổ đau.   Do  vậy   người   hiền   trí,   khi   thân hoại   mạng   chung,   không   đi  đến   một thân  khác  (tái  sinh).  Do  không  đi tái sinh, vị ấy thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết,  sầu,  bi,  khổ,  ưu,  não.  Ta  nói  rằng: “Vị  ấy  thoát  khỏi  đau   khổ”.   (50  Tương Ưng tập 2)


















DIỆT DUYÊN VÔ MINH




Những lời dạy của đức Phật trên đây là chỉ   thẳng  cho  chúng  ta  hiểu  biết  12  nhân duyên   theo   lý   duyên   khởi,   bắt   đầu   từ   vô minh. Do VÔ MINH mà HÀNH khởi, do HÀNH khởi mà THỨC khởi... và như vậy tất cả 12 duyên khởi  đầy đủ. Mười  hai  duyên khởi  đầy đủ tức là khổ tập khởi. Do đó, muốn đoạn trừ khổ  đau  thì phải  đoạn  trừ  vô  minh.  Muốn đoạn  trừ  VÔ  MINH  thì phải  triển  khai  tri kiến. Vậy triển khai tri kiến bằng cách nào?

Phải học GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH  và NHÂN QUẢ, nhờ học giới luật đức hạnh và nhân quả thông suốt nên vô minh bị đoạn trừ. Nhưng trong 12 nhân duyên dạy diệt VÔ MINH bằng ngưng các HÀNH. Hành diệt thì vô minh diệt. Vậy diệt các hành như thế nào? Diệt các hành là  chúng ta phải  giữ  gìn  tâm  BẤT ĐỘNG.  Giữ  gìn  tâm  bất  động  bằng pháp


NHƯ  LÝ TÁC Ý.

Bây giờ quý vị đã rõ diệt vô minh.

Trên đây là lý duyên khởi vô minh, khi vô minh  diệt  thì 12  nhân  duyên  đều  bị  diệt. Mười hai nhân duyên diệt thì khổ đau diệt.

GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH gồm có:

1-  Năm   giới   (NGŨ   GIỚI)   căn   bản   của người cư sĩ.

2- Mười giới sa di  (THẬP  GIỚI  SA DI)  của người xuất gia.

3- Hai  trăm  năm  mươi  giới  tỳ  kheo tăng
(250 GIỚI TỲ KHEO  TĂNG) của tu sĩ nam.

4- Ba trăm  bốn  mươi  tám  giới  tỳ  kheo ni
(348 GIỚI TỲ KHEO  NI)  của tu sĩ nữ.

Khi muốn diệt trừ vô minh thì phải thông suốt những oai nghi giới luật đức hạnh trên đây.   Cho  nên   đức   Phật   dạy:   “Những   gì thông suốt cần thông suốt”. Điều mà đức Phật  dạy ở đây cần thông suốt  là thông suốt giới luật đức hạnh.

Muốn diệt 12 nhân duyên tập khởi này thì bắt đầu phải diệt duyên vô minh. Diệt trừ duyên vô minh thì chỉ có học tập giới luật đức hạnh như trên đã nói.


Học  tập  giới  luật  đức  hạnh  xong  thì VÔ MINH tự diệt trừ. Vô minh tự diệt trừ đó là triển khai sự hiểu biết của đạo Phật, nhất là về  nhân  quả.  Có  thông  suốt  nhân  quả  thì vô minh đã diệt. Chúng ta cũng nên nhớ, khi thông suốt nhân quả thì các  hành ác  bị  diệt. Cho nên không ai hiểu NHÂN QUẢ mà còn HÀNH ÁC, có đúng như vậy không quý vị?

Cho nên đức Phật dạy: “HÀNH DIỆT THÌ VÔ  MINH  DIỆT”.  Người  mà  các  hành  ác diệt là người thông suốt giới luật đức hạnh.

Chúng ta là những người tu hành đang tìm cầu  sự  giải  thoát  thì nên  nhớ  những  lời  dạy này. Đó là giới luật đức hạnh trong pháp tu hành  của  Phật  giáo,  từ  thấp  đến  cao phải theo  sự  phân  chia  pháp  môn  tu  tập  từ  thấp đến  cao mà  đức  Phật  đã  tuyên  bố:  “GIỚI, ĐỊNH, TUỆ”.

