Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013

những lời gốc phật dạy - tập 1 -4




THIỀN  THỨ TƯ


LỜI PHẬT DẠY

“Không thở ra thở vào Tâm trú vào chánh định Không tham  ái tịch tịnh Với tâm an bất động
Như  đèn sáng chợt tắt

Tâm giải thoát Niết Bàn”.

(Tương Ưng Kinh)



CHÚ GIẢI:
Thiền Thứ Tư của Đạo Phật là một thứ thiền rất mầu nhiệm và tuyệt vời, nó tịnh chỉ được hơi thở, như câu kệ thứ nhất dạy: “Không thở ra thở vào”, nó làm chủ sự sống chết một cách  tự  tại,  muốn  thở  là  thở,  muốn  không  thở là không thở.
Đọc  bài  kệ  trên  đức  Phật  đã  xác  định rõ ràng chứ không  như các  nhà  Đại Thừa đã  cố ý



dìm mất loại thiền này bằng cách suy luận cho nó là thiền phàm phu, thiền Nhị Thừa và thiền ngoại  đạo.  Thật  là  đau  lòng  phải  không  các
bạn?

Đây,  các  bạn  hãy  lắng  nghe  chánh  định của Đạo Phật  rất  tuyệt  vời, khi hành giả  nhập
định thì:

“Không thở ra, thở vào

Tâm trú vào chánh định”

Thưa các bạn! Thiền định của Đông Độ và Đại  Thừa  có  nhập  được như  vậy  không?  Nếu nhập  không  được như  vậy  sao gọi  là  tự  tại trong  sinh  tử  được?  Sao gọi  là  thu  thần  nhập Niết bàn?
Muốn  nhập  chánh  định  để   làm  chủ  sự sống   chết  được như  vậy  thì tâm  không  còn tham  ái;  tâm  không  còn  tham  ái  thì tâm  mới tịch  tịnh  như  câu  kệ  này:  “Không  tham ái tịch  tịnh”.
Vậy tham ái là gì? Tham  là ham muốn; ái là  yêu  thích.  Con người  vốn  sinh  ra đã  bị  đau khổ  là  vì  tâm  tham  ái.  Khi tâm  tham  ái  diệt thì khổ đau và luân hồi chấm dứt.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Nếu tâm không tham ái thì tâm được tịch tịnh. Tâm được tịch tịnh thì tâm mới an trú. Tâm  có  an trú  thì tâm  mới  bất  động  trước  các pháp, như câu kệ này dạy: “Với tâm an bất động”.
Khi tâm đã an trú bất động thì lúc bây giờ chúng   ta   muốn   chết   lúc   nào   cũng   dễ    dàng không có khó khăn, không có mệt nhọc: “Như đèn sáng chợt tắt”.
Tu tập  nhập  định được  như  vậy,  các  bạn có thấy hạnh phúc không?

Lúc  bây  giờ,  chúng  ta  chỉ  cần  lìa trạng thái  Tứ   Thiền  bằng  lệnh  của  bảy  Năng  Lực Giác  Chi  thì ngay  tức  khắc  ta  vào  Niết  Bàn như  câu  kệ   đã   dạy:  “Tâm  giải   thoát   Niết bàn”.
Tóm lại,  bài kệ  trên  đây chỉ  cho chúng ta biết pháp môn và cách thức tự tại nhập Niết bàn, chứ nó không phải là bài pháp để  các bạn tu  tập  nhập  Tứ  Thiền  suông.  Các  bạn nên  lưu ý. Có người đã dùng  bài kệ  này để  tu tập nhập Tứ Thiền là không đúng pháp.
Thưa các bạn! Nếu các bạn muốn nhập Tứ Thiền  thì các  bạn  hãy  trở  về  tu  tập  giới  luật qua các  giới hành  như sau: Tứ  Chánh  Cần,  Tứ



Niệm Xứ, Thân hành Niệm, v.v.. chứ các bạn đừng ở  trên bài kệ này tu tập, bằng không thì các bạn đã tu tập sai pháp rồi các bạn ạ!





KHÔNG SỞ HỮU


LỜI PHẬT DẠY

“Ai quá, hiện, vị lai Không một   sở hữu gì Không sở  hữu, không nắm Ta gọi Bà La Môn”.
(Kinh Pháp Cú Phẩm Bà La Môn)



CHÚ GIẢI:
Bốn câu kệ trên đây để xác định một vị tu sĩ Phật giáo đúng Thánh hạnh mà  ngày xưa đức   Phật  thường  xem  mình   như  một  Bà  La Môn nghiêm trì giới luật không hề sai phạm.

Câu  kệ  thứ  nhất  dạy:  “Ai  quá,  hiện,  vị
lai”. Có nghĩa là người tu sĩ  nào trong ba thời gian  quá  khứ,  vị  lai và  hiện  tại  sống  không  có của  cải  tài  sản,  sống  không  gia  đình,  không nhà  cửa,  đời sống  luôn  luôn  thiểu  dục  tri túc, chỉ có ba y một bát, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc,  phóng  khoáng  như  hư không.  Đó  là  Phạm



hạnh  của  người  tu  sĩ  Phật  giáo.  Người  sống đúng  Phạm  hạnh  như  vậy  mới  được  gọi  là  Bà La Môn.
Vì  thế,  câu  kệ  thứ  hai  đã  xác  định điều này: “Không  một sở  hữu gì”. Cho nên,  người tu  sĩ  không  có  của  cải  tài  sản,  không  có  gia đình, không có nhà cửa thì không có sự ràng buộc, không bị dính mắc. Do không bị tài sản, của cải ràng buộc, dính mắc thì đó là giải thoát các bạn ạ! Giải thoát phần thô về vật chất. Nếu phần  vật  chất  đã  lìa  xa thì phần  nội  tâm  quét cũng  không  còn  khó  khăn.  Hai  phần  này  gom lại  là  tâm  đã  ly dục ly  ác  pháp.  Tâm  ly dục ly ác pháp là tâm không phóng dật. Tâm không phóng  dật  là  tâm  bất  động  trước  các  pháp  và các cảm thọ.

