Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY - TẬP 1 -7

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


Nói  đến  Từ,  Bi,  Hỷ,  Xả  là  người  ta nghĩ ngay Tứ Vô Lượng Tâm, cho Tứ Vô Lượng Tâm là một pháp môn, nhưng không ngờ Tứ Vô Lượng Tâm  là  một  cái  tên  chỉ  chung cho bốn
pháp môn đôïc  nhất của Đạo Phật, từ pháp môn
đó  tu  tập  đi  đến  cứu  cánh  mà  không  cần  phải tu tập những thiền định nào cả. Khi pháp môn đó tu tập thành tựu tâm vô lậu là có đủ Bốn Thiền và Tam Minh. Cho nên, em trai ông Cấp Cô Độc chỉ do tu một pháp độc nhất “Từ Tâm” mà chứng quả A La Hán.

Khi chúng  ta  dùng  pháp  như  lý  tác  ý  tu tập  tâm  từ,  từ  tâm  được hiện  bày  thì có  một trạng thái thanh tịnh, an lạc, thương yêu hòa mình  trong  sự  sống  của  muôn  loài  hiện  ra, do đó   mà  ngũ  triền  cái  và  thất  kiết sử  bị  đoạn
diệt.

Ở   đây,  các  bạn  nên  lưu  ý  bốn  pháp  độc nhất này không phải như bốn thiền ở   trên khi nhập  phải  dùng  bảy  năng  lực  Giác  Chi.  Pháp Tứ  Vô Lượng Tâm chỉ có dùng pháp như lý tác ý đánh thức tình cảm yêu thương sâu kín tận trong tâm của con người. Nó gồm có: 1- Từ tâm;
2- Bi tâm; 3- Hỷ tâm; 4- Xả tâm. Tùy theo đặc

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


tướng  của  các  bạn  mà  chọn lấy  một  trong  bốn pháp này tu tập.

Các  bạn đâu có  ngờ  rằng bốn  pháp  Tứ  Vô Lượng Tâm này là bốn Pháp tuyệt vời trong Phật giáo, nó giúp các bạn trở thành những bậc Thánh  một  cách  dễ  dàng  không  có  khó  khăn
các bạn ạ!




THỨ SÁU: BI TÂM LÀ PHÁP
ĐỘC NHẤT TRONG KINH  BÁT THÀNH


BI TÂM

“Bi  tâm  này là  pháp  hữu vi,  do suy tư  tác  thành. Phàm  sự  vật  gì là  pháp hữu vi,  do suy tư  tác  thành, thời  sự  vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững  trú  ở    đây  đoạn  trừ được  các  lậu hoặc.  Và  nếu  các  lậu  hoặc  chưa   được đoạn  trừ, do  tham   luyến  pháp  này,  do hoan  hỷ  pháp  này,  vị  ấy  đoạn  trừ được năm hạ phần  kiết  sử,  được   hóa sanh, nhập  Niết  Bàn  tại  cảnh  giới  ấy,  khỏi phải  trở  lui đời  này.  Này  Gia chủ  như vậy  là  pháp  độc  nhất, do Thế  Tôn,  bậc Trí Giả, Kiến Giả, bậc A La  Hán, Chánh
Đẳng Giác tuyên bố ...”.



CHÚ GIẢI:
Bi tâm là một pháp tu tập lòng thương xót trước cảnh thương tâm, bất hạnh của chúng

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


sanh. Nếu một người tu tập rèn luyện được lòng thương  xót  tất  cả  chúng  sanh, khi lòng  thương xót  ấy  hiện  tiền  thì tất  cả  ác  pháp  như  tham, sân,  si,  mạn,  nghi  đều  vô  tác  dụng vào  tâm mình.  Do đĩ,  tâm  vô  lậu  hoàn  toàn  và  chứng quả A La Hán ngay liền. Người chứng quả A La Hán đều có đầy đủ thiền định và Tam Minh.
Các  bạn  đừng hiểu  lầm  là  khi tu  tập  Bi Tâm  rồi  còn  phải  tu  tập  bốn  Thiền  và  Tam Minh nữa.  Hiểu  như  vậy  là  sai  các  bạn  ạ!  Vì trạng  thái  Bi  Tâm  đã  có  đầy  đủ  thiền  định và Tam  Minh, mặc  dù   bạn  chưa bao giờ  có  một phút tu tập Thiền định.





THỨ BÂY: HỶ TÂM LÀ PHÁP
ĐỘC NHẤT TRONG KINH  BÁT THÀNH


HỶ   TÂM

“Hỷ  tâm  này là  pháp  hữu vi, do suy tư  tác  thành. Phàm  sự  vật  gì là  pháp hữu vi,  do suy tư  tác  thành, thời  sự  vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững  trú  ở    đây  đoạn  trừ được  các  lậu hoặc.  Và  nếu  các  lậu  hoặc  chưa   được đoạn  trừ, do  tham   luyến  pháp  này,  do hoan  hỷ  pháp  này,  vị  ấy  đoạn  trừ được năm hạ phần  kiết  sử,  được   hóa sanh, nhập  Niết  Bàn  tại  cảnh  giới  ấy,  khỏi phải  trở  lui đời  này.  Này  Gia chủ  như vậy  là  pháp  độc  nhất, do Thế  Tôn,  bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A La  Hán, Chánh
Đẳng Giác tuyên bố ...”.



CHÚ GIẢI:

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Nếu   bạn   chọn   Hỷ   tâm   tu   tập   rèn

luyện,  khi Hỷ  tâm  thành  tựu  thì tâm  tham, sân, si, mạn, nghi không còn nữa, do lòng hoan hỷ  của  bạn  đã  đoạn trừ  các  ác  pháp.  Nhờ  đó, tâm  bạn  vô  lậu  hoàn  toàn,  chứng  quả  A  La Hán.  Khi chứng  quả  A La Hán  với  tâm  hỷ  thì bạn không  cần  phải  tu  tập  thiền  định và  Tam Minh gì cả,  vì chính  trong  tâm  hỷ  của  bạn đã đầy  đủ  Bốn  Thiền  và  Tam  Minh, bạn  có  thể thực  hiện  giờ  nào  cũng  được, không  có  khó khăn, không có mệt nhọc.





THỨ TÁM: XÂ TÂM LÀ PHÁP
ĐỘC NHẤT TRONG KINH  BÁT THÀNH


X   TÂM

“Xả  tâm  này là  pháp  hữu vi, do suy tư  tác  thành. Phàm  sự  vật  gì là  pháp hữu vi,  do suy tư  tác  thành, thời  sự  vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững  trú  ở    đây  đoạn  trừ được  các  lậu hoặc.  Và  nếu  các  lậu  hoặc  chưa   được đoạn  trừ, do  tham   luyến  pháp  này,  do hoan  hỷ  pháp  này,  vị  ấy  đoạn  trừ được năm hạ phần  kiết  sử,  được   hóa sanh, nhập  Niết  Bàn  tại  cảnh  giới  ấy,  khỏi phải trở lui  đời này.
Này Gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc  A La  Hán,  Chánh  Đẳng  Giác  tuyên
bố ...”.


CHÚ GIẢI:

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Nếu bạn chọn lấy pháp Xả tâm mà tu tập  và  rèn  luyện  tâm  mình,  khi tâm  xả  thành tựu  thì bảy  năng  lực  Giác  Chi  xuất  hiện,  lúc bấy  giờ  các  bạn  muốn  nhập  thiền  nào  thì các
bạn sẽ tác ý theo trạch Pháp Giác Chi thì nhập
ngay thiền ấy và thực hiện Tam Minh không có khó  khăn  không  có  mệt  nhọc.  Bởi  vì  xả  vô lượng tâm  ác  thì tất  cả  lậu  hoặc  sẽ  được đoạn trừ.  Khi lậu  hoặc  đã  trừ  diệt xong thì các  bạn chứng  quả  A  La  Hán,  không  cần  phải  tu  tập pháp môn nào khác nữa.
Trên  đây  là  tám  pháp  độc  nhất  mà  các bạn  tự  lựa chọn  cho mình  một  pháp  phù  hợp với  đặc  tướng,  để  tiện  việc  tu  tập  cho đến  nơi đến chốn.
Thưa các bạn! Các bạn nên nhớ kỹ và hãy xét  lại  thân  tâm  của  các  bạn  trong  giai  đoạn ôm một pháp độc nhất này tu tập. Nếu các bạn cảm  thấy  mình   có  đủ   khả  năng  để   ôm   một pháp độc nhất thì nên tu tập, còn nếu thấy khả năng  chưa đủ  thì đừng  nên.  Nếu  các  bạn  miễn cưỡng tu tập sẽ bị ức chế tâm, và tu như vậy dễ thành bệnh hơn là thành đạo. Một người mới vào  tu  theo  Phật  giáo  thì không  được  phép  tu tập  một  pháp  độc  nhất  mà  phải  tu  tập  nhiều

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


pháp, vì tu tập nhiều pháp nên không bị ức chế tâm. Tu ức chế tâm có hai điều nguy hiểm:
1. Căng  đầu,  căng  mặt,  căng  thần  kinh thành bệnh.
2. Rơi   vào   tưởng   định,  tưởng   tuệ   phát triển, kiến giải tưởng giải lung tung. Con đường tu giải thoát  bế tắc,  biến người  tu sĩ  Phật  giáo trở thành những vị thầy phù thủy, thầy cúng, thầy  bùa,  thầy  thuốc  trị  bệnh,  trừ  tà  yểm  quỷ,
v.v..

