Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN BIẾT-TẬP 2-2


Bởi  vậy,  người  tín đồ  Phật  giáo  phải  tin vào đạo  đức  nhân  quả  làm  người,  không  làm  khổ mình  khổ  người,  là  một  điều  lợi  ích rất  lớn,  hãy dẹp  bỏ  lòng  tham  vọng,  ích  kỷ   nhỏ  mọn  của mình,   những  mơ  ước  thiếu  thực  tế,  hãy  tự  lực sống  đúng  đạo  đức  nhân  quả  là  đã  thấy  hạnh phúc  ngay  liền,  bỏ  những  sự  cầu  cạnh  tha  lực, nương tựa  vào  thần  quyền,  đó  là  những  hy  vọng mơ tưởng hão huyền, đừng tin và làm theo những điều phi đạo đức nhân quả mà trong thế giới siêu hình  tưởng  thường  bày  vẽ  ra,  thì tệ  nạn  mê  tín trong xã hội sẽ được đẩy lui ngay tức khắc.
Giáo lý của đạo Phật có những tiêu chuẩn đã được xác định:
1- Đạo đức nhân bản.

2- Không có thế giới siêu hình.

3- Người chết thì năm uẩn tan hoại tất cả, chỉ còn lại nghiệp lực thiện, ác nhân quả tiếp tục tái sanh.
4- Pháp môn tu tập của đạo Phật duy nhất chỉ có Giới, Định, Tuệ.
5- Ngoài  Giới,  Định, Tuệ  thì không  phải  giáo pháp của đức Phật nữa.
6-  Giới,  Định,  Tuệ  là  chỉ  cho  một  tâm  duy nhất của ba trạng thái kết hợp tạo thành một nguồn sống giải thoát, chứ không phải ba pháp:
- Giới là đạo đức nhân bản - nhân quả.

- Định là tỉnh giác.

- Tuệ là sự hiểu biết.


Ba vấn đề này gom chung vào một tâm, nếu tâm có hiểu biết tỉnh giác trong đạo đức nhân bản - nhân quả, thì tâm liền có giải thoát.
Đó  là  một  vấn  đề  (giới,  định,  tuệ)  duy  nhất của  đạo  Phật,  giúp  cho con người  vượt  qua khổ đau của kiếp làm người, ngoài vấn đề này thì không có giáo pháp nào của đức Phật dạy cầu tha lực cả. Nếu có giáo pháp cầu tha lực là giáo pháp của  ngoại  đạo,  đó là  một  sự xác  định  nghiêm  túc của đạo Phật.
Đạo Phật  cấm  kỵ nhất  là  thần  thông  và  thế giới siêu hình,  thần thông đạo Phật cho là huyễn hóa,  thế  giới  siêu  hình  đạo  Phật  cho là  thế  giới ảo tưởng.
Thần   thông   và   thế   giới   siêu   hình   là   hai phương  tiện  dùng  để  lừa  đảo,  gây  sự  mê  tín, dị đoan trong  lòng  người,  khiến  cho người  ta  đi  vào tội lỗi. Bởi vậy, những người hiểu biết cần phải triệt tiêu và quét sạch nó trên hành tinh này.
Người ta gán cho đạo Phật có nhiều pháp môn từ thấp đến cao, để tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà tu tập, đó là lối biện luận lừa đảo của những người mạo danh Phật giáo.
Ngoài Bát Chánh Đạo để thực hiện giới, định, tuệ  thì không  còn  pháp  môn  nào  được  gọi  là  của đạo Phật nữa, đừng đem những tà pháp mê tín dị đoan mà gán cho đạo Phật, đó là một việc làm tội lỗi đối với con người trên hành tinh này.


Khi quý vị đã rõ thấu giáo pháp của đức Phật là  giới,  định,  tuệ,  thì bất  cứ  một  ngôi  chùa  nào mà  dạy  khác pháp  môn  giới,  định, tuệ thì quý vị không chấp nhận, không nghe theo, không cúng dường, không đến chùa đó nữa, không thọ nhận hoặc tu tập theo giáo pháp ngoại lai đó.
Từ  khi đức  Phật  tịch,  giáo  đoàn  Phật  giáo  bị phân  hóa  chia  thành  nhiều  bộ  phái  do những  vị tu sĩ lãnh đạo tham danh đắm lợi. Các Ngài đưa vào những giáo pháp của ngoại đạo để lừa đảo tín đồ Phật giáo. Do đó mới có những kinh sách dạy cầu  siêu,  cầu  an, xin  xăm,  bói  quẻ,  xem ngày  giờ tốt, xấu, cúng sao, giải hạn, lên đồng, nhập xác... làm  đủ mọi điều mê  tín, dị đoan, nó được xem là một  hiểm  họa  rất  lớn,  một  tệ  nạn  xã  hội.  Các chùa đang hành những nghề nghiệp này là đã tạo một gánh nặng cho xã hội loài người.
Muốn đẩy lùi những tệ nạn này, thì trong các chùa quý Thầy trụ trì phải đình  chỉ ngay liền những  nghề  nghiệp  lừa  đảo,  phi  đạo  đức  này  thì tệ  nạn  mê  tín, dị  đoan sẽ  được  chấm  dứt.  Đó  là dứt trừ tận gốc phát sanh ra nó.
Muốn  đẩy  lùi  tệ  nạn  này  thì quý  vị  cư  sĩ không  nên  tin và  không  làm  theo  những  giáo pháp  mê  tín, phi  đạo  đức  này  thì tệ  nạn  mê  tín, dị đoan sẽ được chấm dứt, bằng cách không đến những ngôi chùa có hành nghề như vậy và cũng không cúng dường cho các vị Tăng ở đây. Có như vậy mới có thể đẩy lùi và dẹp sạch những tà giáo