Cho nên, câu kệ thứ ba dạy: “Không sở hữu, không nắm”. Người tu sĩ tu tập mà đạt được  tâm  bất  động  như  vậy  thì đức  Phật  mới gọi là  Bà  La Môn. Một  vị  tu sĩ  Bà  La Môn mà được  đức Phật chấp nhận là phải có những tiêu chuẩn  hẳn  hoi  như  trên  đã   nói.  Các  bạn  có nhận xét điều này không?
Bởi vậy trong thời đại này,  nhìn  các tu sĩ Phật  giáo  trong  các  hệ  phái  khác  nhau  thì chúng  ta  biết  rõ  Phật  giáo  đã  bị  chia  chẻ  tan



nát. Chia chẻ từ hình  thức ăn mặc cho đến tinh thần giáo pháp, nhất là Đại Thừa Phật giáo tự vỗ  ngực  xưng mình  có  84 ngàn  pháp  môn.  Có
84 ngàn pháp  môn,  nếu ai  chấp  vào pháp  môn nào  thì có  thể  chia  ra làm  nhiều  hệ  phái  khác nữa.  Và  như vậy,  Phật  giáo  còn  gì gọi là  đoàn kết,  giáo  lý  của  Phật  chỉ  là  những  pháp  môn góp  nhặt.  Đó  là  nói  lên  sự suy yếu  rất  lớn của Phật giáo.
Phật giáo chỉ có một pháp môn duy nhất, đó  là Đạo Đế. Đạo Đế là một chân lý trong bốn chân lý bất di bất dịch của Đạo Phật, không ai có thể thay đổi được.  Thế mà bây giờ lại có tám mươi bốn ngàn pháp môn thì các bạn nghĩ sao. Có đúng là pháp môn của Phật không?
Ngày   xưa  tu   hành   đức   Phật   không   có tham vọng như các Tổ ngày nay. Ngài tự thấy mình  là một Bà La Môn, một Bà La Môn sống có  đạo đức,  không  mê  tín, không  cúng  bái,  cầu siêu,  cầu  an,  v.v..  không  lừa  đảo  người,  trước mặt  cũng  như sau lưng,  chỉ  tu hành  sống  đúng Phạm  hạnh,  nhờ  đó  Ngài  mới  tìm thấy  có  sự giải thoát rõ ràng, cụ thể. Cho nên, trong kinh Pháp Cú, Ngài thường nhắc nhở các vị Tỳ Kheo nào sống đúng giới luật thì người ấy được gọi là Bà  La  Môn  chân chánh, còn  những  vị  nào

 

sống không đúng giới luật, phá giới, phạm giới thì đức Phật gọi là Bà La Môn ngoại đạo.
Trong thời gian hoằng hóa độ sanh, đức Phật  cũng  tự  cảm  thấy  mình   là  một  Bà  La Môn,  nhưng  một  Bà  La  Môn  sống  trước  mặt cũng như sau lưng mọi người không hề thiếu mười hai Đức Thánh hạnh này. Đó là:
1-        Như Lai

2-        A La Hán

3-        Ứng Cúng

4-        Chánh Biến Tri

5-        Minh Hạnh Túc

6-        Thiện Thệ

7-        Thế Gian Giải

8-        Vô Thượng Sĩ

9-        Điều Ngự Trượng Phu

10- Thiên Nhơn Sư

11- Phật.

12- Thế Tôn.

Chúng tôi xin giải nghĩa của mười hai hiệu
Đức Thánh này:



1-  Như   Lai:  Dịch âm  tiếng  Phạn Tathàgata  có  nghĩa  là  vì  theo  con đường  như thật  đi  tới  mà  thành  Chánh  Giác.  Như  Lai cũng  có  nghĩa  là  bậc  tu  hành  đã  xong, không còn  tái  sinh  trở  lại  cuộc  đời  này  nữa  tức  là  đã làm chủ sinh, tử và chấm dứt luân hồi.

Như Lai là một “Đức Thánh Không Đến
Không Đi”.

2-   A   La   Hán:   Dịch  âm   tiếng   Phạn Arahant.  A La  Hán  đồng  nghĩa  với  Ứng  Cúng có  nghĩa  là  giết  giặc  phiền  não,  bất  sanh  mãi mãi ở  trong Niết bàn, xứng đáng nhận sự cúng dường  của  Trời  Người.  Tóm lại,  bậc  A La  Hán đã   thoát  khỏi  phiền  não,  được  tự  do  tự  tại, hoàn mỹ về mặt đạo lý, làm chủ được tư tưởng của mình,  biết hết tất cả, có đủ sáu pháp huyền diệu,  không  phải  chịu  quả  báo  sống  chết  lần thứ  hai.  Danh  hiệu  này  Đại  Thừa  cho là  còn thấp kém chỉ là quả cao nhất của Tiểu Thừa.

A  La  Hán  còn  gọi  là  “Đức   Thánh  Vô Lậu”. Đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.

3- Ứng Cúng: Dịch âm tiếng Phạn Arhat nghĩa  là  bậc  đã  xa lìa  mọi  điều ác,  xứng  đáng



được hưởng thọ sự cúng dường của Người, Trời. Bậc đầy đủ phước báu không ai hơn.
Ứng  Cúng  là  đức  hạnh  xa lìa những  điều ác  xứng  đáng  là  nơi  phước  báu  vô  lượng để chúng sanh Trời Người cúng dường, nên gọi là “Đức Thánh Phước Điền”.

4- Chánh Biến  Tri:  Dịch âm  tiếng  Phạn Samyasambuddha  nghĩa  là  chánh  trí biết  rõ mọi  pháp   như  thật.   Chánh   biến  tri còn  có nghĩa  là  trí hiểu  biết  chân  chánh  không  bị  tà pháp, tà kiến, tưởng kiến, tà giáo lừa đảo, trí hiểu biết vượt ra khỏi sự hiểu biết trong khuôn khổ nề nếp phong tục, tập quán và các hệ tư tưởng của các tôn giáo trên thế gian này.

Chánh Biến Tri còn gọi là “Thánh  Hạnh
Liễu Tri”.

5- Minh Hạnh  Túc:  Dịch âm  tiếng Phạn Vidyàcaranasampana có nghĩa là bậc có đầy đủ trí tuệ và đức hạnh.
•  Trí  Tuệ gồm đủ có ba:

- Ý thức tuệ.

- Tưởng thức tuệ.

- Tam minh tuệ.

•  Tam Minh Tuệ gồm có ba:



- Vô thời gian tuệ.

- Vô không gian tuệ.

- Vô lậu tuệ.

• Thánh đức gồm có bốn: Đức từ, Đức bi, Đức hỷ, Đức xả.
• Thánh hạnh gồm có năm hạnh: Thắng hạnh, Chánh hạnh, Trực hạnh, Diệu hạnh, Tịnh hạnh.
6- Thiện Thệ: Dịch từ tiếng Phạn Sugata nghĩa  là  bậc  đã  tu  tập  hoàn  thành  con đường Bát  Chánh  Đạo,  bậc  đã   làm  xong  các  hạnh lành, không còn trở  lui  về  ác pháp  và  cuộc đời này nữa.

Thiện  Thệ  còn  gọi  là  “Thánh  hạnh   tự tại sinh tử”.

7- Thế Gian Giải: Dịch từ tiếng Phạn Lokavit:  có  nghĩa  là  giải  thích  rõ  các  pháp trong thế  gian,  không còn pháp  nào mà  không giải thích được. Thế gian giải có nghĩa là bậc thông suốt tất cả các pháp thế gian. Bậâc có thể hiểu  rõ  các  lý  và  sự  của  loài  hữu  tình và  vô
tình.