Kinh  Bát   Thành   chỉ   dành   riêng   cho những bậc giới luật nghiêm túc, tâm không phóng dật, như trên đã  nói, chứ không phải để cho những người phá giới, phạm giới, tâm còn phóng  dật.  Các  bạn nhớ  kỹ,  như  kinh đã  dạy: “Nếu có   Tỳ   Kheo  nào  tâm   không   phóng dật”. Xưa đức Phật sáu năm tu tập khổ hạnh trong  rừng  già,  Ngài  đã  sống   một  đời   sống Phạm  hạnh  chưa từng  có  một  tu  sĩ  nào  sống được như vậy. Vì thế, thân tâm Ngài quá thanh tịnh, giới luật quá nghiêm túc. Do đó, Ngài trở về  với  pháp  Sơ Thiền  độc  nhất  ly  dục  ly  bất thiện   pháp,   Ngài   thành   tựu   giải   thoát   nơi chính  pháp  môn  này.  Xin  các  bạn  đọc lại  bài Đại Kinh Saccaka thì rõ.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Bây  giờ  xin  các  bạn vui lòng  đọc lại  đoạn kinh  Bát  Thành  trên  đây  thì hiểu  rõ  ràng: “Nếu có   Tỳ   Kheo  nào  không   phóng  dật, nhiệt tâm tinh cần sống hành trì pháp ấy, thời  tâm  chưa  giải  thoát  của  vị  ấy  được giải  thoát,  hay  các  lậu  hoặc  chưa   được đoạn trừ, đi  đến đoạn trừ, hay pháp an ổn khỏi các  ách  phược,  chưa  được  chứng đạt được  chứng   đạt”.  Đọc  hết  đoạn kinh  này, chúng tôi xin nhắc lại, các bạn cần phải lưu ý câu  duy  nhất:  “Nếu   có   Tỳ   Kheo  nào  tâm không phóng dật”. Bốn chữ “Tâm không phóng  dật”  các  bạn  nên  biết  đó  là  một  giai đoạn tu tập sống chết với tâm tham, sân, si của bạn bằng nhiều pháp môn cho đến khi nào tâm thuần phục, không phóng dật thì bạn mới dám ôm một pháp độc nhất. Các bạn có hiểu chưa?
Chúng tôi đưa bài kinh Bát Thành này ra đây  có  ba điều  rất  quan trọng  để  các  bạn  cần phải lưu ý:
- Thứ  nhất:  Không  nên  tin trọn  vẹn  vào kinh sách,  vì kinh sách  được  kết tập  là  do các Tổ,  nhưng  các  Tổ   thêm  vào  và  pha  trộn  các pháp  môn  của  ngoại  đạo,  làm  cho kinh sách Phật  mất  hết  giá  trị  giải  thoát  chân  thật  của nó.

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


-  Thứ  hai:  Phải  biết  khả  năng  và  đặc tướng  của  các  bạn  khi chọn  tu  tập  một  pháp môn độc nhất nào hay phải tu tập nhiều pháp môn. Nếu chưa nắm vững được điều này thì nên tập sống đúng đời sống Phạm hạnh, giới luật nghiêm trì, chứ đừng nên tu tập pháp môn nào khác cả, vì nếu có tu tập bất cứ một pháp nào cũng  chỉ  là  ức  chế  tâm  mà  thôi.  Ngày  xưa, các Tổ không có người tu chứng hướng dẫn nên các Ngài   tuy   tu   tập   theo   pháp   môn   của   Phật, nhưng đã  biến pháp môn của Phật thành pháp môn  ức  chế  tâm  của  ngoại  đạo.  Đó là  một  lỗi lầm rất lớn của các Tổ, làm cho người đời sau mất  đường   lối  tu  tập  theo  đúng  Chánh  Phật
pháp.

- Thứ ba: Pháp môn độc nhất của Phật ở đây đã  khiến  cho những  nhà  học giả  điên đầu, không  thể  hiểu  được, nhất  là  lời dạy  này:  “Vị ấy  đoạn  trừ năm hạ phần  kiết  sử,  được hoá sanh,  nhập Niết Bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải   trở lui lại   đời   này  nữa”.  Nếu đoạn kinh này  không  được giải  thích  rõ  ràng thì mọi  người  sẽ  nghĩ  rằng  Đạo  Phật  có  thế giới siêu hình.  Nếu dựa vào kiến giải của những nhà học giả cho rằng Đạo Phật có thế giới siêu
 
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


hình  thì rất oan uổng cho Phật giáo, khiến cho
Phật giáo tự mâu thuẫn lại với nó.

Phật giáo  cho rằng không có thế giới siêu hình  là vì chủ trương tự lực vượt thoát khổ đau, không  nhờ  tha  lực:  “Tự  thắp  đuốc  lên  mà đi”. Bởi  vì,  nếu  có  thế  giới  siêu hình  thì phải có tha lực, mà  có tha lực thì sẽ có sự bất  công. Có  sự  bất  công  thì trong  cuộc  đời  này  đau khổ sẽ  không  bao giờ  hết  và  như  vậy  bốn  chân  lý loài người của Phật giáo không còn là chân lý nữa.  Và  thế  gian  này  sẽ  không  còn  có  công bằng và công lý, chỉ còn là một cuộc sống bất công. Tôn Giáo chỉ là một mánh khoé lừa đảo bằng hình  thức cầu khẩn, cúng tế, bái lạy,  v.v.. Các đấng thiêng liêng ảo tưởng của các tôn giáo gia hộ  tai  qua, nạn  khỏi, bệnh tật  tiêu trừ,  chỉ là  những  trò  bịp  bợm,  chứ  thế  gian  này  khổ cũng  không  bao giờ  hết  khổ.  Và  cũng  vì  vậy, mà  nền  đạo  đức nhân bản  –  nhân quả  của con người không bao giờ có được.
Muốn biết rõ Phật giáo không có thế giới siêu  hình  qua đoạn kinh Bát  Thành  này,  thì chúng  tôi  xin  rút  ra và  giải  thích  một  pháp trong  tám  pháp  của  kinh Bát  Thành,  chẳng hạn  như bài  pháp  thứ  nhất  là  pháp  Sơ Thiền. Xin  các  bạn vui lòng  đọc lại  đoạn kinh này:  “-

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


Ở   đây  này  gia chủ,  Tỳ  kheo  ly  dục ly  bất thiện pháp  chứng  và  trú  thiền thứ  nhất, một  trạng  thái hỷ  lạc  do  ly  dục sanh,  có tầm,  có  tứ.  Vị ấy  suy tư  và  được biết:  “Sơ Thiền này  là  pháp  hữu  vi,  do  suy tư  tác thành. Phàm  sự  vật  gì là  pháp  hữu vi,  do suy  tư   tác   thành, thời   sự   vật   ấy   là   vô thường chịu sự  đoạn  diệt”.  Vị ấy  vững  trú ở   đây  đoạn  trừ được  các  lậu  hoặc.  Và  nếu các lậu hoặc chưa  được đoạn trừ, do tham luyến  pháp  này,  do hoan  hỷ  pháp  này,  vị ấy  đoạn  trừ được  năm hạ phần  kiết  sử, được   hóa sanh,  nhập  Niết  Bàn  tại  cảnh giới  ấy,  khỏi phải trở lui đời này.  Này gia chủ như  vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc   Trí  Giả,   Kiến   Giả,   Bậc   A  La   Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố ...”.
Qua  đoạn kinh này  chúng  ta  cần  lưu  ý đoạn: “Sơ  Thiền này là  pháp  hữu vi, do suy tư  tác  thành. Phàm  sự  vật  gì là  pháp  hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”.
Bốn Thánh Định là Thiền Hữu Sắc, Thiền Hữu  Sắc  là  pháp  hữu  vi do ý  thức  tu  tập  làm nên  (do  suy  tư  tác  thành),  và  như  vậy  bốn Thiền là pháp vô thường, mà pháp vô thường là

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


phải  chịu  sự  hoại  diệt  (thời  sự  vật  ấy  là  vô thường chịu sự đoạn  diệt).
Đoạn  kinh trên  đã  xác  định cho các  bạn thấy  rất  rõ  trạng  thái  Sơ Thiền trong  tâm  các bạn không phải là trạng thái vĩnh hằng mà chỉ là  một  trạng thái thọ hưởng phước thiện  trong một  thời  gian  nhất  định. Khi thọ  hưởng  phước thiện  do diệt năm  hạ  phần  kiết sử  hết  thời gian nhất định thì trạng thái ấy bị hoại diệt vì nó là pháp hữu vi vô thường.
Thưa  các  bạn!  Trạng  thái  ấy  không  phải là  cảnh  giới  siêu  hình  như các  bạn tưởng.  Khi nào các bạn nhập Sơ Thiền là bạn cảm nhận trạng thái hỷ  lạc do ly  dục sanh có tầm, có tứ, có  hỷ,  có  lạc,  có  nhất  tâm,  do ý  thức  bạn  biết rất  rõ  như  vậy  làm  sao là  cảnh  giới  siêu hình được. Ngoài  ý  thức,  thân  và  tâm  của  bạn  thì không  có  cái  biết  và  cái  cảm  nhận  trạng  thái Sơ Thiền đó.  Khi thân  tâm  bạn hoại  diệt  mất thì trạng thái hỷ  lạc  của Sơ Thiền cũng không còn. Trạng thái hỷ lạc của Sơ Thiền không còn thì làm sao bảo rằng có cảnh giới Sơ Thiền Thiên   được.   Không   có   cảnh   giới   Sơ  Thiền Thiên  thì làm  sao bảo  rằng  có  thế  giới  siêu hình  được. Phải không hỡi các bạn? Các bạn cứ suy ngẫm lại rồi mới tin lời chúng tôi nói. Nếu

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


các  bạn  nhập  định và  có  Tam  Minh thì khỏi cần chúng tôi phải giải thích, vì các bạn cũng thấy rõ như chúng tôi.
Điều  đặc biệt ở  đoạn kinh này là nhập vào cho được trạng thái Sơ Thiền và an trú trong trạng  thái  đó,  đừng  lìa  khỏi  trạng  thái  đó,  dù bất cứ có những pháp ác nào tác động vào thân tâm bạn, bạn cũng đừng rời bỏ trạng thái này, như đoạn kinh đã dạy: “Vị ấy vững trú ở  đây đoạn  trừ được các  lậu  hoặc”.  Các  bạn  nên lưu ý bốn chữ: “vững  trú  ở  đây”.  Nếu các bạn có  được  cơ thể  còn  khỏe  mạnh  không  bị  chết một  cách  đột  ngột  và  cứ  luôn  luôn  an  trú  nơi trạng thái này thì các bạn sẽ đoạn trừ được tất cả các lậu hoặc và chứng quả vô lậu A La Hán. Còn  nếu  các  bạn  có  cơ thể  suy yếu  hay  bệnh tật, chết thình lình, lậu hoặc chưa đoạn trừ thì các  bạn nên  vững  trú  nơi  trạng  thái  Sơ Thiền này, vì trong trạng thái Sơ Thiền là các bạn đã đoạn trừ  năm  hạ  phần  kiết sử,  như  kinh đã dạy: “Và  nếu  các  lậu  hoặc  chưa được đoạn trừ, do  tham   luyến  pháp  này  (Sơ  Thiền), do  hoan   hỷ  pháp  này  (Sơ  Thiền),  vị  ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử”.
Khi đã đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử tức là nhập Sơ Thiền, lúc bấây giờ cơ thể không

