Tóm lại, Phật
pháp là dành riêng cho những người sống trong thiện pháp, chứ không phải để cho
những người sống trong ác pháp.
Câu thứ sáu: Đức Phật dạy: “Phật pháp để cho
người thiền định không phải
để cho người không thiền
định”. Người tu theo Đạo Phật cần nên lưu ý và hiểu cho rõ nghĩa này.
Thiền định nghĩa là gì?
Thiền định của
Phật giáo Nguyên Thủy là nói ly dục ly
ác pháp,
nói rõ nghĩa
hơn là ở trong niệm thiện vô lậu. Vậy niệm thiện vô
lậu nghĩa là gì? Là
tâm đã muội
lược lìa xa, từ bỏ tham, sân, si, mạn, nghi v.v..
Theo
nghĩa của Đại Thừa và Thiền
Tông, thì thiền định là ở chỗ tâm không có vọng
tưởng, như kinh Kim Cang đã dạy: “Ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm”,
Thiền Tông dạy: “Chẳng
niệm thiện niệm
ác, bản lai diện mục
hiện tiền”. Đó là thiền
định ức chế tâm, rơi vào
trạng thái tưởng
không niệm, chứ
không phải thiền
định xả tâm, theo
như Phật giáo Nguyên Thủy.
Thiền định của
Phật giáo Nguyên Thủy, mà đức Phật đã xác định trong Bát Chánh Đạo: Chánh định
là Bốn thiền hữu sắc, còn gọi là Tứ
Thánh Định,
ngoài Tứ Thánh Định này, thì thiền định
nào cũng
không được gọi
là Chánh định cả. Cho nên, Bốn định
vô sắc thường được ghép chung vào Tứ Thánh
Định. Đó là ngoại đạo ghép vào để đánh lừa tín đồ Phật
giáo. Bốn Định Vô Sắc là thiền định của
ngoại đạo, là loại thiền định tưởng chứ không phải của Phật giáo.
Nhưng các Tổ sau
này không tu tập đến nơi, đến chốn, không hiểu nó là thiền định
tưởng, cho nên lầm tưởng bốn Định
Vô Sắc
là thiền định của Phật
giáo. Đã thế
khi kết tập kinh sách không
có vị Trưởng
lão nào chứng quả
A La Hán,
nên theo sự
nghĩ tưởng phàm phu
của các Tổ
mà sắp thành
chín lớp thiền định như kinh sách
Đại Thừa và
ngay trong tạng kinh tạng
Pali. Đó là một sự lầm lẫn rất lớn
trong kinh sách Phật
giáo hiện nay.
Khi đức Phật tu nhập xong
các loại thiền
tưởng này, Ngài thấy nó chẳng có lợi ích, nên ném bỏ như một
chiếc giày rách,
thế mà người
sau nhặt nó vào, để làm sống lại
thiền định ngoại đạo này.
Như chúng ta
đã biết thiền định của Phật là loại
thiền định xả tâm,
vì thế phương pháp tu thiền
định này là Tứ
Chánh Cần, ngăn
ác diệt ác pháp trên bốn chỗ
trong thân ngũ uẩn:
Thân, thọ,
tâm, pháp. Khiến cho bốn
chỗ này được thanh thản, an lạc
và vô sự.
Phật lấy chỗ
tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ làm mục đích giải thoát cho con đường
tu tập của mình. Cho nên, người tu tập ngăn ác diệt ác pháp là người tu tập thiền
định của Phật.
“Phật
pháp để
cho người thiền định”. Lời
dạy này có
nghĩa: Người nào sống biết nhẫn
nhục, tùy thuận,
bằng lòng, ăn, ngủ, độc cư, trầm lặng là người có thiền định, tức
là người biết ngăn ác diệt ác pháp. Còn người nào không ngăn ác, diệt ác pháp
là người không tu tập Phật pháp được. Cho nên, Phật nhắc nhở chúng ta:
“không phải để cho
người không thiền định”.
Vậy người thiền
định như thế
nào?
