BA MƯƠI BẢY
PHẨM TRỢ ĐẠO
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
BA MƯƠI BẢY
PHẨM
NHÀ XUẤT BẢN
TÔN GIÁO
SÁCH BIẾU
KHÔNG BÁN
Ba Mươi Bảy Pháp Trợ
Đạo” là một
bảng thống kê các
pháp tu hành của đạo Phật,
từ người sơ cơ mới bắt đầu tu tập cho đến khi chứng đạo,
có
đầy đủ
37 pháp
hành, từ dễ đến khó và lý
giải rành mạch rõ ràng.
Vì thế bài
kinh này có tên
là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo có nghĩa là ba mươi bảy pháp môn giúp cho người tu chứng đạo.
Người
có hiểu biết Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo là người tu tập không bao giờ sai đường lạc lối của Phật giáo.
Vì thế trước tiên muốn tu tập theo Phật giáo chúng tôi xin khuyên quý vị hãy nghiên cứu kỹ ba mươi bảy phẩm trợ
đạo rồi mới tu tập.
Khi đã thông suốt
Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo thì không có pháp môn nào của ngoại đạo mạo
nhận là của Phật giáo để lừa gạt quý vị được.
Ngoài Ba
Mươi Bảy phẩm
Trợ Đạo này
trong
đạo Phật không còn có một pháp
môn nào khác nữa. Nếu có
pháp môn nào khác ngoài ba mươi bảy pháp môn này là pháp môn của ngoại đạo. Đó là điều chắc chắn mà đức Phật
đã xác định như vậy.
Bởi các
pháp môn
của ngoại đạo không bao giờ có
pháp môn nào giống
như trong Ba Mươi Bảy Pháp
Môn Trợ Đạo này.
Quý vị hãy
xem xét lại pháp môn Tịnh Độ thuộc hệ phái Bắc
Tông dạy tu hành bằng cách nhiếp tâm chuyên ròng
câu Niệm Hồng Danh Phật Di Đà. Phật
Di Đà là một đức Phật tưởng tượng của Đại Thừa, chớ
Phật Di Đà không có thật. Vì thế
khi niệm Phật được nhất tâm tức là ức chế
ý thức không còn
niệm khởi
nên tưởng thức hoạt động, do
đó
người niệm
Phật liền thấy cảnh giới Tây phương cực lạc.
Thiền
Tông cũng bắt chước niệm Phật để được nhất tâm. Khi nhất tâm thì ý thức không khởi niệm vọng tưởng thì Thiền
Tông gọi là thiền định.
Khi không
có niệm khởi vọng tưởng liền gọi là Thiền định. Thiền định như
vậy chỉ là Thiền định của ngoại đạo, chớ
Thiền định của đạo Phật không phải vậy, khi một người tu hành
theo Phật giáo phải ly dục ly bất thiện pháp trải qua
các pháp Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ. Khi
chứng được tâm Tứ Niệm Xứ thì mới có đủ
Tứ Thần
Túc, khi có đủ Tứ Thần Túc thì mới có đủ khả
năng nhập Tứ Thánh Định, còn chưa có Tứ
Thần Túc
mà nhập Thiền định, đó là Thiền định
của Thiền
Tông Trung Quốc.
Trải
qua trên 10 năm tu tập những pháp
môn này, chúng tôi đã đạt được
nhất tâm bất loạn từ ngày này sang ngày
khác, nhưng khi xả ra thì xét lại tâm mình
vẫn còn tham, sân, si, mạn, nghi.
Biết rõ như vậy, chúng tôi đành bỏ không tu tập nữa.
Trong khi
nghiên cứu Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo chúng tôi thấy Đại
Thừa và Thiền Tông không có pháp môn nào giống như Ba Mươi Bảy
Pháp của Phật. Do đó chúng tôi biết ngay các Tổ hệ phái phát
triển tưởng giải tạo ra những pháp môn tu tập ức chế ý
thức, làm cho hết vọng tưởng. Ngược lại đức Phật dạy: “Ý dẫn
đầu các pháp. Ý làm chủ.
Ý tạo tác”. Đạo Phật không diệt
ý thức mà còn sử
dụng ý thức
để tạo thành lực Tứ Thần
Túc, Nhờ lực Tứ
Thần Túc mới làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết.
