Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

mười hai cửa vào đạo 4








TÙY PHÁP





Tùy pháp nghĩa là gì? Tùy pháp nghĩa là tâm  mình   biết  nhẫn  nhục, biết  tùy  thuận, biết bằng lòng trước các ác pháp. Biết nhẫn nhục, biết tùy thuận, biết bằng lòng trước các ác  pháp  là  biết  sắc,  thọ,  tưởng,  các  hành, thức là vô ngã. Cho nên, TÙY PHÁP là biết rõ SẮC, THỌ, TƯỞNG, CÁC HÀNH, THỨC  không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta.

Bởi  vậy,  người  biết  tùy pháp là người  giải thoát  mọi  sự  khổ  đau theo  như  lời  đức  Phật đã dạy: “Ai sống tùy quán VÔ NGÃ trong SẮC, trong THỌ, trong TƯỞNG, trong CÁC HÀNH  và  trong THỨC,  vị ấy  liễu  tri SẮC, liễu  tri THỌ,  liễu  tri TƯỞNG,  liễu  tri CÁC  HÀNH  và  liễu  tri THỨC.  Do  liễu  tri sắc,  thọ,  tưởng,  các  hành và thức  nên vị ấy giải thoát khỏi sắc, thọ, tưởng, các hành  và  thức.  Giải  thoát  khỏi  năm  uẩn


này là giải thoát khỏi sinh, bệnh, chết, sầu,  bi,  khổ,  ưu  não.  Ta  nói  vị  ấy  giải thoát khỏi đau khổ”. (82 Tương Ưng tập 3)

Đúng vậy, không sai, nếu biết TÙY PHÁP tức  là  LIỄU  TRI  các  pháp,  mà  liễu  tri các pháp  thì tâm  THAM, SÂN,  SI,  MẠN,  NGHI  bị diệt sạch.




















SO SÁNH PHẬT
VÀ A LA  HÁN





Phật  và  A La  Hán  giống  nhau  và  khác nhau chỗ nào?

Phật là người đầu tiên đem giáo pháp làm chủ  sinh,  già,  bệnh  và  chết  ra dạy  người  tu tập, còn những bậc A La Hán chỉ theo lời dạy của đức Phật mà tu tập làm chủ sinh, già, bệnh,  chết.  Như  vậy  sự  khác  nhau  Phật  và các bậc A La Hán ở chỗ Phật là thầy, còn các bậc A La Hán là học trò.

Đức  Phật  và  các  bậc  A  La  Hán  tu  hành giải thoát giống nhau, không ai hơn kém ai. Đức Phật tu tập làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT  thì các  bậc  A La Hán  cũng  tu  tập  làm chủ   sinh,   già,   bệnh,   chết   như  nhau.  Đây, chúng ta hãy  lắng nghe đức  Phật  dạy:  “Như Lai, này  các  thầy  tỳ  kheo,  là  bậc  A  La


Hán Chánh Đẳng Giác làm cho khởi lên con  đường  trước  kia chưa  ai làm  khởi lên,  đem con đường  trước  kia chưa  được ai đem lại con đường, tuyên thuyết con đường trước kia chưa  được ai tuyên thuyết  con  đường  đó,  bậc  trí đạo,  bậc ngộ  đạo,  bậc  thuần  thục  về  đạo.  Còn nay,  các  vị  đệ  tử  là  những  vị  sống  theo đạo tiếp tục thành tựu đạo. Này các thầy Tỳ  kheo,  đây  là  sự  sai  biệt,  sự  đặc  thù, sự sai khác giữa NHƯ LAI, bậc A LA HÁN CHÁNH ĐẲNG GIÁC và bậc Tỳ kheo A LA HÁN  được  giải  thoát  nhờ  trí tuệ”.  (124
Tương Ưng tập 3)

Kinh  sách  phát  triển  cho  rằng  có  7  vị Phật trong thời quá khứ trước đức Phật Thích Ca  Mâu  Ni,  đó  là  một  đều  không  đúng  sự thật.  Vì  đức  Phật  Thích  Ca Mâu  Ni đã  xác định, chỉ có Ngài là người đầu tiên tuyên thuyết giáo pháp TỨ DIỆU ĐẾ. Nếu có giáo pháp  này  trước  đức  Phật  Thích  Ca Mâu  Ni thì Ngài  chỉ  là  học  trò  như các  vị  A La Hán khác  mà  thôi,  như  vậy  làm  sao Ngài  dám tuyên bố những lời trên đây.

Người đời sau gian xảo ghê gớm thật, dám dựng  lên  7 vị  Phật  quá  khứ  để  phủ  lên  một lớp  giáo  lý  tưởng,  mê  tín, mù  quáng,  lạc  hậu
 

đó  với  mục  đích  để  diệt  sạch  giáo  pháp  của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đúng vậy, nếu chúng tôi không dựng lại giáo pháp của đức Phật  Thích   Ca  Mâu  Ni thì kinh sách  Đại Thừa  và  kinh sách  Thiền  Đông  Độ  đã  che đậy phủ đầy, không còn ai biết giáo pháp của đức  Phật.  May  mắn  thay  là  nhờ  Phật  Giáo Nam Tông còn giữ lại giáo pháp nguyên thủy, nhưng cũng bị các sư tu tập chưa chứng đạo nên  kiến  giải  viết  ra kinh sách  làm  sai  lạc của Phật. Do kinh sách kiến giải sai lạc của các Ngài làm cho mọi người tu tập không làm chủ  SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT, mà rơi vào các trạng thái tưởng.