Thế  Gian  Giải  còn  gọi  là  “Thánh  hạnh giải thông suốt các pháp thế gian”.



8- Vô Thượng Sĩ: Dịch từ tiếng Phạn Anu Hara:  có  nghĩa  là  bậc  cao hơn  hết  trong  các hàng chúng sanh. Một con người làm chủ tột đỉnh giải thoát, không còn có sự giải thoát nào cao hơn nữa.

Vô  thượng  sĩ  còn  gọi  là  “Thánh   hạnh giải thoát cao nhất”.
9- Điều  Ngự  Trượng Phu:  Dịch từ  tiếng Phạn   Purusa-danya-sàrathi:   có   nghĩa   là   bậc điều khiển được mình  và tất cả chúng sanh tức là  bậc  đã   làm  chủ  được mình   và  tất  cả  các pháp,  nói  một  cách  dễ  hiểu  hơn là  bậc  tâm  đã bất động trước các pháp và các cảm thọ.

Điều Ngự Trượng Phu còn gọi là “Thánh hạnh  nhiếp  phục  các  pháp  và  các  cảm thọ”.
10-  Thiên Nhân  Sư:  Dịch  theo   tiếng Phạn Sàtàde-vanàsyànàm: nghĩa là bậc Thầy của  Trời,  Người.  Dạy  cho Trời,  Người  những  gì nên làm và những gì không nên làm.

Thiên  Nhân  Sư còn  gọi  là   “Đức  Thánh
Thầy Trời, Người”.

11- Phật:  Dịch âm  chữ  Buddha  có  nghĩa là bậc giải thoát hoàn toàn, bậc Giác Ngộ.



Phật còn gọi là “Đức Thánh Giác Ngộ”.

12-  Thế  Tôn:  Dịch âm  tiếng  Phạn Bhagavat có nghĩa là bậc cao hơn hết trong cõi Trời,  Người,  được tất  cả  Trời,  Người  đều  tôn kính  trọng.

Thế   Tôn   còn   gọi   là   “Đức   Thánh   tôn kính”.
Mười hai đức  hạnh tối cao trên đây nếu người tu sĩ nào làm được thì đức Phật gọi người ấy là Bà La Môn.
Tóm lại, bài kệ  trên  đây  đã  xác định một người  Bà  La  Môn  đúng  tiêu  chuẩn  của  Phật giáo  là  không  có  một  vật  sở  hữu  nào  cả  suốt trong  ba thời  gian  quá  khứ,  hiện  tại  và  vị  lai thì mới đúng nghĩa:

“Ai quá, hiện, vị lai Không một   sở hữu gì Không sở  hữu, không nắm Ta gọi Bà La Môn”.
Đúng  vậy,  lúc  nào  cũng  nhớ  giữ  gìn  giới
luật nghiêm chỉnh và hạnh tri túc thì mới xứng đáng là Bà La Môn của Phật giáo.



Đọc  bài  kệ   này  chúng  ta  mới  biết  Phật giáo là do người sau lập thành tôn giáo lấy tên là Phật giáo, còn riêng đức Phật thì không có ý đó. Tại sao vậy?
Bởi  Đạo  Phật  là  đạo  đức  của  con  người trên  hành  tinh này,  nó  là  chân  lý  của  loài người,  nên  không  thể  xây  dựng nó  thành  tôn giáo được, vì tôn giáo sẽ bị hạn cuộc trong một số  người  rất  ít, chứ  không  được  phổ  cập  rộng rãi khắp  mọi người, mọi nơi.  Và  khi thành lập ra tôn  giáo  là  sẽ  chia  chẻ  con người,  mà  chia chẻ  con người  thì không  còn  là  đạo  đức.  Hình thức  chia  chẻ  là  vì  quyền  lợi riêng  tư  cho cá nhân hay tập thể nhỏ. Cho nên, các Tổ không hiểu  điều này,  vì quyền  lợi riêng  tư  mà  các  Tổ đã  làm  một  việc  rất  sai  lầm,  biến  chân  lý  và đạo   đức  của  loài  người  thành  chân  lý  và  đạo đức riêng tư của tôn giáo. Một bằng chứng rất hùng  hồn,  từ  những  tham  vọng  ấy,  các  Tổ  đã chia nát Phật giáo ra nhiều hệ phái, làm cho Phật giáo suy yếu và mất gốc. Từ Phật giáo của chung của nhân loại  đã  trở thành của riêng và còn  của  riêng  nhiều  vị  Tổ   nữa.  Thật  là  đau lòng, phải không hỡi các bạn?
Riêng  đức  Phật  chỉ  thấy  mình  là  một  Bà
La Môn và cố gắng làm tốt hơn cho Bà La Môn



Giáo,  chứ  không  có  mục  đích  thành  lập  tôn giáo  riêng  tư,  chỉ  vì  người  sau không  hiểu  ý Phật  nên  dựa  vào  12 danh  hiệu  của  Ngài  mà đặt tên cho tôn giáo.  Từ  đó  mới có tên là  Phật giáo.





BẬC CHIẾN THẮNG


LỜI PHẬT DẠY

“Bậc trâu chúa, thù thắng.

Bậc anh  hùng, đại sĩ.

Bậc chiến thắng, không nhiễm. Bậc tẩy sạch, giác ngộ.
Ta gọi Bà La Môn”.

Kinh Pháp Cú


CHÚ GIẢI:
Người  tu  hành  theo  Phật  giáo  phải như con trâu  chúa,  lúc  nào  cũng  phải  đứng  lên trên Trời, Người, nên câu kệ thứ nhất trong bài này   đức    Phật   dạy:   “Bậc   trâu   chúa,   thù thắng”.  Đúng  vậy,  Người  tu  sĩ  Phật  giáo  phải là  người  anh  hùng,  kiên gan, bền  chí như  đất trời  không  hề  lùi  bước  trước  gian  nan,  khó khăn  nào  cả.  Nên  câu  thứ  hai  đức  Phật  dạy
người  tu  sĩ  theo  Phật  giáo  xem  cái  chết  nhẹ
như lông  hồng  phải  chứng  tỏ  mình:  “Bậc  anh



hùng,  đại  sĩ”. Thế mà  thời  nay nhìn  lại  tu  sĩ Phật  giáo  phá  giới, phạm  giới,  bẻ  vụn  giới  thì còn gì là bậc trâu chúa, bậc thù thắng, bậc anh hùng   đại   sĩ.   Phải   không   các   bạn?   Toàn   là những bậc ăn bám vào tín đồ  giống như loài ký sinh trùng (trùng trong lông sư tử).
Người tu sĩ Phật giáo phải luôn luôn là người  chiến  thắng  giặc  ăn,  giặc  ngủ,  giặc  hội họp, giặc tham, giặc sân, giặc si... Muốn chiến thắng được như vậy thì giới luật là khuôn phép để    chúng   ta   khép   mình,   sống   đúng   Thánh hạnh,   để    tôi   luyện   mình   trở   thành   những thanh  thép  hữu  ích  cho mình,  cho người,  cho đời,  cho xã  hội,  cho quê  hương  đất  nước,  cho thế giới, cho cả sự sống trên hành tinh này.
Nếu  không  tôi  luyện  mình   như  vậy,  thì thân  tâm  dễ   bị  ô    nhiễm  những  dục  lạc  thế gian. Phải không các bạn? Bởi vậy, bậc chiến thắng đệ tử của đức Phật phải là những người không  đắm  nhiễm;  không  đắm  nhiễm  tất  cả mọi  dục lạc.  Nếu  chỉ  còn  đắm  nhiễm một  chút
xíu dục lạc nhỏ như hạt phù sa sông Hồng1  thì