Cho nên Phật
giáo Thiền Tông Trung Quốc dạy:
kiến tánh thành Phật, chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền, biết vọng không theo
hay biết vọng liền buông, chăn trâu,
tham thoại đầu, tham công án, khởi nghi
tình v.v…Những pháp hành này trong kinh sách
Nguyên thủy Phật không có dạy. Vậy
mà các Tổ Trung Quốc dám cả gan mạo nhận
là Phật thuyết.
Phật giáo Nam Tông Miến Điện dạy tu
tập thiền Minh Sát Tuệ bằng pháp môn nhiếp tâm phình xẹp nơi cơ bụng.
Phật giáo Mật
Tông Tây Tạng,
các vị Lạt
Ma dạy niệm các thần chú ức chế tâm để tưởng thức hoạt động xuất hiện cầu vồng, đó
cũng là các thức lừa đảo tín đồ phật tử.
Đem tất cả
các pháp môn này so sánh
với Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo của Phật giáo
thì chúng ta không thấy có một pháp
môn nào giống pháp môn của Phật giáo cả. Và như vậy chúng tôi xác định các pháp môn này không phải của Phật
giáo là đúng không sai. Các pháp môn này đều là của tà giáo ngoại đạo, xin quý vị
lưu ý.
Cho nên các hệ phái
tôn giáo do các tổ Trung Quốc
thành lập, cứ đem
pháp môn tưởng giải của mình rồi
gắn nhãn hiệu Phật giáo để lừa đảo
tín đồ
Phật giáo.
Một người
sơ cơ
mới vào đạo như quý vị
phật tử làm sao
thấu hiểu pháp nào của Phật giáo
và pháp nào của các tổ. Cho nên rất dễ lầm lạc vì lừa dối của
các tổ Trung Quốc.
Làm điều này
các tổ sơ sót quên nghiên cứu
Ba Mươi Bảy Phẩm
Trợ Đạo của Phật giáo nên
khi phật tử đã am tường giáo pháp
này thì các tổ đã đánh mất niềm tin với
tín đồ. Chính vì thế mà chúng tôi không còn tin kinh sách
phát triển nữa.
Các tổ theo lối mòn kiến
tưởng giải của các sư tổ
mình trước kia tự dựng lên một
sự giả dối
ngoài sức tưởng tượng của con
người. Họ cho rằng Phật giáo
có 84 ngàn pháp môn. Gom hết các pháp của tất cả
tôn giáo trên hành tinh này cũng
không
có tới
1.ooo pháp môn huống hồ lại có
đâu
tới 84 ngàn
pháp môn.
Cái sai của các Tổ
sư Thiền Tông Trung Quốc cố đặt ra pháp
môn rồi gán cho
Phật giáo là không ai bắt bẻ.
Nhưng Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo đã xác định đạo Phật có 37
pháp môn
chớ không
hơn.
Thiếu
nghiên cứu về Phật giáo nên các tổ quên
rằng đức Phật chỉ dạy tu tập ba
bảy pháp môn mà thôi, ngoài ra không có pháp môn
nào nữa cả. Cho nên các hệ phái tôn giáo, của Trung Quốc, Nhật Bản, Đại Hàn, Tây Tạng, Ấn Độ
v.v... hay bất cứ
một nước nào trên thế giới cũng không lừa gạt được quý vị.
Như vậy
chúng ta biết rất rõ Thiền
Tông và Tịnh
Độ Tông là Phật giáo
Trung Quốc
hoàn toàn chịu ảnh hưởng tinh
thần tư tưởng
và pháp hành của Nho giáo và Lão giáo.
Cho nên Phật giáo Trung Quốc cũng không phải Phật giáo chuyên ròng của Phật
giáo. Nhưng xét qua góc độ Nho
giáo thì Nho giáo cũng không phải là Nho giáo
chuyên ròng và Lão
giáo cũng vậy nó cũng không chuyên
ròng là Lão giáo. Cho nên Phật
giáo truyền sang qua Trung Quốc đã bị
ảnh hưởng với Nho giáo thì gọi là Đại Thừa, đã bị ảnh thưởng với Lão giáo thì
gọi là Tối Thượng Thừa.
Như vậy, những
pháp môn của
các giáo phái này không phải là của
Phật giáo chánh tông, vì nó đã bị
lai căng theo Nho giáo và Lão giáo của Trung Quốc.