Như trên
đã nói: người
thiền định của Phật giáo không phải là người ngồi kiết
già, ức chế tâm cho hết
vọng tưởng. Người
thiền định của Đạo Phật là người biết
buông xả các ác
pháp, là người biết yểm ly tham, sân, si, biết thiểu dục
tri túc, biết sống độc
cư trầm lặng một mình. Người nào sống được tâm thiền định như vậy thì Phật
pháp mới là
pháp môn dành riêng cho họ. Ngược lại, ai sống không
có thiền
định như vậy thì Phật
pháp không phải
là pháp môn cho họ tu tập.
Những người
về tu viện Chơn Như thường sống không đúng hạnh độc cư, không chịu xả tâm, thường
ức chế tâm, khi đi kinh hành cũng như ngồi hít thở, thích tập họp nói chuyện.
Đó là những người không có thiền định.
Đức Phật
đã xác định:
“Người thiền định của Đạo Phật
là người cạo bỏ râu tóc, đắp y phấn tảo, sống không nhà cửa,
không gia đình, thiểu dục tri túc, ba y một bát, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không”. Người
có một đời sống
như vậy là người thiền
định của Phật giáo. Vì thế, pháp môn của Phật là để dành cho những người như vậy. Và những người
như vậy là những người đáng thừa hưởng pháp môn giải thoát của Đạo Phật. Chúng
tôi xin nhắc lại để quý bạn ghi nhớ: “Phật pháp để cho người thiền định, không phải
để cho người không thiền định”. Khi vào
tu viện Chơn Như
thì các bạn nhớ lấy lời
này, chứ không phải các bạn đến đây nghỉ mát dưỡng bệnh.
Câu thứ bảy: Đức Phật dạy: “Phật pháp
để cho người
thiện tuệ, chứ không phải để
cho người có
ác tuệ”.
Người tu
theo Đạo Phật cần nên lưu ý và hiểu cho rõ nghĩa này. Thiện tuệ nghĩa là gì?
Thiện tuệ của Phật
giáo Nguyên Thủy
là nói tri kiến giải thoát,
nói rõ nghĩa
hơn nó là Chánh
tư duy. Vậy Chánh
tư duy nghĩa là gì?
Là sự suy tư để lìa xa, từ bỏ, hay yểm
ly tham, sân, si, mạn, nghi, v.v..
Người có
Chánh tư duy là người
có lòng yêu thương người khác, biết
tha thứ mọi sự lỗi lầm của người
khác, biết giúp đỡ những
người bất hạnh trong xã hội.
Người nào có được lòng yêu thương ấy, thì Phật pháp mới là
pháp môn dành riêng cho họ,
còn ngược lại ai có
tà tư duy, có nghĩa
là tâm tính hung dữ,
gian tham, sân hận,
thù oán, ganh
ghét, tị hiềm,
kiêu căng, ngã mạn, xan tham, tật đố, v.v.. thì Phật pháp không
phải để cho họ
tu hành. Chính
vì tà tư duy là ác tuệ. Ác tuệ là
tri kiến suy nghĩ về tham dục,
tri kiến về sân hận, si
mê, ngã mạn, nghi ngờ...
Như trên
chúng tôi đã
nói người có tri
kiến ác là người không thể tu theo Phật giáo được. Cho nên
“Phật pháp để
cho người
thiện tuệ không để
cho người có ác tuệ”.
Các bạn nên
ghi nhớ những lời dạy này.
Câu
thứ tám: Đức
Phật dạy: “Phật pháp
để cho người
không hý luận, chứ không
phải để cho
người ưa hý luận”.
Người tu
theo Đạo Phật cần nên
lưu ý và hiểu cho rõ nghĩa này. Hý luậän nghĩa là gì?
