Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN BIẾT -TẬP 1-2


như tổ Tông  Bổn, Khánh  Anh,  Thiện  Hoa, Thiện Hòa, v.v... Có người   chuyển sang vừa tu Tịnh Độ cầu vãng sanh, vừa tu Mật tông; có người lại chuyển sang qua hẳn Mật tông, chuyên ròng niệm chú.
Có người  tu Tịnh  Độ lâu  ngày  chẳng  thấy  kết quả  gì  chuyển  qua  tu  Thiền  tông,  lại  cũng  có người  tu  Mật  tông  lâu  ngày  chẳng  thấy  linh ứng chuyển  qua tu  Thiền  tông...  Họ  chuyển  qua pháp môn này, chuyển lại pháp môn kia, tu mãi từ đời này sang đời khác mà chẳng ra gì, vẫn chết trong đau khổ và còn đau khổ hơn người thế gian.
Hiện giờ, người ta tu theo Phật giáo Đại thừa, cứ chạy theo ba pháp môn Thiền, Tịnh, Mật, và chuyển  qua chuyển  lại  tu  tập,  cứ  thế  tu  tập  cho đến bây giờ chẳng ai tu đến đâu, cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong vòng luẩn quẩn, loanh quanh. Có người  tu  các  loại  tà  thiền  Yoga xuất  hồn  lại  rơi vào  trạng  thái  định  tưởng,  có  người  tu  Thiền Đông Độ rơi vào pháp tưởng nên gọi là triệt ngộ.
Tịnh Độ tông thì rơi vào sắc tưởng, thinh tưởng, thấy cảnh giới Tây Phương, Phật Di Đà  và Thánh Chúng, thấy hoa sen, thấy tên họ được đăng  ký  trên  hoa  sen  và  thấy  ánh  sáng  hào quang,  nghe  Phật  Di  Đà  thuyết  pháp,  v.v...  Đó toàn là sắc, thinh tưởng.
Mật  tông  thì rơi  vào  tha  tâm  tưởng,  nên  biết chuyện  quá  khứ  vị  lai,  khiến  cho mọi  người  quá nể phục, và họ thường làm trò ảo thuật (thần thông) lừa đảo người.


Tất  cả  những  sự  việc  xảy  ra  khiến  cho người tu  tưởng  mình   đã  chứng  đạo,  nên  trong  kinh Pháp  Môn  Căn  Bản,  Phật  dạy:  “Tất  cả  những kết quả đó là tưởng tri, chớ không phải thực chứng giải thoát (liễu tri)”.
Bởi vậy, một người tu tìm cầu sự giải thoát mà không sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống  không  phòng  hộ  sáu  căn  với  sự  phòng  hộ của giới bổn, không đầy đủ oai nghi chánh hạnh, không thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, không  chơn  chánh  lãnh  thọ  và   tu  học  các  học giới, thì dù tu ngàn đời Thiền, Tịnh, Mật cũng chẳng  đi  đến  đâu,  chỉ  uổng  phí  một  đời  tu  hành mà thôi, rồi cũng chạy theo danh lợi, buôn Phật, bán  pháp  mà  sống,  sống  trong  cách  thức  lừa  đảo tín đồ để ngồi trong mát ăn bát vàng.
Thần  thông  của  ngoại  đạo  do dùng  tưởng  tu tập  như  Yoga,  Mật  tông,  Khí  Công,  Nội  Công, v.v...  Do   dùng   tưởng   tu  tập   nên   có   thần thông mà tâm dục chưa diệt, ác pháp chưa trừ,  nên  dễ  sa ngã  trong nữ  sắc,  danh,  lợi thế  gian, v.v...   Do sa ngã  nữ  sắc,  danh  lợi  thế gian, nên thần thông mất dần.
Vì  vậy,  có  nhiều  vị  Giáo  chủ  mới  xuống  núi, thanh  sắc  đầy  đủ,  uy nghi  chánh  hạnh  nghiêm trang khiến cho mọi người ai cũng kính  nể, lại có thần thông kêu mây hú gió, sai binh khiển tướng, sái đậu thành binh, tàng hình biến hóa, đi trên nước  lửa  như  đi  trên  đất  bằng,  ngồi   trên   hư không  như  thuyền  nổi  trên  nước,  đi  xuyên  qua