Từ khi Phật
giáo Trung Quốc
truyền sang
qua Việt Nam đến nay chưa có một vị Hòa Thượng nào làm chủ sinh, già,
bệnh, chết như đức Phật, thường
quý vị chết trong bệânh tật đau khổ.
Khi hiểu biết
được như vậy chúng ta muốn tu theo Phật
giáo thì phải nghiên cứu kinh sách Nguyên Thủy do Hòa Thượng Minh Châu dịch
ra Việt ngữ.
Trưởng Lão
Thích Thông Lạc kính ghi
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo gồm có
theo thứ tự
tu tập từ các pháp thấp đến các pháp cao
như sau:
- NGŨ CĂN gồm
có:
1- Nhãn căn
2- Nhĩ căn
3- Tỷ căn
4- Thiệt căn
5- Thân căn
- NGŨ LỰC gồm
có:
1- Tín lực
2- Tấn lực
3- Niệm Lực
4- Định lực
5- Tuệ lực
- TỨ VÔ LƯỢNG
TÂM gồm có:
1- Từ Vô Lượng
Tâm
2- Bi Vô Lượng
Tâm
3- Hỷ Vô Lượng
Tâm
4- Xả Vô Lượng
Tâm
- TỨ BẤT HOẠI
TỊNH gồm có:
1- Niệm Phật
2- Niệm Pháp
3- Niệm Tăng
4- Niệm Giới
- TỨ CHÁNH CẦN
gồm có:
1- Ngăn ác
2- Diệt ác
pháp
3- Sinh thiện
4- Tăng trưởng
thiện pháp
- TỨ NIỆM XỨ
gồm có:
1- Quán thân
2- Quán thọ
3- Quán tâm
4- Quán pháp
- THẤT GIÁC
CHI gồm có:
1- Niệm Giác
Chi
2- Tinh Tấn Giác Chi
3- Khinh An
Giác Chi
4- Hỷ Giác
Chi
5- Định Giác
Chi
6- Xả Giác
Chi
7- Trạch
Pháp Giác Chi
- TỨ
NHƯ Ý
TÚC gồm có:
1- Dục Như
Ý Túc
2- Tinh Tấn Như Ý
Túc
3- Định Như
Ý Túc
4- Tuệ Như
Ý Túc
Bảng tóm lược trên
đây đầy đủ Ba
Mươi Bảy Phẩm
Trợ Đạo.
Bài pháp thứ nhất
NGŨ CĂN gồm
có:
1- Nhãn căn
tức là hai con mắt.
2- Nhĩ căn tức
là hai lỗ tai.
3- Tỷ căn tức
là hai lỗ mũi.
4- Thiệt căn
tức là lưỡi miệng.
5- Thân căn
tức là cơ thể.
Trên đây là
NĂM CĂN trong cơ thể của chúng ta,
nó thường phóng
dật chạy theo sáu trần tạo
ra muôn
vàn sự đau khổ cho
chúng ta, nên đức Phật dạy phương pháp đầu tiên là lấy NĂM CĂN tu tập. Đối
với người mới bước chân vào đạo Phật mà không
tu NĂM CĂN là
tu tập sai
pháp. Người mới vào tu tập mà lo tập ngồi thiền nhập định là không biết
pháp tu.
Cho nên bất cứ một người
nào mới đến với đạo Phật đều phải
nghiên cứu Ba Mươi
Bảy Phẩm Trợ
Đạo. Ba Mươi
Bảy Pháp Môn này còn ghi chép trong kinh sách Nguyên Thủy
được lưu giữ
cho đến ngày
nay.
Tóm lược
pháp môn tu NĂM CĂN là pháp môn ĐỘC CƯ, đó là pháp để bảo vệ và hộ trì:
1- Hai con mắt
2- Hai lỗ
tai
3- Hai lỗ
mũi
4- Miệng
5- Thân
Muốn bảo vệ giữ
gìn NĂM CĂN ấy được thanh
tịnh thì không nên phóng dật. Muốn tâm không phóng dật thì phải sống MỘT
MÌNH. Sống MỘT MÌNH là phương pháp
tu tập NĂM
CĂN. Nhờ sống
MỘT MÌNH nên NĂM CĂN
không tiếp xúc với
các duyên bên ngoài mà
kinh sách Phật giáo
gọi là NĂM TRẦN (chỗ
này dùng năm căn nên dùng năm trần,
còn chỗ nào dùng sáu căn mới dùng sáu trần). Năm trần gồm
có:
1- Sắc là tướng
mạo hình sắc của vạn vật trong
vũ trụ như
cây cỏ, đất
đá, núi sông, các loài vật lớn hay nhỏ và con người.
