thiện”. Lời nói
này
là một sự khích lệ rất lớn
đối
với những
ai tha thiết tu hành để tìm cầu giải thoát ra khỏi nhà sanh tử luân hồi. Toàn thiện là mục
đích
của Đạo Phật, vì toàn
thiện là tâm bất động trƣớc các ác pháp và các cảm thọ; toàn thiện chính là tâm thanh thản,
an
lạc và vô sự.
Ở đoạn kinh này Đức Phật dạy:
“Các con đã tự mình cứu
mình ra khỏi tai ƣơng hoạn nạn khổ đau của cuộc đời này.” Lời dạy này chỉ có mình mới tự cứu mình ra khỏi mọi sự khổ đau trên cuộc đời này, ngoài mình ra không còn ai cứu mình đƣợc. Phải
không các bạn?
Lời dạy này đã
xác định rõ ràng, các bạn đừng dựa vào
Thần, Thánh, Tiên, Phật, Bồ Tát, quỉ, ma cầu khẩn, cúng bái
v.v…để nhờ sự gia
hộ của các Ngài,
để đƣợc tai qua nạn
khỏi
bệnh tật tiêu trừ nhƣ trên đã nói, mà hãy tự mình cứu mình, không
ai cứu mình đƣợc các bạn ạ!
Tóm
lại những lời dạy này rất thực tế và cụ thể, nhất là
pháp
hành, toàn là đạo đức
nhân
bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ ngƣời. Cho nên sự tu tập không có
khó khăn, không có mệt
nhọc,
không
có phí sức.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
PHÁP MÔN
YỂM LY
“Này các Tỳ Kheo! Nhƣ thật quán với chánh trí tuệ: “Cái
này
không phải của tôi, cái này không phải là
tôi,
cái này không phải tự ngã của tôi.
Nếu thấy vậy này
Sona vị đa văn
Thánh đệ tử yểm ly đối
với
sắc, yểm ly đối với thọ, yểm ly đối với
tƣởng, yểm ly đối với hành,
yểm
ly đối với thức. Do yểm ly
vị
ấy ly tham. Do ly tham vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát,
khởi
lên chánh trí: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành,
những việc làm nên làm, đã
làm, không còn trở
lui trạng thái này nữa”.
CH Ú GIẢ I:
Theo nhƣ lời dạy trên đây của Đức Phật thì pháp môn tu
hành của Phật Giáo rất
đơn giản. Phải không
các
bạn?
Chỉ cần biết cách thức yểm ly thân ngũ uẩn: Sắc, thọ, tƣởng, hành, thức
thì tâm tham, sân, si, mạn, nghi sẽ đƣợc ly sạch. Và nhƣ vậy thì các bạn sẽ thấy ngay trạng thái giải thoát. Trong sự giải thoát các bạn biết rất rõ nhƣ lời Phật đã dạy trên: “Sanh
đã tận, Phạm hạnh
đã thành, những việc làm
nên làm, đã làm,
không
còn
trở lui trạng thái này nữa”.
Chỉ cần yểm ly thân
ngũ uẩn là chúng ta đã tìm thấy sự giải thoát ngay liền. Phải không các bạn? Nhƣng đọc lời dạy trên đây,
các bạn có biết cách tu tập chƣa?
Các bạn nên mƣợn lời dạy cô đọng này, làm câu pháp
hƣớng tâm, thì chúng tôi tin rằng do sự siêng năng tác ý
nhƣ vậy, với một lòng nhiệt tâm, tha thiết yểm ly ngũ uẩn thì
các bạn sẽ thành công. Đây là con đƣờng
tu tập duy nhất có
một
không
hai
của Phật Giáo.
Pháp môn rất tuyệt vời, các bạn có biết chăng? Đấy là p h áp
môn
q u ét tâ m
cá c
b ạn ạ! Hãy siêng n ăn g, b ền ch í, gan d ạ
cầ m
cây ch ổi n h ƣ lý tá c ý mà
q u ét xu ôi,
q u ét n gƣợc, q u ét
tới, q u ét
lu i, q u ét
ch ừng n ào
mà tha m, sân ,
si
b ay sạch thì
mới thôi . Phải không các bạn? Tu hành nhƣ một con
đại tƣợng đi
thẳng
không bao
giờ ngó lui lại.
Các
bạn
hãy cố gắng tiến lên, tự mình thắp lên ngọn đuốc mà đi, tự mình lấy mình làm chỗ nƣơng tựa, không nƣơng vào bất
cứ
một ai. Chỉ nƣơng tựa vào chánh pháp của Phật.
Chánh pháp của Phật đây rồi, các bạn nên lƣu ý mà tu tập,
đừng
chùng bƣớc.
CÓ
BỐN PHÁP CẦN NÊN
TRÁNH
L ỜI PHẬT
DẠY
1-“Tránh sự khởi lên do tranh luận
2- Tránh sự khởi lên do chỉ trích
(nói xấu)
3- Tránh sự khởi lên do phạm giới
4- Tránh sự khởi lên do trách nhiệm”.
CH Ú GIẢ I:
Xƣa Đức Phật dạy chúng
Tỳ Kheo có
bốn
điều kiện cần nên
tránh,
thì
đức
hạnh và sự tu tập mới
trọn vẹn và
tốt đẹp.
T h ứ n h ất : Đức Phật
dạy: “Tránh sự khởi
lên
do
tranh luận”. Ngƣời tu
sĩ Đạo Phật cần nên tránh tranh luận, thấy có
sự tranh luận thì
nên tránh xa.
Tranh luận là một cuộc tranh đấu, đánh đá nhau bằng
ngôn
ngữ. Vì thế nó
là một cuộc chiến tranh giết nhau bằng
gƣơm miệng, lƣỡi đao. Ngƣời tu sĩ Đạo Phật lấy tâm từ bi làm gốc, nên phải tránh xa những cuộc tranh luận, để thực
hiện lòng từ bi của
mình.