vách đá,  chôn  dưới  đất  mà vẫn  sống,  đi trong hư không như  chim bay, v.v...
Những   hành   động   trên   đã   khiến   cho  mọi người kính  trọng, đem dâng cúng của cải, tài sản và  ngay cả  sắc  đẹp,  không  có  vật  gì mà  họ  tiếc. Thử hỏi, thần thông như vậy để làm gì, có ích lợi gì cho loài người đâu? Chỉ là một trò ảo thuật cho người  ta  xem  chơi,  để  cám  dỗ  những  người  nhẹ dạ, ham mê thần thông, chớ không thể lường gạt những người đệ tử Phật chơn chánh được.
Những  hành động lừa  đảo gạt người,  như một vị  Đạo sư chỉ  dùng  một  tờ  báo  nấu  sôi  một  nồi nước, đã làm cho mọi người kính  nể. Nấu sôi một nồi nước bằng một tờ báo thì có ích lợi gì cho con người ở thế gian? Vậy mà những người vô minh đều  kính  phục.  Các  vị giáo  chủ  loại  này  tâm  dục chưa trừ, ác pháp chưa diệt, nên khi thấy của cải, tài  sản,  sắc  đẹp  thì ham  thích,  nên  lần  lần  sa ngã và thần thông tưởng tiêu mất. Cho nên thỉnh thoảng,  trên  báo  Công  An phát  giác  ra đăng  tin, vị giáo chủ này, vị giáo chủ kia, ông đạo này, ông đạo kia làm chuyện lừa đảo tín đồ nhẹ dạ.
Ngược  lại,  thần  thông  của  đạo  Phật  không  do tu  tưởng  mà  có,  chỉ  dùng  Pháp  Hướng  Như  Lý Tác  Ý  của  đạo  tác  ý   để  ly dục,  ly ác  pháp,  diệt ngã  xả  tâm,  đoạn  dứt  tâm  tham,  sân,  si,  mạn, nghi, diệt sạch thất kiết sử. Do tu tập đoạn dứt những điều này mà tâm được thanh tịnh. Nhưng phải   biết  rõ,   muốn  dùng  pháp  hướng  tâm Như   Lý  Tác  Ý  có  hiệu  quả,  thì phải  sống



đúng giới luật, lấy giới luật phòng hộ sáu căn, sống  đời  sống  thiểu  dục  tri túc,  oai nghi  tế  hạnh hẳn  hòi,  đi  đứng  trang  nghiêm,  đức  hạnh  trọn vẹn, không hề sai sót một lỗi nhỏ.
Thần  thông  của  đạo  Phật  là  thần  thông  vô dục, vô ác pháp. Người tu sĩ đạo Phật phải biết rõ vô  dục,  vô  ác  pháp,  và  nhờ  có  giới  luật  mới  diệt trừ được dục và ác pháp. Trong kinh Ước Nguyện, Phật dạy: “Nếu Tỳ kheo có ước nguyện: Mong rằng ta chứng được các loại thần thông, một thân ta hiện ra nhiều thân, nhiều thân ta hiện  ra một  thân,  ta hiện  hình tất  cả  các loài vật, biến hình đi ngang  qua vách qua thành,   qua   núi  đá  như   đi  ngang   qua   hư không;  ta độn  thổ  trồi  lên  ngang   qua  đất liền như  ở  trong nước; ta đi trên nước không chìm  như  trên  đất  liền,  ta ngồi  kiết  già  đi trên  hư  không  như  con chim;  với  bàn  tay ta chạm  và  rờ  mặt  trăng  và  mặt  trời,  những vật  có  đại  oai  lực,  đại  oai  thần,  thân  ta có thần  thông  bay đến Phạm  thiên.  Muốn  được vậy, Tỳ kheo hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng   hộ   của   giới   bổn,   đầy   đủ   oai   nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ  nhặt,  chân  chánh  lãnh  thọ  và  tu học các học giới”.
Qua bài kinh Ước Nguyện, nếu ta muốn thành tựu những gì mà mình  mong muốn, thì phải thực hiện tu tập và sống đúng giới luật. Đó là một nền