phi nhân quả này, giúp loài người thoát khỏi một gánh nặng khổ đau.



Hỏi: Kính  bạch Thầy! Câu chuyện Mục Liên, Thanh  Đề  có  phải  là  sự  báo  hiếu  của  đạo  Phật hay   không?   Báo   hiếu   như   vậy   có   đúng   hay không? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp:  Kinh  Vu  Lan  Bồn  là  kinh sách  phát triển  của  Đại  thừa,  xây  dựng  đạo  lý  của  mình trên  hình  thức  cứu  độ.  Kinh khéo  léo  dùng  tập thể cứu  độ  để  đánh  lừa  người  khác,  mạo  nhận  là Phật  dạy  để  không  ai  truy tìm sự  lừa  đảo  này được.
Như chúng ta đã biết, đức Phật đã từng dạy chúng ta: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi”. Giáo pháp của ngài được xây dựng trên nền tảng Đạo Đức Nhân Quả thì không có lý nào đức Phật lại  dạy  một  điều  phi  đạo  đức,  phi  nhân  quả  như vậy sao?
Chúng ta phải xem xét, coi lại những loại kinh sách phát triển này, chứ đừng vội tin.
Đạo đức  nhân  quả  là  một  thứ  đạo  đức  được xây dựng trên sự công bằng, công lý và bình đẳng với  một  trí tuệ  vô  hạn,  thấu  suốt  được  mỗi  hành động của con người làm thiện hay làm ác.
Vì  xây  dựng  tôn  giáo  của  mình  trên  một  nền đạo đức công lý, công bằng và bình  đẳng cho mọi người   như vậy, nên trên đầu Ngài chẳng có ai là Thầy  của  mình,   chẳng  có  ai  cứu  độ  cho  mình



được, chỉ có sức tự lực và trí tuệ của mình  mới cứu mình  thoát  ra cảnh  đau khổ  của  kiếp  làm  người, đang bị luân lưu trong vòng nhân qủa luân hồi.
Ngài  đã  tự  cứu  mình  bằng  những  giáo  pháp mà ngài tự tìm ra được. Giáo pháp đó là một thứ giáo  pháp  rất  thực  tế  và  cụ  thể,  mà  mỗi  pháp môn đều có cách thức tu tập trực tiếp đối trị lại từng  tâm  niệm  ác  và  sự  đau khổ  của  con người trong cuộc sống, để vượt thoát ra khỏi.
Một giáo pháp không có những hình  ảnh và lý sự  mơ  hồ,  trừu  tượng,  không  có  những  sự  cầu khẩn,  van  xin  cứu  độ;  không  có  cúng  bái,  tụng niệm và chú thuật, v.v...
Một giáo pháp không có thế giới siêu hình, không  có  linh hồn  người  chết,  không  có  đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, không có đấng Tạo Hóa, không  có  thần  linh và  cũng  không  có  ma,  quỷ, v.v...
Một  giáo  pháp  chỉ  dạy  cho chúng  ta  những  gì cần  dứt  bỏ  thì phải  dứt  bỏ,  những  gì cần  tu  tập thì phải  tu  tập,  những  gì  cần  trau  dồi  thì phải trau  dồi,  và  những  gì  cần  thông  hiểu  thì phải thông hiểu.
Người nghiên cứu và có thực hành giáo pháp của đức Phật thì không thể nào bị người khác lừa đảo bằng những pháp tà giáo, ngoại đạo. Chỉ có những  người  chưa từng  nghe  đến  giáo  pháp  của đức  Phật  thì dễ  bị  kẻ  khác  mạo  nhận  pháp  môn tà giáo là của Phật.