Tranh luận sẽ
làm mất tình cảm thƣơng mến, vì tranh luận
là phải có sự hơn thua. Sự hơn thua khiến chúng ta mất
bạn
thêm thù, vì thế Đức Phật dạy: Chúng ta tránh xa sự tranh luận. Tránh xa
sự tranh luận khiến tâm chúng ta đƣợc an ổn,
cuộc sống
yên
vui.
Một ngƣời muốn có một cuộc sống bình an, thì xem sự
tranh luận là giặc, là kẻ thù, là loài ác thú, là
sự độc hại, v.v... Cho nên thấy nơi đâu có sự tranh luận, thì hãy mau mau tránh xa. Muốn tránh xa đƣợc điều này thì sự im lặng
là đệ nhất pháp.
Khi ngƣời ta đặt
ra
những câu hỏi để
vấn nạn, để
khởi đầu
cho sự tranh luận hơn thua, thì chúng ta nên tránh xa và
chịu thua họ trƣớc đi. Hoặc im lặng nhƣ Thánh, hoặc để nghe họ nói
gì mặc họ. Ta tập nghe nhƣ không nghe.
T h ứ
h ai : Đức Phật dạy: “Tránh sự khởi lên do chỉ trích (nói
xấu)”. Ngƣời tu sĩ Đạo Phật cần nên tránh sự chỉ
trích, thấy có sự chỉ trích thì nên tránh xa. Chỉ trích là sự nói
xấu
ngƣời khác. Ngƣời hay nói xấu ngƣời khác là ngƣời xấu, là ngƣời không đáng cho chúng ta làm bạn.
Nói xấu ngƣời có ba cách:
1- Đặt điều ra nói
xấu ngƣời.
2- Bới móc chuyện xấu của ngƣời khác, để tỏ ra mình là ngƣời tốt
3- Phê bình chỉ trích những việc làm của kẻ khác, để tỏ ra mình là
ngƣời thông thái.
Ở đây Đức Phật dạy tránh xa sự chỉ trích, có nghĩa là
chúng ta không nên chỉ trích ai, không nên nói xấu ai. Th ấy
ai n ói
xấu
h ay ch ỉ trích
n gƣời k h ác thì ch úng
ta
n ên
xe m
n gƣời ch ỉ trích
và
n ói xấu đ ó
là
n gƣời xấu ,
cần n ên trán h
xa h ọ
. Họ là “con sâu làm rầu nồi canh”, họ là con rắn độc
là
loài ác thú, v.v...
Trong câu kinh này dạy: “Tránh sự khởi lên do chỉ trích (nói
xấu)”. Tránh sự khởi lên, có nghĩa là khi chúng ta
muốn chỉ trích một điều gì thì chúng ta nên dừng lại liền không đƣợc nói ra và chấm dứt tƣ tƣởng đó vì ý nghĩ tƣ
tƣởng đó xấu,
ác.
Ngƣời tu sĩ Phật
Giáo cần
ghi nhớ những lời
dạy này, không đƣợc vi phạm những lời dạy này, thì mới xứng là
những ngƣời đệ tử của Phật, không riêng gì tu sĩ mà cả cƣ sĩ
nữa.
Thƣa các bạn, ở đây Đức Phật dạy: “Tránh sự khởi lên do
chỉ trích (nói xấu)”. Nhƣ vậy khi chúng tôi nói: Kinh sách Đại
Thừa, Thiền Tông, Thiền Minh Sát Tuệ, Tịnh Độ
Tông,
Mật Tông và tu sĩ Nam Tông ăn thịt chúng sanh là sai, là không đúng giáo pháp
của Phật dạy. Nói nhƣ vậy chúng tôi có
chỉ
trích hay không?
Thƣa các bạn, các bạn đừng hiểu sai là chúng tôi chỉ trích
các hệ phái Phật Giáo này, mà là chúng tôi đang làm một nhiệm vụ chỉnh đốn lại Phật Giáo, vì chúng tôi
là tu sĩ Phật Giáo không chỉ trích nói xấu một tôn giáo nào khác. Còn ở
đ ây ch ú n g tôi n ói
ra n h ữn g
gì
k h ôn g đú n g
của Ph ật Giáo;
n ói ra
n h ữn g rác
b ẩn đan g đ ầy
ắp
tron g
P h ật
Giáo; n ói
ra
đ ể d ọn
d ẹp
ch o
sạch
sẽ
n gôi n h à Ph ật Giáo, thì ch ú n g tôi
p h ải
có q u yền
chỉn h
đốn lại , để giúp cho tín đồ Phật Giáo không còn lầm đƣờng, lạc lối, để giúp cho mọi ngƣời không có
những
thái độ khinh chê Phật Giáo,
v.v...
Sau những năm tháng dài (2548 năm) các Tổ truyền thừa
Phật Giáo, từ Đông sang Tây, từ
Nam lên Bắc, mà những ngƣời truyền thừa lại là những ngƣời tu hành chƣa chứng,
chỉ là những học giả, tâm đời chƣa ly dục ly ác pháp, còn
tham danh, đắm
lợi (có vị còn tham
danh ra làm Quốc sƣ),
nên sự truyền thừa có nhiều sai lệch, từ sự sai lệch của các
vị Tổ sƣ này, đến sự sai
lệch của các vị Tổ sƣ khác. Cho đến hôm nay, khi tu xong chúng tôi nhƣ ngƣời đứng trên núi cao nhìn xuống, thấy sự sai lệch quá rõ ràng.
Vì Ph ật p h áp
trƣờn g
tồn,
vì
n ề n
đ ạo đ ức
n h ân
b ản - nh ân
q u ả
củ a
loài
n gƣời; vì lợi ích ch o chú n g
san h
đ ời
sau , b u ộc lòn g
chú n g
tôi p h ải n ói thẳn
g và mạn h tay ch ấn ch ỉnh
lại
toàn
b ộ giáo
lý củ a Ph ật Giáo,
n h ữn g gì đú n g
củ a
Ph ật
Gi áo thì d ựn g
lại ,
n h ữn g gì sai củ a Phật Giáo
thì
n é m
b ỏ . Đó là việc làm
của một ngƣời tu sĩ chân chánh của Phật Giáo, chứ không
phải
chỉ trích, nói xấu các hệ phái Phật Giáo, nhƣ hệ phái
Phật Giáo này nói xấu chỉ trích hệ phái
Phật
Giáo khác.