Ngày  xưa đức  Phật  cấm  không  cho các  đệ tử tu chưa chứng thì không nên thuyết  giảng một mình,  mà muốn thuyết giảng thì phải có đức  Phật  chỉ   định.  Như  ông  A  Nan  chẳng hạn, mặc dù ông có trí tuệ nhớ không bỏ sót một lời nào của đức Phật, nhưng khi  ra giảng cho chúng Tỳ kheo thì đức Phật chỉ  định chứ tự mình  ra giảng thì không được.

Phật  giáo  nghiêm  ngặt  như  vậy,  thế  mà bây  giờ  giảng  sư  đâu  đâu  cũng  có,  nhưng chẳng có ông nào làm chủ  SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT  được, đó là những người mang tội vọng ngữ,  dạy  người  tu  tập  mà  mình  tu  tập  chẳng


ra gì,  ngay  cả  giới  luật  còn  vi phạm  những giới  trọng  Ba La  Di.  Thật  là  Phật  giáo  đến hồi  suy  thoái  nên  mới  có  ma  ba  tuần  phá hoại Phật pháp như vậy. Thật là đau lòng!

Đứng   trước   cảnh   Phật   giáo   suy  thoái, chúng ta biết rằng chúng sinh phước báu quá mỏng,  nên  Phật  giáo  phải  chịu long  đong và mất dấu.










THẤY TA
LÀ THẤY PHÁP, THẤY PHÁP
LÀ THẤY TA




Người tu tập chứng đạo đều luôn luôn nhận  thấy  tâm  bất  động  của  mình.  Vì  đức Phật là người đã tu tập chứng đạo nên Ngài luôn luôn ở trong trạng thái tâm bất động. Tâm BẤT  ĐỘNG  là một trạng thái chung của những người chứng đạo. Vì thế đức Phật  mới tuyên  bố:  “Ai  thấy  TA  là  thấy  PHÁP,  ai thấy PHÁP là thấy TA”.

Trong cuộc đời này không có vật gì để chúng ta đáng thấy. Bởi các pháp đều vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản  ngã  của  ta.  Cái  thân  bất  tịnh  hôi  hám này  nếu  trong  một  tuần  lễ  không  tắm  rửa đến gần có ai chịu nỗi đâu. Bởi vậy đức Phật mới dạy Vakkali: “Này Vakkali, có gì đáng


thấy đối với cái thân hôi hám nầy. Này Vakkali, ai thấy  pháp  người  ấy  thấy  Ta, ai thấy Ta người ấy thấy pháp.

Nầy Vakkali, đang  thấy pháp là đang thấy   Ta,   đang   thấy   Ta   là   đang   thấy pháp”.

Khi dạy cho chúng sinh thấy tâm bất động là thấy Phật, nhưng chúng sinh không thấy tâm BẤT ĐỘNG mà thấy THÂN NGŨ UẨN của mình  và  cho thân  ngũ  uẩn  của  mình  là  thật có. Cho nên đức Phật muốn phá cái tâm chấp thân ngũ uẩn là ngã của mình  bằng cách hỏi Vakkali:  “Này  Vakkali, ông  nghĩ  thế  nào, Sắc là thường hay vô thường?

- Là vô thường, bạch Thế Tôn.

- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

- Là khổ, bạch Thế Tôn.

- Cái  gì vô  thường,  khổ,  chịu sự  biến hoại, có hợp lý chăng khi  quán cái ấy là: “Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi?”

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

- Thọ, Tưởng, Các Hành, Thức là thường hay vô thường?


- Là vô thường, bạch Thế Tôn.

- Cái gì vô thường là lạc hay khổ?

- Là khổ, bạch Thế Tôn.

- Cái  gì vô  thường,  khổ,  chịu sự  biến hoại, có hợp lý chăng khi  quán cái ấy là: “Cái này là tôi. Cái này là của tôi. Cái này là tự ngã của tôi?”

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

- Do vậy, ở đây thấy như vậy, “không còn  trở  lui trạng  thái  này  nữa”.  Vị  ấy biết rõ như  vậy”. (219 Tương Ưng tập 3)

Đức  Phật  vì  loài  người  mà  chỉ   dạy  tận tình để  mọi  người  dễ  nhận  thấy  sự  thật  của thân ngũ uẩn là một khối bất tịnh vô thường, hôi  thối đầy đau khổ, thế mà mọi  người trên thế  gian  này  lầm  cho nó  là  ta,  là  của  ta,  là bản  ngã  của  ta.  Do  lầm  chấp  này  mà  con người  phải  chịu trôi  lăn  trong  sáu  nẻo luân hồi và khổ đau vô cùng tận.

Muốn thoát khổ đau này thì hằng ngày chúng ta phải siêng năng dẫn tâm vào chỗ BẤT  ĐỘNG,  như  đức  Phật  đã  dạy:  “thấy  Ta là thấy pháp, thấy pháp là thấy Ta”.

Đúng  vậy,  quý  vị  hãy  cố  gắng  tu  tập  kỹ


một  chút,  và  bền  chí thì có  ngày  phải  thành công, tâm bất động.





















SỐNG MỘT MÌNH





Người  ta  sống  một  mình  thường  ít ai chịu nổi vì quá buồn bã cô đơn, nhưng tại sao như  vậy   thì ít  ai   hiểu   nguyên   nhân   nào. Chúng  ta  hãy  nghe  đức  Phật  dạy:  “Bị  thất kiết  sử  và  ngũ  triền  cái  là  không  sống một mình được”. (168 Tương Ưng tập 4)

Đúng   vậy,   con   người   sống   một   mình thường  không  chịu nổi  cô  đơn buồn  bã  là  do ngũ triền cái và bảy kiết sử.