2- Thinh là
âm thanh, tiếng nói, tiếng kêu, tiếng
khóc, tiếng rên,
tiếng la hay tiếng hét v.v...
3- Hương là
mùi thơm mùi thối, mùi thơm nồng nực hay mùi thối khó chịu.
4- Vị là
có mùi vị ngọt, bùi, cay, đắng, mặn, lạt.
5- Xúc là va
chạm, sờ mó, rờ rẫm, xoa
bóp.
Khi muốn sống MỘT
MÌNH cho được trọn vẹn thì phải
dùng pháp NHƯ LÝ TÁC Ý thường xuyên tác
ý lôi các căn vào trong thân như sau:
1- Mắt phải
nhìn vào trong thân.
2- Tai phải
nghe vào trong thân.
3- Mũi phải
ngửi mùi trong thân.
4- Lưỡi phải
nếm vị cay, đắng, ngọt, bùi, mặn, lạt trong thân (miệng).
5- Thân
phải cảm giác
nóng, lạnh, mát mẻ, đau nhức
trong thân.
Và cuối
cùng tác ý:
năm căn không được nhìn, nghe, ngửi, nếm, cảm giác
năm trần bên ngoài mà hãy quay vào nhìn,
nghe, ngửi, nếm, cảm giác trong thân.
Đó là
cách thức tu tập để
giữ gìn hạnh ĐỘC CƯ sống không bị
phóng tâm, phóng dật.
Nếu người
nào vào tu viện mà không giữ hạnh ĐỘC CƯ trọn
vẹn thì nên xin về
để ở trong gia đình tu tập lại. Khi nào sống ĐỘC
CƯ được thì
hãy xin vào
tu viện tu tập,
còn chưa sống được độc cư thì
nên ở
trong gia
đình tu pháp xả tâm ly dục ly bất thiện
pháp.
ĐỘC CƯ là
pháp phòng hộ
năm căn như chúng tôi đã nói ở trên, pháp môn ĐỘC CƯ này rất
quan trọng. Nhận xét
người tu sĩ nào giữ gìn hạnh ĐỘC
CƯ trọn vẹn là người tu sĩ tu tập có kết quả tốt, còn những vị nào
phá hạnh ĐỘC CƯ thì
biết ngay họ không tu tập được
nên cho họ về sống đời đạo đức nhân bản - nhân quả trong gia
đình còn có lợi ích cho mình cho người
hơn.
Bắt đầu
vào tu pháp
môn NGŨ CĂN là
phải sống ĐỘC CƯ
nên biết
ngay người tu được hay không tu được. Vì có sống ĐỘC CƯ là tu tập được, còn không sống ĐỘC
CƯ là tu tập không
được. Ở tu viện
phần đông tu sĩ và cư sĩ đều rớt ở giai đoạn đầu tu tập phòng hộ NĂM
CĂN này.
Bài pháp thứ
hai
Ngũ lực gồm
có:
1- Tín lực
2- Tấn lực
3- Niệm lực
4- Định lực
5- Tuệ lực
Khi tu tập pháp
môn NĂM CĂN ở trên
tức là dùng
ý thức giữ
gìn mắt, tai, mũi,
miệng, thân thanh
tịnh không cho NĂM CĂN chạy theo năm trần thì chúng ta đạt được năm thành quả, đó là NGŨ LỰC. NGŨ LỰC
là pháp thứ II
mà trong kinh sách Nguyên Thủy còn ghi lại và lưu giữ
cho đến ngày nay.
Tóm lược
pháp tu tập
NGŨ LỰC, trước tiên
chúng ta muốn
tu tập TÍN LỰC
thì phải
hiểu nghĩa rõ ràng.
TÍN LỰC có nghĩa là lòng tin sâu sắc đối với Phật
pháp không bao giờ thay đổi, lòng
tin bất di bất dịch dù
cho ai chống trái bài bác
Phật giáo chúng ta
cũng không bao giờ
nghe, không bao giờ thay
lòng đổi dạ, chỉ biết
tin vào pháp Phật.
Muốn có được lòng tin như vậy thì chúng ta phải sinh ra cùng
thời với đức Phật ra đời hoặc phải sinh làm người được
gặp một
bậc tu chứng
cũng làm chủ
sinh, già, bệnh, chết như Phật.