tảng vững chắc của đạo Phật, một nền tảng đạo đức  thật  sự  của  loài  người.  Nếu  ai  bỏ  nền  tảng đạo đức vững chắc này mà tu tập, dù có tu đúng thiền định của đạo Phật cũng trở thành tà thiền, tà  định.  Tại  sao vậy?  Tại  vì  khi lìa  khỏi  pháp môn căn bản của đạo Phật, tức là giới luật (pháp môn  đầu  tiên  trong  ba pháp  môn  vô  lậu  “Giới, Định, Tuệ”)  thì người  đó  dù  có  tu  theo  đạo  Phật, nhưng thực tế vẫn là tu tà đạo.
Bởi vậy, chỉ cần nhìn  các tu sĩ Phật giáo hiện giờ là biết Phật giáo suy hay thịnh, mất hay còn. Thịnh không phải do số tu sĩ Phật giáo đông, không phải ở chỗ Phật giáo được chấp nhận là quốc  giáo,  không  phải  Giáo  Hội  Phật  Giáo  được tổ  chức  như  một  quốc  gia có  tổ  chức  hẳn  hòi,  có các  trường  học  từ  Sơ, Trung,  Cao đẳng  để  tu  sĩ học tập có cấp bằng Cử nhân, Tiến sĩ, v.v... Phật giáo thịnh không phải ở chỗ xây cất chùa to tháp lớn, kiến trúc kiên cố vĩ đại, mà ở chỗ tu sĩ phải sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng  hộ  sáu  căn  với  sự  phòng  hộ  giới  bổn,  đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt. Nói tóm lại,  vị Tỳ kheo phải giữ gìn giới luật nghiêm túc, thì Phật giáo mới còn và hưng thịnh, còn chúng Tỳ kheo phá giới thì Phật giáo mất và không hưng thịnh.
Lời  di  chúc  năm  xưa của  đức  Phật  còn  vang mãi  trong  tai chúng  ta:  “Giới  luật còn là Phật giáo  còn,  giới  luật  mất  là  Phật  giáo  mất”. Hỡi quý vị tăng, ni và cư sĩ! Quý vị có muốn Phật giáo trường tồn với loài người trên hành tinh này


chăng? Hay là để cho Phật giáo mai một suy tàn, chìm mất trong lớp bụi mù dày đặc của tà pháp ngoại đạo (Đại thừa) đang phủ trùm che khắp các nơi?
Nếu muốn Phật giáo được trường tồn và hưng thịnh mãi mãi, đem lại hạnh phúc an vui cho loài người và mọi người trên hành tinh này, để không còn làm khổ mình,  khổ người nữa, thì người cư sĩ, đệ tử Phật tại gia, hãy giữ gìn giới luật của người cư sĩ  mà  đức  Phật  đã  dạy,  phải  nghiêm  túc  khi thọ  Tam Quy, Ngũ  Giới  và  Thập  Thiện,  phải  lấy nó  phòng  hộ  cuộc  sống  của  mình,  giữ  gìn đầy  đủ oai  nghi  chánh  hạnh,  thấy  sự  nguy  hiểm  trong các   lỗi   nhỏ   nhặt,   không   làm   khổ   mình,   khổ người, thì Phật giáo sẽ còn với quý vị, với loài người trên hành tinh này.
Còn  Tỳ  kheo tăng  và  Tỳ  kheo ni,  đệ  tử  xuất gia   của   đức   Phật,   nếu   muốn   Phật   giáo   được trường tồn làm ngọn đuốc sáng soi đường đạo đức cho  mọi  người  trên  quả  địa  cầu  này,  và  để  có hướng  đi  tìm chân  lý  giải  thoát,  thoát  khỏi  kiếp sống  khổ  đau của  loài  người,  thì chính  ngay bản thân của quý vị phải nghiêm trì giới luật. Quý vị có muốn làm chủ bốn sự khổ đau sanh, lão, bịnh, tử đang tấn công quý vị hằng giây, hằng phút không?  Nếu  quý  vị  lơ  đễnh  thì ô  hô,  uổng  một kiếp người!
Nếu muốn làm chủ bốn sự khổ đau này thì quý vị đã thọ cụ túc giới phải nghiêm chỉnh sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, không được bẻ vụn


giới, sống phá giới. Quý vị hãy bỏ xuống những gì của các Tổ, mà phải trở lại sống đúng như Phật, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và tu học các học giới.






ĐÃ HỌC GIỚI LUẬT MÀ CÒN VI PHẠM


Hỏi: Con nghe nói, người học giới luật mà còn phạm là có tội. Như vậy, những người đã được về đây tu học với Thầy, gặp được Minh Sư và chánh pháp  mà  còn  ra  đi,  có  người  tiếp  tục  tu pháp Giới,  Định,  Tuệ,  có  người  kèm  theo  vô  vi,  có người  kèm  thêm  Yoga... vậy  họ  có  tội  gì không? Và nhân ấy dẫn họ đến quả báo gì trong hiện tại và  tương lai?  Con kính  mong  Thầy  từ  bi  giảng giải cho chúng con được  thấu đáo.
Đáp: Người học giới luật mà phạm giới luật, hiện  tại  họ  là  trùng  trong  lông  sư tử.  Tuy họ  cố gắng  che đậy,  nhưng  cuối  cùng  họ  vẫn  để  lộ  tẩy, làm  cho người  khác  rõ  và  không  còn  tin tưởng. Phạm giới luật tùy theo tội chủng của giới luật,   người   này   phải   đọa   vào   cảnh   khổ, nhiều kiếp phải làm thân chúng sanh.