Chúng tôi không phải là hệ phái này chỉ trích nói xấu hệ phái
khác. Xin các bạn hiểu cho.
Thƣa các bạn! Hi ện
giờ
ch ú n g
tôi
k h ôn g đ ứn g tron g các
h àn g n gũ
củ a h ệ p h ái Ph ật Giáo n ào cả.
Chú n g tôi
là n h ữn g
n gƣời tu sĩ lấy n h ữn g
lời
d ạy Nguyên T hủ y của Ph ật mà
tu
tập,
n ên
k h i
thàn h tựu
tron g
giáo
p h áp
củ a
Ngƣời,
ch ú n g
tôi b iết
sự
k iến giải
và
p h át
triển củ a các
T
ổ tron g Ph ật
Giáo là k h ôn g
đ ú n g, kh ôn g
đ em
đ ến
lợi
ích
t h iết
thực
ch o
loài n gƣời, mà còn
là m h ao
tài,
tốn
củ a
và
côn g
sức
củ a
mọi
n gƣời một cá ch
n h ảm
n h í
vô
ích
. Nhìn thực trạng của Phật
Giáo
rất đau lòng và thƣơng xót cho tín đồ Phật Giáo. Theo Phật Giáo sẽ đƣợc những gì? Đi về đâu? Thƣa các bạn, các bạn chỉ cho?
Một lần nữa, chúng tôi xin các bạn đừng hiểu lầm
là chúng tôi chỉ trích Đại Thừa, Thiền
Tông, Mật Tông, Tịnh Độ
Tông, Nam Tông, v.v…mà chúng tôi chỉ muốn chấn chỉnh
lại Phật Giáo làm cho
nó trở thành hiện thực
một giáo trình
học
và tu tập đạo đức làm ngƣời, không làm khổ mình, khổ ngƣời; học và tu tập để làm chủ sanh, già, bệnh, chết và
chấm dứt luân hồi.
T
h ứ b a
: Đức Phật dạy: “Tránh sự khởi lên do phạm giới”.
Ngƣời tu sĩ Đạo Phật cần nên tránh sự phạm giới, thấy có ai phạm giới thì nên tránh xa. Phạm giới là sự làm
mất phẩm hạnh ngƣời tu. Ngƣời phạm giới là một ác tri thức, ngƣời ác tri thức không xứng đáng làm thầy, làm bạn của chúng ta. Nhất là ngƣời tu sĩ phạm giới thì Phật tử nên xem họ là Ma Ba Tuần trong Phật Giáo, họ không phải là ngƣời tu sĩ Phật Giáo, họ là ngƣời đội lốt tu sĩ Phật Giáo, để lừa đảo tín đồ. Nhất là giới hạnh độc cƣ. Giới hạnh độc cƣ trong giới bổn và nằm trong giới kinh.
Trong Tạng kinh Pali Đức Phật thƣờng nhắc đi nhắc lại giới này rất nhiều lần. Thế mà tu sĩ thời này xem thƣờng phẩm hạnh này, họ
là ma Ba Tuần trong
Phật Giáo, họ là những tu sĩ ngoại đạo
phá
hoại Phật Giáo khiến cho mọi ngƣời theo Phật Giáo không tu hành đƣợc.
Tất cả tu sĩ và cƣ sĩ đến tu viện Chơn Nhƣ là để tìm cầu
chánh pháp của Phật, là để
tu tập cho đạt
mục
đích
giải thoát bốn chỗ: Sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt
luân
hồi, nhƣng họ đều phạm giới, phần đông không giữ gìn giới luật trọn vẹn, cho nên chỉ có một thời gian rồi đành lui bƣớc. Lui bƣớc với một tâm hồn không thoải mái. Thay vì thực
hiện
lời Phật dạy,
lời Thầy dạy là: “ly dục ly ác pháp”,
thì họ lại ôm ác pháp ra
đi!?
Giới luật tuy nghe thấy hiểu biết thì dễ, nhƣng sống và tu
tập đúng thì quá
khó
khăn. (là gánh nặng của
thiện pháp) Phải không các bạn? Tu sĩ và cƣ sĩ
về đây tu tập khép mình trong giới luật, thì giống nhƣ sung rụng.
Kính thƣa các bạn! Giới luật rất là quan trọng trong cuộc
đời tu hành của mình. Do đó Đức Phật đã xác định
đƣờng
lối tu tập của Ngài rất rõ ràng, có từng lớp, có từng cấp
bậc. Vậy đƣờng lối của Đạo Phật có mấy lớp tu học? Có
bao nhiêu
cấp bậc?
Đƣờng lối tu học của Đạo Phật có tám lớp
tu học nhƣ sau: Chánh kiến
Chánh tƣ duy Chánh ngữ Chánh nghiệp Chánh mạng Chánh tinh tấn
Chánh niệm Chánh định.
Đƣờng lối Đạo Phật có ba cấp “Cấp Giới, cấp Định, cấp
Tuệ”
nhƣ sau:
- Cấp I giới luật gồm có 7
lớp, phải tu học 7 năm.
- Cấp II thiền định gồm có 4 thiền phải tu học 7 tháng.
- Cấp III trí tuệ gồm có Tam Minh, phải
tu học 7 ngày.
Và
tốt
nghiệp chỉ có
một
đêm
(Nhất dạ hiền).
Xem thế, đƣờng lối tu học của Phật Giáo có khác nào là một chƣơng trình giáo dục của Quốc gia. Do chƣơng trình
tu học nhƣ vậy, nên đƣờng lối tu tập của Phật Giáo đƣợc xem là chân lý của loài ngƣời. Phải không các bạn? Các bạn có
thấy đúng không???
Cho nên giới luật là cấp I mà cấp I phải tu học 7 năm thì
các
bạn biết nó là quan trọng đến bậc nào?