NGŨ TRIỀN CÁI gồm có:

1- Tham  triền cái

2- Sân triền cái

3- Si triền cái

4- Mạn triền cái

5- Nghi  triền cái


BẢY KIẾT SỬ gồm có:

1- Ái kiết sử

2- Sân kiết sử

3- Kiến kiết sử

4- Nghi  kiết sử

5- Mạn kiết sử

6- Hữu tham kiết sử

7- Vô minh kiết sử

Chính  con người  luôn  luôn chịu nhiều  khổ đau là do ngũ triền cái và thất kiết sử. Muốn giải  thoát  như Phật  và  những  bậc  A La Hán thì đoạn  trừ  tận  gốc  ngũ  triền  cái  và  thất kiết  sử.  Khi   đoạn  trừ  gốc  ngũ  triền  cái  và thất  kiết  sử  thì chúng  ta  chứng  đạo.  Nhưng muốn đoạn trừ nó phải bằng phương pháp gì?

Bằng  pháp  trí và  tùy  trí,  PHÁP  TRÍ  là  sự hiểu  biết  thông  suốt  chánh  Phật  pháp  bằng trí tuệ, còn TÙY TRÍ là pháp tu tập DẪN TÂM VÀO ĐẠO  (xin quý vị nghiên cứu lại tập sách “Những  Lời  Tâm  Huyết”  thì sẽ  rõ  pháp dẫn  tâm,  nhờ  có  tu tập  dẫn  tâm  như vậy  thì NGŨ TRIỀN CÁI và THẤT KIẾT SỬ sẽ bị đoạn trừ tận gốc).

Trên  bước  đường  tu  tập  cần  phải  có  sự


kiên  gan bền  chí, nếu  thiếu  sự  kiên  gan bền chí  thì tu  hành  chẳng  bao  giờ  có  sự   giải thoát, quý vị nên nhớ!























ĂN UỐNG THEO PHẬT GIÁO





Đối với đạo Phật, vấn đề ăn uống rất là quan trọng, cho nên ăn uống cần phải tiết độ đúng cách ăn uống của Phật giáo, như lời đức Phật  dạy:  “Này  hiền  giả,  thế  nào  là  tiết độ  trong ăn  uống?  Ở  đây  này  hiền  giả, Tỳ  kheo  như  lý  giác  sát,  thọ  dụng  các món ăn. Không phải để vui đùa, không phải  để  đam  mê,  không  phải  để  trang sức,   không   phải   đểå   tự   mình  làm   đẹp mình,  mà  chỉ  để  thân  này  được  duy  trì và được bảo dưỡng, để thân này khỏi bị thương hại, để hỗ trợ Phạm hạnh. Nghĩ rằng:  “Như  vậy  ta diệt  trừ  các  cảm  thọ cũ  và  không  cho  khởi  lên  các  cảm  thọ mới,  và  ta  sẽ  không  có  lỗi  lầm,  sống được  an  ổn”.  Như  vậy,  này  hiền  giả,  là tiết  độ  trong ăn  uống”.  (180  Tương  Ưng


tập 4)

Đúng vậy,  người  tu sĩ  Phật  giáo ăn không cần   ngon,  ăn   không   phải  vì  ưa  thích,   ăn không phải để mập khỏe, trẻ đẹp, mà ăn chỉ để duy trì sự sống, ăn để không bệnh tật, ăn để cơ thể  được  mạnh  khỏe  để  tu tập  để sống đời Phạm hạnh. Ăn không vì các cảm thọ lạc mà  vì  sự  ngăn  ác  pháp  và  diệt  trừ  ác  pháp, ăn  để  sống  trong  tâm  BẤT  ĐỘNG,  để  thấy được tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Ăn để sống làm chủ thân tâm, cho nên ăn uống tiết độ  của  Phật  giáo  không  có  khó  khăn,  mệt nhọc.  Chúng  ta  ăn  uống  vì  mục  đích  giải thoát, vì vậy ăn để sống chớ không phải sống để ăn. Cho nên ai cho gì thì chúng ta ăn nấy, chớ không phải vì ăn mà đi chọn lựa thức ăn này thức ăn khác.

Người muốn ăn cái này, cái khác hay chọn lựa thức ăn này, thức ăn kia là không đúng người đệ tử Phật. Nếu chúng ta chịu khó nhìn sự ăn uống của một người là biết người đó tu theo  Phật  giáo  hay tu  theo  ngoại  đạo.  Người tu theo Phật giáo thì ăn ngày một bữa vào giữa ngày, không ăn uống phi thời lặt vặt, người ăn uống phi  thời lặt vặt không phải là đệ  tử  của  Phật  giáo.  Nhất  là  những  người tuyệt thực lại càng không phải là đệ tử Phật,


vì Phật  không  có  dạy  tuyệt  thực.  Tuyệt  thực là  những  người  đệ  tử  của  ngoại  đạo  Bà  La Môn.

Người tu theo Phật giáo mà còn lựa chọn món  ăn  này  hay  món  ăn  kia  là  không  phải đệ tử của Phật.