Tu theo Giới, Định, Tuệ của Phật mà còn kèm theo các pháp môn của ngoại đạo thì có nhiều tai hại:
1- Sự tu hành của họ chẳng tới đâu, họ đã làm mất chủng tử giải thoát, dù tu ngàn kiếp cũng chỉ thành ma thiền.
2-  Đó  là  tu  hành  không  chân  chính,  khiến Phật  giáo  mang  tiếng  xấu.  Người  tu  như  vậy  là phỉ  báng  Phật  pháp,  làm  cho  người  khác  mất niềm tin, tội ấy sẽ đọa Địa Ngục (luôn sanh trong cảnh đói khổ). Muôn kiếp khó làm người thiện (mất chánh pháp.)
3- Tu như vậy trong hiện kiếp đều gặt lấy quả bất trí, bị người khác khinh chê.
4- Tu như  vậy,  dù  tu  mãi  cũng  không  có  kết quả,  nên  trong  hiện  tại  người  khác  thấy  rõ  sẽ khinh  chê,  và  kiếp  sau sanh làm  người  u tối,  mê muội.
5- Tu như vậy con người ương ương, gàn gàn, sống  bất  an và  hoàn  cảnh  bất  an trong  hiện  tại và muôn kiếp.






HỦY BỎ NHỮNG HỌC GIỚI NHỎ NHẶT


Hỏi:  Trong   kinh  “Đại  Bát  Niết  Bàn”,  Phật dạy: “Này Ananda,  nếu chúng tăng muốn, sau khi Ta  diệt  độ,  có  thể  hủy  bỏ  những  học  giới  nhỏ nhặt chi tiết”. Nhưng  đọc hai tập “Giới Đức Làm Người”  của  Thầy,  dù  với  những  giới  nếu  phạm thì “tội  nhẹ”,  con không  thấy  giới  nào  “nhỏ  nhặt và chi tiết”. Vậy thế nào là “những học giới nhỏ nhặt chi tiết?”
Đáp: Lời dạy này là của các Tổ sau này đặt ra và  xen vào kinh Phật, để mạo nhận Phật dạy  bỏ các  giới  nhỏ  nhặt,  để  khi các  vị  phạm  giới,  phá giới thì bảo đó là những giới nhỏ nhặt thì tín đồ không phê phán được. Ý đồ của các Tổ là dẹp bỏ giới  luật  của  Phật,  nhưng  không  dẹp  được,  nên phải tổ chức theo kiểu vết dầu loang, để lần lượt phá sạch giới luật của Phật. Bằng chứng hiện giờ quý vị đi tìm một  vị tu  sĩ giới  luật  nghiêm  chỉnh không bao giờ có.
Giới  luật  Phật  giúp  cho  con  người  sống có   đạo   đức,   như   vậy   thì  có   giới   nào   là không hợp thời? Thì còn có giới luật nào mà lại bỏ được?  Giới  luật giúp cho tâm chúng ta  ly dục,  ly ác  pháp,  nhờ  thế  mà  tâm  không  phóng dật. Tâm không phóng dật tức là thiền định, chứ


không phải thiền định theo kiểu ngồi không vọng tưởng.
Giới  luật  giúp  ta  nhập  các  định  và  thực  hiện Tam Minh một cách dễ dàng, không có mệt nhọc, không  có  khó  khăn,  như vậy  thì có  giới  luật  nào nhỏ nhặt mà bỏ được.
Thời  nay,  người  ta  tu  thiền  và  Tịnh  Độ  mà giới  luật  thì dẹp  qua một  bên,  vì  thế,  tu  từ  đời này  sang đời  khác  mà  chẳng  ra gì,  chỉ  có  hình thức tu, chứ có giải thoát được gì đâu. Các Tổ còn dựng  lên  câu  chuyện  Ông  Ca Diếp  và  ông  Phú Lâu  Na tranh chấp  về  việc  bỏ  các  giới  nhỏ  nhặt, để hạ bệ các vị đại đệ tử A La Hán của đức Phật, rằng chứng quả A La Hán vẫn chưa có giải thoát vì tư tưởng bất đồng. Đó là mưu đồ diệt Phật giáo sâu sắc nhất của các giáo sĩ Bà La Môn.
Câu chuyện trên xảy ra sau khi đám tang đức Phật xong, ông Ca Diếp và ông Phú Lâu Na bất đồng ý  kiến về việc bỏ những giới  nhỏ nhặt, ông Ca Diếp  nhất  định  không  bỏ  giới  nhỏ  nhặt  nào cả, vì ông A Nan không hỏi Phật giới nào bỏ, giới nào lấy.
Ông Phú Lâu Na chấp nhận bỏ tất cả  các giới nhỏ nhặt, hai người tranh cãi nhau.
Câu chuyện trên đây thật là vô lý, vì:

1/ Hai vị A La Hán này đều do Giới luật mà thành quả A La Hán (Giới luật là mẹ sinh ra các vị A La Hán).
2/ Những  vị  A La  Hán  lậu  hoặc  đã  diệt  sạch thì không có lý do bất đồng ý  kiến.