Căn cứ vào giới, định, tuệ chúng ta tu tập không  còn  sợ  sai  đường  lạc  lối,  vì  đó  là  ba cấp  tu  học  của  Phật  giáo  không  ai  dám  sửa theo kiến giải của mình  được. Mong rằng quý vị nên căn cứ vào chỗ này mà tu tập đến nơi đến chốn, để làm sáng tỏ Phật giáo trong 12 nhân duyên.







DIỆT DUYÊN LỤC NHẬP




Lục  nhập  là  sáu  cửa  ra vào  của  thân  và sáu  trần.  Sáu  cửa  ra vào  của  thân  là:  mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý và sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Vì thế, muốn diệt duyên  lục  nhập  thì phải  biết  cách  phòng  hộ MẮT, TAI, MŨI, MIỆNG, THÂN, Ý, và ngăn chặn   sáu   trần:   SẮC,   THINH,   HƯƠNG,   VỊ, XÚC, PHÁP.

Muốn  giữ  gìn  sáu  căn,  sáu  trần  thì trước tiên phải phòng hộ và sau đó mới ngăn chặn. Phòng hộ thì có HẠNH ĐỘC CƯ là đệ nhất pháp,  còn  ngăn  chặn  thì có  pháp  NHƯ   LÝ TÁC Ý.

Nhờ  hai  phương pháp  này  thì duyên  LỤC NHẬP bị diệt.

“Từ  duyên  LỤC  NHẬP  diệt  thì duyên
XÚC diệt.


Từ   duyên   XÚC   diệt   thì  duyên   THỌ
diệt.

Từ duyên THOï diệt thì duyên ÁI diệt. Từ duyên ÁI diệt thì duyên HỮU diệt.
Từ   duyên   HỮU   diệt   thì  duyên   THỦ
diệt.

Từ   duyên   THỦ   diệt   thì  duyên   SINH
diệt.

Từ   duyên   SINH  diệt   thì  duyên   GIÀ,
BỆNH, CHẾT diệt.

Từ duyên GIÀ, BỆNH, CHẾT diệt thì duyên VÔ MINH diệt.

Từ   duyên   VÔ   MINH  diệt   thì  duyên
HÀNH diệt.

Từ  duyên  HÀNH  diệt  thì duyên  THỨC
diệt.

Từ  duyên  THỨC  diệt  thì duyên  DANH SẮC diệt.

Từ  duyên  DANH  SẮC   diệt  thì duyên
LỤC NHẬP diệt.”

Trên đây là bắt đầu diệt duyên lục nhập. Duyên lục nhập diệt thì tất cả 11 nhân duyên khác  đều  bị  diệt  theo,  và  như  vậy  một  thế


giới  đau  khổ  bị  diệt,  loài  người  thoát  khổ. Cho nên  loài  người  muốn  thoát  khổ  thì phải vào cửa lục nhập. Chính vào cửa lục nhập là mới phá tan mọi sự khổ đau của con người.

Muốn  diệt  duyên  LỤC  NHẬP  thì phải  diệt duyên XÚC, nhưng duyên xúc diệt bằng cách nào?

Bằng  cách  phòng  hộ  sáu  căn.  Vậy  phòng hộ sáu căn như thế nào?  Trước tiên là chúng ta tìm cách tránh sáu trần bằng phương pháp sống ĐỘC CƯ một mình.

Thầy thường hay kêu gọi quý vị tu hành  nên  sống  độc  cư,  kế  tiếp  quý vị dùng pháp môn NHƯ  LÝ TÁC Ý, để giữ gìn và bảo vệ mắt, tai, mũi, miệng, thân hay ý không cho chúng tiếp sáu trần. Khi  chúng phóng ra tiếp xúc sáu trần thì mau mau tác ý cho nó  quay  vào  trong  thân.  Câu  tác  ý  rất đơn giản như sau:

1- MẮT  phải quay vào thấy sự  BẤT  ĐỘNG
trong thân, không được nhìn  ngó ra ngoài.

2- TAI  phải  quay vào  nghe sự  BẤT  ĐỘNG
trong thân, không được nghe ra ngoài.

3-  MŨI   phải  quay  vào  ngửi  trong  thân BẤT   ĐỘNG,   không   được   ngửi   những   mùi hương bên ngoài.


4-  THÂN   phải  cảm  giác  sự  BẤT   ĐỘNG trong  thân,  không  nên  cảm  giác  nóng  lạnh đau nhức bên ngoài.

5-  MIỆNG   phải  quay  vào  cảm  nhận  sự BẤT ĐỘNG trong thân, không được cảm nhận nêm nếm những mùi vị bên ngoài.