Người tu theo Phật giáo mà còn ăn thịt chúng sinh, mặc dù ăn không nghe, không thấy,   không   giết,   không   nghi,   không   biết cũng  không  phải  đệ  tử  của  đức  Phật.  Đạo Phật  là đạo  CHÁNH  NIỆM  TỈNH  GIÁC,  cớ sao   lại   ăn   không   thấy,   không   nghe, không giết, không nghi,  không biết. Rõ ràng  là  ngoại  đạo  mà  dán  nhãn  hiệu  Phật giáo để lừa đảo phật tử.

Đạo  Phật  là  đạo  TỪ  BI,  khi  ăn  miếng thịt   chúng   sinh   vào   miệng   mà   không biết sao?

Ăn  vô  phân  biệt,  ăn  không  còn  biết  ngon

hay  dở,

đó  là  cánh  thức  tu  sai  Phật  giáo.

Phật giáo dạy ăn biết ngon mà không dính mắc  chấp  trước,  thấy  hay  nghe  cũng  vậy, phân biệt rõ ràng đẹp xấu, yên tĩnh hay ồn náo  đều  biết  rất  rõ  nhưng  không  dính  mắc chắp  trước  âm  thinh,  sắc  tướng,  không  bị động   tĩnh   chi   phối   tâm.   Trước   mọi   cảnh


thuận  hay nghịch tâm  luôn  luôn  BẤT  ĐỘNG. Đó mới là người tu theo Phật giáo. Cứ hở ra một chút là tâm bị động, bị chướng ngại tâm luôn luôn bất an, người tu theo Phật giáo như vậy  là  theo  ngoại  đạo.  Phật  giáo  không  có dạy tu tập như vậy. Xin quý vị lưu ý, đừng để mình  tu tập sai pháp mà không biết thì thật là tội nghiệp.










CHÚ TÂM TỈNH GIÁC





Tỉnh  giác  là  một  phương  pháp  đầu  tiên cho người  mới  vào  tu  tập  theo  Phật  giáo,  vì vậy  nó  là  một  pháp  môn  rất  căn  bản  cho những người mới vào đạo Phật.

Một người theo Phật giáo thì hãy nên rèn luyện tu tập pháp môn này. Vậy chúng ta hãy nghe  đức  Phật  dạy:  “Và  này  là  hiền  giả, như   thế  nào  là  chú  tâm  tỉnh  giác?  Ở đây,  này  là  hiền  giả,  Tỳ  kheo  ban  ngày khi đi kinh hành  và  ngồi,  tâm  gọït  sạch các triền cái.

Ban  đêm trong canh  một, trong khi  vị ấy đi kinh hành và ngồi, tâm gọt sạch các pháp triền cái.

Ban  đêm  trong canh  giữa,  vị  ấy  nằm phía hông  bên  hữu,  trong tư thế  con sư


tử, chân này đặt lên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, tác ý tưởng đến lúc ngồi dậy.

Ban  đêm trong canh  cuối, khi  vị ấy đi kinh hành  và  trong khi  ngồi,  tâm  gọt sạch  các  pháp  triền  cái,  như  vậy  gọi  là trú tâm tỉnh giác”. (181 Tương Ưng tập 4)

Đọc lời dạy trên đây chúng ta thấy rất rõ, phương pháp của Phật dạy tu hành chính là TỈNH  GIÁC,  nhờ  có  tỉnh  giác  chúng  ta  mới gọt sạch từng tâm niệm ngũ triền cái và thất kiết sử. Nhưng muốn được tỉnh giác thì chỉ có pháp NHƯ  LÝ TÁC Ý và ĐI KINH HÀNH.

Nhờ  pháp  như  lý  tác  ý  và  đi  kinh hành mà  chúng ta  hộ  trì được  các  căn.  Ví dụ:  Khi mắt thấy một chiếc xe hơi đang chạy trên đường, một con bò đang ăn cỏ, hay một người già  chống  gậy  đi  bộ  trong  vườn,  v.v...  thì chúng ta liền TÁC Ý: “Mắt không nên nhìn  xe hơi, con bò hay cụ già, mà hãy quay vào nhìn hơi thở, biết HƠI  THỞ RA VÔ”, hay: “Mắt hãy nhìn  chỗ TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC  VÀ  VÔ  SỰ”.  Tai,  mũi,  miệng,  thân,  ý cũng vậy, khi  nghe, cảm giác mùi vị, cảm xúc hay khởi niệm thì đều phải tác ý như vậy. Đó là phòng hộ sáu căn bằng pháp môn  NHƯ  LÝ TÁC Ý. Để tập tỉnh giác trên hơi thở.


Pháp  môn  như  lý  tác  ý  là  một  pháp  môn rất tuyệt vời, nó giúp cho tâm chúng ta TỈNH GIÁC hoàn toàn.

Nó  còn  giúp  cho  chúng  ta  làm  chủ   ăn uống, biết cách ăn để sống chớ không phải sống để ăn. Cho nên chúng ta không bị nô lệ trong ăn uống, làm chủ trong ăn uống.

Nó còn giúp chúng ta chú tâm tỉnh giác, nhờ  tâm  có  tỉnh  giác  chúng  ta  mới  gọt  rửa được  ngũ  triền  cái,  nhờ  hằng  ngày  gọt  rửa ngũ triền cái nên tâm chúng ta vô lậu hoàn toàn.