Vì giáo pháp của đạo Phật không có một  giáo pháp nào của ngoại đạo tương đồng được. Giáo pháp  của  Ngài  là  Giáo  pháp  “xả,  ly”,  với  một pháp  hướng  tâm  Như    Lý  Tác  Ý  tuyệt  vời,  với mục đích khiến cho tâm con người bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Giáo  pháp  của  Phật  chỉ  có  tự  lực  cứu  mình, còn  giáo  pháp  của  ngoại  đạo  thì nhờ  đến  tha  lực cứu  mình.  Do thế ta  nhận  ra giáo pháp  của  Phật một cách rất dễ dàng không có khó khăn, vì một bên là tự lực và một bên là tha lực.
Vì  thế,   câu   chuyện   Mục   Kiền   Liên   và   bà Thanh  Đề,  ta  thấy  rõ  đó  là  giáo  pháp  của  ngoại đạo  đang  lồng  trong  giáo  pháp  của  đạo  Phật, mượn  danh  đức Phật  để  lừa  gạt  tín đồ  Phật  giáo theo đạo của  mình  mà  không  nghi  ngờ,  đó là  cái khéo léo của Phật giáo phát triển.
Kinh sách  Phật  giáo  phát  triển,  người  ta  đọc rất hấp dẫn do sự diễn đạt qua hình  thức cấu kết giống như tiểu thuyết, giàu sức tưởng tượng theo kiểu thiền Đông Độ.
Mục Liên đi theo Phật tu hành chứng quả giải thoát, đắc lục thông. Mẹ là Thanh Đề, trước kia sùng kính  Phật pháp, cúng dường trai tăng tứ sự đầy  đủ,  sau khi Mục  Liên  bỏ  nhà  đi  tu,  bà  tức giận làm bánh nhân thịt chó để thử thách chúng tăng, nên bị tội đọa địa ngục ngạ qủy.
Mục Liên chứng đắc thần thông, dùng thiên nhãn  thấy  mẹ  mình  đang đọa  địa  ngục  ngạ  quỷ, đói  khát  vô  tận.  Thương  mẹ,  Ngài  dùng  thần


thông xuống địa ngục thăm và mang theo một bát cơm cho mẹ.  Thanh  Đề  đang đói  khát,  thấy  cơm bà đón nhận và bốc ăn liền, nhưng không thể ăn được, vì cơm đã cháy thành than.
Mục Liên thấy mẹ thọ lãnh qủa khổ đói khát như vậy, muốn ăn mà ăn chẳng được, chẳng biết làm cách nào cứu mẹ được, nên Ngài trở về bạch với  đức Phật  và  mong nhờ  đức  Phật  chỉ  giáo  cứu mẹ mình.
Đức Phật bày vẽ: “Trong  mùa an cư kiết hạ, chúng  tăng  đang  tu  học  thân,  tâm  thanh  tịnh, ngày rằm tháng bảy là ngày giải hạ, nên cung thỉnh  chư tăng  cúng  dường  trai phạn  tứ  sự,  nhờ công đức tu hành của các Ngài hợp lại thành một sức mạnh to lớn, với công đức này có thể mới cứu mẹ Ngài thoát cảnh địa ngục”.
Mục  Liên  vâng  lệnh  Phật  làm  y như  lời  dạy, mẹ Ngài thoát cảnh địa ngục.
Qua sự  tích  này  đã  biến  ngày  rằm  tháng  bảy trở  thành  một  phong  tục  trong  dân  gian,  ngày báo hiếu, ngày xá tội vong nhân, v.v...
Câu chuyện Mục Liên Thanh Đề là một câu chuyện phi đạo đức trong Phật giáo phát triển. Câu chuyện được dựng lên trong thời đại phong kiến,  lúc  vua quan  chuyên  ăn  hối  lộ,  mua  quan bán chức, làm những điều bất công, không công bằng, công lý.
Đạo Phật Nguyên Thủy chủ trương tự độ, không  cầu  tha lực  độ  mình. Cầu  tha lực  độ mình là giáo pháp của ngoại đạo, là của Phật


giáo phát triển như trên chúng tôi đã nói. Đó là một thứ giáo pháp phi đạo đức, phi nhân quả, không công bằng và công lý.
Đọc  chuyện  Mục  Liên,  Thanh   Đề  chúng  ta thấy  đạo  Phật  tổ  chức  giống  như  chế  độ  phong kiến không khác chút nào. Ăn lo hối lộ với những danh từ rất cao thượng: “Độ chúng sanh”.
Cha mẹ  làm  tội  ác  bị  nhà  vua bắt  giam  cầm, tù  tội,  con thi cử  làm  quan,  không  cứu  cha  mẹ được  vì  quá  nặng,  nên  phải  nhờ  những  vị  quan lớn khác bằng cách phải lo lót hối lộ (Trai  tăng cúng  dường  tứ  sự).  Nhờ  có  lo  lót  như  vậy,  bà Thanh  Đề mới thoát cảnh tù tội A Tỳ Địa Ngục...
Đối với một tôn giáo lớn như Phật giáo phát triển  mà  còn  có  hình  thức  ăn  lo,  hối  lộ  như vậy, thì trên  đời  này  còn  có  nghĩa  lý  gì  là  đạo  đức công  bằng  và  công  lý;  còn  có  nghĩa  lý  gì gọi  là đạo  đức  nhân  quả  không  làm  khổ  mình,   khổ người;  còn  có  nghĩa  lý  gì  là  mang  danh  là  tôn giáo khi dạy tín đồ làm điều phi đạo đức như vậy.
Nếu trên thế gian này không có một đạo luật nhân  quả  thì loài  người  đừng  nói  đến  hai  chữ công  bằng  và  công  lý.  Vì  không  bao giờ  có  công bằng  và  công  lý  khi mà  không  có luật nhân  quả. Không có một đấng Vạn Năng hay một đấng Tạo Hóa   hoặc   một  đức  Chúa  Trời   hoặc  một  Ngọc Hoàng Thượng Đế nào cầm cán cân công bằng và công lý cho loài người này được,  chỉ có luật nhân quả mới giữ vai trò công bằng và  công lý này mà thôi. Vì nhân quả là do hành động của mọi người