6- Ý   phải  quay vào  trong  thân  cảm  nhận sự BẤT ĐỘNG của thân tâm, không được cảm nhận vọng tưởng lăng xăng hay bất cứ một pháp trần nào tác động vào.

Tất cả những phương pháp tu tập trên đây đều là pháp  PHÒNG  HỘ  SÁU  CĂN.  Có phòng hộ sáu căn mới diệt được duyên  XÚC. Do xúc diệt thì cảm thọ diệt.

Bởi  vậy,  khi   thân  đang  đau  bệnh  nhức nhói  khó  chịu, thì lúc  bấy  giờ  chúng  ta  cắt đứt XÚC, không cho thân và ý thức xúc chạm nhau thì ngay đó cơn đau nhức nơi thân sẽ chấm dứt. Muốn cho thân và ý thức không XÚC  CHẠM  nhau  thì phải  tu  tập  tâm  luôn luôn ở trong trạng thái tâm BẤT ĐỘNG, có tu tập được như vậy chúng ta mới làm chủ được bệnh.

Phật  pháp  vốn  là  một  phương  pháp  làm lợi  ích  cho con người,  vì  thế  con người  phải biết mà lo tu tập để cứu mình  ra biển khổ.


Tâm  bất  động  không  phải  là  khó  tu  tập, chỉ cần chúng ta phá hết hôn trầm thùy miên và loạn tưởng thì tâm bất động ngay tại đó.

Muốn phá hôn trầm thùy miên và loạn tưởng thì chỉ có tu tập pháp THÂN HÀNH NIỆM.  Pháp  môn  thân  hành  niệm  là  một pháp môn tuyệt trần, chuyên môn phá hôn trầm thùy miên và loạn tưởng. Nhờ có tu tập pháp môn này thì ngồi lại chúng ta mới thấy tâm bất động.










DIỆT DUYÊN CẢM THỌ





Diệt duyên cảm thọ có hai phương pháp:

1- Tâm BẤT ĐỘNG.

2- An trú tâm trong HƠI  THỞ.

Pháp tu tập tâm bất động đã dạy ở trên, còn  dưới  đây  là  phương  pháp  an  trú  tâm trong hơi thở.

Muốn thoát ra mọi sự khổ đau của cuộc đời thì phải  đoạn trừ duyên  thọ.  Đoạn trừ duyên THỌ  thì phải  tập  AN  TRÚ  TÂM  TRONG  HƠI THỞ, theo phương pháp Định Niệm Hơi Thở: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”.  Cứ tu đề mục này trong nửa tháng hoặc một  tháng để thân an trú được trong hơi thở, thì lúc bấy giờ thân có cảm thọ khổ là liền dùng phương pháp  này  đối  trị,  đẩy  lui  cảm  thọ  ra khỏi


thân   ngay  tức   khắc.   Đó   là   chúng   ta   diệt duyên thọ. Quý vị nên nhớ phương pháp hơi thở  này  mà  tu  tập,  để  cứu  mình  ra khỏi  mọi sự   đau  khổ  của  cuộc  đời.  Hơi  thở  là  một phương pháp mà chính  Ngài La Hầu La đã tu chứng quả A La Hán.
















DIỆT DUYÊN ÁI





Từ duyên thọ diệt thì duyên ái diệt. Trên bước  đường  tu  tập  chúng ta đã  biết  cách  làm chủ bệnh tật, tức là diệt duyên cảm thọ. Diệt duyên  CẢM  THỌ  bằng  ĐỊNH  NIỆM  HƠI  THỞ hay pháp THÂN HÀNH NIỆM hoặc bằng tâm BẤT   ĐỘNG.   Trong   những   pháp   môn   này, pháp nào hợp với đặc tướng của mình  thì quý vị tu tập sẽ có kết quả tốt đẹp.

Khi CẢM  THỌ  diệt  thì ÁI  diệt.  Tại  sao vậy?

Vì cảm thọ có ba:

1- CẢM THỌ lạc.

2- CẢM THỌ khổ.

3- CẢM THỌ bất lạc, bất khổ.

- Cảm  thọ lạc  thì tâm ưa thích nên  gọi  là
ÁI LẠC.


- Cảm thọ khổ thì tâm không ưa thích nên gọi là ÁI KHỔ.

-  Cảm  thọ  bất  lạc,  bất  khổ  thì người  tu theo  Phật  giáo  không  chấp  nhận,  vì  đó  là một  trạng  thái  của  một  người  bình  thường, chớ không phải  là  một  người  tu sĩ  nên trạng thái này không được kéo dài thời gian.