Khi tu  tập  ba pháp  môn  TỈNH  GIÁC,  ĐỘC CƯ  và  ĂN  UỐNG  TIẾT  ĐỘ   là  chúng  ta  đều dùng  pháp  NHƯ  LÝ  TÁC  Ý,  dẫn  tâm  vào  đạo thì chúng ta mới hoàn toàn giải thoát. Chúng ta  hãy  lắng  nghe  đức  Phật  dạy:  “Này  các thầy  tỳ  kheo!  Đầy  đủ  được  3  pháp  ấy, một  tỳ  kheo  ngay  trong  hiện  tại  sống nhiều   an   lạc,   hoan   hỷ   và   tạo   nguyên nhân  bắt  đầu  đoạn  tận  các  lậu  hoặc. Thế nào là ba pháp?

1- Hộ trì các căn

2- Tiết độ trong ăn uống

3- Chú tâm tỉnh giác”. (289 Tương Ưng tập 4)


Nếu một người tu tập theo Phật giáo mà hoàn  thành  ba pháp  môn  này  thì người  ấy tâm hoàn toàn vô lậu, ngay đó họ chứng đạo vô thượng bồ đề. Cho nên Phật pháp rất đơn giản, tu hành không có khó khăn mệt nhọc. Hãy cố gắng quý vị ạ! Giải thoát là làm chủ sinh,  già,  bệnh,  chết,  hạnh  phúc  lắm  quý  vị ạ!



















SA MÔN





Sa môn  là  dịch  âm  tiếng  Phạn  Ấn  Độ của  người  Trung  Hoa. Sa môn  với  tiếng  Việt chỉ  một  vị  tu  sĩ  đã  thọ  đầy  đủ  giới  luật  của Phật giáo.

Tu sĩ Phật giáo hiện giờ chỉ  còn một số ít mới xứng đáng gọi là tu sĩ, còn phần đông thì phạm giới, phá giới, có vị còn có vợ con rất tự nhiên, xem thiên hạ chẳng ai biết gì về Phật giáo cả. Hầu hết các trong chùa Phật giáo cổ truyền  nhiều  thầy  có  vợ  con sống  tại  chùa như một gia đình.

Chúng  ta  hãy  đọc  lời  xác  định  của  đức Phật với một vị tu sĩ Phật giáo phải như thế nào  mới  gọi  là  một  vị  tu  sĩ  Phật  giáo:  “Sa môn  là  một  người  xa  lìa ân  ái,  xuất  gia tu hành,  chế  ngự  các  căn,  không  nhiễm ái dục, có lòng thương xót tất cả mọi người, không làm thương tổn và giết hại


chúng  sinh,  gặp  khổ  không  phiền,  gặp vui không mừng, nhẫn nại tâm như  đất”. (Trường A Hàm tập 1 trang 56)

Đó, lời dạy rõ ràng như vậy, mà tu sĩ thời nay xem thường những lời tâm huyết này của đức Phật.

Một  vị tu sĩ  Phật  giáo  theo như  lời đức Phật dạy có 9 điều cần ghi nhớ:

1-  Xa lìa ân ái.

2-  Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa.

3-  Chế ngự các căn.

4-  Không nhiễm ái dục.

5-  Có lòng thương xót tất cả mọi người.

6-  Không   làm   thương  tổn   và   giết   hại chúng sinh.

7-  Gặp khổ không phiền.

8-  Gặp vui không mừng.

9-  Nhẫn nại tâm như đất.

Một tu sĩ Phật giáo phải sống đúng 9 điều Phạm  hạnh  mà  đức  Phật  đã  nêu  ra thì mới xứng đáng là một tu sĩ Phật giáo, còn sống không đúng thì không xứng đáng làm tu sĩ.

Cho nên  căn  cứ  vào  9 điều  trên  đây  mà


chúng  ta  biết  ngay  người  nào  là  tu  sĩ  Phật giáo và người nào không phải là tu sĩ Phật giáo. Không phải là tu sĩ Phật giáo thì họ chỉ là cư sĩ trọc đầu.

Xét  9 điều  trên  đây,  tu  sĩ  Phật  giáo  hiện giờ  chỉ  là  cư sĩ  trọc  đầu  mà  thôi.  Nhìn  thấy tu  sĩ  Phật  giáo  hiện  giờ  số  lượng  thì đông nhưng mà chất lượng tu hành chẳng có gì cả, thật là đau lòng xót dạ cho Giáo Hội Phật Giáo hiện giờ.










NGUYÊN DO NÀO CÓ SANH  TỬ





Muốn làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì phải  bắt  đầu  tìm nguyên  nhân  nào  sinh  ra sinh, già, bệnh, chết. Chúng ta hãy lắng nghe đức   Phật   dạy:   “Chúng   sanh   thật   đáng thương, thường ở trong tối  tăm, chịu lấy thân   phận   nguy   khốn,   nào   sanh,   già, bệnh, chết đến dồn dập đủ các thứ khổ não. Họ chết đây sanh kia, chết kia sanh đây, cứ duyên theo khổ ấm thân nên lưu chuyển  vô  cùng.  Ta  lúc  mới  hiểu  rõ  ngũ ấm  và  diệt  hết  sanh,  già,  bệnh,  chết,  thì Ta   lại  suy  nghĩ: Sanh   tử  từ  đâu  đến? Duyên từ đâu mà có sanh?

Do tự đặt ra câu hỏi như  vậy, Ta  liền dùng trí tuệ quan  sát nguyên do và thấy rằng,  do  sanh   mà  có  lão  tử,  như   vậy sanh là duyên của lão tử”. (Trường A Hàm


tập 1 trang 60)

Lời  dạy  trên  đây  của  đức  Phật  là  một  lý giải  nguyên  nhân  sinh  ra lão  tử,  làm  chúng ta dễ  hiểu mà hiểu một  cách rất rõ ràng. Do cuộc sống  hằng  ngày mà mọi  người  theo tâm ngũ  triền  cái  và  thất  kiết  sử  nên  con người mới có LÃO TỬ.