3/ Các vị A La Hán đều có đầy đủ Tam Minh, sao không vào Niết Bàn hỏi Phật bỏ giới nào, lấy giới nào?
Câu  chuyện  trên  do các  nhà  Đại  thừa  đã  bịa đặt để phá giới luật của Phật, và  để hạ bệ các vị đệ tử của Phật. Thật là một âm mưu sâu độc.
Tóm lại, tất cả giới luật của Phật dù lớn hay nhỏ, dù khinh hay trọng, dù hợp thời hay không hợp thời, đều không được bỏ một giới luật nào cả. Giới  luật  là  người  Thầy  dẫn  đường  đưa  lối cho chúng ta đi đúng lộ trình giải thoát của đạo  Phật,  ngoài  giới  luật  ra không  có  một  vị Thầy  nào  dẫn  đường  đưa lối  cho chúng  ta  đến đích được. Vả lại giới luật còn là Phật pháp còn, giới  luật  mất  là  Phật  pháp  mất.  Thời  đại  này được xem như Phật pháp đã mất vì các thầy đã phạm giới và phá giới.






CHUYỆN CÁC TU SĨ PHÁ GIỚI


Hỏi:  Kính  bạch  Thầy,  để  lý  giải  cho sự  thay đổi về giới, những câu chuyện như:
1- Có  vị  Tỳ  kheo đi khất  thực  bị  xỉu  vì  đói, sau đó  Phật  cho phép  Tỳ  kheo  có  thể  ăn  nhẹ,


uống  sữa  buổi  sáng  để  có  sức  trước  khi  đi khất thực.
2- Vị Tỳ kheo bị cọp đuổi, vì sợ phạm giới leo cây,  bị  cọp  giết.  Sau đó  Phật  chế  lại  giới  cho leo cây khi hữu sự.
3- Có một Quốc độ nam ngồi tiểu bị chế nhạo là nữ. Các Tỳ kheo về bạch Phật và được dạy “thì đứng tiểu vậy”. Phải chăng đây là những câu chuyện bịa đặt, để biện hộ cho việc thay đổi giới luật,   cho  hợp   hoàn   cảnh   không   gian   và   thời gian....?
Đáp: Ba câu chuyện trên do các Tổ đặt ra, nhằm  mục  đích  phá  giới  luật  đạo  đức  nhân  bản của Phật.
1-  Câu  chuyện  thứ  nhất,  một  vị  Tỳ  kheo  đi khất  thực  xỉu  vì  ăn  cơm  ngọ,  do  ăn  cơm  ngọ không đủ sức khỏe. Nếu tại Tu Viện chưa có ai ăn cơm ngọ thì nghe câu chuyện này ai cũng tin rằng đúng,  nhưng  vì ở  đây  ăn  cơm ngọ  và  lao  tác  mà vẫn thấy bình  thường, không có mệt nhọc, không có ai xỉu, nên mới biết câu chuyện này là câu chuyện  bịa  đặt  ra,  để  chạy  theo  ăn  uống  giống như  người  thế  gian.  Các  Tổ  vì  còn  tham  ăn  mới đặt ra câu chuyện này.
Trong  kinh Nguyên  Thủy,  Phật  dạy:  “Thừa tự  Pháp  chứ  không  thừa  tự  thực  phẩm”.  Có hai vị Tỳ kheo ở xa đến để gặp Phật, đến nơi thì đã  quá  giờ  thọ  trai, một  vị  thì nhất  định  không ăn,  còn  một  vị thì ăn  những  đồ  ăn  thừa  còn  lại. Khi gặp  Phật,  Phật  chê  trách  vị  Tỳ  kheo  còn