Đó là
điều cần thiết
tạo nên TÍN LỰC, nếu
không có điều
kiện này thì dù
muốn dù
không lòng tin của chúng ta không mạnh mẽ, chỉ tin một cách cạn cợt.
Người không
đủ lòng tin dù
có tu tập đúng pháp
của Phật thì
cũng chỉ tu tập
lấy có, thường phá hạnh độc
cư, đi nói chuyện người này đến người khác. Những người
này hiện thân là MA BA TUẦN trong Phật giáo thường đi đến thất người này rồi đến
thất người khác làm
cho mọi người không ai tu
tập được.
Khi thấy
những loại MA
BA TUẦN này thì
quý thầy, quý cô nên
đóng cửa thất không tiếp giao, đừng ở gần nên tránh xa, tránh xa những người này
như tránh xa vi trùng bệnh truyền nhiễm.
Trong chúng
chỉ có một con MA BA TUẦN
thì trong chúng đó phải cẩn thận khi thấy
bóng dáng con MA đó thì nên đóng cửa thất
cho chặt và ngồi thiền nhiếp tâm bất động để vượt qua loài Ma Quỷ.
Những hành động tránh
xa loài MA BA TUẦN
là nói lên
lòng tin của mình đối
với Phật pháp không lay chuyển, còn ngược
lại những người không có
lòng tin hay lòng tin chưa đủ thường mở cửa thất
ra tiếp
duyên. Đó
là những người
thích nói chuyện với những loài ma này. Quý vị nên lưu
ý.
Vì con đường
tu theo Phật giáo không khó nhưng khó là do MA
BA TUẦN cám dỗ quý vị để phá hạnh
ĐỘC CƯ khiến cho tâm quý vị thường bị phóng dật.
Khi có
lòng tin sâu Phật pháp thì quý vị rất
siêng năng tu tập không
bao giờ biếng trễ. Khi có lòng tin thì mới có cố
gắng tu tập. Sự cố gắng nỗ
lực tu
tập hết mình thì gọi là TẤN LỰC. Khi hằng ngày nỗ lực nhiếp tâm tu
tập đúng pháp
không hề sai sót một niệm nào cả, luôn luôn duy nhất
có một niệm TÂM BẤT ĐỘNG từ giờ này đến giờ khác, từ đó niệm này trở thành một
sức lực của niệm nên gọi là NIỆM LỰC. Khi niệm
có lực chúng
ta chỉ cần niệm là
toàn cả thân tâm
chúng ta gom lại
thành một khối duy nhất
không ai làm gì
nó bị phân ra được
nên gọi là ĐỊNH LỰC.
Khi thân tâm gom lại
thành một định lực thì
trong khối định lực đó có một sự
hiểu biết vượt ra khỏi không gian và thời gian. Sự hiểu biết không còn bị lệ thuộc vào
không gian và thời gian được gọi là TUỆ LỰC. Đến đây
chúng ta đã có đủ năm lực.
NGŨ LỰC này
có được là do chúng ta tập NGŨ
CĂN, khi ngũ
căn thanh tịnh
thì NGŨ LỰC xuất
hiện đầy đủ.
Tuy nói vậy chớ trên đường tu tập NGŨ CĂN khi tu tập một
căn nào thanh tịnh thì nơi căn
đó xuất hiện đầy đủ NGŨ LỰC. Cho nên NGŨ CĂN và NGŨ LỰC là những pháp đầu tiên
tu theo Phật giáo, nếu chưa tu tập NGŨ CĂN, NGŨ LỰC
mà tu tập
pháp nào cũng mất
căn bản vì vậy quý vị nên nhớ.
Có nhiều người
bắt đầu tu tập mà không tu tập những pháp căn bản như NGŨ
CĂN và
NGŨ LỰC lại
tu tập thiền
định hoặc niệm Phật
nhất tâm cầu
vãng sinh Cực Lạc Tây Phương hoặc
tham thoại đầu, công án hoặc niệm chú hoặc
tụng kinh Pháp Hoa. Những điều tu tập như vậy chứng tỏ người tu tập không
rõ đường đi lối về của
Phật giáo. Do tu tập
sai pháp như vậy
nên dù có tu tập ngàn đời muôn kiếp
cũng chẳng tu tập đến
đâu. Một bằng
chứng hiện giờ cho chúng
ta biết có bao
nhiêu tu
sĩ cũng như cư sĩ
tu tập hết sức
nhưng cũng chẳng có một người nào tu làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT, vì đó là tu sai pháp không
đúng Phật pháp.