1 Sông Hồng là một dòng sông lớn xuất phát từ  bên nước
Trung  Quốc  chảy  ra biển  Đông,  ngang  qua  nước  Việt



cũng chưa phải là  người  chiến thắng  giặc  sanh tử,  cho nên  đức  Phật  dạy: “Bậc  chiến  thắng, không nhiễm”.
Từ   không  nhiễm  lớn  đến   không  nhiễm nhỏ, hoàn toàn phải sạch bóng sự ô nhiễm thì mới được gọi là bậc Giác Ngộ. Vì thế, trong bài kinh Pháp Cú đã dạy:
“Bậc tẩy sạch, giác ngộ”

Nếu không quét sạch giặc tham, sân, si... ngũ  triền  cái,  thất  kiết sử...  thì làm  sao có  sự thanh  bình  trong  tâm  hồn  mình.  Phải  không hỡi các bạn?
Qua bài kệ  này, muốn được  đức Phật chấp nhận  mình  là  một  Bà  La Môn  đúng  nghĩa  của Bà  La  Môn  thì phải  sống   đầy  đủ  đức   hạnh không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.  Dựa  vào  lời dạy  trên  đây,  chúng  ta  xét thấy trong thời đức Phật còn tại thế có thể chia ra bốn loại Bà La Môn:
1- Bà La Môn phạm giới, phá giới, bẻ vụn
giới.





Nam. Tác giả mượn tên sông Hồng là chỉ cho người Việt
Nam cũng làm được một việc vĩ đại như người Ấn Độ.



2- Bà La Môn cúng bái tế tự, cầu siêu, cầu an, làm những điều mê tín,  v.v..
3- Bà La Môn xây dựng thế giới tâm linh, sống trong ảo tưởng, mơ mộng hư ảo; lừa đảo, lường gạt  người  để được   ngồi trong mát  ăn bát vàng.
4- Bà La Môn chuyên tu tập luyện thần thông  trừ  tà,  yểm  quỷ,  bắt  ma trị  bệnh  bằng phù  phép  tạo  ra một  thế  giới  siêu hình  huyền ảo khiến cho con người mất hết sức tự chủ, chỉ còn biết tựa nương vào Thần Thánh, Tiên, Phật hoặc Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.
Những hạng Ba La Môn này, ngày xưa đức Phật còn tại thế không bao giờ chấp nhận, chỉ có ngày nay Đại Thừa chấp nhận và vì thế, những người tu sĩ Đại Thừa có một nếp sống và những việc làm mơ hồ ảo tưởng, mê tín  lạc hậu, bùa chú thần thông pháp thuật cũng giống như những Bà La Môn ngày xưa đã  nói ở  trên. Còn đức Phật thì cho những tu sĩ đó  là Ma Ba Tuần đang phá và diệt Phật giáo.
Qua bài kệ này, chúng ta thấy rõ ràng đức Phật đã  tự cho mình  là Bà La Môn, “Ta  gọi Bà La  Môn”  theo  nghĩa  Bà La Môn phải là  những bậc:



1-        Bậc trâu chúa, thù thắng.

2-        Bậc anh hùng, đại sĩ.

3-        Bậc chiến thắng, không nhiễm.

4-        Bậc tẩy sạch, giác ngộ.

Nhìn  vào tiêu chuẩn bốn bậc Bà La Môn ở trên  đây  thật  khó  cho  một  người  không  có quyết  tâm  cao, không  có  nhiệt tâm  nồng  cháy trong việc đi tìm đường giải thoát, đi tìm đường liễu  sinh  thoát  tử  trở  thành  những  bậc  này. Phải không hỡi các bạn?





BÀ LA MƠN


LỜI PHẬT DẠY

“Ai biết được đời trước Thấy Thiên giới, đọa xứ Đạt được sanh diệt tận Thắng trí, tự viên thành Bậc Mâu Ni  đạo sĩ
Viên mãn mọi thành tựu

Ta gọi Bà La Môn”.

Kinh Pháp Cú



CHÚ GIẢI:
Một lần nữa đức Phật xác định cho chúng ta thấy một tu sĩ Phật giáo được gọi như thế nào là một Bà La Môn chân chánh trong những tiêu chuẩn nào?
Đọc  bài  kệ  trên  đây  trong  kinh Pháp  Cú chúng  ta  mới  thấy  rõ  một  vị  tu  sĩ  Phật  giáo



được gọi là Bà La Môn chân chánh thì phải hội đủ những tiêu chuẩn:
1- Biết được  đời trước của mình  là phải có Tam  Minh.  Trong   Tam  Minh  có   Túc   Mạng Minh. Có  Túc  Mạng  Minh mới  biết được  nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ của mình  và của người khác. Một Bà La Môn chân chánh tu tập phải có Túc Mạng Minh biết được nhiều đời của mình  thì mới được gọi là một Bà La Môn, bằng không  biết  thì không  được  gọi  là  Bà  La  Môn. Cho nên, câu kệ này dạy: “Ai biết được đời trước”.
Chúng ta hiện giờ nhìn  lại tu sĩ Phật giáo có vị nào tu tập biết được nhiều đời nhiều kiếp trong  quá  khứ  của  mình  chưa?  Nếu  chưa biết thì chưa được gọi  là  Thánh  Tăng,  Thánh  Ni, chưa được gọi là  Bà  La Môn  chân  chánh.  Phải không các bạn?
2-  Một  người  được gọi  là  Bà  La  Môn  là phải có trí tuệ nhân quả thấy thiện và ác rất rõ ràng. Người thấy thiện ác rõ ràng là người có chánh  tri kiến. Người  có  chánh  tri kiến là người  ly  dục  ly  ác  pháp.  Người  ly dục  ly  ác pháp là người tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Người có tâm bất động là người xứng đáng được gọi là Bà La Môn chân chánh.