Hý luận
là lời nói giễu cợt, lời
nói bông đùa, lời
nói không có lợi
ích, lời nói
không mang lại kết quả thiết
thực cụ thể,
như trong kinh Bát Nhã dạy: “Quán
Tự Tại Bồ
Tát hành thâm Bát Nhã Ba
La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết
khổ ách”. Đó là lời nói
hý luận. Nói ra
được, nhưng không ai
làm được như vậy. Lời
nói mơ
hồ, trừu tượng,
lời nói uốn
trườn như con lươn, lời nói qua,
nói lại không cụ thể thực tế: “Sắc tức thị
không, không tức thị sắc”.
Người hay
dùng kiến giải
lý luận nghĩa này,
nghĩa kia, thường
dựa vào ý hay lời đẹp của
kinh sách đời hoặc đạo, rồi
đem ra tranh luận hơn thua, để chứng tỏ mình là người lão thông thiên
kinh vạn điển, là người giỏi, người hay.
Người như vậy
là người thích
học hỏi để hý
luận, vấn nạn người khác, để
tỏ ra mình là người thông
suốt kinh Phật
và Thiền định.
Nhưng sự
thông suốt ấy đối với người
chứng
đạo thì họ
là người thông thái “dỏm”.
Những hạng
người hay hý luận như vậy là những người không tu theo Đạo Phật được. Vì Đạo Phật
không phải là đạo hý luận. Người đến thưa hỏi đạo là phải hỏi những điều
tu tập thực tế, để thoát ly sinh tử luân hồi, còn người hỏi đạo theo chữ nghĩa
và những tưởng giải mênh mông điều này, điều khác trên trời, dưới đất để vấn nạn
hơn thua, là những người
hý luận chứ không phải người tu thật sự. Cho nên, “Phật pháp để
cho người không
hý luận, chứ không
để cho người ưa
hý luận”. Vì thế, khi một người đến hỏi đạo mà hỏi chuyện:
“Có thế giới siêu
hình, linh hồn, ma, quỷ
không? Có tái sanh
luân hồi, có
vua Diêm Vương, có Ngọc Hoàng Thượng Đế hay không?”,
những câu hỏi ấy là những câu hý luận. Với những người này các bạn đừng nên đem
Phật pháp bán rẻ cho họ. Vì họ không phải là người tu theo Phật
giáo được. Nên mời họ ra khỏi tu viện, vì tiếp họ mất thì giờ,
không có ích lợi gì. Xin các bạn lưu ý
cho. Đó là những hạng người kiến chấp, ngã chấp.
PHÁP MƠN YỂM
LY
LỜI PHẬT DẠY
“Này các Tỳ Kheo!
Như thật quán với chánh trí tuệ: “Cái
này không phải của tôi,
cái này không phải
là tôi, cái này
không phải tự ngã của tôi’’.
Nếu thấy vậy, này Sona vị đa
văn Thánh đệ tử yểm ly đối với sắc,
yểm ly đối với thọ, yểm ly đối
với tưởng, yểm
ly đối với hành, yểm ly đối với thức. Do yểm
ly vị ấy ly
tham. Do ly tham vị
ấy giải thoát. Trong
sự giải thoát,
khởi lên chánh trí: “Ta đã giải thoát”.
Vị ấy biết rõ:
“Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những việc làm nên làm đã làm, không
còn trở
lui trạng
thái này nữa”.
CHÚ GIẢI:
Theo như lời
dạy trên đây của đức Phật thì pháp môn
tu hành của Phật giáo rất đơn giản. Phải không các bạn?
Chỉ cần biết cách
thức yểm ly thân ngũ uẩn:
sắc, thọ, tưởng,
hành, thức thì tâm
tham, sân, si, mạn, nghi sẽ được ly sạch. Và như vậy thì các bạn sẽ thấy ngay trạng thái giải thoát. Trong
sự giải thoát các bạn biết rất rõ như
lời Phật đã dạy trên: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc làm nên làm
đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
Chỉ cần yểm ly
thân ngũ uẩn
là chúng ta đã tìm thấy sự giải thoát ngay liền. Phải
không các bạn? Nhưng đọc lời dạy
trên đây, các bạn
có biết cách tu tập chưa?