Muốn không lão tử thì chúng ta phải sống không  theo  ngũ  triền  cái  và  thất  kiết  sử. Muốn sống không theo ngũ triền cái và thất kiết sử thì chúng ta phải dùng pháp  NHƯ  LÝ TÁC Ý, khi tâm mỗi lần có niệm khởi thì mau mau lập tức phải tác ý liền: “Tâm bất động, thanh thản,  an  lạc  và  vô  sự”.  Cứ   siêng năng  tu  tập,  khi  có  niệm  khởi  liền  tác  ý  thì tâm   trở   về   trạng   thái   tâm   BẤT   ĐỘNG, THANH  THẢN.  Tu  tập  như  vậy  chừng  nào tâm không còn niệm khởi. Tâm không còn niệm  khởi  là  tâm  đã  diệt  sạch  ngũ  triền  cái và thất kiết sử.

Dù  chúng  ta  muốn  diệt  trừ  một  ác  pháp nào  thì chúng  ta  cũng  phải  dùng  pháp  dẫn tâm  thì mới  diệt  trừ  được  ác  pháp  đó.  Cho nên pháp như lý tác ý rất cần thiết cho người tu  tập  theo  Phật  giáo.  Ngoài  pháp  như  lý tác   ý    ra   thì  Phật   giáo  không   còn   có pháp nào tu tập hay hơn.


Pháp  môn  NHƯ   LÝ  TÁC  Ý  được  xem  là một  thanh  trường  kiếm  của  người  dũng  sĩ xông trận chiến thắng quân giặc, nếu không có   thanh   trường   kiếm   thì  người   dũng   sĩ không  bao giờ  thắng  giặc  oanh liệt.  Cho nên pháp  như  lý  tác  ý  nó  cũng  quan  trọng  như vậy, xin quý vị nhớ cho.


















NGUYÊN DO NÀO KHÔNG CÓ LÃO TỬ





Như  trên đã nói, chỉ có pháp như lý tác ý  thì ngũ  triền  cái  và  thất  kiết  sử  sẽ  bị  diệt trừ.  Ngũ  triền  cái  và  thất  kiết  sử  bị diệt  trừ thì sanh diệt  trừ,  sanh diệt  trừ  thì lão  tử  sẽ diệt  trừ,  như  đức  Phật  đã  dạy:  “Đức  Phật lại  tự  suy nghĩ. Do  những  cái  gì không có  mà  lão  tử  không  có?  Do  cái  gì  đoạn diệt thì lão tử đoạn diệt? Rồi Ngài lại dùng  trí tuệ  quan  sát  nguyên  nhân:  Do sanh  không  có  nên  lão  tử  không  có,  do sanh diệt nên lão tử diệt”. (Trường A Hàm tập 1 trang 60)

Đúng vậy, sanh không có thì lão tử không có,  SANH  diệt  thì LÃO  TỬ  diệt.  Cho nên  khi biết  tu  tập  đúng  pháp  chân  chánh,  thì làm chủ sanh, già, bệnh, chết đâu còn khó khăn nữa.


Vì chúng ta  biết  nguyên  nhân  sinh  ra lão tử,  thì ngay  nguyên  nhân  đó  mà  diệt  trừ. SANH  là nguyên nhân sinh ra LÃO TỬ, vì vậy chúng  ta  hằng  giây,  hằng  phút,  hằng  giờ, hằng  ngày  dùng  pháp  NHƯ  LÝ  TÁC  Ý,  diệt trừ từng tâm niệm của SANH  thì sanh bị diệt, tức là ngũ triền cái và thất kiết sử bị diệt.










PHÁP CHÂN CHÁNH




Pháp chân chánh của Phật là pháp gì? Pháp chân chánh là pháp diệt trừ tâm ngũ triền  cái  và  bảy  kiết  sử.  Một  lần  nữa  chúng tôi xin nhắc lại ngũ triền cái và thất kiết sử:

NGŨ TRIỀN CÁI gồm có:

1- Tham  triền cái

2- Sân triền cái

3- Si triền cái

4- Mạn triền cái

5- Nghi  triền cái

BẢY KIẾT SỬ gồm có:

1- Ái kiết sử

2- Sân kiết sử

3- Kiến kiết sử


4- Nghi  kiết sử

5- Mạn kiết sử

6- Hữu tham kiết sử

7- Vô minh kiết sử

Người ở thế gian tâm họ thường sống với tâm ngũ triền cái và thất kiết sử, vì thế họ sống trái ngược lại Phật giáo. Cho nên pháp của  Phật  giáo  thì nhắm  vào  ngũ  triền  cái  và thất  kiết  sử  tiêu  diệt  chúng.  Bởi  vậy  pháp của  Phật  giáo  hoàn  toàn  đi  ngược  lại  pháp thế  gian.  Khi đi  ngược  lại  như  vậy  thì khó cho người thế gian chấp nhận và tu tập được, nên đức Phật dạy: “Chánh pháp ta vừa chứng được thật là sâu xa vi diệu, nếu vì chúng  sanh  mà  thuyết  giảng,  chắc  chắn họ  không  hiểu  nổi,  còn  sanh  tâm  hủy báng nữa là khác. Nếu vì chúng sanh dâm, nộ, si mà thuyết pháp, tất nhiên họ không   thừa   hành,   quả   thật   là   luống công   vô   ích,   Pháp   vi   diệu   nầy   tương phản  với  pháp  thế  gian.  Chúng  sanh  bị dục nhiễm, ngu si che lấp nên không tin hiểu nổi”. (Trường A Hàm tập 1 trang 69)

Đúng   vậy,   trải   qua  hơn  2500  năm   mà chẳng  thấy  ai  tu  chứng  như  Phật.  Thật  là pháp  đi  ngược  pháp  thế  gian  nên  khó  ai  tu


được giải thoát hoàn toàn.