Hiện giờ  nhìn  xem những  tu  sĩ  Phật  giáo thì chúng  ta  biết  ngay  họ  chưa ly dục  ly  ác pháp  vì  họ  còn  ăn  uống  và  ngủ  nghỉ  phi  thời, tâm  còn  ham  vui,  thích  tài  sản,  của  cải,  tiền bạc,  nhà  cửa  sang đẹp, như  chùa  to  Phật  lớn, v.v.. Chính  họ không thấy những sự ham muốn đó là dục, là ác pháp. Do như vậy, họ chưa xứng đáng làm Thánh Tăng, Thánh Ni; chưa xứng đáng  làm  Thánh  Tăng,  Thánh  Ni thì làm  sao xứng  đáng  làm  đệ   tử  của  Phật  được. Họ là những người không thấy nhân quả thiện ác thì làm  sao được gọi  là  Bà  La  Môn  chân  chánh. Cho nên, câu kệ  thứ hai đức  Phật đã  xác định: “Thấy Thiên giới, đọa xứ”. Câu này chúng ta phải hiểu nghĩa cho rõ ràng. Vậy Thiên giới và đọa xứ là gì?
Thiên giới là  cõi Trời; đọa xứ là  địa ngục. Ở  đây không phải là cõi Trời mà là Thập thiện, ở   đây  không  phải  là  địa ngục  mà  là  Thập  ác. Thấy  thiên  giới,  đọa  xứ  là  thấy  Thập  thiện, thập ác. Thấy Thập thiện và Thập ác là thấy nhân  quả.  Thấy  được  nhân  quả  thì mới  được đức Phật chấp nhận là Bà La Môn chân chánh. Có  hiểu  nghĩa  như  vậy  mới  hiểu  lời  đức  Phật dạy.   Các   bạn  có   hiểu   đúng   nghĩa   như  vậy không?



Nhưng  một vị Bà La Môn chân chánh đâu phải  tu  tập  có  bấy  nhiêu  pháp  thôi,  mà  còn phải  tu  tập  nhiều  hơn nữa,  phải  làm  chủ  sanh tử  như câu  kệ  dưới đây:  “Đạt  được sanh  diệt tận”. Vậy, sanh diệt tận nghĩa là gì?
Sanh là đời sống, sự sống; diệt là chết, sự chết;  tận  là  tận  cùng,  cuối  cùng,  chấm  dứt. Toàn nghĩa câu này là phải đạt cho được  sự tận cùng sống chết của kiếp làm người thì mới được đức Phật chấp nhận là một Bà La Môn chân chánh,  còn  chưa tu  tập  được như  vậy  thì chưa xứng đáng là Tăng là Ni đệ tử của Phật.
Làm  một  đệ  tử  của  đức Phật  đâu phải  dễ. Phải không hỡi các bạn? Phải đầy đủ thắng trí. Vậy  thắng  trí là  gì?  Thắng  trí là  một  trí tuệ chiến  thắng  mọi ác  pháp  và  các  cảm  thọ,  một trí tuệ không bao giờ chịu khuất phục trước mọi trở ngại, gian nan hay mọi việc khó khăn nào, luôn luôn giành phần thắng về mình.  Có thắng trí như vậy là có sự chiến thắng vẻ vang trong trận giặc sanh tử luân hồi. Người có thắng trí mới xứng đáng là đệ  tử của đức Phật, mới xứng đáng  là  Bà  La  Môn  chân  chánh,  nên  câu  kệ
dạy:

“Thắng trí, tự viên thành”.



Người có thắng trí là người thành tựu đạo giải thoát dễ dàng, đâu cần gì tu tập nữa. Có đúng như vậy không các bạn?
Hai   câu  kệ   cuối  cùng  để   tán  thán  một người tu sĩ Phật giáo thành tựu viên mãn đạo giải thoát:
“Bậc Mâu Ni  đạo sĩ

Viên mãn mọi thành tựu”.

Vậy,  Mâu  Ni và  viên  mãn  nghĩa  là  gì? Mâu Ni dịch âm tiếng Phạn là Mouni có nghĩa là  năng  nhơn,  năng  từ,  năng  mãn,  năng  tịch, v.v..  Năng  nhơn  nghĩa  là  lòng  thương  người; năng  từ  là  lòng  từ  bi;  năng  mãn  là  tâm  tròn đầy đức  hạnh; năng tịch là tâm bất động trước các  pháp  và  các  cảm  thọ.  Tóm  lại,  nghĩa  của toàn  câu  kệ  này  là  bậc  đạo  sĩ  đầy  đủ  những năng lực  siêu việt không có một người nào hơn được “Bậc Mâu Ni  đạo sĩ”.
Viên mãn: là tròn đầy, đầy đủ,  không còn thiếu  khuyết  một  chỗ  nào  cả.  Nghĩa  của  câu này  là  tất  cả  những  pháp  môn  tu  hành  của Phật  giáo  đều   đã  tu  hành  xong:  “Viên  mãn mọi thành tựu”.
Đọc bài kệ trên đây chúng ta thấy được những  kết  quả  vĩ  đại  của  một  người  tu  theo



Phật giáo  mà đáng được gọi là Bà La Môn đâu phải dễ như toàn bài kệ:
“Ai biết được đời trước Thấy Thiên giới, đọa xứ Đạt được sanh diệt tận Thắng trí, tự viên thành Bậc Mâu Ni  đạo sĩ
Viên mãn mọi thành tựu

Ta gọi Bà La Môn”.

Được gọi là  Bà La Môn là phải tu tập cho đến  nơi  đến  chốn,  chứ  không  phải  tu  danh,  tu lợi theo kiểu Đại Thừa và Thiền Tông. Có đúng như vậy không các bạn?





CHỌN BẠN


LỜI PHẬT DẠY

“Tìm không được bạn đường Bằng mình hay hơn mình Thà quyết sống một mình Không làm bạn kẻ ngu”.
Kinh Pháp Cú
(V- Balavagga - Phẩm Ngu)


CHÚ GIẢI:
Ca  dao Việt Nam có câu:

“Thói thường gần mực  thì đen,

Anh em bạn hữu ta nên chọn  người”

Trong kinh Pháp Cú Phật dạy:

“Tìm không được bạn đường Bằng mình hay hơn mình Thà quyết sống một mình Không làm bạn kẻ ngu”



Đọc câu ca dao và bốn câu kệ trên đây cho chúng ta thấy rằng, đời cũng như Đạo Phật đều dạy chúng ta nên chọn Thầy hay, bạn tốt, hoặc chọn bạn bằng mình  hay hơn mình.  Nếu Thầy, bạn  kém  hơn  mình   thì chẳng  ích  lợi gì  cho mình,  nhiều khi còn bị đắm nhiễm theo thói hư tật  xấu  của  những  người  này.  Thầy  Tổ  phạm giới, phá giới, sống không đúng Phạm  hạnh và bạn  bè  thiếu  đạo  đức,  do đó  nhất  định không nhận  họ  làm  Thầy  Tổ,  không  làm  bạn  với  kẻ
ngu.