tự làm, tội hay vô tội đều chính  nơi họ,  cho nên, luật  nhân  qủa  chính là  con người  tạo  ra để xử phạt hay ban thưởng chính lại họ, chứ không có một kẻ thứ hai nào khác thưởng phạt. Vì thế nó rất công bằng và  công lý, không ai lo lót và hối lộ nó được. Kẻ nào làm ác thì phải thọï lấy quả khổ, kẻ nào làm thiện thì hưởng được phước báo.
Sau khi tu hành chứng đạo, đức Phật dẫn tâm đến  Lậu  Tận  Minh,  Ngài  đã  thấy  luật  nhân  quả rất  rõ  ràng,  công  bằng  và  công  lý  vô  cùng.  Cũng vì  luật  nhân  quả  có  công  bằng  công  lý  như  vậy, nên  con người  phải  chịu  trôi  lăn  trong  sáu  nẻo luân  hồi  thọ  biết  bao nhiêu  sự  đau khổ  từ  kiếp này đến kiếp khác, đều do chính  hành động nhân quả của họ.
Ở    trên  đời  người  ta  có  tiền,  có  thế  lực  thì người ta có thể mua chuộc được tội lỗi, nhưng với luật  nhân  quả  thì không  thể  mua tội  được.  Trải qua một thời gian dài từ chế độ bộ lạc mãi nô đến chế  độ  phong  kiến  đã  chứng  minh  điều  này,  “đa kim ngân phá luật lệ”. Và mãi sau này dù cho bất cứ một chế độ nào thì sự công bằng và công lý sẽ chẳng được thực thi trọn vẹn.
Dưới  chế  độ  phong  kiến,  con  cháu  của  vua quan có làm tội giết người, cướp của vẫn ung dung phe  phẩy  tự  do mà  không  ai  làm  tội,  làm  tình được,  pháp  luật  đối  với  những  hạng  người  này như bắt cóc bỏ đĩa.


Cho nên Đại thừa giáo là một tôn giáo bị  “thế lực phong kiến hóa”, với sự lý luận vụng về để lộ chơn tướng thế tục: “Khi chư tăng chấp nhận thọ dụng  Trai tăng và Tứ sự cúng dường thì hợp  lại công đức tu hành của mình  thành một khối công đức  vô  lượng,  công  đức  đó  sáng  chói  như  ngọn đuốc trí tuệ khiến cho tâm bà Thành Đề giác ngộ nên  bà  mới  thoát  khỏi  địa  ngục”.  Đó  là  cách  lý giải không chân thật của các nhà Đại thừa, khéo che đậy,  lừa  đảo  những  tín đồ  mê  tín, vô  minh, chứ không thể nào che đậy với những người đệ tử của Phật đã được trang bị đạo đức nhân quả.
Vì giáo pháp của đức Phật dạy quá rõ ràng và cụ  thể,  người  tu  sĩ  phải  lấy  đức  hạnh  (giới  luật) làm đầu. Chỉ có đạo đức nhân quả thì mới có công bằng, công lý và từ bi đối với mọi người, mọi loài chúng  sanh. Và  vì thế,  không  thể nào  có  sự gian xảo  lừa  đảo,  dối  trá  theo  kiểu  dạy  của  kinh sách Đại thừa như kinh Vu Lan Bồn nói trên.
Bài  kinh Vu  Lan  Bồn  chỉ  gạt  những  người chưa hiểu  giáo  lý  chân  chánh  và  đạo  đức  nhân quả  của  đạo  Phật.  Bài  kinh Vu Lan  hôm  nay đã trở thành một sự lừa đảo có sách vở và đã trở thành  một  truyền  thống  báo  hiếu  vô  đạo  đức trong  lòng  tín đồ  Phật  giáo  Việt  Nam,  hơn  cả nghìn  năm mà không ai phát giác ra được.
Mùa  Vu  Lan!  Mùa  báo  hiếu!  Những  danh  từ này  đã  lặp  đi  lặp  lại  trong  lòng  người  phật  tử hiếu  hạnh  Việt  Nam,  nhưng  mấy  ai  đã  biết  sự hiếu  hạnh  này  là  phi  hiếu  hạnh.  Vì  sự  “Hiếu