tham  ăn,  và  ca ngợi  tán  thán  vị Tỳ  kheo giữ  gìn giới  luật  nghiêm  chỉnh.  Chính  nhờ  giữ  gìn  giới luật  nghiêm  túc mà  vị Tỳ  kheo này  đã  ly dục,  ly ác  pháp  và  chứng  quả  A La Hán, còn  vị Tỳ  kheo tham  ăn  kia, tu  hành  không  ly dục,  ly ác  pháp, nên tu hành không biết bao giờ mới xong.
Giới  không  ăn  phi  thời  là  một  Thánh  hạnh của một bậc Thánh, người ăn uống phi thời mà muốn  làm  Thánh  tăng  sao được.  Thấy  cách  sống mà  biết  Thánh  hay  phàm,  bởi  vì  giới  luật  của Phật là đạo đức làm người, làm Thánh. Ai sống đúng  giới  luật  của  Phật  là  Thánh,  là  Hiền.  Sống như phàm phu tục tử, tham ăn mà đặt điều ra để chạy  theo  dục  lạc  thế  gian,  những  vị  Tổ  này không đáng cho ta đầu đội, vai mang.
2- Câu chuyện thứ hai,  vị Tỳ kheo bị cọp đuổi sợ trèo lên cây sẽ phạm giới Phật cấm Tỳ kheo không được trèo cây. Giới luật này chúng ta phải hiểu, đức Phật cấm trèo cây tức là dùng tay chân ôm cây trèo lên giống như một con thú (loài khỉ vượn).  Giới  luật  Phật  muốn  dạy  con người  thoát ra khỏi bản chất loài cầm thú, vì thế mới cấm đệ tử  của  mình  trèo  cây,  không  riêng  cho tu  sĩ  mà ngay  cả  cư sĩ,  vì  100 giới  chúng  học  là  100 giới đức  làm  người.  Vì  thế,  một  con người  không  thể là một con thú vật được. Theo như đức Phật dạy, những giới luật này để tránh hành động vô tình biến mình  thành loài thú vật.
Muốn trèo cây hoặc lên từng gác, lầu, đều phải dùng  thang,  ghế,  để  hành  động  trèo  cây  lên  lầu,


xuống  lầu  mà không  phạm giới,  không  trở  thành loài thú vật.
Muốn  hái  trái  xoài,  trái  mít thì đừng  ôm  cây trèo lên mà hãy bắc ghế, thang
- Thứ nhất là không nguy hiểm.

- Thứ hai là trèo cây mà không giống như loài thú vật.
Giới  này  chế  ra có  hai  mục  đích giáo  dục  đạo đức  làm  người,  khiến  cho người  ta  không  xảy  ra tai nạn,  vì tai nạn  xảy  ra  sẽ  làm  khổ  mình  khổ người và thoát ra khỏi hành động còn mang bản chất của loài thú vật.
Các  Tổ  không  hiểu,  cho đó  là  những  giới  nhỏ nhặt, nên xem thường, vì thế đặt ra câu hỏi: vì sợ phạm  giới  trèo  cây  nên  bị  cọp  giết,  nhờ  đó  đức Phật chế lại giới này, cho phép Tỳ kheo trèo cây. Câu  chuyện  này  hết  sức  vô  lý,  là  vì  giới  là  đức hạnh làm người, làm Thánh thì đâu có giới nào là nhỏ nhặt, giới nào cũng đáng cho con người của chúng  ta  phải  học  và  sống  đúng,  để  không  làm khổ mình  khổ người, để ly dục ly ác pháp, để tâm hồn  được  thanh  thản,  an  lạc  và  vô  sự,  để  nhập thiền định, để làm chủ sự sống  chết  và luân hồi. Giới luật là vô giá như vậy, thế mà các Tổ không  hiểu,  nên  lúc  nào  cũng  tìm cách  bỏ ra,  để  tự  do  phóng  dật  theo  dục  lạc  thế gian.
Tóm lại, những câu chuyện trên đây là một sự bịa đặt ra của các Tổ, ngõ hầu diệt nền đạo đức nhân bản của Phật giáo.


3-  Câu  chuyện  thứ  ba,  có  một  Quốc  độ  nam ngồi tiểu, bị chế nhạo là nữ nên Phật chế giới lại cho đứng tiểu.
Đặt ra câu chuyện này, thứ nhất là các Tổ không hiểu Giới luật là đức hạnh làm người làm Thánh, giới luật là thiện pháp để diệt ác pháp, chuyển quả khổ thành phước báo an vui, giới luật là thiền định để có đủ năng lực làm chủ được sự sống chết và luân hồi. Thứ hai là xem thường đức Phật như một người tầm thường, chế giới luật mà cứ sửa đi sửa lại như vậy thì làm sao gọi là Phật được? Phật là người có trí tuệ, thì không thể nào chế  giới  luật  giống  như  người  thế  gian,  đặt  ra pháp luật mà cứ sửa tới sửa lui mãi. Làm như vậy là họ đã biến đức Phật thành người vô minh, không  trí tuệ,  còn  các  Tổ  là  người  minh,  người sáng   suốt,   biết   bỏ   những   giới   luật   nhỏ   nhặt không hợp thời để biến đạo Phật hợp thời đại.
Các  Tổ  muốn  cho đạo  Phật  hợp  thời  đại  nên đã làm cho đạo Phật bị thế tục hóa, hậu quả là người tu sĩ Phật giáo tu mãi thành người giàu có, thành người có quyền uy thế lực; tai hại hơn nữa là  các  tu  sĩ  dần  dần  phạm  giới,  và   con  đường chân chánh tu tập của Phật giáo đã trở thành con đường tà giáo, ngoại đạo. Khi giới luật bị ném ra khỏi cổng chùa, người tu sĩ chỉ còn danh và lợi, sự giải thoát khó mà tìm thấy được!...