Ngƣợc lại cấp II Thiền Định chỉ có 7
tháng. Nhƣ vậy Thiền Định đâu có khó khăn. Phải không
các
bạn? Và nó cũng không quan trọng các bạn ạ!
Vậy mà tu sĩ thời nay xem thƣờng giới luật, phá giới luật,
phạm giới luật, bẻ vụn giới luật. Nhƣ vậy có đáng chỉnh
đốn
lại không thƣa các bạn? Một hình ảnh Phật Giáo sa
đọa
nhƣ vậy, mà chỉnh đốn trở lại thì các
bạn
bảo rằng chúng tôi chỉ trích Đại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh
độ
Tông, Nam Tông, v.v... Các bạn nói nhƣ vậy có đúng không?
Các bạn còn bảo rằng chúng tôi không ái ngữ với các hệ
phái này. Thƣa các bạn! Nhữn g lời n ói
củ a
ch ún g
tôi
rất ái
n gữ, vì lòn g
thƣơn g tƣởn g h ọ
mà ch ú n g tôi nói,
n ếu
c húng
tôi k h ôn g
n ói, h ọ
làm
s ao b iết
đ ƣợc cái
sai,
cá i
đ ú n g . Phải không các bạn?
Các bạn tu theo Đạo Phật, là đạo diệt ngã. Vậy khi đƣợc ngƣời khác chỉ thẳng cái sai của mình (phạm
giới, phá giới) thì thái độ tu tập của các
bạn
tiếp nhận sự việc ấy nhƣ thế nào? L òn
g tốt củ a ch ú n g tôi đ ã
b iến thàn
h hạt cát tron g
mắ t các b ạn . Có phải vậy không?
Thƣa các bạn! Các bạn còn bảo rằng: Chúng tôi bác sạch những cái sai của các hệ
phái
Phật Giáo này, thì Phật Giáo
còn
cái gì?
Thƣa các bạn, nhƣ trên chúng tôi đã nói: Phật Giáo còn lại
ba
cấp tu học (Giới, Định, Tuệ) và tám lớp học (Bát Chánh
Đạo). Đó là bốn chân lý của Đạo Phật (Tứ Diệu đế). Nhƣ
vậy Đạo Phật có mất không, thƣa các bạn? Còn những gì
chúng tôi đập phá của các hệ phái này có phải là của Phật Giáo không? Xin các bạn cứ xét lại xem: Cúng bái, tụng,
niệm, cầu siêu, cầu an, xin xăm, bói quẻ, xem
ngày
giờ tốt xấu cất
nhà,
xây mồ mả, dựng vợ
gả chồng, cúng sao giải hạn, trị bệnh, trừ tà, yểm
quỉ,
Cực Lạc, Thiên Đàng, Phật
tánh, ngồi thiền ức chế tâm, v.v... Những cái này có phải
của
Phật Giáo không? Xin các bạn trả
lời đi!
Thời gian gần đây, có rất nhiều tu sĩ và cƣ sĩ đã thể hiện
tinh thần diệt ngã của mình. Khi đã nhận thấy đƣợc cái đúng sai trong Đạo Phật và tìm về
tu viện Chơn Nhƣ để tu học. Còn các bạn khác thì sao?
Phật dạy: “Tránh sự khởi lên do phạm giới”. Khi chúng ta khởi lên ý niệm gì, thì nên quán xét ý niệm
ấy có phạm vào những giới gì chăng?
Ví dụ
1: Khi khởi ý muốn đi
nói
chuyện với
một bạn đồng tu, thì nghĩ ngay đến lời Phật dạy phải phòng hộ sáu căn, không nên hội họp, không
nên nói chuyện. Đó là những Thánh Hạnh mà một tu sĩ Phật Giáo cần phải nghiêm trì,
không cho vi phạm. Sự suy tƣ nhƣ vậy là tránh sự khởi lên phạm giới.
Ví dụ 2:
Vào buổi sáng sớm
cảm
thấy đói bụng ý khởi lên
muốn đi ăn cái gì đó, thì chúng ta nghĩ ngay: Vào giờ này mà ăn uống thì phạm vào giới ăn uống phi thời. Ăn uống
phi
thời nhƣ vậy là phạm vào Thánh Đức Hạnh ly dục. Tu
sĩ phạm
vào giới này thì không còn xứng đáng là đệ tử của Phật nữa.
Cho nên làm
đệ
tử của Phật thì phải nhớ lời dạy này: “Tránh sự khởi lên do
phạm giới” Các
bạn có nhớ chăng? Phải luôn luôn nhớ và dùng câu
này
tác ý thì giới luật, các
bạn
sẽ thanh tịnh.
T h ứ
tƣ : Đức Phật dạy: “Tránh sự khởi lên do trách nhiệm”.
Là một tu sĩ Phật Giáo tâm hồn luôn luôn lúc nào cũng
phải
đƣợc thanh thản, an vui và vô sự. Nên phải hiểu mọi sự việc đều gắn liền với trách nhiệm. Kh i
thấy
tâm
k h ởi ý
mu ốn
là m một
việ c gì thì p h ải thấy n gay
trách n h iệm
sự
việc ấy, n h ƣn g thấy có
trách
n h iệm
t ron g sự
việc
đ ó thì
p h ải
đ ìn h ch ỉ việc đ ó
liền . Nếu không đình chỉ thì cuộc đời
tu
hành theo
Phật Giáo chỉ uổng công mà
thôi.
Bởi vì
có
trách
n h iệ m là
có sự lo lắn g,
mà có
s ự lo lắn g
là
có
tâ m
b ất an ,
có tâ m
b ất an thì rất
k h ó
tu
tập
đ ể giữ gìn tâm
than h
thản , an lạc và vô sự . Cho nên chúng ta
phải hiểu Đạo Phật, Đạo Phật không phải là đạo tiêu cực, làm biếng,
không làm, Đạo Phật chấp nhận làm việc, siêng năng, cần
mẫn, nhƣng tránh trách nhiệm, để giữ gìn tâm hồn thanh
tịnh,
không bị
ràng buộc, v.v...