Các bạn
nên mượn lời dạy
cô đọng này, làm câu pháp hướng tâm, thì chúng tôi
tin rằng do sự siêng năng tác ý như vậy,
với một lòngï nhiệt tâm, tha thiết yểm ly ngũ uẩn thì các bạn sẽ thành
công. Đây là con
đường tu
tập duy nhất có một không hai của
Phật giáo.
Pháp môn rất
tuyệt vời, các bạn có biết chăng? Đấy là pháp môn quét tâm các bạn ạ! Hãy siêng năng,
bền chí, gan dạ cầm cây chổi
như lý tác ý mà quét xuôi, quét ngược, quét tới, quét lui, quét chừng nào mà
tham, sân, si bay sạch thì mới thôi.
Phải không các bạn? Tu hành
như một con đại
tượng đi thẳng
không bao giờ ngó lui lại.
Các bạn
hãy cố gắng
tiến lên, tự
mình thắp lên ngọn
đuốc mà đi, tự mình lấy mình làm
chỗ nương tựa,
không nương vào bất cứ một
ai. Chỉ nương
tựa vào chánh
pháp của Phật. Chánh
pháp của Phật
đây rồi, các bạn
nên lưu ý mà tu tập, đừng chùng bước.
CĨ BỐN PHÁP CẦN
NÊN TRÁNH
LỜI PHẬT DẠY
“1- Tránh sự khởi lên do tranh
luận.
2- Tránh sự
khởi lên do chỉ
trích
(nói xấu).
3- Tránh sự
khởi lên do phạm giới.
4- Tránh sự khởi lên do trách
nhiệm”.
CHÚ GIẢI:
Xưa đức Phật
dạy chúng Tỳ Kheo có bốn điều kiện cần
nên tránh, thì đức
hạnh và sự tu tập mới trọn vẹn và
tốt đẹp.
Thứ
nhất: Đức Phật dạy: “Tránh
sự khởi lên do tranh
luận”. Người tu
sĩ Đạo Phật cần
nên tránh tranh
luận, thấy có sự
tranh luận thì nên tránh xa.
Tranh luận
là một cuộc
tranh đấu, đánh đá nhau bằng ngôn ngữ. Vì thế, nó là một cuộc
chiến tranh giết
nhau bằng gươm miệng,
lưỡi đao. Người tu sĩ Đạo Phật lấy tâm từ bi làm
gốc, nên phải tránh xa những
cuộc tranh luận, để thực hiện
lòng từ bi của mình.
Tranh luận sẽ làm mất tình cảm thương mến, vì tranh luận
là phải có sự hơn thua.
Sự hơn thua khiến chúng ta mất bạn thêm thù, vì thế đức Phật dạy: chúng
ta tránh xa sự tranh luận. Tránh xa sự tranh luận khiến tâm chúng ta được an ổn,
cuộc sống yên vui.
Một người muốn
có một cuộc sống bình an, thì xem sự tranh luận là giặc, là kẻ thù, là loài
ác thú,
là sự độc hại,
v.v.. Cho nên, thấy
nơi đâu có sự
tranh luận, thì hãy mau mau tránh xa. Muốn tránh xa được điều này
thì sự im lặng là đệ nhất pháp.
Khi người ta đặt
ra những câu hỏi để vấn nạn, để khởi đầu
cho sự tranh luận hơn
thua, thì chúng ta nên tránh xa và chịu thua họ trước đi. Hoặc
im lặng như Thánh,
hoặc để nghe họ nói gì mặc họ. Ta tập nghe như không
nghe.
Thứ hai: Đức Phật dạy: “Tránh sự khởi
lên do chỉ trích (nói xấu)”.
Người tu sĩ Đạo
Phật cần nên tránh sự chỉ trích, thấy có sự chỉ trích thì nên tránh
xa. Chỉ trích là sự
nói xấu người khác.
Người hay nói xấu người
khác là
người xấu,
là người không
đáng cho chúng ta làm bạn. Nói xấu người có ba cách:
1- Đặt điều ra nói xấu người.