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


may bị  bệnh  chết  thì trạng  thái  Sơ Thiền  này được tưởng  thức  tu  tập  tiếp  để   đoạn diệt  lậu hoặc.  Khi  lậu  hoặc  được đoạn diệt sạch  thì trạng  thái  Sơ Thiền này  liền  mất  và  thay  thế vào trạng thái Niết Bàn. Khi ở  trạng thái Niết Bàn thì không còn tương ưng với chúng sanh nữa,  nên  không  còn  tái  sanh  làm  người,  như trong  kinh đã   dạy:  “được   hóa  sanh,  nhập Niết  Bàn  tại  cảnh  giới  ấy,  khỏi phải  trở lui đời này”. Ở  đoạn kinh này, có nhiều người đã hiểu lầm hai chữ “hoá sanh” vì cho rằng có hóa sanh là phải có một thế giới  siêu hình.  Họ hiểu  rằng:  Hóa sanh là  biến hóa  sanh ra cũng giống như người  thị  hiện thần  thông  một  thân biến  ra nhiều  thân.  Thật  ra, chữ  hoá  sanh  ở đây  phải  hiểu  nghĩa  là  tưởng  uẩn.  Khi thân  tứ đại  này  mất  là  sắc  uẩn  diệt;  sắc  uẩn  diệt  thì bốn uẩn kia  cũng đều diệt theo, chỉ còn nghiệp tiếp  tục  luân  hồi  tái  sanh.  Nhờ  tu  tập  nhập được Sơ Thiền  nên  năm  hạ  phần  kiết sử  đoạn diệt nên   nghiệp  thế   gian   đã   bị   muội   lược, không còn tương ưng với nghiệp chúng sanh, do đó  không thể tái sanh luân hồi. Con người vốn do năm uẩn duyên hợp tạo thành nên không có một  linh hồn  thường  còn  bất  biến. Vì thế,  khi sắc  uẩn  diệt mà  nghiệp  không  tương  ưng  với nghiệp chúng sanh thì không tái sanh được, tại

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


vì hành giả  đã  đoạn  dứt năm  hạ  phần kiết  sử. Khi  đoạn trừ   năm   hạ   phần   kiết   sử   thì  từ trường  thiện  do sự  đoạn trừ  năm  hạ  phần  kiết sử phóng xuất ra và bảo vệ sắc uẩn làm cho sắc uẩn  không  bị  hư  hoại,  giống như  một  người đang ngủ nằm mộng. Khi một người tu hành thân  tứ  đại  chết  thì không  nên  đem thiêu  đốt, chỉ nên đem chôn cất nơi khô ráo để giúp cho người ấy tiếp tục tu tập bằng tưởng uẩn. Tu tập bằng  tưởng  uẩn  giống  như  trong  chiêm  bao thấy tu tập vậy, nhưng lúc bây giờ sắc uẩn phải không bị hư hoại; nếu sắc uẩn hư hoại do một nhân duyên gì thì người ấy không còn tu tập được và  như  vậy  duyên  người  ấy  đã   thọ  hết phước báo đoạn diệt năm hạ phần kiết sử.
Mọi người đều dễ hiểu lầm chỗ hóa sanh trong  bài   kinh  này.   Trong   kinh  Nikaya,   có nhiều bài kinh nhắc đến chỗ hóa sanh này, nếu không  phải  là  một  người  tu  chứng  thì không thể  hiểu  được. Cho  nên,  sự  hiểu  biết  của  các nhà học giả đã biến Phật giáo thành một tôn giáo  có  thế  giới  siêu  hình:  có  linh hồn,  thần thức  hay  Phật  tánh  giống  như  tất  cả  các  tôn giáo  khác.  Hiểu  như  vậy,  thì Phật  giáo  sẽ  tự mâu thuẫn lại nó, lúc thì nói 33 cõi Trời  là cõi tưởng,  lúc  thì nói  hóa  sanh  vào  cõi  Trời  Sơ Thiền, Nhị  Thiền, Tam  Thiền,  Tứ  Thiền,  v.v..

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Khi người  ta  không  hiểu  hai  chữ  “hóa sanh” thì nghĩ  tưởng  rằng  phải  có  cõi  siêu  hình  mới có  hóa  sanh.  Thật  ra, hai  chữ  hóa  sanh  còn nằm trong bốn loại sanh của loài thực vật và động  vật  trên  hành  tinh này.  Bốn  loại  sanh này gồm có:
1. Thấp  sanh  như  loài  rong  rêu,  cỏ  cây, loài động vật sanh nơi ẩm thấp.
2. Noãn   sanh   như   loài   thảo   mộc   (hạt giống), loài động vật  như chim,  thú sanh trong trứng.
3. Thai sanh như loài người, loài thú sanh ra con.
4. Hoá  sanh  không  phải  là  những  Thần, Tiên  biến  hoá  như  trong  truyện  Tàu,  như  các phù thủy trong truyện cổ tích Tây Phương. Hoá sanh  là  một  sự  hợp  duyên  của  qui  luật  nhân quả  tạo  thành  vạn  vật  trong  vũ  trụ;  hóa  sanh là một sự hợp các gen tạo thành người, vật như các nhà khoa học. Các nhà tu theo Phật giáo có đủ  bảy  năng  lực  Giác  Chi  dùng  thực  hiện  sự hóa sanh nghĩa là phối hợp các gen tạo thành người, vật và vật dụng theo ý muốn của mình, giống  như  chúng  ta  hợp  các  duyên  tạo  thành nhà cửa, đồ  vật dụng như: bàn, ghế, tủ, giường,

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


chỏng, v.v.. Cho nên, đừng hiểu hóa sanh là khi chết linh hồn biến hoá vào cảnh giới siêu hình.
Chữ hóa sanh ở  đây có nghĩa là tâm bám chặt  ở   trạng  thái  Sơ Thiền hoặc  luôn  luôn  giữ tâm  sống  trong  trạng  thái  ấy  thì các  lậu  hoặc lần  lượt  cũng  sẽ  được đoạn trừ,  như  kinh dạy: “Vị  ấy  vững  trú  ở   đây  đoạn  trừ được  các lậu  hoặc”.  Và  nếu  chưa đoạn trừ  được các  lậu hoặc  mà  lỡ  mất  thân  (chết)  thì tiếp  tục  tu  tập bằng tưởng thức như trên đã nói. Tu tập bằng tưởng  thức  được là  nhờ  nhập  được Sơ Thiền; nhờ  Sơ Thiền  mà  diệt  được năm  hạ  phần  kiết sử;  nhờ  diệt được năm  hạ  phần  kiết sử  nên phát  sinh  từ  trường  bảo  vệ  thân  tứ  đại  không bị  hư hoại,  nhờ  đó  mà  tưởng  thức  thay  thế  ý thức tu tập cho đến khi lậu hoặc diệt sạch, như kinh dạy:  “Và  nếu  các  lậu  hoặc  chưa được đoạn   trừ, do  tham   luyến   pháp   này,   do hoan   hỷ  pháp  này,  vị  ấy  đoạn  trừ được năm hạ phần kiết sử, được  hóa sanh, nhập Niết  Bàn  tại  cảnh  giới  ấy,  khỏi phải  trở lui đời này”.  Như  vậy,  chỉ  cần  được nhập  Sơ Thiền thì chúng ta cũng vào được Niết Bàn, tức là cũng đã đi đến nơi đến chốn.
Bài  kinh này  dạy tám  pháp  độc  nhất,  chỉ cần  tu  một  pháp  là  đã   đi  đến  cứu  cánh  giải

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


thoát  hoàn  toàn,  không  cần  phải  tu  cả  tám pháp. Nhưng ở  đây, chúng tôi xin các bạn lưu ý, các  bạn nên  nhớ  tùy  theo  khả  năng  của  mình có đủ sức kham nhẫn một pháp này hay không? Nếu  không  đủ  sức  thì các  bạn tu  tập  cũng  chỉ hoài công mà thôi.





NIỆM PHẬT


LỜI PHẬT DẠY

“Ở   đây,  này Mahànàma,  Thánh  đệ tử  tùy  niệm Như  Lai, trong  khi  ấy,  tâm không bị  tham   chi  phối, tâm  không bị sân  chi  phối, tâm  không bị  si chi  phối; trong  khi  ấy, tâm vị ấy được chánh trực, nhờ dựa vào Như  Lai. Và này Mahànàma, một vị Thánh đệ tử, với tâm chánh trực,  liền   được   nghĩa  tín  thọ, được  pháp  tín thọ, được  hân hoan  liên hệ  đến pháp.  Người  ấy có  hân hoan  nên hỷ sanh.
Người  có  hỷ,  nên  thân được  khinh an.  Với thân khinh an,  người  ấy  có  cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định  tỉnh”.
“Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được  nói như  sau: “Với  mọi  người không bình  thản, vị  ấy  sống  bình  thản. Với mọi người  não hại, vị  ấy  không  não hại.  Nhập được  pháp  lưu,  vị  ấy  tu  tập niệm Phật là vậy”.
(Kinh Tăng Chi tập 3 trang 16)

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


CHÚ GIẢI:
Muốn tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì phải tu Định Vô Lậu, tu Định Vô Lậu tức là thể hiện pháp  môn  Tứ  Niệm  Xứ,  thể  hiện  Tứ  Niệm  Xứ tức là trên thân, thọ tâm và pháp mà tu tập, sống   và  làm  việc  giống  như  thân,  thọ,  tâm,
pháp  của  đức   Phật;  nhưng  muốn  tu  tập  cho
được tốt  thì các  bạn  phải  tùy  theo  đặc  tướng thân, thọï, tâm và pháp của các bạn mà niệm Phật,  niệm  Pháp,  niệm  Tăng  và  niệm  Giới được triển  khai  mạnh, quét  sạch tất  cả  các lậu hoặc, diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp.
Tu như vậy gọi là tu Định Vô Lậu câu hữu (kết hợp) với pháp Tứ Bất Hoại Tịnh, tức là tu Định Vô  Lậu  thân,  thọ,  tâm  và  pháp  để  sống và làm đúng như đức Phật đang sống và đang hành.  Đúng  như  pháp  mà  đức   Phật  đã   dạy không được làm sai lời dạy của pháp. Đúng như đời sống chúng Thánh Tăng đang sống đang hành và đúng như giới luật đã  dạy không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả.
Tứ  Bất Hoại Tịnh là bốn pháp hay là bốn đối   tượng   gương  hạnh   thanh   tịnh   của   Đạo Phật,  để  làm  bốn  chỗ  chúng  ta  lấy  thân,  thọ,

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


tâm và pháp của mình  nương theo đó giữ gìn tu tập sống đúng đời sống giải thoát của bốn chỗ này,  khiến  cho thân  tâm  chúng  ta  thanh  tịnh, nên đức Phật gọi pháp môn này là Tứ Bất Hoại Tịnh.
Tứ Bất Hoại Tịnh có nghĩa là bốn pháp tu tập giúp cho thân tâm thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh tức là sự giải thoát của Đạo Phật, sự giải thoát của Đạo Phật có nghĩa là tâm ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp có nghĩa là không  làm  khổ  mình,   khổ  người,  không  làm khổ mình,  khổ  người  là  một  đạo  đức nhân bản của Đạo Phật, một đạo đức tuyệt vời biến cảnh thế gian này thành cảnh Cực Lạc, Thiên Đàng.
Trong  kinh sách  Nguyên  Thủy  đức  Phật dạy tu Tứ Bất Hoại Tịnh là có bốn cách niệm:
- Cách thứ nhất:      Niệm Phật.