Ví dụ 1: Trồng một cây xoài, hay cấy một đám lúa, trồng
một đám dƣa, v.v... những việc làm này đều gắn liền với trách nhiệm, vì việc làm này nó mang đến cho ta những kết
quả.
Nếu chúng ta làm
mà
để cho nó thất bại, tức là không
kết quả, không kết quả
thì chúng ta thiếu trách nhiệm. Các bạn có
hiểu ý này chăng?
Có
những
việc làm mà không có
trách nhiệm.
Ví dụ 2: đi khất thực, làm phụ công việc gì cho ai và làm hết công việc
đƣợc giao, chứ không lãnh trách nhiệm.
Ví
dụ
3: Ngƣời làm trụ trì
có trách nhiệm, ngƣời làm chúng
(điệu) không
trách nhiệm trụ trì.
Ngƣời tu sĩ đang tu hành mà có trách nhiệm điều này, việc
kia thì khó
tu hành giải thoát. Tại sao vậy?
Tại vì trách nhiệm đi đôi với sự lo lắng. Vì có trách nhiệm là sẽ có lo lắng, bất an.
Có ngƣời bảo rằng: Một
tu sĩ Phật Giáo cũng cần phải thấy
trách nhiệm của mình đối với giới luật, nghĩa là phải thấy trách nhiệm
bổn
phận giữ gìn giới luật nghiêm ngặt, không cho mình vi
phạm.
Nếu một vị tu sĩ Phật Giáo hiểu rằng: Trách nhiệm và
bổn phận của ngƣời tu sĩ Phật Giáo là phải giữ gìn giới luật.
Hiểu nhƣ vậy chúng
tôi e rằng là sai. Tại sao vậy?
Thƣa các bạn! Giới luật là đời sống của ngƣời tu sĩ Phật
Giáo, chứ không
phải
là
một việc làm. Cho nên đối
với
Phật Giáo còn thấy bổn phận, trách nhiệm
giữ gìn giới luật, thì nhƣ vậy giới luật và vị tu sĩ là hai. Còn ở
đây
giới luật và vị tu sĩ là một, vì tu sĩ là phải sống giới luật. Cho nên ở đây còn thấy có trách nhiệm, bổn phận thì cuộc sống còn bị gò
bó, còn bị bắt buộc. Đạo Phật là đạo
giải thoát, vì thế, cuộc sống phải đƣợc thanh thản, an lạc và vô sự. Nếu còn bị
ràng buộc hay bị bắt buộc, gò bó trong một giáo điều hay
một giới luật nào thì không thể nào gọi là thanh thản, an
lạc và vô sự đƣợc. Phải
không
các bạn?
Ví dụ: Giới luật dạy ăn ngày một bữa không ăn phi thời.
Nếu
chúng ta nghĩ rằng: Mình là tu sĩ Phật
Giáo
phải có trách nhiệm, bổn phận chấp hành không cho vi phạm
giới này. Do sự bắt buộc nhƣ vậy nên phải ráng ăn một bữa.
Khi muốn ăn mà không dám ăn hoặc bị đói bụng mà không dám
ăn,
cho nên tự bản thân đã thấy khổ sở vô cùng. Giới
luật
và vị tu sĩ đó là hai. Và cho đó là trách nhiệm, bổn phận của ngƣời tu sĩ phải ráng chịu đựng để
không bị ngƣời khác chê cƣời. Từ chỗ trách nhiệm, bổn phận đã làm
mất con đƣờng giải thoát của Đạo Phật. Vì thế Đức Phật dạy:
“Tránh sự khởi lên do trách nhiệm”.
Giới luật của Phật Giáo là một khuôn
phép
sống cho tất
cả tu sĩ Phật Giáo, chứ không phải là trách nhiệm, bổn phận. Giới luật xác định đƣợc đời sống của ngƣời tu sĩ. Tu sĩ nào là tu sĩ Phật Giáo và tu
sĩ nào không phải là
tu sĩ Phật Giáo.
Do đó Đức Phật dạy: Một n gƣời lấy gi ới l u ật làm
cu ộc
sốn g, còn
một n gƣời k h ác
lấy
giới
lu ật là m
p h áp
lu ật đ ể
cố
gắn g giữ gìn ,
thì
cũ n g giốn
g n h ƣ con b ò
và
c on d ê
. Bò là con bò, còn dê là con dê, không thể dê giống bò, bò giống dê
đƣợc. Phải không các bạn?
Trƣớc khi
bƣớc chân vào Phật Giáo, chúng
ta không bị một sự cám dỗ nào, một áp lực nào, một thế lực nào, hay vì một hoàn cảnh bắt buộc nào.
Mà
ch ính vì b ốn
sự
đ au k h ổ của
k iếp
làm
n gƣời . Chúng ta bỏ hết cuộc đời, để theo Đạo Phật, để sống trong pháp luật này. Cho nên, chẳng ai bắt
buộc mình, thì làm
gì
có trách
nhiệm,
bổn phận. Phải không các bạn?
Mìn h
đ ã tự n gu yện
thì
giới
lu ật là Ph ạ m
h ạn h , là cu ộc sốn g
củ a mìn h
.
Ngày xƣa Đức Phật chẳng quyến rũ ai theo đạo của Ngài,
chỉ
vì sự khổ đau của kiếp
ngƣời, nên mọi ngƣời chấp
nhận sống trong giới luật và giáo pháp của Ngài.
Ch o n ên ở đ ây
n ói trách n h iệm b ổn
phận sốn g
tron g
giới lu ật
và
giáo
p h áp
củ a
Ngài
thì
k h ôn g đún g . Chính Ngài đâu có bắt buộc ai theo Ngài tu hành đâu? Tự mình thì mình phải thấy đó là
sự sống của mình.
Cũng vậy, mọi ngƣời về
tu viện Chơn Nhƣ, tự nguyện vào đây, lấy đời sống ở đây làm đời sống của mình, chứ không
ai bắt buộc, nếu thấy sống không kham
nổi,
thì rời khỏi nơi
đây.