2- Bới móc chuyện xấu của người khác, để tỏ ra
mình là người tốt.
3- Phê bình
chỉ trích những việc làm của kẻ khác, để tỏ ra mình là người thông thái.
Ở đây, đức Phật dạy tránh xa sự chỉ trích, có
nghĩa là chúng ta không nên chỉ trích ai, không
nên nói xấu ai. Thấy ai nói
xấu hay chỉ trích người khác
thì chúng ta nên
xem người chỉ trích và nói xấu đó
là người xấu, cần nên tránh xa họ. Họ là “con
sâu làm rầu nồi canh”, họ là con rắn độc là loài ác thú,
v.v..
Trong câu kinh này dạy: “Tránh sự khởi
lên do chỉ trích (nói xấu)”. Tránh
sự khởi lên, có
nghĩa là khi chúng
ta muốn chỉ
trích một điều gì thì
chúng ta
nên dừng lại liền
không được nói ra và chấm dứt tư tưởng đó vì ý nghĩ tư tưởng đó xấu, ác.
Người tu
sĩ Phật giáo cần ghi nhớ những lời dạy này, không được vi phạm những lời
dạy này, thì mới xứng
là những người
đệ tử của Phật, không riêng gì tu sĩ mà cả cư sĩ nữa.
Thưa các
bạn, ở đây
đức Phật dạy: “Tránh
sự khởi lên do chỉ trích (nói xấu)”. Như vậy
khi chúng tôi
nói: Kinh sách Đại
Thừa, Thiền Tông, Thiền
Minh Sát Tuệ, Tịnh Độ Tông,
Mật Tông và tu sĩ Nam Tông ăn thịt chúng sanh là sai, là không đúng giáo
pháp của Phật dạy. Nói
như vậy chúng
tôi có chỉ
trích hay không?
Thưa các bạn,
các bạn đừng hiểu sai là chúng tôi chỉ trích các hệ phái Phật giáo này, mà là
chúng tôi đang làm một nhiệm vụ chỉnh đốn
lại Phật giáo,
vì chúng tôi
là tu sĩ Phật
giáo không chỉ
trích nói xấu một
tôn giáo nào khác. Còn ở đây, chúng tôi nói ra những gì không đúng của Phật
giáo; nói ra những
rác bẩn đang đầy ắp trong Phật giáo; nói ra để dọn dẹp cho sạch sẽ
ngôi nhà Phật
giáo, thì chúng tôi phải có quyền
chỉnh đốn lại, để giúp cho tín đồ Phật
giáo không còn lầm đường, lạc lối, để giúp
cho mọi người
không có những
thái độ khinh chê Phật giáo,
v.v..
Sau những
năm tháng dài (2548 năm) các Tổ truyền
thừa Phật giáo, từ Đông sang Tây, từ Nam
lên Bắc, mà những người
truyền thừa lại là
những người tu
hành chưa chứng,
chỉ là những học giả, tâm đời
chưa ly dục ly ác pháp,
còn tham
danh, đắm lợi (có
vị còn tham
danh ra làm Quốc sư), nên
sự truyền thừa
có nhiều sai lệch,
từ sự sai lệch của
các vị Tổ sư
này, đến sự sai lệch của các vị Tổ sư khác. Cho đến hôm nay, khi tu xong chúng
tôi như người đứng trên núi cao nhìn
xuống, thấy sự sai lệch
quá rõ ràng. Vì Phật pháp
trường tồn, vì nền đạo đức
nhân bản - nhân
quả của loài
người; vì lợi ích cho chúng sanh
đời sau, buộc lòng chúng tôi phải
nói thẳng và mạnh tay chấn chỉnh
lại toàn bộ giáo
lý của Phật
giáo, những gì đúng của
Phật giáo thì dựng
lại, những gì
sai của Phật giáo
thì ném bỏ. Đó
là việc làm của một người
tu sĩ chân
chánh của Phật
giáo, chứ không phải chỉ trích,
nói xấu các hệ phái Phật giáo,
như hệ phái
Phật giáo này
nói xấu chỉ trích hệ phái Phật giáo khác. Chúng tôi
không phải là hệ phái này chỉ trích nói xấu hệ phái khác. Xin các bạn hiểu cho.