Tâm” mà bị lừa đảo! Hằng năm người phật tử đã tốn biết bao nhiêu tiền của trong mùa Vu Lan!! Mùa  Báo  hiếu!!!...  Một  việc  làm  chẳng  ích lợi  gì cho những  người  thân  thương  quá  cố  của  mình, chỉ có làm lợi ích cho các chùa mà thôi.
Nếu  mọi  người  ai  cũng  đều  thông  hiểu  Đạo Đức Nhân Quả của đạo Phật, thì những kinh sách phi đạo đức của Đại thừa không thể lường gạt họ được  như:  kinh Vu Lan  Bồn,  kinh Dược  Sư, kinh Địa Tạng,  kinh Bát  Dương,  kinh Duy  Ma  Cật, kinh Viên Giác, v.v... Đó là những loại kinh sách phi đạo đức, phi chân thật, phi Phật pháp. Nó không  triển  khai  tri kiến  giải  thoát  và  tri kiến đạo     đức  nhân  quả.  Nó  khiến  cho  trí tuệ  con người u mê, vô minh, đen tối, thường sống với sự hiểu  biết  mơ hồ,  trừu  tượng,  mê  tín của  thế  giới siêu  hình  tưởng.  Nó  dạy  người  làm  những  việc thiếu đạo đức và  thiếu chân thật, thường cúng tế, cầu cạnh, van xin  gia hộ, độ trì, v.v...
Với  lòng  đại từ, đại  bi  của  chư Phật  và  chúng Thánh tăng, theo như trong kinh Vu Lan  Bồn đã dạy ngài Mục Kiền  Liên  cứu mẹ.  Giả thuyết, nếu làm  được  như  vậy  thì tất  cả  chúng  tăng  và  đức Phật  tập  trung  công  đức  tu  hành  giải  thoát  của mình  lại  thành  một  công  đức  vô  lượng,  vô  biên, như một ngọn đuốc khổng lồ cháy sáng rực, và hướng  đến  chúng  sanh...  khiến  cho chúng  sanh ngộ được đạo lý giải thoát, để mọi người ly dục, ly ác  pháp,  thoát  ra cảnh  địa  ngục  tại  tâm,  thì đâu cần gì chúng sanh phải tu hành vất vả khổ nhọc, mà  cũng  vẫn  được  giải  thoát  như  thường,  cũng


giống  như  chư  tăng  hợp  công  đức  tu  hành  của mình  lại thành một trí tuệ lớn, khiến cho tâm bà Thanh  Đề  ngộ  được  đạo  lý  giải  thoát,  liền  thoát ra  cảnh  địa  ngục  A  Tỳ.  Nếu  chư  Phật  và   chư Thánh  Tăng  làm  được  những  điều  này  thì thế gian lại có thêm một tôn giáo phi đạo đức, thì chúng tôi là những phật tử chân chánh sẽ không chấp nhận điều này.
Nếu chư  Thánh tăng trong thời đức Phật đã cứu độ bà Thanh Đề thoát cảnh địa ngục như  vậy, thì với tâm đại từ, đại bi của Phật và chư thánh Tăng không lẽ không làm điều này  để  chúng  sanh  thoát  khổ  sao? Có  lý  đâu vì  một  cá  nhân  nhỏ  mọn  như  bà  Thanh  Đề  mà chư  Thánh  tăng  làm,  huống  hồ  là  với  tất  cả chúng sanh trên hành tinh này đang đau khổ mà Phật  và  chư Thánh  tăng  đều  biết  rõ,  mà  lại  làm ngơ sao? Hay phải đợi cúng dường tứ sự?
Bởi  vậy,  kinh điển  Phật  giáo  phát  triển  phi đạo  đức  một  cách  cụ  thể  rõ  ràng,  thế  mà  mọi người  vì quá vô  minh, u tối nên  không  thấy, nên bị lừa đảo, bị lường gạt một cách đau đớn.
Công đức tu hành của Phật vô lượng, vô biên mà Ngài từ chối không cứu độ ai hết, Ngài chỉ là một hướng đạo viên mà thôi. Ngài đã rõ thấu đạo lý nhân quả tường tận, mà không ai hiểu đạo lý nhân  quả  hơn  Ngài.  Do  hiểu  đạo  lý  nhân  quả tường  tận,  dù  biết  rằng  mình  có  đủ  thần  lực,  có vô  lượng,  vô  biên  công  đức,  nhưng  Ngài  vẫn  từ chối  không  cứu  độ  ai  hết,  vì  cứu  độ  là  một  việc