Những câu kệ  này đức Phật dạy chúng ta nên  chọn  một  người  bạn   giỏi  hơn  mình,   đó cũng là một vị Thầy của mình,  để  mình  sẽ học hỏi được nhiều điều hay, điều tốt, còn chọn một người  bạn dở  hơn  thì mình  có  học  hỏi  được gì đâu,  đôi  khi lại  bị  ô   nhiễm tính xấu  như  gian tham, trộm cướp, nói láo, giết người, v.v..
Vào đạo tu học cũng nên chọn một vị Thầy giới luật nghiêm túc, đức hạnh đầy đủ. Vì thế, đức  Phật  thường  dạy:  “Này  các  Tỳ  Kheo,  ở đây,  có  kẻ  phàm  phu  ít nghe,  không được thấy các bậc Thánh, không được thân cận các  bậc  Thánh, không thuần  thục  pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh,  không được  thấy các   bậc   Chơn



nhơn,   không được   nghe   các   bậc   Chơn nhơn,  không được thân cận  các  bậc  Chơn nhơn,   không thuần   thục   pháp   các   bậc Chơn   nhơn,   không tu  tập  pháp  các  bậc Chơn nhơn”. Đoạn kinh trên đây, đức Phật khuyên chúng ta nên chọn những bậc Thánh, bậc Chơn Nhơn  đạo hạnh như vậy để  thân cận mới được lợi ích cho mình  cho người khác.
Bởi  vì,  chúng  ta  thiếu  sự   cân  nhắc  kỹ lưỡng  khi chọn Thầy,  tìm bạn, nên  sự  lầm  lẫn của chúng ta đã phải trả một giá quá đắt cho cuộc đời tìm đạo tu hành.
Vào đạo với lòng tin Phật, tin Thầy Tổ. Nhưng Phật đã mất đi rồi không còn gần gũi khuyên nhắc chúng ta nữa, chỉ còn Thầy Tổ mà thôi.  Nhưng  Thầy  Tổ sống  phạm giới  phá  giới, Thánh hạnh Thầy Tổ không còn thì biết tin và nương  tựa  vào  ai  nữa  đây?  Nhìn   gương hạnh sống  của  Thầy  Tổ  hiện  giờ  mà  lòng  chúng  ta đau xót tận cùng vì giới luật đức hạnh của Phật dạy  còn  đây  mà  Thầy  Tổ  thì ném  bỏ  vào  sọt rác.  Ôi,  đau xót  vô  cùng!  Còn  biết  nương  tựa vào đâu nữa?
Thật là bất hạnh cho mỗi chúng ta biết chừng nào! Thầy hay khó gặp, bạn tốt khó tìm.




THIỀN ĐỊNH


LỜI PHẬT DẠY

“Này  Sandha, hãy  tu  Thiền với  sự Thiền định của con ngựa thuần thục, chớ  có  Thiền định  của  con  ngựa  chưa thuần thục”.
(Tăng Chi Bộ Kinh, tập 4, trang 655)


CHÚ GIẢI:
Người tu thiền định cần phải lưu ý lời khuyên dạy trên đây của đức Phật: “Hãy tu Thiền với   sự   Thiền   định  của   con  ngựa thuần  thục,  chớ  có  Thiền định  của  con ngựa chưa thuần thục”.
Hầu hết, người tu thiền định thời nay không quan tâm đến vấn đề này, nên muốn tu thiền định là đi học thiền, tu thiền, chứ họ đâu biết rằng  tu  thiền  định như vậy  là  sai, tu  như vậy  không  bao giờ  nhập  được  thiền  định. Tại sao vậy?



Vì thân tâm họ chưa thuần thục, còn đắm nhiễm dục và  ác pháp, tức là  chưa ly dục ly  ác pháp có nghĩa là giới luật chưa nghiêm túc. Bởi vậy,  đức   Phật   dạy:  “Hãy  tu  Thiền   với   sự Thiền định  của con ngựa thuần  thục”.
Thưa các bạn! Con ngựa thuần thục và con ngựa chưa thuần thục nghĩa như thế nào?
Con ngựa thuần thục là  chỉ  cho tâm đã ly dục ly  ác  pháp,  tâm  đã  lìa  tham,  sân,  si, mạn, nghi. Khi tâm đã  ly dục ly  ác pháp thì lúc bây giờ  chúng  ta  mới  tu  tập  Thiền định. Cho nên, đức  Phật  dạy:  “Hãy tu Thiền  với  sự  Thiền định  của  con ngựa  thuần  thục”.  Thân  tâm đã thuần thục trong giới luật thì tâm định tỉnh, nhu nhuyễn dễ sử dụng. Lúc bấy giờ, chúng ta mới bắt đầu tu tập Thiền Định. Tu như vậy mới đúng như lời Phật dạy. Phải không các bạn?
Cho  nên,  nền  tảng  thiền  định của  Đạo Phật  là  giới  luật  mà  giới luật  thì phải  nghiêm chỉnh; giới luật có nghiêm chỉnh thì tâm mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn.
Do  lời  dạy   trên   đây   của   đức   Phật   mà chúng  ta  xét  thấy  những  người  tu  theo  thiền định của Phật giáo thời nay đều tu sai pháp, vì giới  luật  chưa  nghiêm  chỉnh,  hạnh  ly  ăn,  ly



ngủ, hạnh sống độc cư chưa trọn vẹn mà đòi nhập  thiền  định thì làm  sao nhập  được. Các bạn chỉ tu tập thiền tưởng, chứ chánh định chánh thiền thì không thể tu tập như vậy được.
Đoạn  kinh trên  đây  cho chúng  ta  thấy  tu sĩ  Phật  giáo  hiện  giờ  chưa có  ai  nhập  Chánh định được, chỉ nhập vào Tà định của ngoại đạo mà thôi. Giới luật không tu tập, mà lại còn phá giới, phạm  giới,  tu  như  vậy  cho phù  hợp  với thời đại thì chỉ có các nhà Sư Đại Thừa và kinh sách   Đại   Thừa   dạy,   chứ   kinh  sách   Nguyên Thủy thì không có dạy như vậy.
Xét  qua lời dạy trên,  thì thấy  giáo  lý  Đại Thừa xem nhẹ giới luật, hướng dẫn tu sĩ đi đến con đường  sai  lệch:  cúng  bái,  cầu  siêu  cầu  an, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, bắt ấn, ngồi thiền ức chế tâm, v.v..
Thưa các bạn! Chúng  ta là  những tu sĩ  và cư sĩ Phật giáo sao lại không sáng suốt phân biệt pháp môn nào của Phật, pháp môn nào của ngoại  đạo,  của  các  Tổ,  để  tu  hành  tránh  khỏi lầm  lạc.  Và  như vậy,  vô  tình chúng  ta  lại  cố  ý tiếp  tay  diệt  sạch  Phật  giáo  theo  mưu đồ  của Bà La Môn. Phải không hỡi các bạn?
Nhìn  thấy  các  bạn  tu  theo  kinh sách  Đại
Thừa, chúng  tôi dựa theo  lời  dạy Nguyên  Thủy