- Cách thứ hai:         Niệm Pháp.

- Cách thứ ba:          Niệm Tăng.

- Cách thứ tư:          Niệm Giới.

1-  NIỆM PHẬT:

a) Niệm Phật như  thế nào?

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Các  kinh sách  Đại  Thừa  và  các  nhà  học giả Phật giáo dạy niệm Phật là niệm danh hiệu Phật như:
- Nam  Mô Phật  Bổn  Sư Thích  Ca Mâu Ni hay Nam Mô Ứng Cúng Chánh Biến Tri,  Minh Hạnh  Túc,   Thiện   Thệ,   Thế   Gian   Giải,   Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
b) Niệm Pháp như  thế nào?

Kinh  sách  Đại  thừa  dạy  niệm  Pháp  là tụng kinh, tụng chú, v.v..
c) Niệm Tăng như  thế nào?

Kinh  sách  Đại  thừa  dạy  niệm  Tăng  là cúng dường trai tăng y áo, thực phẩm, tiền bạc và tứ sự.
d) Niệm Giới như  thế nào?

Kinh sách Đại Thừa dạy niệm Giới là mỗi tháng  tụng  giới hai  ngày  vào  ngày  14 và  ngày
30.

Cho  nên,  hiện  giờ  trong  các  chùa  theo tưởng giải của các nhà học giả Phật giáo Đại Thừa  dạy Tăng  Ni và  các  cư sĩ  niệm  Phật  rất ồn náo, niệm tất cả những danh hiệu của chư Phật  mà  các  nhà  học  giả  tưởng  tượng  ra vô  số tên Phật. Thậm chí, như bộ Tây Du Ký của Ngô

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


Thừa Ân tưởng tượng viết theo kiểu tiểu thuyết bốn  thấy  trò  Tam  Tạng  thỉnh  kinh Đông  Độ, đó  là những nhân vật giả tưởng, không có thật, thế mà bộ kinh Hồng Danh sám hối lại ghi những  nhân  vật  đó   vào  để   chư  Tăng,  những ngày 14 và ngày 30 mỗi tháng đều niệm và lạy hồng  danh  chư  Phật  đó,  để   xin  sám  hối  cho tiêu tội. Trong  kinh sám hối Hồâng Danh  có cái tên Đấu Chiến Thắng Phật. Đấu Chiến Thắng Phật  tức  là  Tôn Hành  Giả,  Tôn  Hành  Giả  còn có tên là Tề Thiên Đại Thánh. Tề Thiên Đại Thánh  là  một  loài  khỉ  đột,  nhà  tiểu  thuyết tưởng  tượng  ra chứ  không  có  thật,  thế  mà  các Tổ  Sư Đại  Thừa  xem  đó   là  có  thật  nên  biên soạn  kinh Sám  Hối  Hồng  Danh  ghi  tên  thầy trò Đường Tăng vào để bắt Tăng, Ni và nam nữ cư sĩ niệm Hồng danh các vị ấy và lạy mòn đầu gối. Thật là buồn cười cho quý Tăng, Ni và cư sĩ u mê  ngu si  bị  lừa  đảo  mà  không  hay  biết  bị lừa đảo.
Niệm Phật như kiểu này dù có niệm muôn ngàn  kiếp thì thân  tâm  cũng  không  bao giờ thanh tịnh, một bằng chứng hiển nhiên mà ai cũng thấy, quý thầy và quý Phật tử trong các chùa quanh năm suốt tháng không có ngày nào mà  không  tụng  kinh niệm  Phật,  nhưng  chúng

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


ta  xét  lại  xem số  tu  sĩ  và  cư sĩ  hiện  giờ  tụng kinh niệm Phật thân tâm có thanh tịnh hay không?  Hay  tâm  còn  tham,  sân,  si  như  các người  khác.  Như  vậy,  gọi  là  niệm  Phật  thân tâm được thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh chỗ nào?  Đó  là  tưởng  giải  của  các  nhà  học  giả  dạy sai  ý  Phật,  nên  người  đời  sau tu  mà  không  có kết quả, biến cảnh chùa nơi tu hành thanh tịnh thành chỗ cúng tế, niệm danh hiệu Phật. Khi tụng kinh niệm Phật thì chuông, trống, mõ làm inh  ỏi  ồn  náo, tụng kinh như ca hát ý ê,  ý à ... giọng cao giọng  thấp, trầm bổng  nghe như hát bộ.  Kinh sách  Đại  Thừa  biến dần  Tứ  Bất  Hoại Tịnh  thành  pháp   môn  tụng  niệm,   nói   cách khác  là  biến  thành  ca nhạc  Phật  giáo,  để  ru hồn  tín đồ  vào  thế  giới  siêu  hình  mê  tín, gây tinh  thần   tiêu   cực,   tựa   nương  vào   thế   giới tưởng, khiến cho Phật giáo mất hết ý nghĩa tự lực giải  thoát,  cho nên  tín đồ  hiện  giờ  nghe vị Thầy  nào  tụng  niệm  ê   a giọng cao, giọng thấp thì rất thích, nghe như nghe âm nhạc thế gian và  còn  thích  hơn  vì  thỏa  mãn  được tình cảm thân  thương  của  mình   đối   với  những  người thân đã khuất.
Từ  cái  hiểu  sai,  dẫn  đến  sự  tu  sai,  khiến cho  Phật  giáo  suy  thoái  không  còn  người  tu

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


chứng đạo, chỉ còn là vọng ngữ huyền thoại nói láo chuyền nhau.
Niệm người ta hiểu nghĩa của nó là lặp đi lặp lại một câu kinh, một danh hiệu Phật bằng ý  không  lời  hoặc  phát  ra lời  nói,  họ  còn  hiểu sai  hơn  nữa  là  nhờ  câu  niệm  Phật  để  ức  chế tâm  không  vọng  tưởng  như  trong  kinh Di  Đà dạy: “…Thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên trì danh  hiệu A Di  Đà  Phật, dữ chư Thánh chúng hiện  tại kỳ  tiền”,  có  nghĩa  là  niệm  Phật  A Di Đà từ một ngày cho đến bảy ngày, tâm không loạn  tức  là  không  có  vọng tưởng  thì thấy  Phật Di  Đà và Thánh Chúng hiện ra trước mặt, báo cho  biết   trước  khi  lâm  chung,  đức   Phật   và Thánh Chúng sẽ phóng hào quang rước về cõi Cực  Lạc  Tây  Phương. Hiểu như vậy,  nên  Thầy Tổ nào cũng có một xâu chuỗi, lúc nào cũng lần chuỗi niệm Phật.
Từ  chỗ hiểu sai Tứ Bất Hoại Tịnh các nhà học giả Đại Thừa và Thiền Đông Độ đã biến thành một pháp môn ức chế tâm, pháp môn ức chế  tâm  chẳng  giúp  cho  người  tu  giải  quyết được gì cả mà còn thêm bịnh.
Niệm trong Tứ Bất Hoại Tịnh có nghĩa là tư  duy, quán  xét,  suy ngẫm  về  thân,  thọ,  tâm và  pháp  của  đức  Phật,  sống  như  thế  nào  mà

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


tâm hồn thanh thản an lạc giải thoát, cho nên niệm có nghĩa là tâm tâm niệm niệm về đời sống của đức Phật, Ngài sống như thế nào mà tâm không phóng dật? Ngài sống như thế nào mà không làm khổ mình,  khổ người?
Khi mà tâm niệm của chúng ta như vậy khiến cho tâm chúng ta đặt lòng tin trọn vẹn ở đức Phật, do đó, đức Phật sống như thế nào thì chúng  ta  sẽ  cố  gắng  sống   như  thế  nấy,  đức Phật  làm  như thế  nào  thì chúng  ta  sẽ  cố  gắng làm  như thế  nấy.  Sống  và  làm  đúng  như  Phật thì tâm chúng ta thanh tịnh, không còn phóng dật tức là tâm ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp tức là tâm giải thoát hay nói một cách khác hơn là làm chủ cuộc sống, tâm bất động trước các pháp, như vậy, mới gọi là niệm Phật thân tâm bất hoại tịnh.
Đây là một bài kinh dạy cách thức niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới rõ ràng,   chỉ   vì  các   nhà   Đại   Thừa   chẳng   chịu nghiên  cứu  kinh sách  Nguyên  Thủy,  tự  kiến giải rồi dạy niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và  niệm  Giới  theo  tưởng  giải,  khiến  cho người tu tập ức chế tâm thành bệnh. Niệm Phật cầu vãng  sanh  Cực  Lạc  đâu  không  thấy  mà  chỉ thấy  bệnh  đau quá  hiểm  nghèo.  Hòa  Thượng