làm phi dạo đức, nên Ngài dạy: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là một người chỉ đường mà thôi”.
Theo đạo lý nhân quả, ai làm ác thì phải chịu nhận  lấy  quả  khổ,  không  ai cứu  khổ  cho kẻ  làm ác  được,  chỉ  có  các  nhà  sư Phật  giáo  phát  triển mới  có  một  đức  Bồ  tát  Quan Thế  Âm  dám  làm điều  phi đạo đức này  (phẩm  Phổ  Môn  kinh Pháp Hoa), rồi đến chư Thánh tăng và đức Phật trong kinh Vu Lan  Bồn  mới  dám  cả  gan làm  điều  phi đạo đức, phi giáo lý của Phật để cứu bà Thanh  Đề thoát cảnh địa ngục, bằng cách ăn lo tứ sự cúng dường.
Xưa, thời  đức Phật còn  tại thế, Ngài còn  phải xin  ăn  để  gieo duyên  nợ  với  chúng  sanh, nhờ  có gieo duyên nhân quả thiện như vậy, Ngài mới đủ duyên để thuyết giáo pháp của mình, khiến cho chúng  sanh ngộ  được  chân  lý  giải  thoát,  rồi  mới lần  lần  tu  tập  dứt  bỏ  và  xả  ly mới  thoát  khỏi cảnh  địa  ngục  trần  gian  đầy  đau khổ  của  kiếp làm người.
Các  nhà  sư Phật  giáo  phát  triển  xây  dựng  sự cứu  độ  một  cách  vô  lý,  thiếu  công  bằng  và  công lý,  thế  mà  mọi  người  vẫn  tin theo,  làm  theo  với sự  thiếu  suy  nghĩ.  Đem  công  đức  tu  hành  giải thoát của mình, hợp lại làm một ngọn đèn sáng, khiến  cho người  đang mê  gặp  ngọn  đèn  này  thì trí tuệ  bừng  sáng,  thoát  cảnh  địa  ngục  (nếu  được như  vậy  thì đâu  cần  gì phải  tu).  Đó  là  một  thứ vọng  ngữ  của  các  nhà  sư phát  triển  để  lừa  đảo


những  người  tín đồ  thiếu  trí tuệ.  Nó  khiến  cho những  người  có  trí tuệ  và  những  người  nghi  ngờ Phật  giáo  và   xem  thường  đạo  Phật,  cho  rằng Phật giáo là một tôn giáo mê tín, một tôn giáo không có đạo đức.
Nếu  thật  sự  những  loại  kinh sách  này  là  của Phật giáo, thì Phật giáo không còn đất đứng trên hành tinh này nữa. Một khi thời đại dân trí càng đi  lên  và  càng  khoa  học  thì người  ta  càng  rõ  sự gian  xảo  này.  Trên  hành  tinh này  duy  chỉ  cần phải có một nền đạo đức nhân quả, và đạo đức ấy phải được phát triển đúng mức để quân bình vật chất  và  tinh thần  của  con người  được  cân  bằng, thì xã hội loài người mới có sự an vui, hạnh phúc. Do thế,  các  tôn  giáo  nào  thiếu  đạo  đức,  gây  mê tín, tạo  thế  giới  siêu  hình  trừu  tượng,  viển  vông, dạy  mọi  người  điều  phi  đạo  đức,  thường  lừa  đảo tín đồ, thì phải bị khoa học chỉ mặt, vạch tên, và sẽ bị nhân loại đào thải khỏi cuộc sống của họ.
Bởi  vậy,  câu  chuyện  Mục  Liên,  Thanh  Đề  là câu  chuyện  phi  đạo  đức,  phi  công  lý,  phi  công bằng,  phản  lại  đạo  đức  nhân  qủa  của  Phật  giáo. Sự báo hiếu của đạo Phật như trong kinh sách là không  phải  của  đạo  Phật,  kinh sách  này  đã  bị dân  gian thế  tục  hoá  Phật  giáo  theo thời đại phong  kiến của nó.
Người  tu  sĩ  đạo  Phật  muốn  báo  hiếu  cha mẹ thì phải tu hành, sống đúng giới hạnh, không hề vi  phạm  một  lỗi  nhỏ,  sống  thiểu  dục  tri túc,  ăn, ngủ,  độc  cư đúng  cách,  tâm  thường  thanh  thản,


an lạc, ly dục, ly ác pháp và nhập sâu Bốn Thánh Định, thực hiện  Tam Minh làm  chủ  sự sống  chết và luân hồi, thì mới báo hiếu trọn vẹn. Còn người tín đồ  muốn  báo  hiếu  thì phải  giữ  gìn  năm  giới nghiêm túc, thường khuyên cha mẹ giữ gìn làm điều  thiện,  đừng  làm  điều  ác.  Đó  là  sự  báo  hiếu của Phật giáo.
Thực hiện được những điều này qua đời sống gương hạnh  cao quý, khiến  cho cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp vì có nhân duyên nhân quả nên quy tụ gặp  lại  nhau,  để  nhận  lấy  gương hạnh  đạo  đức giải  thoát  và  giáo pháp  của  Phật,  hướng  dẫn  cho những  người  thân  thương  của  mình  từ  vô  lượng kiếp để thoát ra cảnh đời đầy đau khổ. Đó là báo hiếu  cha  mẹ,  chớ  không  phải  làm  lễ  trai tăng cúng  dường  tứ  sự  để  nhờ  công  đức  của  chư tăng cứu độ cha mẹ là báo hiếu.
Báo  hiếu  kiểu  đó  là  báo  hiếu  không  thực  tế, thua xa các nhà Nho giáo, đạo Khổng “quạt nồng, ấm   lạnh”,   không   làm   cho  cha  mẹ   buồn   rầu, thường làm vui lòng cha mẹ.
Sống chửi cha, mắng mẹ, làm cho cha mẹ buồn khổ, đến khi chết rước chư tăng cúng dường  Tam Bảo  để  báo  hiếu,  thì thật  là  buồn  cười.  Bày  đặt chuyện báo hiếu vậy không đạo nghĩa và thực  tế, đó là lối lường gạt người “tiền mất, tật mang”, chẳng làm ích lợi gì cho ai cả?