Đến thời đại chúng ta hiện giờ mới có một người làm chủ được sinh, già, bệnh, chết, và người ấy ra công dựng lại giáo pháp ấy để người nào hữu duyên cùng tiếp vòng tay, để làm  sống  lại  nền  đạo  đức  nhân  bản  - nhân quả  của  Phật  giáo,  thì đó  là  đem  lại  hạnh phúc an vui cho loài người. Nhưng khó thay, trong  cuộc  đời  tìm cho ra được  một  người  có quyết  tâm,  có  ý chí dũng  mãnh,  gan dạ,  xem sự  sống  chết  nhẹ  tựa  lông  hồng  thì mới  tu tập chứng đạo.

Giải thoát ai cũng muốn tu mà lại sợ khổ; giải  thoát  ai  cũng  muốn  tu  mà  đời  không muốn  bỏ.  Cho  nên  tìm một  người  tu  tập  vì mọi  người,  vì  Phật  pháp  thì khó  tìm quá. Trên  hành  tinh hiện  nay  có  hàng  tỷ  tỷ  con người, mà tìm cho ra một con người thật là khó vô cùng. Nhiều khi Thầy muốn vào Niết bàn   cho  xong,  nhưng   không   nỡ   tâm,   nên đành phải nán ở lại một đôi ngày mà thôi.

















CÓ BẢY PHÁP
LÀM CHO CHÁNH PHÁP ĐƯỢC TĂNG TRƯỞNG VÀ KHÔNG BỊ
TỔN HOẠI





Có bảy đức hạnh mà mỗi người ai cũng sống được,  vì bảy  đức hạnh  này giúp cho con người  sống  được  bình  an, yên  vui  mà  không ác  pháp  làm  khổ  đau.  Chúng  ta  hãy  lắng nghe đức Phật dạy bảy pháp:

“1- Thích giản dị, không thích sống rườm rà, cầu kỳ.

2-  Ưa thích yên lặng, không thích nói nhiều.

3-  Ít ngủ nghỉ, không ham  ngủ.

4- Không kết bè, kết bạn, không nói những điều vô ích.


5-  Không  tự  khoe  khoang   trong  khi mình thiếu đức.

6-  Không   kết   bạn   với   những   người xấu ác.

7-  Thích  ở    một   mình  nơi   rừng   núi thanh vắng”.

(Trường A Hàm tập 1 trang 92)

Đức Phật dạy bảy đức hạnh này rất tuyệt vời, nếu một người thực hiện bảy đức hạnh này  thì ngay  trong  đời  này  đã  tìm thấy  sự giải thoát liền, không cần phải tu tập pháp nào khác nữa.

Nếu sống với đức hạnh thứ nhất: “Thích giản dị, không thích sống rườm rà, cầu kỳ”.  Đó là một lối sống đơn giản, không hao tốn tiền bạc, không rườm rà, ít muốn biết đủ. Đức hạnh rất phù hợp với người tu sĩ Phật giáo.

Nếu sống với đức hạnh thứ hai: “Ưa thích yên lặng, không thích nói nhiều”. Đó là một  lối  sống  trầm  lặng,  sống  độc  cư, sống một mình.  Đức hạnh này rất phù hợp với con đường tu tập giải thoát của Phật giáo.

Nếu sống với đức hạnh thứ ba: “Ít ngủ nghỉ,  không  ham  ngủ”.  Đó  là  lối  sống  của


người thông minh, sáng suốt, minh mẫn, tỉnh giác. Những người có lối sống như vậy là lối sống của người tu sĩ Phật giáo.

Nếu  sống  với  đức  hạnh  thứ  tư:  “Không kết bè, kết bạn, không nói những điều vô ích”. Đóù là lối sống độc cư phòng hộ sáu căn, lối sống của những bậc chân tu, của những người  thoát  tục,  của  những  người  xuất  thế gian.

Nếu sống  với  đức  hạnh thứ  năm:  “Không tự khoe khoang  trong khi mình thiếu đức”.  Đó  là  lối  sống  khiêm  tốn  của  những bậc Hiền Thánh, người thế gian không thể làm được. Người thế gian hễ làm được những gì thì khoe khoang không hết lời.

Nếu sống với đức hạnh thứ sáu: “Không kết  bạn  với  những  người  xấu  ác”.  Người xưa thường nói: “Chọn bạn mà chơi”. Đúng vậy, gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Chơi với những người bạn xấu ác thì sẽ ảnh hưởng xấu  và  tai  tiếng  xấu.  Đây  là  một  đức  hạnh rất cần thiết cho sự giao tiếp với mọi người, trong cuộc sống chung đụng trong gia đình  và xã hội.

Nếu sống với đức hạnh thứ bảy: “Thích ở một mình nơi  rừng núi thanh vắng”.  Đây


là đức hạnh của những bậc tu hành chân chánh sống nơi rừng núi thanh vắng. Bởi tu hành  nơi  rừng  núi  thanh  vắng  thì mới  xả tâm, ly dục ly ác pháp trọn vẹn.