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


Thiền  Tâm  là  người  xương  minh   pháp  môn Tịnh Độ chuyên ròng niệm Phật, không biết Ngài  niệm  Phật  ức  chế  tâm  như  thế  nào  mà trước  khi chết  Ngài  đã   ói   ra máu,  chúng  tôi cũng có một người đệ  tử cũng tu  ức chế tâm để tịnh  chỉ  hơi  thở  cũng  khạc  ra máu  đống  đống. Muốn  niệm  Phật  cho đúng  thì chúng  ta  nên lắng  nghe  đức  Phật  dạy  niệm  Phật:  “Ở   đây, này   Mahànàma,   Thánh  đệ   tử   tùy   niệm Như  Lai, trong  khi  ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị  si chi  phối; trong  khi  ấy,  tâm  vị ấy   được  chánh trực,   nhờ   dựa   vào   Như Lai”. Đoạn  kinh trên  đây,  đức   Phật  đã   xác định cách  thức  niệm  Phật  rất  rõ  ràng  “Tuỳ niệm  Như  Lai”   có   nghĩa   là   tâm   Như   Lai không  tham,  không  sân,  không  si  thì người sống   (niệm   Phật)   như   Phật   không   nên   để tham, sân, si chi phối. Khi tâm không bị tham, sân, si chi phối thì tâm được chánh trực. Danh từ  “chánh  trực”   ở    đây,  chúng  ta  phải  hiểu nghĩa cho rõ ràng. Chánh trực có nghĩa là tâm ngay thẳng, tâm ngay thẳng tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự là Tâm không phóng dật.
Chúng ta hãy lắng tai nghe tiếp  đức Phật dạy: “Và  này Mahànàma,  một vị  Thánh đệ

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


tử, với tâm chánh trực, liền được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan  liên hệ đến pháp. Người ấy có hân hoan  nên hỷ sanh.  Người  có  hỷ,  nên  thân được  khinh an.  Với  thân khinh an,  người  ấy  có  cảm giác  lạc  thọ. Người  có  lạc  thọ, tâm  được định  tỉnh”.
Đoạn kinh trên đây, đã  xác định cho chúng ta thấy kết quả cách thức sống như Phật sẽ hiện ra những trạng thái gì?
Khi sống như Phật, tâm được thanh thản, an lạc và vô sự thì liền có một niềm tin nơi đức Phật  khởi  lên  trong  ta,  vì  thế  kinh xác  định trạng thái đó bằng những danh từ ngắn gọn: “liền được nghĩa tín thọ” nhưng rất đầy đủ ý nghĩa cho những ai thực hiện đúng  lời dạy này, còn những người sống không đúng như Phật thì chẳng hưởng được những kết quả này. Vì thế, Phật  dạy: “Pháp ta không  có  thời  gian đến để mà thấy”.
Khi trong  ta  có  trạng  thái  lòng  tin Phật khởi  lên,  nếu  ai  có  thực  hiện  được mới  biết trạng thái này, một trạng thái tuyệt vời của người  có lòng tin như thật. Còn bây giờ, chúng ta  chưa  có  trạng  thái  này,  nói  tin Phật  chứ

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


chúng  ta  chưa có  tin như  thật.  Khi nhận  được cảm thọ lòng tin này thì ngay đó tâm hân hoan thích thú pháp niệm Phật. Vậy hân hoan thích thú pháp niệm Phật là gì? Nghĩa là chúng ta luôn luôn thích sống như Phật, có nghĩa là tâm không còn ham muốn một vật gì hết, ngay cả chuyện ăn uống cũng không còn ham muốn ăn uống gì cả. Tâm sân cũng vậy, không còn một pháp ác nào tác động vào thân tâm, làm ta không thể nổi sân được và si cũng vậy lúc bây giờ  không  còn  ham  thích  lười  biếng  ưa  ngủ nghỉ,   có   nghĩa   là   trong   trạng   thái   tín  thọ không còn hôn trầm, thuỳ miên, vô ký  nữa mà rất  siêng  năng  sống  như  Phật.  Cho nên,  đoạn kinh  dạy:   “Được   hân  hoan  liên   hệ   đến pháp”. Cụm danh từ này có nghĩa là vui mừng thích thú sống như Phật.
Khi trong  tâm  có  trạng  thái  thích  sống như Phật  thì một  trạng  thái  khác  hiện  lên, đó là  trạng  thái  niềm  vui mừng  khởi  lên  trong  ta như  kinh dạy:  “Người  ấy  có  hân hoan nên hỷ  sanh”. Niềm vui mừng hiện rõ trong ta thì cơ thể  ta  an lạc  và  nhẹ  nhàng  như  không  còn trọng lượng, bước đi rất thoải mái, thân không còn đau nhức hay mệt mỏi gì cả, một trạng thái của thân an lạc vô cùng, nên kinh dạy: “Người

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


có  hỷ,  nên  thân được khinh  an”. Đúng  vậy, người  có niềm  vui thì thân được nhẹ nhàng an lạc.  Khi thân  được  nhẹ  nhàng  an lạc  thì toàn bộ thân tâm có được một  cảm giác thọ lạc một cách kỳ lạ mà không thể nói ra được, vì không có  danh  từ  nào  để  diễn  tả,  chỉ  có  người  nào  tu tập đến những trạng thái này mới cảm nhận được như  người  uống  nước  nóng  lạnh  tự  biết, không  thể  người  ngoài  cuộc   biết  được. Đoạn kinh đã  xác  định rõ  ràng:  “Với  thân  khinh an, người  ấy  có  cảm  giác  lạc  thọ”.  Trong trạng thái lạc thọ này, hành giả mới xác định được tâm  định tỉnh.  Từ  lâu,  mọi người  ai  cũng nói  tâm  định  tỉnh,  nhưng  chưa  ai  biết  được trạng thái tâm định tỉnh như thế nào? Trải qua bao nhiêu trạng thái mới thấy được tâm định tỉnh.  Với  tâm  định tỉnh  này,  các  bạn sẽ  nhập thiền  định không  có  khó  khăn,  không  có  mệt nhọc. Tu tập được tâm định tỉnh không phải dễ đâu các bạn ạ!
Sống như Phật, cuối cùng chúng ta mới có được trạng  thái  tâm  định tỉnh  như  trong  kinh dạy:   “Người   có   lạc   thọ,   tâm   được  định tỉnh”.  Nếu  tâm  bạn chưa có  lạc  thọ  thì không bao giờ bạn có được tâm định tỉnh.

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


Sau khi được tâm  định tỉnh  thì các  bạn mới có một cuộc sống bình thản trước mọi ác pháp và mọi cảm thọ; chừng đó chúng ta mới không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng  sanh  như  thật;  chừng  đó  tâm  chúng  ta mới bất động thật sự trước các ác pháp và các cảm thọ. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này  Mahànàma,  về  vị  Thánh đệ  tử  này, được  nói như  sau: “Với  mọi  người  không bình  thản, vị  ấy  sống  bình  thản. Với  mọi người  não hại, vị ấy  không  não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Phật là vậy”. (Kinh  Tăng Chi tập 3 trang 16).
Đến đây, các bạn đã  thấy rõ phương pháp niệm Phật của Phật giáo Nguyên Thuỷ không giống  phương  pháp  niệm  Phật  của  kinh sách Đại  Thừa.  Niệm  Phật  của  kinh sách  Đại  Thừa là  phương  pháp  niệm  Phật  ức  chế  tâm  nhằm chế ngự vọng tưởng “Thất nhựt nhất tâm bất loạn…”. Đó là một phương pháp niệm Phật của ngoại  đạo,  chúng  ta  tu  theo  Phật  thì hãy  ném bỏ nó vì đó  là  phương pháp  tu tập  sai. Xin  các bạn  cần  lưu  ý  để  tránh  sự  lừa  đảo  của  ngoại
đạo.

Trên  đây  là  một  trong  những  bài  kinh đã xác  định  đức   Phật  dạy  niệm  Phật  rõ  ràng,

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


“Dựa  vào  Như Lai”  có  nghĩa  là  sống  giống như  Như  Lai  thì đó  là  niệm  Phật  đúng  nghĩa. “Dựa  vào  Như Lai”  còn có nghĩa là tất cả oai nghi  đi,  đứng,  nằm,  ngồi,  nói,  nín,  ăn,  uống, mặc  y,  mang  bát,  v.v..  đều   có  mặt  Như  Lai đang theo mình  từng bước, từng việc làm, từng oai nghi tế hạnh.
Người niệm Phật luôn luôn lúc nào cũng thấy Phật ở  bên mình nên cẩn thận phòng hộ sáu căn, giữ gìn nghiêm chỉnh không dám lơ đễnh,  lúc  nào  cũng  cảnh  giác  đề  phòng.  Do tu tập như nên tâm thanh tịnh, tỉnh giác trong chánh  niệm.  Nhờ  đó,  mà  tâm  được  định tỉnh. Tâm được định tỉnh thì tâm nhu nhuyễn, dễ  sử dụng nên  nhập  các  định không  có  khó  khăn, không  có  mệt  nhọc  như  trong  kinh Phật  đã
dạy.

2-  NIỆM PHÁP:

Niệm Pháp như thế nào?

Niệm Pháp theo kiểu các nhà  học giả  Đại Thừa  dạy:  “Nam Mô  Pháp”,  tức  là  tụng  kinh, tụng  chú.  Trong  các  chùa  hiện  nay,  ngày  bốn thời tụng niệm: Tối tụng kinh cầu an, cầu siêu; khuya  công  phu  tụng  chú  Thủ  Lăng  Nghiêm cúng nước; trưa cúng cơm chim  đại bàng; Chiều

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


công  phu thí thực  gạo  muối  cúng  cô  hồn  tụng kinh Mông Sơn. Niệm Pháp như vậy, dù  cho có niệm đến 1.000 năm, 1.000.000 năm, thân tâm của quý vị cũng không thanh tịnh.
Niệm  Pháp  theo  kinh Nguyên  Thủy  dạy, có  nghĩa  là  phải  tư  duy suy nghĩ  những  pháp mà đức Phật đã dạy như: Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Như Ý Túc, v.v.. cách  thức  sống  và  tu  tập  như thế  nào  rồi  theo đó sống và tu tập cho đúng pháp như vậy gọi là niệm Pháp.
Ví  dụ: đức  Phật  dạy:  “Ngăn  ác  diệt  ác pháp, sanh  thiện tăng trưởng thiện pháp”, theo  lời dạy  này,  ngày  ngày  tâm  tâm  niệm niệm luôn luôn cảnh giác giữ gìn và ngăn ngừa các pháp ác, nếu lỡ có các pháp ác nào sanh ra thì mau mau tìm cách  diệt  nó,  không  được  để trong  tâm  kéo  dài  sự  khổ  đau giận  hờn  phiền toái bất toại nguyện, khiến cho tâm thanh thản an lạc nhẹ nhàng thoải mái yên ổn, đó chính là chúng  ta  niệm  Pháp,  niệm  Pháp  như  vậy  mới có kết quả  giải thoát  ngay liền,  khiến cho tâm thanh tịnh nên gọi là niệm Pháp thân, tâm bất hoại tịnh.
Pháp của đức Phật có 37 phẩm trợ đạo, chúng  ta  nên  chọn trong  37 phẩm  trợ  đạo  này

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


với một pháp môn nào phù hợp với đặc tướng của  mình,  rồi  lấy  đó   thực  hành  áp  dụng  vào cuộc sống hằng ngày, để  xây dựng cho mình  có một  đạo   đức  làm  người  mà  không  làm  khổ mình,  khổ  người,  đây  là  niệm  pháp  bất  hoại
tịnh.