Chúng ta ai cũng biết vì có CẢM THỌ thì mới có ÁI.

Do các cảm thọ có mà ái mới có. Chúng ta phân biệt và cảm nhận được ÁI có hai:

1- ÁI  lạc có nghĩa là ưa thích, ham muốn, thương mến, dính  mắc, chấp trước, luôn luôn chạy theo tìm cầu những dục lạc, khoái lạc, sung sướng đó, v.v...

2- ÁI  khổ  có  nghĩa là  không  ưa thích,  sợ hãi,  ghét  bỏ,  lo  lắng,  buồn  phiền,  khổ  sở, tránh   xa,   không   chấp   nhận,   không   ham thích, v.v...

Cho nên  khi  diệt  CẢM  THỌ  là  diệt  cả  hai ÁI.  Khi  duyên  ái  bị  diệt  thì tâm  ham  muốn ưa thích cũng không còn. Do đó nhà cửa, của cải,  tài  sản,  tiền  bạc,  danh  vọng  đều  buông bỏ cả. Những vật chất quanh chúng ta đều buông xuống hết, nên trong kinh Thập Nhị Nhân Duyên dạy: “Duyên ÁI diệt thì duyên


HỮU diệt”.

HỮU  có  nghĩa là  có.  Do có  mà  chúng  ta sinh ra ưa thích nên cố giữ lại. Cố giữ lại nên mới  có  duyên  THỦ.  Khi  tâm  chúng ta  không ưa thích (ÁI) thì chúng ta không có (HỮU) vật gì  cả.  Cho nên  ÁI  diệt  thì HỮU  diệt,  đó  là một qui luật đúng không bao giờ sai.

Đã sống trong cuộc đời mà không có gì cả, như  đức  Phật  sống  chỉ  còn  ba y một  bát  thì còn có những vật gì mà cất giữ nữa. Phải không quý vị?

Cho nên kinh Thập Nhị Nhân Duyên dạy:
“Duyên HỮU diệt thì duyên THỦ diệt”.

Sống trong cuộc đời mà không cất giữ một vật gì cả thì đời sống đâu còn có gì nữa, một cuộc sống chỉ còn ba y một bát như đức Phật, hằng ngày đi xin ăn để nuôi sống thân mạng.

Đời sống như vậy là một đời sống tu sĩ của Phật giáo, nếu quý vị sống được như vậy mới gọi là tu sĩ Phật giáo, và sống được như vậy mới thấy sự giải thoát của đạo Phật thật sự. Từ  đời  sống  này  chúng  ta  mới  tu  tập  chứng đạo.  Còn  có  của  cải  vật  chất  làm  sao tu  tập chứng đạo được, quý vị?

Cho nên kinh Thập Nhị Nhân Duyên dạy:
“Duyên THỦ diệt thì duyên SINH diệt”.


Đó là một điều cơ bản nhất của đạo Phật, nếu ai muốn tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì phải sống như đời sống của đức Phật, còn không thể sống như vậy được thì xin quý vị  hãy  trở  về  đời  sống  của  người  cư sĩ,  luôn luôn sống trong nền đạo đức nhân bản - nhân quả  cũng  xả  được  tâm,  và  cuộc  sống  cũng được an vui hạnh phúc. Sức của mình tu tập được bấy nhiêu đó thì cũng tốt.

Còn  những  người  quyết  tâm  tu  tập  làm chủ  sinh,  già,  bệnh,  chết  thì hãy  đi  cho trọn con  đường  của  đạo  Phật.  Đi   cho  trọn  con đường  của  đạo  Phật  thì phải  sống  cho đúng hạnh của Phật, mà hễ sống đúng hạnh của Phật  thì làm  chủ  bệnh,  chết  dễ  dàng  không có khó khăn và mệt nhọc.

Kinh Thập Nhị Nhân Duyên dạy rất rõ: “Duyên SINH diệt thì duyên GIÀ, BỆNH, CHẾT diệt”.

Chúng  ta  là  con người  thì không  ai  thoát khỏi già, bệnh, chết. Cho nên đức Phật xác định:   “Muốn   làm   chủ   già,   bệnh,   chết   thì duyên sinh phải diệt”. Vậy duyên sinh phải diệt như thế nào?

Muốn  diệt  duyên  SINH  thì phải  buông  xả sạch tất cả vật chất chung quanh ta, chỉ còn sống một đời sống như đức Phật ngày xưa, đó



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!