Bởi vì, sự tu hành không ai bắt buộc ai.
T u đ ƣợc thì
mìn h n h ờ,
ch ứ
k h ôn g ai tu giú p
ch o
ai
đ ƣợc . Trƣớc khi tu tập chúng ta phải ý thức đời sống giới luật là đời sống thoát khổ, chứ không phải bổn phận, trách
nhiệm giữ gìn giới
luật, mà giới luật là sự sống của đệ tử Phật, là sự giải thoát
khổ đau của
kiếp làm ngƣời.
Từ khi tu xong, Thầy cũng không kêu gọi và cũng không bắt buộc ai cả, các bạn tự đến đây xin tu học. Cớ sao các bạn không sống đúng giới luật
và tu tập đúng giáo pháp ở đây? Cớ sao các bạn vi phạm giới, phá giới ở đây? Cớ sao tu tập ức chế tâm không đúng cách tu tập ở đây là ly dục ly
ác pháp? Thế rồi các bạn hỏi sao không thấy ai tu chứng? Các bạn hỏi nhƣ vậy
là hỏi một
cách vô lý. Sao các bạn
không
tự hỏi các bạn: Ăn, ngủ, độc cƣ, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng các bạn có sống đƣợc chƣa? Nếu sống
đƣợc thì
mới hỏi nhƣ vậy là hỏi
đúng.
Các bạn sống không đúng giới luật và tu tập không đúng
giáo pháp ở đây, thì làm sao các bạn tu chứng đƣợc? Vậy mà các bạn hỏi: Sao không thấy ai tu chứng là
một câu hỏi
không đúng chỗ các
bạn
ạ!. Các bạn ra, vô tu viện này nhƣ đi chợ. Chúng tôi biết các bạn hỏi
câu ấy là
các
bạn quá vô minh, không xét đƣợc lỗi mình. Nhƣ Phật đã dạy: “Ngu mà không biết mình ngu là ngƣời chí ngu”.
Tóm
lại “Tránh sự khởi lên do trách nhiệm”. Ngƣời tu hành theo Phật Giáo, thì phải lấy giới luật và giáo pháp của Phật làm sự sống của mình, chứ không có nghĩa là bổn phận, là
trách nhiệm
gì cả. Các bạn phải hiểu nghĩa giới luật là một
cuộc sống bình an và hạnh phúc chân thật của kiếp làm ngƣời. Đừng
đem
trách nhiệm vào Phật Giáo là không
đúng chỗ.
Xin các bạn lƣu ý
cho.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
GIỚI HẠNH
“Những ai có giới hạnh An trụ không
phóng dật Chánh trí, chơn giải thoát
Ác ma
không thấy đƣờng” . (Kinh Pháp Cú)
CH Ú GIẢ I:
Ngƣời tu sĩ và ngƣời cƣ sĩ
đã tu tập theo Phật Giáo thì phải biết
giới luật rất là quan trọng. Nếu ngƣời tu sĩ và ngƣời cƣ sĩ nào sống không đúng giới luật thì tu hành chỉ phí công mà thôi. Vả lại, còn phạm tội rất nặng, đó là tội làm cho Phật Giáo suy đồi, biến Phật Giáo thành một tôn giáo mê
tín lạc hậu; biến Phật Giáo thành một nghề
mê
tín lừa đảo ngƣời khác để sống ! (nhƣ thầy tụng...)
Ngƣời tu sĩ và ngƣời cƣ sĩ đã tu tập theo Phật Giáo thì có ba
điều
kiện quan trọng cần phải lƣu ý:
- Phải sống đúng giới luật không hề vi phạm lỗi nhỏ
nhặt
nào.
- Phải luôn tu tập an trú và giữ tâm không phóng dật
bằng các pháp ly dục ly ác pháp.
- Phải luôn dùng Chánh Tri Kiến trƣớc các ác pháp
và các cảm thọ.
Nếu ngƣời tu sĩ và ngƣời cƣ sĩ
Phật Giáo tu tập và giữ gìn
tâm
đƣợc nhƣ vậy là thành
Chánh Giác
không
có khó khăn, không có mệt nhọc.
B ởi
vậy,
Đạ o Ph ật t u
h ành
k h ôn g
p h ải k h ó. Khó là chỗ ch ú n g ta kh ôn g
b ền
ch í, thiếu
n ghị
lực, kh ôn g gan d ạ mà
t h ôi . Phải không hỡi
các bạn?
“Những ai có giới hạnh An trụ không
phóng dật Chánh trí, chơn giải thoát”.
Xin các bạn ghi nhớ ba câu kệ này, nó đã xác định đƣợc
mục đích và con đƣờng tu theo Phật Giáo một cách cụ thể và rõ ràng. Cho nên các
bạn
tụng kinh, trì chú, niệm Phật,
lạy hồng danh chƣ Phật sám hối, chỉ là một hành động mê tín,
lạc hậu của những giáo điều ngoại đạo, chứ trong kinh sách
Nguyên Thủy Đức Phật luôn dạy chúng ta ngăn ác
diệt ác pháp sống trong thiện và mãi mãi sống trong thiện. Đó là chân giải thoát
của
Phật Giáo.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
BẬC CHIẾN THẮNG
“Bậc trâu chúa, thù thắng. Bậc
anh hùng, đại sĩ.
Bậc chiến
thắng,
không nhiễm. Bậc tẩy
sạch,
giác ngộ.
Ta gọi Bà La Môn”. (Kinh Pháp Cú).
CH Ú GIẢ I:
Ngƣời tu hành theo Phật Giáo phải nhƣ con trâu chúa, lúc
nào
cũng phải đứng lên trên Trời Ngƣời, nên câu kệ thứ nhất
trong bài này Đức Phật
dạy:
“Bậc trâu chúa, thù
thắng”. Đúng
vậy, Ngƣời tu
sĩ Phật Giáo phải là ngƣời anh hùng, kiên gan, bền chí nhƣ đất trời không
hề lùi bƣớc
trƣớc gian nan, khó khăn nào cả. Nên câu thứ
hai
Đức Phật dạy ngƣời tu sĩ theo Phật Giáo xem cái chết nhẹ nhƣ lông hồng phải chứng tỏ mình: “Bậc anh hùng, đại sĩ”. Thế mà
thời nay nhìn lại tu sĩ Phật Giáo phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới thì còn gì là bậc
trâu
chúa, bậc thù thắng, bậc
anh hùng đại sĩ. Phải không các bạn? Toàn là những bậc ăn bám vào tín đồ giống nhƣ loài ký sinh trùng (trùng trong
lông sƣ tử).