Đây,  chúng  ta  hãy  lắng  nghe  một  đoạn kinh mà  đức  Phật  đã   dạy  niệm  Pháp:  “Lại nữa này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Pháp: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực  hiện tại,  không có  thời  gian, đến  để  mà   thấy, có  khả  năng hướng thượng, được  những  bậc  trí tự  mình  giác hiểu!”.
Đoạn  kinh trên  đây  đức  Phật  khéo  nhắc nhở chúng ta phải nghiên cứu kỹ “giáo pháp phải  thiết  thực  hiện tại”  nghĩa là  giáo  pháp không  có mơ hồ trừu  tượng, không có  ảo  tưởng mê tín, không có nói chuyện trên trời dưới đất, thế giới siêu hình,  linh hồn ma quỉ thần thánh, không  nói  chuyện  thần  thông  pháp  thuật  bày trò lừa đảo, v.v..
“Không  có  thời  gian, đến  để  mà thấy”, có  nghĩa  là  Pháp  của  Phật  không  phải tu nhiều đời nhiều kiếp như kinh sách Đại thừa

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


dạy:  “Tu  phải  nhiều  đời nhiều  kiếp,  tu vô lượng kiếp”.  Lời  dạy  ấy  là  lời  nói  sai.  Pháp của Phật là đạo  đức làm người, nếu chúng ta không   sống   như   pháp   thì  không   đạo   đức. Không đạo  đức là sống trong các ác pháp. Sống trong các ác pháp là khổ đau, là không giải thoát.  Cho  nên,  pháp  không  có  thời  gian,  hễ nếu  ai  sống  đúng  như  pháp  thì có  giải  thoát ngay liền. Cho nên, đức Phật dạy: “Đến để mà thấy”.
Pháp của Phật rất thực tế như vậy. Cho nên,  ai  sống được  như pháp  là  niệm Pháp, chứ không  phải  niệm  pháp  là  tụng  kinh, xin  các bạn lưu ý  cho. Sống  như pháp  của Phật  sẽ đưa chúng ta từ loài động vật chuyển thành con người,  từ  con người  chuyển  thành  Thánh  nhân “Có khả năng hướng thượng”.
Thưa  các  bạn!  Khi chúng  ta  sống   đúng như pháp thì tâm tham, sân, si không chi phối được ta, nên hoàn toàn thân tâm ta được giải thoát. Vậy chúng ta hãy lắng nghe Phật dạy niệm Pháp: “Này Mahànàma, trong khi vị Thánh đệ  tử  tùy  niệm  Pháp,  trong  khi  ấy, tâm không bị tham  chi  phối, không bị sân chi phối,  không  bị  si chi phối”.  Đúng  vậy, chúng  ta  sống  đúng  như  pháp  đã  dạy thì tâm

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


tham,  sân,  si  không  còn  tác  động  được nên thân  tâm  được thanh  thản  an  lạc  và  vô  sự. Thân tâm được thanh thản, an lạc và vô sự mà trong  kinh  dạy  tâm  vị  ấy  được chánh  trực: “Trong khi ấy  tâm  vị  ấy  được chánh  trực, nhờ dựa  vào Pháp”.
Khi tâm được thanh thản, an lạc và vô sự thì lòng  tin đối  với  chánh  pháp  của  Phật  mới được đầy  đủ  trọn  vẹn:  “Và  này Mahànàma, Thánh đệ   tử   với   tâm   chánh trực,  được nghĩa tín thọ”.
Khi lòng  tin chánh  pháp  được hiện  tiền thì tâm  ta  hân  hoan  rất  thích  thú  ưa  pháp muốn tu mãi, muốn không rời pháp. Do đó, đức Phật  xác  định:  “Được   pháp   tín thọ,   được hân hoan liên hệ đến pháp”.
Khi tinh tấn  siêng  năng  ôm  pháp  tu  tập thì niềm  vui  trong  ta  sinh  khởi:  “Người   có hân hoan nên hỷ sanh”.
Khi niềm  vui  trong  ta  sinh  khởi  thì cảm giác  toàn  thân  nhẹ  nhàng  an  lạc,  nên  đoạn kinh xác  định: “Người  có  hỷ  nên  thân  được khinh an”.
Khi cảm giác toàn thân nhẹ nhàng an lạc thì thân  tâm  có  một  trạng  thái  lạc  thọ  tuyệt

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


vời, đến đây người nào có tu tập mới cảm nhận được: “Với  thân  khinh an, vị  ấy  cảm  giác lạc thọ”.
Khi chúng ta cảm giác thân tâm lạc thọ đầy  đủ  thì tâm  lúc  nào  cũng  không  phóng  dật, luôn luôn bất động định tỉnh. Chúng ta nghe Phật  dạy:  “Với  tâm  định   tỉnh  nhu nhuyễn, dễ sử  dụng”.  Đây  là  tâm  định tỉnh  mà  trên con đường tu tập từng giờ, từng phút mà chúng ta  mới  thấy  được: “Người   có   lạc  thọ,   tâm được định  tỉnh”.
Để kết luận phương pháp niệm pháp chỗ tâm bất động chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:  “Này  Mahànàma,  về  vị  Thánh  đệ  tử này được nói như sau: “Với  mọi  người không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với mọi người  có  não  hại,  vị  ấy  sống  không não  hại. Nhập được  pháp  lưu, đó  là  vị  ấy tu tập  niệm Pháp”. (Kinh  Tăng Chi tập 3 trang
18).

3-  NIỆM TĂNG:

Niệm Tăng như thế nào?

Nếu  theo  kinh sách  của  các  nhà  học  giả Đại Thừa dạy: “Nam Mô Tăng”  và cứ như vậy mà niệm thì dù  có tu trăm muôn ngàn kiếp thì

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


thân tâm này cũng chẳng thanh tịnh. Nam Mô Tăng  như  vậy  là  một  pháp  ức  chế  tâm,  khiến cho tâm bị dồn nén tham, sân, si, mạn, nghi, càng  tu  thì tâm  này  càng  tham,  sân,  si  dữ  tợn khi gặp chướng ngại pháp.
Nam  mô  Tăng  theo  nghĩa  của  kinh sách Đại  Thừa  dạy  là  trai  tăng  cúng  dường  y  áo, thực phẩm, thuốc thang, giường nằm, nhà ở,  tứ sự, v.v.. nhờ cúng dường như vậy, nên thọ được phước  báu  hữu  lậu  vô  lượng. Điều  này  không đúng  với  đường  lối tu  tập  của  Đạo  Phật,  đó  là lối niệm Tăng của Đại Thừa, không đúng chánh pháp của Phật.
Theo kinh sách Nguyên Thủy, muốn tu pháp  niệm  Tăng  cho đúng  thì trước  tiên  phải chọn   những   vị   Tăng   nghiêm   trì  giới   luật. Những  vị  Tăng  nghiêm  trì Giới  luật  là  những vị  sống  thiểu  dục  tri túc,  ba y  một  bát,  sống không  có  chùa  to  Phật  lớn,  sống  xa lìa những vật  chất  tiện  nghi  đầy  đủ, sống  không  có  ăn mặc  sang đẹp, sống  thường  đi  xin  từng  miếng mà ăn, sống không cất giữ tiền bạc của cải tài sản, thường lấy gốc cây làm giường nằm, sống ngày một bữa, không có ăn uống phi thời.
Chọn  được những  vị  Tăng  như vậy,  chúng ta tôn kính  những bậc này và xin  họ làm Thầy.



Từ  đây, chúng ta có ngọn đuốc soi đường, hằng ngày ta quan sát tư duy qua gương Thánh hạnh đạo  đức của họ và chúng ta tập sống như họ, để biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, để biết đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm, để biết thương yêu hòa hợp với mọi người, để  biết chịu phần  thiệt  về  mình,   luôn  luôn  bắt  chước  các đức hạnh của chúng Tăng, sống theo gương Thánh  đức   của  chúng  Tăng.  Chính   những  vị Tăng  này  là  thân  giáo  đang  dạy  chúng  ta  tu tập   bằng   những   bài   pháp   không   lời,   họ   là những   người   tu   chứng.   Ngược  lại,   những  vị Tăng phá giới, phạm  giới, bẻ vụn giới thì chúng ta xem họ như những tu sĩ Bà La Môn không đáng cho chúng ta cung kính  và cúng dường.
Tư duy quán xét những đức hạnh sống của chúng Thánh Tăng để lấy đó làm gương sống tu tập ly dục ly ác pháp, đó  mới chính  là chúng ta niệm Tăng. Niệm Tăng như vậy, có  ích lợi  cho mình,   cho  người  rất  lớn,  sẽ  không  làm  khổ mình,  khổ người; niệm Tăng như vậy thân tâm mới thanh tịnh; niệm Tăng như vậy mới gọi là niệm Tăng Bất Hoại Tịnh.
Đây  là  lời   đức  Phật  dạy  chúng  ta  cách thức niệm Tăng: “Lại nữa này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Tăng: “Diệu hạnh  là



chúng đệ  tử  Thế  Tôn.  Trực hạnh là  chúng đệ  tử  của  Thế  Tôn.  Ứng  lý  hạnh là  chúng đệ  tử  của  Thế  Tôn.  Chánh hạnh là  chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám vị. Chúng đệ  tử Thế Tôn này đáng được cung kính,  đáng   được   tôn  trọng,  đáng   được cúng  dường,  đáng  được  chấp tay,   là  vô thượng phước điền ở  đời”.
Đoạn kinh này đức  Phật nêu ra rất rõ các hạnh  của  vị  Thánh  Tăng  để   chúng  ta  lấy  đó làm   gương  mà   sống   theo   cho  đúng.   “Diệu hạnh, Trực hạnh, Ứng lý hạnh, Chánh hạnh”.   Muốn  biết  rõ  các  hạnh  này  thì chúng ta nên hiểu từng hạnh một.
a)  Diệu Hạnh:

Vậy  diệu  hạnh  nghĩa  là  gì? Diệu  hạnh  là những oai nghi tế hạnh của một tu sĩ đều  được dạy  trong  bộ  giới  luật  đức   Thánh  hạnh  của Phật. Xin các bạn hãy đọc bộ sách Văn Hoá Truyền  Thống  từ  tập  1,  2,  3,  4,  5…  thì sẽ  rõ. Diệu hạnh là những hành động ngăn ác diệt ác pháp,  sinh  thiện  tăng  trưởng  thiện  pháp  của Tứ  Chánh  cần;  là  những  hành  động  từ,  bi, hỷ, xả của Tứ vô Lượng Tâm.
b)  Trực Hạnh:



Vậy Trực hạnh nghĩa là gì? Trực hạnh là những hành động trực tiếp làm chủ bốn sự đau khổ trên thân, thọ tâm và pháp có nghĩa làm làm  chủ  sinh,  già,  bệnh,  chết  chấm  dứt  luân hồi. Trực hạnh chính là những hành động Tứ Thánh Định, Tứ Như Ý  Túc và Tam Minh.
c)  Ứng Lí Hạnh:

Vậy  Ứng  lý  hạnh  nghĩa  là  gì?  Ứng  lý hạnh là hành động sống hằng ngày tương ứng đúng lý với hành động của Phật, của Pháp, của chúng  Thánh  Tăng  và  của  Giới  Luật,  đó  là những hành động sống Tứ Bất Hoại Tịnh.
d)  Chánh Hạnh:

Vậy Chánh hạnh nghĩa là gì? Chánh hạnh là những hành động sống không làm khổ mình, khổ  người  và  khổ  tất  cả  chúng  sanh.  Chánh hạnh tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Tóm  lại,  một  người  tu  tập  pháp  môn  Tứ Bất Hoại Tịnh sẽ có đủ bốn hạnh trên đây. Người có đủ bốn hạnh trên là người toàn thiện, là  người  làm  chủ  nhân  quả,  là  người  vượt  ra khỏi  không  gian  vũ  trụ,  là  người  không  còn  bị chi phối bởi qui luật của nhân quả.
Khi chúng ta niệm Tăng đúng pháp như vậy thì tâm không bị tham, sân, si chi phối, do



đó  tâm  được  thanh  thản,  an lạc  và  vô  sự  như đức Phật đã dạy: “Này Mahànàma, trong khi Thánh đệ  tử  tùy  niệm  chúng  Tăng,  trong khi  ấy, tâm không bị tham  chi phối, không bị sân chi phối, không bị si chi phối, trong khi  ấy tâm vị ấy được chánh trực, nhờ dựa vào tùy niệm chúng Tăng”.
Khi tâm được thanh thản, an lạc và vô sự thì tất  cả  những  trạng  thái  tín thọ,  vui  mừng, hoan  hỷ,  khinh an,  lạc  thọ  và  định tỉnh  lần lượt  xuất  hiện  đầy  đủ.   Khi sống   đúng  niệm chúng  Thánh  Tăng  như  vậy  thì sự  tu  tập  giải thoát đâu phải là sự khó khăn. Phải không các
bạn?

Chúng ta hãy lắng nghe cho kỹ  những lời Phật dạy:  “Và  này Mahànàma,  một  vị Thánh đệ  tử,  với  tâm  chánh trực,  được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan   liên  hệ  đến  chúng  Tăng.  Người  có hân hoan  nên  hỷ  sanh.  Người  có  hỷ  nên thân được khinh an.  Với thân  khinh an,  vị ấy  cảm  giác  lạc  thọ. Người  có  lạc  thọ tâm được định  tỉnh”.
Khi sống đúng như chúng Thánh Tăng thì tâm chúng ta bất động trước các ác pháp và các



cảm thọ tức là tâm chúng ta ly dục ly ác pháp hoàn toàn nhập vào dòng Thánh như kinh dạy: “Này  Mahànàma,  về  vị  Thánh  đệ  tử  này, được  nói như  sau: “Với  mọi  người  không bình  thản, vị  ấy  sống  bình  thản. Với  mọi người  có  não  hại,  vị  ấy  sống  không não hại.  Nhập được  pháp lưu,  đó  là  vị  ấy  tu tập niệm chúng Tăng”. (Kinh  Tăng Chi tập 3 trang 19).

4-  NIỆM GIỚI:

Niệm   Giới   như  thế   nào?   Các   nhà   Đại Thừa dạy niệm giới, cứ mỗi nửa tháng một kỳ tụng  giới  vào  ngày  14  hoặc  ngày  30.  Họ  tập trung nhau lại tụng giới.  Đó là cách thức của họ niệm giới của Đại Thừa. Niệm giới như vậy, dù họ niệm một triệu kiếp cũng không nghiêm trì được giới  luật,  cũng  không  thanh  tịnh  được thân tâm,  chỉ  là  một  hình  thức lừa đảo  tín đồ, xem như mình  có giữ giới.
Họ đâu  biết  rằng  Giới  luật  là  hành  động sống  đạo  đức của  một  vị  Thánh  Tăng,  nếu  họ tụng  giới  luật  suông  như  vậy  thì không  có  ý nghĩa  và  lợi  ích gì cả,  đó  chỉ  là  hình  thức  che đậy cho sự phá giới của họ.



Cho nên, hầu hết các thầy Đại Thừa niệm Giới  như vậy  đều sống  phá  giới, phạm  giới,  bẻ vụn  giới  hết  không  còn  một  giới  nào  là  họ không vi phạm.
Các nhà Đại Thừa hiểu không đúng pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh nên thực hành sai, do thực  hành  sai  mà  thân  tâm  ô    nhiễm  không thanh  tịnh,  cuối  cùng  tu  Tứ  Bất  Hoại  Tịnh mà thành Tứ Hoại Tịnh, không có giải thoát chút nào. Vậy niệm Giới như thế nào cho đúng?
Muốn  niệm  Giới  cho  đúng  thì phải  học giới  luật  cho thông  suốt.  Khi Giới  luật  đã  học thông suốt thì chúng ta quán xét và tư duy những  đức  hạnh  nào  của  giới dạy  về  đạo  đức làm  người  và  những  giới  luật  nào  dạy  về  giới đức  làm  Thánh.  Chúng  ta  đã  hiểu  rõ  các  đức hạnh của giới xong, thì từ đó  hằng ngày chúng ta  quyết  tâm  phải  sống  cho đúng  những  đạo đức  làm  người  và  làm  Thánh,  nhờ  có  quán  sát và  tư  duy theo  từng  hành  động  thân  miệng  ý của mình như vậy, nên sống đúng giới luật nghiêm  túc,  do sống đúng  giới  luật  nghiêm  túc nên thân tâm thanh  tịnh ly  dục ly  ác pháp, từ đó thân tâm không hoại sự thanh  tịnh.
Người tư duy quán sát và sống đúng giới luật  như  vậy  nên  gọi  là  niệm  Giới  Bất  Hoại



Tịnh, niệm như vậy mới gọi là niệm giới, chứ không phải niệm giới theo kiểu các nhà Đại Thừa tụng một bài giới là xong, niệm Giới như vậy, gọi là niệm giới Đại Thừa, chứ không phải niệm Giới Bất Hoại Tịnh.
Đây chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy niệm Giới: “Lại nữa này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm các giới của mình: “Giới không bị  bẻ  vụn,  không bị  sứt  mẻ,  không bị vết chấm, không bị uế tạp, đưa  đến giải thoát,  được  người  trí tán  thán, không bị chấp thủ, đưa đến thiền định”.
Đoạn  kinh này  các  bạn  có  nghe  lời  Phật dạy chăng? Giới không bị bẻ vụn, không bị sứt mẻ,  không  bị  vết  chấm,  không  bị  uế   tạp,  lời dạy  này  giúp  cho chúng  ta  xét  thấy  từng  giới một của Phật  xem coi có giới nào bị  ai bẻ vụn, làm  sứt  mẻ,  làm  cho có  vết  chấm,  làm  cho uế tạp  giới  thì chúng  ta  không  chấp  nhận  những loại giới này.
Ví  dụ: giới  không  ăn  phi  thời  thì các  Tổ sau này làm thành vết chấm là ăn ngọ. Bẻ vụn: chư  Thiên  ăn  sáng;  Phật  ăn  giờ  ngọ;  chúng sanh ăn  sau giờ  ngọ;  ngạ  quỷ  ăn  đêm.  Làm  uế tạp sáng ăn, trưa ăn, chiều ăn hoặc không ăn sáng, chiều thì lại uống sữa bột đường, v.v.. Các



Nhà  Đại Thừa  do Giới bị  bẻ vụn, bị  sứt  mẻ, bị vết  chấm,  bị  uế  tạp  nên  tâm  bị  tham,  sân,  si chi phối, vì vậy nên thích sống trong chùa to Phật lớn, mỗi ngôi chùa cất hằng tỷ bạc, xe hơi tủ  lạnh,  máy  điều  hòa  không  khí,  tivi,  điện thoại di động, v.v..
Ngược  lại,  niệm  đúng  như  lời   Phật  dạy trong  kinh Nguyên  Thủy  thì tâm  không  tham, sân, si chi phối thì lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự như đoạn kinh dưới đây Phật dạy: “Này  Mahànàma,  trong khi Thánh  đệ  tử tùy niệm Giới, trong  khi  ấy, tâm không bị tham   chi   phối, không   bị   sân   chi   phối, không bị  si chi  phối, trong  khi  ấy,  tâm  vị ấy được chánh trực, nhờ dựa  vào Giới”.
Khi niệm giới đúng pháp như giới thì tâm bất động, thanh thản, an lạc vô sự. Tâm bất động,  thanh  thản,  an  lạc  vô  sự  thì các  trạng thái  giải  thoát  sẽ  xuất  hiện  đầy  đủ   như:  tín thọ,  hân  hoan,  hỷ  lạc,  khinh an,  lạc  thọ  và định tỉnh.  Đây  chúng  ta  hãy  lắng  nghe  đức Phật dạy: “Và này Mahànàma, một Thánh đệ tử, với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan  liên hệ  đến  giới  pháp.  Người  có  hân hoan  nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh



an.  Với thân khinh an,  vị  ấy  cảm  giác  lạc
thọ. Người có lạc thọ, tâm được định  tỉnh”.