Tóm  lại,  người  muốn  tu  hành  giải  thoát thì phải sống trọn vẹn bảy đức hạnh này. Muốn  sống  đúng  bảy  đức  hạnh  này  thì phải tu  tập  hết  sức  chớ  không  phải  là  lời  nói suông, vì nói thì rất dễ, nhưng sống được với bảy  đức  hạnh  này  là  một  công  trình tu  tập. Người  ta  thường  nói  đức  hạnh,  nhưng  người ta  không  thể  sống  với  đức  hạnh  này  ngay liền được. Nói thì dễ nhưng  làm rất khó. Bởi bảy đức hạnh này đã xác định được sự ly dục, ly ác pháp của một tu sĩ giải thoát, vì thế quý vị nên lưu ý.










THẾ NÀO
LÀ TỲ KHEO
TỰ THU NHIẾP TÂM MÌNH




Thu nhiếp  tâm  mình  là  một  kỳ  công  tu tập, chớ không thể chỉ hiểu biết trong kinh sách suông là thu nhiếp được tâm. Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Thế nào là các Tỳ kheo  tự  thu nhiếp  tâm  mình?  Ấy  là  các Tỳ  kheo  trước  quán  THÂN   trong  thân, tiếp theo quán thân ngoại  thân,  sau này là quán thân trong thân và ngoại thân. Phải quán một cách siêng năng, không lười biếng, ghi  nhớ không quên để từ bỏ lòng  tham  dục,  lo  buồn  của  thế  gian. Sau  khi quan  sát  như  trên  xong, kế  tiếp theo  quán   sát   về   THỌ,   về   TÂM   và   về PHÁP  cũng  như  thế”.  (Trường  A Hàm  tập một 1 trang 110)


Đây là đức Phật dạy tu tập TỨ NIỆM XỨ. Đầu tiên chúng ta phải tu tập QUÁN THÂN TRONG  THÂN,  khi  quán  thân trong  thân  cho được  thuần thục rồi  mới  QUÁN  THÂN  NGOẠI THÂN.  Sau khi tu  tập  quán  thân  ngoại  thân được thuần thục rồi mới tu tập kế tiếp  QUÁN TRONG   VÀ   NGOẠI   THÂN.   Khi   quán   thân xong thì tiếp tục quán thọ, quán tâm và quán pháp như quán thân vậy. Với mục đích quán thân,  thọ,  tâm  và  pháp  là  để  từ  bỏ  và  diệt trừ sạch LÒNG THAM DỤC.

Diệt trừ sạch lòng tham dục trên tứ niệm   xứ   là   tâm   BẤT    ĐỘNG,   THANH THẢN,  AN  LẠC  VÀ  VÔ  SỰ.  Trạng  thái  tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự là trạng thái tâm CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC. Khi  một người thường sống với tâm chánh niệm tỉnh giác  là  người  đã  chứng  đạo.  Cho nên  chứng đạo  của  Phật  giáo  đâu  có  khó  khăn,  đâu  có mệt  nhọc.  Vậy  sao quý  vị  tu  hành  trông  khó khăn quá, từ ngày này qua ngày khác. Trong thời đức Phật còn tại thế, đức Phật thuyết giảng xong một bài pháp là có người xả sạch ngũ  triền  cái  và  thất  kiết  sử,  cho nên  nghe xong là CHỨNG ĐẠO. Còn bây giờ Thầy nói khan cổ mà không ai buông bỏ được NGŨ TRIỀN  CÁI  và  THẤT  KIẾT  SỬ.  Biết  những thứ này  sinh  ra đau khổ  mà không  buông  bỏ


cho  thật  sạch  để  chứng  đạo  như  thời  đức
Phật vậy.

Nếu một người biết tu tập thì cứ ngay trên TỨ NIỆM XỨ  mà tu tập làm cho THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP thanh tịnh, không bị ác pháp hay chướng ngại pháp làm dao động tâm là chứng đạo.

Pháp  môn  TỨ  NIỆM  XỨ  là một  pháp  môn tu  tập  chứng  đạo,   nó   đứng   hàng   thứ  bảy trong  BÁT  THÁNH  ĐẠO,  vì  thế  quý  vị  đừng nghe nói tứ niệm xứ liền ôm pháp tu hành. Quý vị  có thấy không? Các  sư Nam Tông mở các  các  lớp  dạy  tu  tập  TỨ  NIỆM  XỨ  mà  đủ các  hạng  người  tu  sĩ  và  cư sĩ  đều  về  tu  tập, nhưng  có  người  nào  tu  tập  làm  chủ   SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT  được đâu. Cuối cùng người tu  theo  Phật  giáo  thì đông  vô  kể,  nhưng  làm chủ thì chẳng có ai cả. Một cuộc lễ Phật giáo như  đản  sinh  thì tu  sĩ  và  cư sĩ  tập  trung  lại trùng trùng lớp lớp, người ta thấy lực lượng Phật giáo ghê thật, nhưng sự tu tập chân chánh thì khó tìm ra một người.

Ở  đây  nói  pháp  tứ  niệm  xứ,  chớ  trình độ tu  tập  TỨ  NIỆM  XỨ  thì chưa  có  ai  tu  tập được. Tại sao vậy?

Vì đời  sống  giới  luật  chưa có  ai  sống  trọn vẹn như vừa rồi 7 hạnh sống mà đức Phật đã



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!