THIẾU KINH NGHIỆM TU HÀNH KHÔNG THỂ HIỂU KINH SÁCH


Hỏi: Kính  bạch Thầy, hiện có nhiều học giả, nên  cũng  có  nhiều  sự  giải  thích khác  nhau,  đôi khi trái ngược, về các khái niệm.
1-  Về  ba  uẩn:   Tưởng,   hành  và  thức,   kính mong Thầy giải thích và cho ví dụ để con hiểu rõ hơn.
2- Tại sao trong kinh “Đáng Được Ăn”, Tương
Ưng III, trang 161 dạy:

Tưởng chỉ là sự nhận rõ các màu sắc.

Thức chỉ là sự rõ biết các vị chua đắng ngọt cay...?
3- Thế nào là Tầm? Thế nào là Tứ? Xin Thầy cho ví dụ.
Đáp:  Trong  Thân  ngũ  uẩn  có:  sắc  uẩn,  thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.
Trong câu hỏi của con chỉ hỏi tưởng uẩn, hành uẩn và  thức uẩn, mà không có hỏi sắc uẩn và thọ uẩn.
Người  ta  không  nhận  ra trong  thân  ngũ  uẩn có ba cái thức làm việc, ba cái thức đó có tên là:
1/ Sắc  thức.  Sắc  thức  gồm  có  sáu  thức:  nhãn, nhĩ,  tỷ,  thiệt,  thân  và   ý  thức.  Chúng  hoạt  động


và cảm nhận (tức là hành uẩn và thọ uẩn) lúc con người đang tỉnh thức và làm việc qua sắc uẩn.
2/ Tưởng thức hoạt động và cảm nhận (hành uẩn và thọ uẩn) qua tưởng uẩn trong giấc ngủ (chiêm bao).
3/  Thức  thức  hay  còn  gọi  là  tâm  thức,  hoạt động  và   cảm  nhận  (hành  uẩn  và   thọ  uẩn)  qua thức uẩn. Muốn cho tâm thức hoạt động và cảm nhận  thì phải  nhập  xong  bốn  thiền:  Sơ Thiền, Nhị  Thiền,  Tam  Thiền  và   Tứ  Thiền,  trong  khi nhập  xong Tứ  Thiền  thì sắc  thức  và  tưởng  thức đã ngưng nghỉ, nhường chỗ cho tâm thức hoạt động, vì thế lúc bấy giờ Tam Minh chúng ta mới thực hiện được. Nếu sắc thức và tưởng thức chưa ngưng nghỉ thì tâm thức không bao giờ hoạt động được, và vì vậy sự tu hành của ngoại đạo chưa bao giờ thực hiện được Tam Minh.
Còn hành uẩn và thọ uẩn là những sự hoạt động và cảm nhận của ba thức này mà thôi.
Trên đây là nhiệm vụ của năm uẩn hoạt động trong  thân  ngũ  uẩn, tức là  sự  hoạt  động  của  một con người có tu tập theo đường lối của đạo Phật nhập bốn thiền và thực hiện Tam Minh.
Còn người chưa tu tập bốn thiền và Tam Minh thì tâm thức của họ đang nghỉ ngơi chưa hoạt động.





HẠT CƠM  ĐÀN NA NẶNG NHƯ  NÚI


Hỏi:  Kính  bạch  Thầy,  nghe nói  trong đời  tu mà cứ thọ nhận ngày càng nhiều của Thầy, Tổ, của  đàn  na thí chủ,  mà  không  tu được,  kiếp  sau làm thân trâu ngựa trả nợ. Vì vậy, trên quá trình tu tập,  hễ  tâm  bất  an  là  nó  hay  luận  theo  như vậy rồi bỏ cuộc, về tự làm tự tu, rồi kết quả sự tu sẽ  đi đến đâu? Làm sao thắng được tư tưởng này? Con kính  xin Thầy từ bi chỉ dạy.
Đáp:  Câu  nói  “Ăn  của  đàn  na thí chủ  mà  tu không  giải  thoát  thì phải  vay quả  làm  thân  trâu ngựa để trả nợ”, nhằm mục đích khiến cho chúng ta  sợ  mà  ráng  tu  hành,  chớ  không  phải  có  thật như vậy.
Nếu chúng ta không gieo nhân cúng dường cho những  bậc tu hành thì ngày  nay làm  gì chúng  ta có  người  cúng  dường  ăn  để  sống  tu  hành.  Nhân thì phải  có  quả.  Thấy  quả  biết  được  nhân.  Quả của  chúng  ta  đang  được  ngồi  không,  ăn  mà  tu hành, thì biết nhân đời trước chúng ta đã có cúng dường cho người tu. Chúng ta tu có kết quả hay không kết quả là do chúng ta có duyên với chánh pháp  hay  không,  chớ  không  phải  ở  chỗ  thọ  của đàn  na thí chủ  hay Thầy,  Tổ.  Hai  nhân  quả  này khác nhau.