Thưa các bạn! Hiện giờ
chúng tôi không đứng trong các hàng ngũ của hệ phái Phật
giáo nào cả. Chúng tôi là những người
tu sĩ lấy những
lời dạy Nguyên Thủy của Phật
mà tu tập, nên khi thành tựu
trong giáo pháp của Người, chúng tôi biết sự kiến giải và phát triển của các Tổ trong
Phật giáo là
không đúng,
không đem đến lợi ích thiết
thực cho loài người, mà còn làm hao tài, tốn của và
công sức của mọi người một cách nhảm nhí
vô ích. Nhìn thực trạng của
Phật giáo rất
đau lòng và thương
xót cho tín đồ
Phật giáo. Theo
Phật giáo sẽ được những
gì? Đi về đâu?
Thưa các bạn, các bạn chỉ cho?
Một lần nữa,
chúng tôi xin các bạn đừng hiểu lầm là chúng tôi chỉ trích Đại Thừa, Thiền
Tông, Mật Tông,
Tịnh Độ Tông,
Nam Tông, v.v.. mà
chúng tôi chỉ muốn chấn
chỉnh lại Phật giáo
làm cho nó trở thành hiện
thực một giáo trình học và tu tập đạo
đức làm người, không làm khổ mình,
khổ người; học và tu tập để làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt
luân hồi.
Thứ ba: Đức Phật dạy: “Tránh sự khởi
lên do phạm giới”.
Người tu sĩ Đạo Phật
cần nên tránh sự phạm giới, thấy
có ai phạm
giới thì nên tránh xa. Phạm giới là
sự làm mất phẩm
hạnh người tu.
Người phạm giới
là một ác tri thức,
người ác tri thức
không xứng đáng làm thầy, làm bạn của chúng ta. Nhất là
người tu sĩ phạm
giới thì Phật tử nên
xem họ là Ma Ba
Tuần trong Phật
giáo, họ không
phải là người tu
sĩ Phật giáo,
họ là người
đội lốt tu sĩ
Phật giáo, để lừa đảo tín đồ. Nhất là giới hạnh độc cư. Giới
hạnh độc cư trong giới bổn và nằm trong
giới kinh. Trong
Tạng kinh Pali,
đức Phật thường nhắc
đi nhắc lại
giới này rất nhiều lần. Thế mà tu sĩ thời này xem thường
phẩm hạnh này, họ là ma Ba Tuần trong Phật
giáo, họ là những tu sĩ ngoại đạo phá hoại Phật giáo khiến cho mọi người theo
Phật giáo không tu hành được.
Tất cả tu sĩ
và cư sĩ đến tu viện Chơn Như là để tìm
cầu chánh pháp của Phật, là để tu tập cho đạt mục đích giải thoát bốn chỗ:
sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, nhưng họ đều phạm giới, phần
đông không giữ
gìn giới luật trọn vẹn, cho nên chỉ có một thời gian rồi
đành lui bước. Lui bước với một tâm hồn
không thoải mái. Thay vì thực hiện lời Phật dạy, lời Thầy dạy
là: “ly dục
ly ác pháp”, thì họ
lại ôm ác pháp ra đi!?
Giới luật
tuy nghe thấy hiểu biết thì dễ, nhưng sống và
tu tập đúng
thì quá khó khăn. Phải
không các bạn?
Tu sĩ và cư sĩ
về đây tu tập
khép mình trong
giới luật, thì giống
như sung rụng.
Kính thưa các bạn! Giới luật rất là quan trọng trong
cuộc đời tu
hành của mình.