Đọc tiểu sử
DANH TĂNG
VIỆT NAM tập I, tập II có
trên mấy trăm vị cao tăng Việt Nam nhìn lại
chỉ là những nhà học giả nhất là những vị
có lối sống kỳ đặc khác thường
khiến cho người đời tưởng
là chứng đạo,
chớ xét kỹ theo
đúng pháp của Phật
thì chưa có một vị
nào tu tập đến đâu cả. Kinh sách
của các Ngài viết chỉ là kiến giải theo
kinh nghiệm bản
thân của mình không giống chút
nào của Phật dạy, nhất là lặp lại ý nghĩa kinh sách của Tổ xưa để lại,
chỉ là những
lý thuyết suông, không có kinh nghiệm trong tu hành làm chủ sinh, già,
bệnh, chết. Vì thế những kinh sách này toàn là kinh tưởng.
Khi đọc
cuốn DANH TĂNG VIỆT NAM chúng tôi rất xấu hổ, là những
danh tăng Việt Nam chỉ là kiến thức hữu học thế gian huân tập những kiến thức
trong kinh sách Đại Thừa của các học
giả Trung Hoa, chớ
Kinh sách Phật
giáo của Việt
Nam chẳng có cuốn sách nào cả. Ngay cả dòng Thiền lớn nhất của Việt Nam
TRÚC LÂM YÊN TỬ cũng chịu ảnh hưởng
THIỀN TÔNG và TỊNH ĐỘ TÔNG Trung
Hoa. Việc khéo léo thiện xảo của vua Trần Nhân Tông biết hợp hai giáo
pháp của hai
tông phái
lớn nhất của
Trung Quốc này lại lập thành pháp môn tu hành cho dòng thiền TRÚC LÂM Việt Nam.
Có những người không hiểu biết mới hãnh diện cho rằng Việt Nam cũng có dòng
thiền không thua
vì Trung Quốc, chớ kỳ thật Thiền Tông Việt Nam, THIỀN
chẳng ra
THIỀN mà TỊNH
thì chẳng ra TỊNH.
THIỀN gì
mà còn tụng niệm
(Tâm kinh bát nhã).
TỊNH gì mà còn
tham công án, tham
thoại đầu, biết vọng liền
buông. Có lẽ đây là THIỀN TỊNH
song tu, THIỀN TỊNH song tu đó
là lời nói
che đậy sự tu hành
của THIỀN TÔNG
VIỆT NAM bị bế
tắc.
Đọc hết kinh
sách Phật giáo và Thiền Tông Việt Nam chúng tôi chẳng thấy có một cuốn
sách nào là của Việt
Nam cả toàn
là lai căng ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo và Thiền Tông Trung Quốc.
Tại sao một
dân tộc Việt Nam có một nền văn
hóa riêng biệt
không thua vì văn
hóa các nước trên thế giới, thế mà bị ảnh hưởng Phật
giáo Trung Quốc
rất nặng không tự mình vươn lên xây dựng cho mình
một nền
văn hóa đạo đức Phật
giáo mà không chịu ảnh
hưởng Phật giáo Ấn Độ và
Trung Quốc và bất cứ một nước nào mang Phật giáo đến với đất nước chúng ta.
Đọc lịch sử
Phật giáo Việt Nam chúng ta thấy rất
rõ Phật giáo
truyền vào Việt Nam đi vào ba ngõ:
1- Ngõ thứ
nhất từ Trung Hoa đến.
2- Ngõ thứ
hai từ Ấn Độ sang.
3- Ngõ thứ
ba từ Lào, Thái Lan và
Campuchia
sang.
Từ Trung
Hoa truyền đến Việt Nam có hai dòng tư tưởng Phật giáo:
Dòng tư tưởng
thứ nhất, đó là Phật giáo Tịnh Độ Tông
do ảnh hưởng Nho
giáo nên dòng tư tưởng mang tính chất mê tín hoang đường lạc hậu thường
hướng dẫn giới bình dân vì giới này dễ tin.