Đứng  trên  góc độ nhân  quả mà  nói,  ngày  nay ta ngồi không thọ dụng  của  đàn  na thí chủ để tu hành,  thì trước  kia ta  đã  từng  cúng  dường  thầy, tổ  và  các  bậc  tu  hành.  Cũng  trên  góc  độ  nhân quả, ta tu chứng hay không tu chứng là do duyên tiền kiếp có gieo với chánh pháp hay tà pháp mà thôi. Trong  lịch sử tu hành của Phật và  các vị Tỳ kheo, không có ai tự làm tự tu mà có kết quả giải thoát  được,  chỉ  là  một  thứ  đạo  yểm  ly cuộc  sống. Tự làm  tự tu kết  quả sẽ  chẳng  đi đến  đâu. Muốn thắng tư tưởng này cần phải hiểu rõ nhân quả.






NHÂN ÁC


Hỏi:  Kính  thưa Thầy,  lúc  sống  không  tu tập đạo đức nhân quả, không tạo phước báo sau này, toàn sống theo lối thương trường, không quân tử nhất  ngôn  mà  lật  lọng  (nay nói  thế  này  mai  nói thế  khác).  Lúc  nào  cũng  muốn  hơn  người,  xem mọi  người  dưới  tầm  tay, tầm  mắt  của  mình,  chỉ có mình  là đúng, là giàu có, là quyền uy thế lực, còn thiên hạ chẳng có ai ra gì. Họ sống như  vậy, hậu quả như thế nào, xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Người đang sống không lo tu tập đạo đức nhân  quả,  không  lo  tạo  phước  báo  sau này,  toàn sống  trong  các  pháp  ác,  tạo  ra những  nhân  ác


khiến  cho những  người  ở  chung quanh mình  chịu gian nan, khổ đau, thì hậu quả ấy không thể nào tránh  khỏi  tai ương,  khổ  nạn,  không  những  ở hiện tại mà còn kéo dài mãi ở kiếp sau.
Hiện  tại  qua tức  là  ngày  đã  qua (quá  khứ),  vì vậy, đối với những người đang giàu có, tỷ phú và có đầy đủ uy quyền thế lực, nhưng  luật nhân quả không  tha  cho kẻ  làm  ác, dù họ  có uy quyền  như vua  chúa,  và   giàu  có  nhất  thế  gian  như  Thạch Sùng,  họ  vẫn  phải  chịu  những  khổ  đau, tai nạn, bịnh tật như những người khác.
Khi thiếu  phước  thì người  trong  gia đình  luôn luôn gặp điều phiền muộn, khổ sở, hết người này đến người khác, tai nạn này vừa xong thì tai họa khác  lại  đến,  có  khi đến  cả  hai  (phước  bất  trùng lai, họa vô đơn chí). Mới nhìn  vào bề ngoài tưởng họ sống  hạnh phúc lắm, nào ngờ bên  trong  là cả mọât  Địa Ngục  đau khổ.  Nhưng  vì  vô  minh,  họ tưởng  họ  là  người   có  hạnh  phúc  hơn  hết,  uy quyền thế lực hơn ai hết, giàu có hơn ai hết, v.v...
Vô minh đã che mất, khiến họ không thấy, và cho cuộc sống của họ như thế là chơn hạnh phúc, (giàu sang và uy quyền nhất thế gian). Sống như thế  là  hạnh  phúc  giả  tạo.  Họ  như  những  con thiêu  thân,  thấy  ánh  sáng  ngọn  đèn  vật  chất  là bu vào để mà chịu khổ, chịu chết; như những con chó  ngu bỏ  mồi  bắt  bóng.  Họ  cứ  tưởng  họ  là  kẻ trên  hết,  nhưng  không  ngờ,  họ  là  người  ti tiện, nhỏ  mọn,  ích  kỷ,  sống  chỉ  biết  có  mình,  chẳng còn biết ai nữa hết.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!