Khi  tâm   định  tỉnh   nhu  nhuyễn,   dễ   sử dụng thì chúng  ta  đã   nhập  vào  dòng  Thánh không bao giờ còn trở lui  về thế tục nữa:  “Này Mahànàma,  về  vị  Thánh đệ  tử  này,  được nói như sau:  “Với  mọi  người  không  bình thản, vị  ấy  sống  bình  thản. Với mọi  người có   não   hại,  vị   ấy   sống   không não   hại. Nhập được  pháp  lưu, đó   là  vị  ấy  tu  tập niệm Giới”. (Kinh  Tăng Chi tập 3 trang 19).
Đây là một trong những bài kinh để xác chứng  lời   đức  Phật  dạy  như  vậy,  mà  các  Tổ dám cả gan dạy sai, khiến cho người đời sau tu tập sai lạc, đó là các Tổ dạy sai pháp của đức Phật,  còn  những  pháp  các  Tổ bịa  đặt  ra cũng đều  gán cho là đức  Phật thuyết. Bởi vậy, từ 25 thế  kỷ  nay  người  ta  tu  theo  Đạo  Phật  chứ  kỳ thật  là  người  ta  tu  theo  Đạo  của  các  Tổ,  cho nên hằng triệu vạn người tu hành mà chẳng có ai làm chủ sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Các  bạn nên  nhớ,  nếu  các  bạn quyết  tâm tu hành tìm cầu sự giải thoát của Đạo Phật, thì chỉ cần tu Tứ Bất Hoại Tịnh là các bạn cũng đã thành tựu viên mãn  con đường tu tập  có  nghĩa



là các bạn sẽ làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người:  sanh,  già,  bịnh, chết  và  chấm  dứt  luân hồi,  thì cần  gì các  bạn  phải  tu  các  pháp  môn khác.
Còn chúng tôi nói tu Tứ Bất Hoại Tịnh câu hữu với Định Vô Lậu  là  vì các bạn nên tư  duy, quán  xét,  suy  ngẫm  về  Phật,  Pháp,  Tăng  và Giới để các bạn thực hiện sống cho đúng như Phật như Pháp, như chúng Thánh Tăng và như giới luật  đã  dạy, để  không  hề  vi phạm  một  lỗi nhỏ  nhặt  nào,  đó   là  cách  thức  quét  sạch  lậu hoặc trong các bạn nên mới gọi là câu hữu với Định Vô  Lậu, chứ kỳ  thực các bạn không  có tu Định Vô Lậu mà tu Tứ Bất Hoại Tịnh.
Tóm lại,  một  người  quyết  tâm  tu  hành  để tìm cầu sự giải thoát thì chỉ cần tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì cũng  đủ sự  giải  thoát  rồi,  đâu  cần  gì phải tu nhiều thứ cho mệt.
Ví  dụ:  mình  quyết  sống  như  Phật  thì khi gặp   chướng  ngại   pháp   trong  tâm,   chúng  ta nhất  định không  sân,  không  phiền  não,  không đau khổ,  sống  và  làm  y như  Phật  thì ngay đó thân tâm thanh tịnh hay nói cách khác là tâm bất  động  trước  các  pháp.  Tu hành  chỉ  có  như vậy mà thôi, thế mà chẳng ai làm được cả.



Pháp  môn  Tứ  Bất  Hoại  Tịnh là  một  pháp môn  tuyệt  vời,  nếu  một  người  quyết  tử  tu  tập thì sẽ có kết quả ngay liền, không còn phải chờ đợi kéo  dài  từ  năm  này  đến  tháng  kia hoặc năm  khác.  Để  kết  luận  bài  pháp  này  bằng  lời dạy của đức Phật: “Pháp được Thế  Tôn  khéo thuyết,  thiết thực  hiện tại,  không có  thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được  những  bậc  trí tự  mình  giác hiểu!”.





ĐIỀU PHỤC TÂM MÌNH


LỜI PHẬT DẠY

“Dạy người như thế nào? Hãy dạy mình như  vậy Khéo điều, mới điều người Khó thay tự điều phục”.
(Kinh Pháp Cú XII: Phẩm Tự Ngã (159))



CHÚ GIẢI:
Thường ở  đời người ta hay đem đạo lý này, đạo lý kia  ra dạy người khác, nhưng chính bản thân chưa làm đúng  những đạo lý  ấy. Cho nên, đức Phật dạy:
“Dạy người như thế nào?

Hãy dạy mình như vậy”

Điều tâm  là  một  việc  làm  rất  khó,  nếu  ai có tu tập thì mới biết. Khó, vô cùng khó là phải điều tâm cho đúng cách, nếu điều tâm không đúng  cách  thì bị  ức  chế  tâm;  ức  chế  tâm  là  tự làm khổ mình,  con đường tu hành chẳng đi đến



đâu  cả.  Điều  phục  được  tâm  mình  tức  là  làm chủ  được  tâm.  Làm  chủ  được  tâm  có  nghĩa  là tâm ham thích một việc gì thì không làm theo.
Ví dụ 1: Tâm muốn ăn, ngủ phi thời thì không  làm  theo  ăn  ngủ  phi  thời,  đó   là  điều phục tâm.
Ví dụ 2: Tâm tức giận, sân hận một người nào  đó,  ta  không  làm  theo  như  vậy,  luôn  giữ tâm  thanh  thản,  an  lạc  và  vô  sự,  đó   là  điều phục tâm.
Ví dụ 3: Khi thân bị bệnh đau nhức ta giữ tâm  bất  động,  không  dao động,  không  hề  sợ hãi,  không  sợ  chết,  không  lo  bệnh  nặng  hay nhẹ, không đi bác sĩ  uống thuốc này, thuốc nọ, để  trấn áp tinh thần, v.v.. đó  là điều phục tâm, chứ không phải điều phục tâm theo kiểu Đại Thừa  và  Thiền Đông  Độ  là  tập  trung  tâm  cho hết vọng tưởng.
Khi điều  phục  tâm  được như  vậy  thì tâm được thanh  thản,  an lạc  và  vô  sự.  Khi tâm  ta sống được  an lạc và vô sự thì ta mới dạy người điều phục, như kinh dạy:
“Khéo điều, mới điều người

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Khó thay tự điều phục”.

Bài kệ  này  hàm ý  đức  Phật  dạy các đệ  tử của  mình,  khi tu  tập  chứng  đạo  xong thì mới dạy người,  còn  nếu  như  tu  chưa chứng  đạo  mà vội dạy người tu tập là dạy sai. Tại sao vậy?
Tại  vì  tâm  mình  còn  như  đống  rác  bẩn, chưa  tự  điều  phục  được: “Khó thay tự  điều phục”. Vậy  mà  đi  dạy  người  là  dạy  làm  sao? Nhưng  khi biết cách điều phục tâm, tâm không còn  ương  ngạnh  tức  là  tâm  không  còn  tham, sân, si. Tâm không còn tham sân si tức là tâm bất động; tâm bất động là tâm nhu nhuyễn, dễ sử  dụng; tâm  nhu nhuyễn,  dễ  sử  dụng là  tu  đã xong. Chừng ấy, ta mới dạy người đâu có muộn. Phải không các bạn?
“Khéo điều, mới điều người

Khó thay tự điều phục”.

Mục đích tu hành của chúng ta là nhắm vào chỗ cứu mình  ra biển khổ, chứ không phải làm  thầy  dạy  người  tu.  Cho nên,  khi tu  chưa xong mà dạy người thì làm sao người tu cho được. Phải không các bạn?
Hai  câu  đầu  của  bài  kệ  trên  đây  xin  các bạn lưu ý: Đây là lời nhắc nhở của đức Phật đối với  những  người  tu  chưa  chứng  mà  đi  giảng



đạo.  Phần  đông  các  giảng  sư dạy  người  tu  rất hay, nhưng chính ông dạy ông rất dở.
Ví dụ: Các  bậc  tôn  túc  thường  truyền  dạy Phật tử phải giữ gìn năm giới, tám giới hoặc mười giới, nhưng  trái lại các ông đều  phạm tất cả  các  giới  cấm  này,  không  còn  một  giới  nào mà các ông không phạm. Cho nên, Phật dạy:
“Dạy người như thế nào?

Hãy dạy mình như vậy”.

Ghi  nhớ  lời dạy  trên  đây,  các  bạn  hãy nhìn  xem  các  ông  giảng  sư thời  nay  có  đúng như lời chúng tôi đã nói không?


--------



HẾT TẬP I



MỤC LỤC


Lời nói đầu  ......................................................... 5

Trưởng lão ......................................................... 15

Hổ thẹn.............................................................. 33

Khó! Khó! Khó!!! ............................................... 39

Có hai lộ trình .................................................. 52

Đừng nên dạy đạo khi mình  tu chưa xong ..... 58

Vượt dòng sinh tử ............................................. 61

Biết rõ sự tái sinh trong tương lai .................. 66

Xác định các pháp tu tập ................................. 75

Kệ lúc thành đạo .............................................. 87

Tứ chánh cần .................................................... 91

Lòng tin chân chánh ........................................ 96

Thiền xả tâm .................................................. 108

Pháp hướng tâm ............................................. 118

Thiền thứ tư .................................................... 121

Không sở hữu .................................................. 125

Bậc chiến thắng .............................................. 136

Bà La Môn ...................................................... 141

Chọn bạn ......................................................... 147

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY-TẬP I

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC





NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO Phường Yên Hòa – Q.Cầu Giấy - Hà Nội ĐT: (04) 37822845 - Fax: (04) 37822841

Chịu trách nhiệm xuất bản: Nguyễn Công Oánh Biên tập: Trần Xuân Lý
Bìa & Trình bày: Ngọc Phúc

Sửa bản in: Ngọc Phúc


Đối tác liên kết: TU  VIỆN CHƠN NHƯ
Điệnthoại: 066.3892911 - 0988094445

Email: chonnhu.info@gmail.com






Số lượng in: 2.000 bản, khổ: 13 x 20,5 cm
In tại CTY  CỔ PHẦN IN KHUYẾN HỌC PHÍA NAM
(Tp.HCM. ĐT: 38164415)
Số xuất bản: 1171-2010/CXB/110-248/TG


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!