(Trích ĐVXP tập 6 /tr169-181)


Hỏi:  Kính   thưa Thầy!  Kinh  Di  Đà,  Di  Lặc, Địa Tạng, Pháp Hoa, Kim Cang, Lăng Nghiêm và mật  chú,  v.v... có  phải  chánh  pháp  của  Phật  nói hay không?
Đáp:  Tất  cả  mọi  kinh sách  đã  kể  ra  và  nêu tên ởû trên, toàn là kinh sách chịu ảnh hưởng của giáo lý Bà La Môn. Từ pháp hành, cúng bái, tụng niệm cho đến pháp thiền đều có vẻ mơ hồ, trừu tượng,  mê  tín. Trong  các  kinh này  luôn  luôn  tạo cách tin tưởng và sợ hãi như: “Dù cho tạo tội hơn núi  ca,  Diệu  Pháp  Liên  Hoa  tụng  mấy  hàng”, hoặc:   “Ai  không   tin  kinh  này   đầu   sẽ   bể  bảy miếng”.  Và  cuối  cùng,  kinh nào  cũng  tự  đề  cao mình  là đệ nhất pháp.
Đọc  qua những  kinh sách  này,  nếu  người  nào có  trí  thì nhận  ngay  ra  liền  những  kinh  này không  phải  Phật  thuyết.  Vì  thế,  chúng  không phải chánh pháp của Phật.



Hỏi:  Những  kinh  sách  nào  đáng  được  tin cậy để tu được giải thoát, xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ?
Đáp:  Kính   sách  Nguyên  Thủy  là  kinh sách đáng được tin cậy. Vì đó là lời  dạy của đức Phật, tuy rằng trong các tổ bên Nguyên Thủy cũng có thêm  bớt  rất  nhiều,  nhưng  những  lời  dạy  của Phật còn rõ ràng nguyên gốc hơn nhiều. Còn kinh sách phát triển không đáng tin tưởng, vì các t ổ tự viết  bằng  kiến  giải  theo  tư  tưởng  của  giáo  lý  Bà


La Môn mà viết ra phát triển. Nên đường lối và cách thức tu lập đều quá sai, từ cúng bái, tụng niệm, chú thuật đều chịu ảnh hưởng của Bà La Môn. Cho đến pháp tu về thiền định cũng đều thuộc về thiền tưởng của ngoại đạo. Cho nên thầy tổ sau này tu hành chẳng có kết quả giải thoát.



Hỏi: Kính bạch Thầy! Những điều trong luật Tứ Phần có đầy đủ và có đúng lời Phật dạy không?
Đáp: Luật Tứ Phần là do các tổ biên soạn dựa theo  giới  kinh, nhưng  có  thêm  bớt  rất  nhiều  cho phù  hợp  với  hoàn  cảnh,  phong  tục  của  mỗi  dân tộc trên bước đường hành hóa truyền đạo. Do sự tùy  thuận  vào  mỗi  nước,  mỗi  phong  tục  của  dân tộc nên các tổ đã làm lệch ý  Phật qua bộ giới luật Tứ Phần.
Muốn  rõ  được  điều  này,  xin  quý  vị  đọc  Giới Đức  Thánh  Sa Di  và  Tỳ  Kheo Tăng,  Tỳ  Kheo Ni thì sẽ  rõ.  (Bộ  Giới  Thánh  Đức  này  do Tu  Viện Chơn Như biên tập).
Bộ luật Tứ Phần này chưa được xem là đầy đủ, vì trong kinh Nikaya  đức Phật dạy nhiều bài kinh nói về thiện pháp, tức là giới, mà trong Tứ Phần Luật không có. Sau này có điều kiện phải được chấn chỉnh để chỉ rõ cho mọi người biết Thánh hạnh của Sa di và Tỳ kheo tăng, Tỳ kheo ni.