của  Phật  trên  đây  mà  khẳng  định rằng:  Các bạn tu tập như vậy là sai, chỉ uổng công, chẳng bao giờ  nhập  được Chánh  định, làm  chủ  sanh, già,  bệnh,  chết  và  chấm  dứt  luân  hồi.  Các  bạn tin hay  không  tin là  quyền  ở   các  bạn,  nhưng điều chúng tôi quyết  chắc là  các bạn sáng suốt nhận  định rõ  ràng  những  gì các  bạn  tận  mắt thấy, tai nghe và những gì chúng tôi nói. Đó là những  điều   chứng  thực  để   các  bạn  tin  hay không tin.
Thiền định của  con ngựa  chưa thuần  thục nghĩa là gì? Con ngựa chưa thuần thục có nghĩa thân tâm của các bạn còn tham, sân, si, mạn, nghi,  còn  chưa ly  dục ly  ác  pháp.  Khi tâm  còn tham,  sân,  si,  mạn,  nghi,   chưa  ly  dục  ly  ác pháp  thì đừng  có  tu  thiền  định, vì có  tu  thiền định cũng  chỉ  mất  công  phí  sức  chẳng  bao giờ nhập  được  định, bởi  vì nền  tảng  tu  thiền  định của  Đạo  Phật  là  Giới  luật.  Có  nền  tảng  giới luật  thì tu  thiền  định mới  bảo  đảm.  Tâm  phải thanh tịnh ly dục ly ác pháp thì mới nên tu tập thiền  định. Cho nên,  các  bạn về  tu  viện  Chơn Như mà không dọn mình  cho trong sạch thì về đây tu hành cũng chẳng ích lợi gì.
Hạnh  ăn,  hạnh  ngủ,  hạnh  độc   cư  chưa tròn mà về đây tu tập là tu tập cái gì? Thưa các



bạn! Các bạn còn tham mê ăn, tham mê ngủ, còn  thích  sống  nói  chuyện  mà  các  bạn về  đây tu  tập  thì chỉ  uổng  công  và  vô  ích.  Ở    đây, không  có  dạy tu  ăn,  tu  ngủ,  tu  nói  chuyện  các bạn ạ!
Các bạn cứ nghĩ rằng cúng dường tiền bạc nhiều  là  để  tu  viện  Chơn  Như  phục  vụ  về  ăn uống cho các bạn, đó  là các bạn đã nghĩ sai. Dù các  bạn  có  cúng  dường  bao nhiêu  tiền  thì tu viện cũng vẫn giữ lập trường giúp các bạn ăn uống  đơn  giản  vừa  đủ  sống   để ly dục  ly  ác pháp, chứ không phải phục vụ các bạn ăn uống như trong  khách sạn, nhà hàng.
Khi các bạn về đây tu hành mà còn mang theo  thực  phẩm  để  ăn  uống,  không  thực  hiện đời sống  bình  đẳng  về  ăn  uống  trong  tu  viện, thì chúng  tôi  nói  rằng  các  bạn  chỉ  tu  cho có hình  thức  chơi,  chứ  kỳ  thực  chẳng  có  kết  quả lợi ích gì cho các bạn.
Tu mà  còn  tham  đắm  ăn  uống,  ngủ  nghỉ; tu   mà   còn   thích   hội   họp   nói   chuyện   khoe khoang  sự  tu  tập  của  mình  với  mọi người.  Vậy thì nền  tảng  ly dục ly bất  thiện  pháp  là  ở   chỗ nào? Xin  các bạn chỉ cho.



Các  bạn  chỉ  sống  trong  tưởng,  nói  thiền định tưởng,  chứ  kỳ  thực  các  bạn  chưa có  nếm được mùi vị ly dục ly ác pháp.
Đây, các bạn hãy nghe tiếp lời dạy của đức Phật để mà suy ngẫm con đường tu hành của mình:  “Này  Sandha, ở   đây  có  hạng   người tâm chưa  được thuần thục, khi  đi đến ngôi rừng hay  khi  đi  đến  gốc  cây,  hay  khi đến ngôi  nhà  trống, trú  với  tâm  bị  dục tham ám  ảnh,  bị  dục tham  chi  phối, không  như thật rõ  biết  sự  xuất  ly  khỏi  dục tham  đã khởi lên.   Người   ấy   tàng   trữ dục  tham trong  tâm (ức chế), rồi Thiền tư,  Thiền lự, Thiền liên  tục, Thiền  quán, trú  với  tâm bị sân ám ảnh, bị sân chi  phối ... trú với tâm bị  hôn  trầm  thùy  miên ám  ảnh,  bị  hôn trầm thùy  miên chi  phối ... trú  với  tâm  bị trạo hối ám ảnh, bị trạo hối chi phối ... trú với  tâm  bị  nghi   hoặc  ám  ảnh  ...  trú  với tâm bị nghi  hoặc chi phối, không như  thật biết  ra  khỏi nghi  hoặc  đã  khởi lên.  Người ấy  tàng  trữ  nghi  hoặc  vào  trong  (ức  chế), rồi   Thiền tư,   Thiền   lự,   Thiền liên   tục, Thiền quán. Người  ấy  Thiền tư  y chỉ  vào đất,  Thiền tư  y chỉ vào  nước,  ... vào  gió,  ... vào Không vô biên xứ,  ... vào Thức vô  biên



xứ,  ... vào  Vô  sở  hữu  xứ,  ... vào  Phi  tưởng phi  phi  tưởng xứ, ... vào đời này, ... vào đời sau.  Phàm  điều  gì được  thấy, được  nghe, được  cảm  giác,  được  thức tri, được  đạt đến,  được tầm cầu  đến,  được ý  suy tư,  đều y chỉ  vào  đấy  người  ấy  thiền tư.  Như  vậy này  Sandha là  người  tu  Thiền tư  không thuần thục (không  kết quả)”.
Đọc đoạn kinh này các bạn tự quan sát sự tu  tập  của  mình  là  sẽ  biết  ngay  liền sai  hay đúng.
Thường các bạn trình pháp đều chứng tỏ mình   tu  rất  tốt,  nhưng  gặp  chuyện  thì biết ngay  liền các  bạn  chưa xả  tâm.  Chưa xả  tâm mà  có  thiền  định gì mà  thưa  hỏi.  Phải  không hỡi các bạn?
Để  thấy  sự  tu  hành  của  chúng  ta  sai  như thế  nào,  vậy  chúng  ta  hãy  quán  xét  lại  đoạn kinh trên cho kỹ.
Chúng ta nên xét câu thứ nhất: “Này Sandha,  ở    đây  có  hạng  người  tâm  chưa được thuần  thục”.  Vậy,  tâm  chưa thuần  thục là thuần thục cái gì?
Ở  đây đức Phật muốn nói giới luật chưa nghiêm chỉnh, tâm chưa ly dục ly ác pháp.