Do đó,
đức Phật đã
xác định đường lối tu tập của Ngài rất
rõ ràng, có từng lớp, có từng cấp bậc. Vậy đường lối của
Đạo Phật có mấy lớp
tu học? Có bao nhiêu cấp bậc?
Đường lối tu
học của Đạo Phật có tám lớp tu học như sau:
1- Chánh kiến
2- Chánh tư duy
3- Chánh ngữ
4- Chánh nghiệp
5- Chánh mạng
6- Chánh tinh tấn
7- Chánh niệm
8- Chánh định
Đường lối Đạo Phật
có ba cấp “Cấp Giới, cấp Định, cấp Tuệ” như sau:
- Cấp I giới
luật gồm có 7 lớp, phải tu học
7 năm.
- Cấp II thiền
định gồm có 4 thiền phải tu học 7 tháng.
- Cấp III trí tuệ
gồm có Tam
Minh, phải tu học 7 ngày.
Và tốt nghiệp
chỉ có một đêm (Nhất dạ hiền).
Xem thế, đường
lối tu học của Phật giáo có khác
nào là một
chương trình giáo dục của Quốc gia. Do chương trình tu học như vậy,
nên đường lối tu tập của Phật giáo
được xem là chân lý của loài người.
Phải không các bạn?
Các bạn có thấy đúng không???
Cho
nên, giới luật là cấp I mà cấp I phải tu học 7 năm thì các bạn biết nó là
quan trọng đến bậc nào? Ngược
lại, cấp II Thiền
Định chỉ có 7 tháng. Như vậy, Thiền Định đâu có khó khăn. Phải không các
bạn? Và nó cũng không quan trọng các bạn ạ!
Vậy mà
tu sĩ thời
nay xem thường
giới luật, phá giới luật,
phạm giới luật, bẻ vụn giới luật. Như vậy có đáng chỉnh đốn lại
không thưa các bạn? Một
hình ảnh Phật
giáo sa đọa như vậy, mà chỉnh đốn trở lại thì các bạn bảo
rằng chúng tôi chỉ trích Đại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh độ Tông,
Nam Tông, v.v.. Các bạn
nói như vậy có đúng không?
Các bạn còn
bảo rằng chúng tôi không ái ngữ với
các hệ phái này. Thưa các bạn! Những lời nói của chúng
tôi rất ái ngữ, vì lòng thương tưởng họ mà
chúng tôi nói,
nếu chúng tôi
không nói, họ làm
sao biết được cái sai,
cái đúng. Phải không các bạn?
Các bạn tu
theo Đạo Phật, là đạo diệt ngã. Vậy khi
được người khác chỉ thẳng cái
sai của mình (phạm
giới, phá giới)
thì thái độ tu tập
của các bạn tiếp nhận sự
việc ấy như thế nào? Lòng
tốt của chúng
tôi đã biến
thành hạt cát trong mắt các bạn. Có phải vậy không?
Thưa các bạn! Các bạn
còn bảo rằng: chúng
tôi bác sạch
những cái sai của các hệ
phái Phật giáo này, thì Phật giáo còn cái gì?
Thưa các bạn,
như trên chúng tôi đã nói: Phật
giáo còn lại
ba cấp tu học (Giới,
Định, Tuệ) và tám lớp học
(Bát Chánh Đạo).
Đó là bốn chân
lý của Đạo Phật (Tứ Diệu đế).
Như vậy Đạo Phật có mất không, thưa các bạn? Còn những gì
chúng tôi đập
phá của các hệ phái này
có phải là của Phật
giáo không? Xin
các bạn cứ xét lại xem: Cúng bái, tụng, niệm, cầu siêu, cầu an, xin xăm,
bói quẻ, xem ngày giờ tốt xấu cất nhà,
xây mồ mả, dựng
vợ gả
chồng, cúng sao giải hạn,
trị bệnh, trừ
tà, yểm quỉ, Cực Lạc, Thiên Đàng, Phật tánh, ngồi thiền
ức chế tâm, v.v.. Những cái này có phải của Phật giáo không? Xin các bạn trả lời
đi!
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!