Hỏi:  Kính  Bạch  Thầy!  Kinh  Phạm  Võng  Bồ Tát  Giới  có  phải  chánh  pháp  của  Phật  chăng? Xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con được rõ.
Đáp:  Kinh  Phạm  Võng  Bồ  Tát  Giới  không phải  là  chánh  pháp  của  Phật,  mà  là  của  Bà  La Môn có thâm ý  muốn diệt Phật giáo nên mới chế ra Bồ Tát Giới.
Mục đích của Bồ Tát Giới là bộ sách có hình thức  tổ  chức  người  cư sĩ  thành  một  tổ  chức,  để phục vụ cho Phật giáo Đại thừa Bà La Môn.
Phần  thứ  nhất  là  khuyên  dụ  người  cư sĩ  thọ Bồ Tát Giới để góp công, góp của xây dựng đạo pháp  của  Bà  La  Môn,  nhưng  sự  thật  là  phục  vụ cho quý thầy Đại thừa:
1- Cúng  bái  tế  lễ  để  cho phật  tử  bỏ  tiền  ra đóng góp.
2- Làm từ thiện cũng do phật tử đóng góp.

3- Xây cất chùa to, Phật lớn cũng do phật tử đóng góp.
4- Cấm  phật  tử không  được  tu  theo  Phật  giáo
Nguyên Thuỷ (Tiểu Thừa).

5- Làm tất cả mọi công việc trong chùa, từ chuyện lớn, chuyện nhỏ hoặc chuyện nặng nề khó khăn,  đều  do phật  tử  đóng  góp  công  sức  gọi  là làm công quả.
Bồ Tát Giới là một bộ sách khuyến dụ phật tử, để  lừa  công  sức  và  lừa  của  cải,  tiền  bạc  của  cư sĩ!...


Bồ Tát Giới là một loại kinh sách với thâm ý diệt  Phật giáo.  Quý  vị đọc cho kỹ  lại bộ  sách  thì mới thấy rõ âm mưu thâm độc của Phật giáo phát triển Đại Thừa.






KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG


Hỏi: Kính  bạch Thầy! Sự thật bản thân con thấy,  mặc  dù  còn  những  thử  thách,  tâm  mình cũng có kết quả chút xíu là những thói hư tật xấu có giảm thiểu, từ đó cũng thấy được tường tận lẽ thật của một kiếp người ở trong muôn một chắc hẳn  cũng  do  luật  nhân  quả  chi  phối.  Sự  nhiệt tâm tu hành thật sự cầu giải thoát, nên nhân duyên  đã  đưa  con đến  với  ĐVXP  của  Thầy  chỉ dạy về pháp môn tu Tứ Thánh Định, đi đến Tam Minh,  con bừng  tỉnh  và  nói:  “À!  có  pháp  hành đây  rồi”.  Như  làm  lại  từ  đầu,  xong với  con chỉ như  nhắc  lại  cho rõ  hơn  và  phải  sắp  xếp  cái  gì cần làm trước mà thôi.
Dẫu  sao thì nó  cũng  dấy  lên  trong con biết bao nhiêu là chướng ngại pháp trong tâm. Chính vì lẽ đó, hôm nay con mạo muội hỏi; xin Thầy từ bi hoan hỷ chỉ dạy và cũng là sách tấn cho con ngày một tinh tiến.
Kính  bạch Hòa Thượng!


Kinh  Tứ  Thập  Nhị  Chương  do  cư  sĩ  Thiều
Chửu dịch, kinh này có phải Phật thuyết không?

Đáp: Kinh Tứ Thập Nhị Chương không phải Phật thuyết, mà do các tổ soạn viết dựa theo kinh sách  Nguyên  Thủy  A Hàm.  Cho nên  kinh này  có sự thêm bớt rất nhiều, có những bài kinh làm sai ý  Phật.  Quý  phật  tử  hãy  dè  dặt,  cẩn  thận,  đừng vội quá tin vào những loại kinh sách này, mà cần phải  đề  cao cảnh  giác,  kinh dạy  thì có  lý  nhưng thực hành không  có kết  quả,  còn làm quý vị mất thì giờ vô ích.



Hỏi:    Kính  bạch  Thầy!  Chương  I - Từ  thân xuất  gia tu hành  bốn  chân  đế,  chứng  A La Hán, là  bậc  phi  hành  biến  hóa  (biến  hóa  tự  tại),  sống lâu vô cùng, bậc ấy ở đâu thì chuyển động cả trời đất ở đấy, như vậy có đúng không?
Đáp:  Đoạn  kinh này  xác  định  bậc  A La  Hán như  vậy  là  rất  đúng,  vì  khả  năng  tu  chứng  của bậc A La Hán là một siêu nhân, không thể lấy trí hữu hạn mà hiểu thấu năng lực siêu việt ấy được.
Vậy  mà  các  Tổ  dám  dựng  lên  câu  chuyện  ông Ca Diếp  và  ông  Phú  Lâu  Na  tranh chấp  về  sự việc  bỏ  những  giới  nhỏ  nhặt  để  hạ  bệ  các  bậc  A La Hán đại đệ tử của đức Phật.
Đối  với  bậc  A La  Hán,  về  việc  bỏ  những  giới nhỏ  nhặt  mà  ông  A  Nan  quên  hỏi  Phật  là  bỏ những  giới  luật  nào  thì quá  dễ.  Chỉ  cần  hai  vị A La  Hán  này  nhập  vào  Niết  Bàn  hỏi  Phật  thì rõ


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!