Chúng  ta  xét  đến  câu  thứ  hai:  “Khi  đi đến  khu  rừng hay  khi  đi  đến  gốc  cây,  hay khi đến  ngôi  nhà  trống”. Vậy, khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống là nghĩa gì?
Ở  đây có nghĩa là chọn lấy một nơi thanh vắng  để sống  độc cư, một  mình  trong  cảnh  cô
đơn.

Chúng ta quán xét đến câu thứ ba: “Trú với  tâm  bị  dục tham  ám  ảnh,  bị  dục tham chi phối”. Vậy,  dục  tham  ám  ảnh,  dục  tham chi phối nghĩa là gì?
Dục tham là lòng ham muốn; ám ảnh là hiện  ra lởn  vởn  trong  trí day dứt  không  yên; chi  phối  là  tác  dụng điều khiển. Nghĩa  chung của câu tham dục ám ảnh là lòng tham muốn hiện  ra lởn  vởn  trong  trí day dứt  không  yên, nghĩa  câu   tham  dục   chi   phối   là   lòng   tham muốn tác dụng  điều khiển, sai khiến.
Nghĩa  chung của  đoạn này  là  khi ngồi  lại một  mình  nơi  thanh  vắng  thì lòng  tham  muốn khởi lên day dứt, tác động điều khiển sai khiến chúng ta làm theo ý muốn của tâm, làm cho ta mất  tự  chủ.  Người  đời  không  biết tu  hành  nên dễ  bị  tâm  tham  dục  sai  khiến, khiến  cho cuộc đời vốn khổ đau lại càng khổ đau hơn.



Chúng   ta   quán   xét   đến    câu   thứ   tư: “Không  như thật  rõ  biết  sự  xuất  ly khỏi dục tham  đã  khởi lên.  Người  ấy  tàng  trữ dục  tham trong tâm  (ức  chế)”.  Vậy  xuất  ly và tàng trữ nghĩa là gì?
Xuất ly là lìa ra, bỏ ra; tàng trữ là giữ lại, nén lại. Ý nghĩa của câu này là không biết cách xuất  ly  dục  tham,  nên  dục  tham  thường  khởi lên chỉ còn có giữ gìn trong tâm nên gọi là nén tâm.  Do đó,  dù  có  tu  thiền  định gì đi  nữa  thì vẫn  bị  sân,  hôn  trầm  thùy  miên,  trạo  cử,  trạo hối  và  các  loại  tưởng  định khởi  lên  như  trong đoạn kinh này dạy:  “Rồi Thiền  tư, Thiền  lự, Thiền liên  tục, Thiền  quán, trú  với  tâm bị sân ám ảnh, bị sân chi  phối ... trú với tâm bị  hôn  trầm  thùy  miên ám  ảnh,  bị  hôn trầm thụy  miên chi  phối ... trú  với  tâm  bị trạo hối ám ảnh, bị trạo hối chi phối ... trú với  tâm  bị  nghi   hoặc  ám  ảnh  ...  trú  với tâm bị nghi  hoặc chi phối, không như  thật biết  ra  khỏi nghi  hoặc  đã  khởi lên.  Người ấy  tàng  trữ  nghi  hoặc  vào  trong  (ức  chế), rồi   Thiền tư,   Thiền   lự,   Thiền liên   tục, Thiền quán. Người  ấy  Thiền tư  y chỉ  vào đất,  Thiền tư  y chỉ vào  nước,  ... vào  gió,  ... vào Không vô biên xứ,  ... vào Thức vô  biên



xứ,  ... vào  Vô  sở  hữu  xứ,  ... vào  Phi  tưởng phi  phi  tưởng xứ, ... vào đời này, ... vào đời sau.  Phàm  điều  gì được  thấy, được  nghe, được  cảm  giác,  được  thức tri, được  đạt đến,  được tầm cầu  đến,  được ý  suy tư,  đều y chỉ  vào  đấy  người  ấy  thiền tư.  Như  vậy này  Sandha là  người  tu  Thiền tư  không thuần thục (không  kết quả)”.
Theo lời dạy trong kinh này: Khi giới luật không nghiêm chỉnh thì dù có tu tập cách gì cũng không có kết quả.





TRÍ  NGU


LỜI PHẬT DẠY

“Người ngu nghĩ  mình ngu

Nhờ vậy thành có trí Người ngu tưởng có trí Thật xứng gọi chí ngu”.
Kinh Pháp Cú



CHÚ GIẢI:
Con  người ở đời thường hay thấy cái sai của  người  khác,  ít khi thấy  cái  sai  của  mình. Đó là những người ngu.
Người  ngu thường  hay nói  xấu người  khác và hay khoe khoang  cái hay (ngu) của mình.  Ở tu  viện  Chơn  Như  có  một  số  người  về  đây  tu tập, tu hành chưa tới đâu mà vội hội họp nói chuyện khoe khoang mình  tu được thế này, thế khác, thậm chí có người còn khoe khoang mình nhập Tam Thiền, Tứ Thiền ... Rồi khoe khoang mình  có đến 6, 7 cái Giác Chi ... Nếu có 6, 7 cái



Giác  Chi,  thế  sao đến  bây  giờ  chưa nhập  được Sơ Thiền? Ăn, ngủ, độc cư còn chưa giữ trọn vẹn,…  hễ  có  chuyện  gì không  vừa  ý  là  tức  giận rồi xách gói ra đi... Vừa rồi có một người tu tập ở  đây 3, 4 năm sống không đúng Phạm  hạnh bị tu viện mời ra khỏi. Khi trở về thăm tu viện tuyên  bố  đã   nhập  được từ  Sơ Thiền  đến  Phi Tưởng  Phi  Phi  Tưởng  Xứ,  nhưng  xét  qua giới luật  là  người  sống  phi  Phạm  hạnh,  phá  giới, phạm  giới, đi  đâu  cũng  có  vợ  con đi  theo  hộ tống thế mà  bốn thiền hữu sắc và  bốn định vô sắc đều nhập được cả. Như vậy các bạn có tin không?
Xét qua giới luật thì biết ngay người ấy nhập  định được hay  không  rất  dễ   dàng.  Mọi người cứ nghĩ rằng thiền định của Đạo Phật không có tiêu chuẩn để xét duyệt hay sao? Dám tuyên  bố  một  cách  bừa  bãi  như  vậy?  Tưởng chưa có ai nhập các định này sao? Đừng khinh rẻ mọi người thái quá. Nói như vậy, người ta không  biết  mình  nói  láo  sao?  Khi mình  chưa nhập định  được, nói như vậy là làm mất uy tín các bạn ạ! Nói như vậy là tự giết mình.
Những  người  mê  mờ  dám  khoe  khoang một  điều mình  chưa làm  được với  những  người chưa biết, chưa tu,  chứ  những  người  đã  biết đã



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!