Ngƣời tu sĩ Phật Giáo phải luôn luôn là ngƣời chiến thắng giặc ăn, giặc ngủ, giặc hội họp, giặc
tham, giặc sân, giặc si... Muốn chiến thắng
đƣợc nhƣ vậy thì giới
luật
là khuôn phép
để
chúng ta khép mình, sống đúng Thánh Hạnh, để tôi luyện mình trở
thành những thanh thép hữu ích cho mình, cho ngƣời, cho đời, cho xã hội, cho quê hƣơng đất nƣớc,
cho
thế giới, cho cả
sự sống trên hành tinh này.
Nếu không tôi luyện mình nhƣ vậy, thì thân tâm
dễ
bị ô nhiễm những dục lạc thế gian. Phải không các bạn? Bởi vậy bậc chiến thắng đệ tử của Đức Phật phải là những ngƣời
không đắm nhiễm; không đắm nhiễm
tất cả mọi dục lạc. Nếu chỉ còn đắm nhiễm một chút xíu dục lạc nhỏ nhƣ hạt phù sa sông
Hồng thì cũng chƣa phải là ngƣời chiến thắng
giặc sanh tử, cho
nên Đức Phật dạy: “Bậc chiến thắng, không nhiễm”.
Từ không nhiễm lớn
đến không nhiễm nhỏ, hoàn toàn phải
sạch bóng sự ô nhiễm
thì
mới đƣợc gọi là bậc Giác Ngộ. Vì thế trong bài
kinh Pháp Cú
đã dạy:
“Bậc tẩy sạch, giác ngộ”
Nếu không quét sạch giặc tham, sân, si... ngũ triền cái, thất kiết sử... thì làm sao có sự thanh bình trong tâm hồn mình. Phải không hỡi các
bạn?
Qua bài kệ này, muốn đƣợc Đức Phật chấp nhận mình là một Bà La Môn đúng nghĩa của
Bà La Môn thì phải sống
đầy
đủ đức hạnh không làm khổ mình khổ ngƣời và khổ
chúng sanh. Dựa vào lời dạy trên đây chúng
ta xét thấy trong thời Đức Phật còn tại thế có thể chia ra bốn loại Bà
La Môn:
- Bà La Môn phạm giới,
phá giới, bẻ vụn giới.
- Bà La Môn cúng bái tế tự, cầu siêu, cầu an, làm những điều mê tín,
v.v...
- Bà La
Môn
xây dựng thế giới tâm linh, sống trong ảo
tƣởng, mơ mộng hƣ ảo; lừa đảo, lƣờng gạt ngƣời để đƣợc ngồi trong mát ăn bát vàng.
- Bà La Môn chuyên tu tập luyện thần thông
trừ
tà, yểm quỷ, bắt ma trị bệnh bằng phù phép tạo ra một thế
giới siêu hình huyền ảo khiến cho con ngƣời mất hết sức tự chủ, chỉ còn biết tựa nƣơng vào Thần Thánh, Tiên,
Phật hoặc Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.
Những hạng Ba
La Môn này ngày xƣa Đức
Phật còn tại thế không bao
giờ chấp nhận,
chỉ có
ngày nay Đại Thừa chấp
nhận
và vì thế những ngƣời tu
sĩ Đại Thừa có một nếp sống
và những việc
làm mơ hồ ảo tƣởng, mê tín lạc hậu, bùa chú thần
thông pháp thuật cũng giống nhƣ những Bà La Môn ngày xƣa đã nói ở trên. Còn Đức Phật thì cho những tu sĩ
đó là Ma Ba Tuần đang phá
và diệt Phật Giáo.
Qua bài kệ
này
chúng ta thấy rõ ràng Đức Phật đã tự cho
mình là Bà La Môn “Ta gọi Bà La Môn” theo nghĩa Bà La Môn phải là những bậc:
“Bậc trâu chúa,
thù thắng
Bậc anh hùng, đại sĩ.
Bậc chiến
thắng,
không nhiễm
Bậc tẩy sạch, giác ngộ”.
Nhìn vào tiêu chuẩn bốn bậc Bà La Môn ở trên đây thật
khó
cho một ngƣời không có quyết tâm
cao,
không có nhiệt tâm nồng cháy trong việc đi tìm đƣờng giải thoát, đi tìm đƣờng liễu sinh thoát tử trở thành những bậc này. Phải không hỡi
các bạn?
LỜ I P H ẬT DẠ Y
BẢY DIỆU PHÁP
I – “Vị Thánh đệ tử có lòng tin, có lòng tin ở sự giác ngộ của Nhƣ Lai: Ngài là bậc: A La Hán; Chánh Đẳng Giác; Minh
Hạnh
Túc; Thiện Thệ; Thế gian Giải; Vô Thƣợng sĩ; Điều
Ngự Trƣợng Phu; Thiên Nhân
Sƣ; Phật; Thế Tôn”.(10 danh hiệu).
II – “Vị này có lòng tàm, tự xấu hổ vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự
xấu hổ
vì thành tựu ác,
bất thiện pháp”.
III – “Vị này
có
lòng quý, tự sợ hãi vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự
sợ hãi
vì thành tựu ác,
bất thiện pháp”.
IV- “Vị này là vị đa văn, nhớ nghĩ những điều đã nghe, tích tụ những điều đã nghe. Những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có văn nói lên phạm hạnh hoàn toàn đầy
đủ thanh tịnh, những pháp nhƣ vậy, vị ấy nghe nhiều, thọ trì đọc tụng bằng lời đƣợc trí suy tƣ, đƣợc chánh kiến thể nhập”.
V- “Vị ấy sống tinh cần tinh tấn,
trừ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh
nặng
đối với các thiện pháp”.
VI- “Vị ấy có niệm, thành tựu niệm tuệ tối thắng, nhớ lại,
nhớ lại nhiều lần những gì đã làm từ lâu, đã nói từ lâu”.
VII- “Vị ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, thành
tựu Thánh thể
nhập
đƣa đến đoạn tận khổ đau”.
“Này Mahanama, nhƣ vậy vị Thánh đệ tử thành tựu bảy vi
diệu pháp”. (Trung
Bộ Kinh, tập 2, trang 44).
CH Ú GIẢ I:
Bƣớc vào Đạo
Phật
lòng
tin là pháp môn đầu tiên để
chúng ta dùng nó mà xung trận đánh dẹp giặc sinh tử luân hồi.
Nếu thiếu lòng tin tức là các bạn không có tinh thần chiến đấu.
Trong đoạn kinh này chúng ta còn thấy thiếu hai danh hiệu của Phật
nữa
là: Nhƣ Lai và Ứng Cúng. Nhƣ vậy, Đức Phật có 12 danh hiệu, mỗi danh hiệu nói lên đƣợc Đức Hạnh và
Trí Hạnh của
Phật. Vì thế lòng
tin của chúng ta
là tin nơi “Đức Hạnh” và “Trí Hạnh” của một
bậc tu chứng, chứ không phải tin nơi thần thông pháp thuật hay ngồi thiền nhập định giỏi.
Chúng ta nên đọc
trở
lại 12 danh hiệu Đức Hạnh và Trí Hạnh của Ngài để hiểu rõ ý nghĩa đạo đức của Phật Giáo
thật là cao thƣợng và
tuyệt vời, nhƣng vẫn
ở trong tầm
tay của mọi ngƣời, ai cũng có thể
sống
đƣợc đức hạnh này, chỉ cần có sự quyết tâm: “Vị Thánh đệ tử có lòng tin ở sự giác
ngộ
của Nhƣ Lai, Ngài là bậc: 1- Nhƣ Lai; 2- Ứng cúng; 3- A La Hán; 4- Chánh Đẳng Giác; 5- Minh Hạnh Túc; 6- Thiện Thệ; 7- Thế gian Giải; 8- Vô Thƣợng sĩ; 9- Điều Ngự
Trƣợng Phu;
10-
Thiên Nhân Sƣ; 11- Phật; 12- Thế Tôn”.
Đạo Phật dạy
chúng
ta tin vào một sự có thật, đó
là đức hạnh. Đức hạnh là hành động sống không làm khổ mình khổ ngƣời và khổ tất cả chúng sanh hằng ngày của mỗi con ngƣời.
Chúng tôi đã giải thích nghĩa lý đức hạnh của mỗi danh
hiệu
trong 12 danh hiệu này để các bạn thông suốt mà đặt
trọn
vẹn lòng tin với nền đạo đức nhân quả -
nhân bản của
Đạo Phật một cách sâu xa
và không bị thối chuyển lòng
tin ấy.
Sau khi có đƣợc lòng tin thì chúng ta tập tu pháp thứ hai.
Pháp thứ hai đó là
phải tu tập tính xấu hổ.
Một con ngƣời
không biết
xấu hổ là một con thú vật các bạn ạ! Các bạn có thấy
điều này không? Bởi vì làm ngƣời mà không tu tập
xấu hổ thì sẽ
lùi
lại làm con thú vật. Nhờ có tính xấu hổ mà
con ngƣời càng
ngày
càng tiến hóa,
tiến hoá trên mọi mặt. Xấu hổ
có nhiều
cách:
1/ Nghèo thua kém ngƣời khác là
xấu hổ.
2/ Làm ăn thua ngƣời khác là xấu hổ.
3/ Học hành không bằng bè bạn là xấu
hổ.
Những ngƣời biết xấu hổ là những con
ngƣời biết vƣơn lên,
biết
làm cho tốt hơn, biết cố gắng học tập cho giỏi hơn, biết
tự sửa mình làm cho có đạo đức hơn. Cho nên, tính xấu hổ
là một đạo đức cao đẹp giúp con ngƣời vƣợt ra khỏi loài
thú vật. Ở đây Đức Phật lấy pháp xấu hổ làm pháp tu tập
sửa mình để thăng hoa đạo đức làm ngƣời. Cho nên Ngài
dạy: “Vị này có lòng tàm,
tự xấu hổ vì thân ác hạnh,
khẩu
ác hạnh, ý ác hạnh, tự
xấu hổ
vì thành tựu ác,
bất thiện pháp”.
Bài pháp thứ hai này Đức Phật dạy chúng ta nên tự xấu hổ
với
những hành động ác, tức là hành động của thân làm khổ
mình, khổ ngƣời và
khổ chúng sanh.
Ví dụ 1: Khi chúng ta lấy tay, chân hay gậy, đá đánh ngƣời hoặc
chó, gà, heo, dê, lừa, ngựa, bò, trâu, v.v... làm cho
chúng đau khổ hay đến chết thì chúng ta nên tự xấu hổ vì những hành động độc ác đó. Hành động ác đó không phải
là hành động của một
con
ngƣời thật ngƣời, hành động nhƣ vậy là hành động của một con thú vật. Ta là con ngƣời thì ta phải xấu hổ với những hành động không xứng đáng là
con
ngƣời. Con ngƣời là con ngƣời thì còn không làm khổ
thú vật, huống là làm
khổ con ngƣời. Phải không các bạn? Cho nên Đức Phật dạy: “Tự xấu hổ vì thân ác hạnh”. Xấu
hổ vì hạnh ác của thân.
Ngƣời biết xấu hổ với hành động ác là ngƣời biết chừa bỏ,
không hề tái phạm
lại những hành động ác đó nữa. Ngƣời
ấy sẽ
trở thành ngƣời tốt, ngƣời ra khỏi ác pháp. Ngƣời ra
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!