Như chúng ta
ai cũng biết Phật giáo Tịnh Độ Tông từ
Trung Quốc truyền
sang Việt Nam là
dòng tư tưởng
mê tín. Đó là một Phật giáo không còn nguyên chất Phật giáo Ấn Độ, nó chịu ảnh hưởng tư tưởng
Khổng giáo, Trang Tử Trung
Quốc, mà sinh
ra một
loại Phật giáo
mê tín, lạc hậu
thường lấy sự cúng bái, tụng niệm làm công phu tu hành của mình. Cho nên khi
có bệnh tật hay tai nạn thì tụng kinh cầu an, nếu có người chết làm ma
chay thì tụng niệm kinh cầu siêu.
Khi tụng niệm
kinh cầu siêu thường đánh chuông, khỏ mõ, và trống
kèn, đàn nhạc theo giọng tụng kinh niệm Phật ê, a giống
như ca hát
mà các nhạc
sư gọi NHẠC ĐẠO.
Chính vì muốn ru hồn người vào cảnh mộng nên
các nhà sư Đại Thừa mới xây dựng một
thế giới siêu
hình Cực Lạc
Tây Phương để linh hồn người chết có chỗ
nương tựa. Cho nên lấy sự cúng bái tụng niệm làm đường công phu: Trưa,
chiều, tối khuya, chuông, mõ, trống,
phách, đẩu nhịp nhàng theo giọng tụng niệm cao thấp ngâm nga giống như hát bộ.
PHẬT
GIÁO TỊNH ĐỘ
TÔNG từ Trung Hoa truyền
sang qua Việt Nam gây ảnh hưởng
tư tưởng mê tín rất nặng cho cả một dân tộc Việt Nam cho
đến ngày nay đã trở thành một nếp sống
tư tưởng văn
hóa mê tín lạc hậu.
Cho nên
hiện giờ muốn
bỏ một truyền thống văn hóa mê tín không phải dễ. Đó là một việc
làm hết sức
khó khăn. Trong những
năm phong trào
Việt Minh nổi dậy ra
lệnh cấm dẹp những
mê tín này nhưng khi
phong trào Việt Minh thay
đổi thì nạn mê
tín lại tràn lan khắp nơi còn nhiều
hơn
nữa.
Theo chúng
tôi nghĩ muốn dẹp trừ
tư tưởng Phật giáo mê tín thì
không có gì bằng là nên mở những lớp học đạo đức nhân bản
- nhân quả khiến mọi người am hiểu đâu là chánh tín và
đâu là mê tín. Nhờ có sự
hiểu biết Chánh tín của Phật giáo thì tệ nạn mê tín trong dân
gian sẽ dần dần được
quét sạch. Nói về
tư tưởng mê tín
được truyền thừa lâu đời thì
không có một thế lực hay một
quyền uy nào
mà cấm được,
chỉ có ý thức con người biết nó là mê tín thì mới dẹp bỏ được. Dòng tư tưởng mê tín này đã
trở thành một nền
văn hóa của
dân tộc Việt Nam. Cho nên hiện giờ muốn dẹp bỏ những mê
tín lạc hậu này
thì bắt đầu phải biên soạn
sách giáo khoa đạo đức
nhân bản - nhân
quả từ tiểu học,
trung học và đại học
để giúp
các em am tường những
mê tín lạc hậu đó từ đất nước
Trung Quốc truyền sang.
Dân tộc Việt Nam
đã chịu ảnh hưởng dòng tư tưởng văn hóa của Phật giáo mê tín Trung Quốc
truyền sang mà đến giờ này muốn bỏ mà chưa bỏ được, nhìn cảnh đồng bào dân tộc
chúng ta đã hao tốn biết bao nhiêu tiền
bạc mua vàng
mã để rồi
đem thiêu đốt, nếu hằng năm trong cả nước tính ra phải
tiêu phí có hằng tỷ bạc về vấn đề mê tín lạc hậu này thật là đau lòng.
Dòng tư tưởng thứ hai đó
là Phật Thiền Tông
chịu ảnh hưởng tư tưởng Lão giáo nên dòng tư tưởng này mang tính triết
lý hướng dẫn giới trí thức nên thường dùng lý luận đề cao triết
học TÁNH KHÔNG, nhờ triết học tánh không nên dễ thu
hút giới tri thức.
Phật giáo
THIỀN TÔNG lấy lý luận dẫn chứng khoa học làm chỗ dựa vững chắc nên dễ lừa gạt giới trí thức một cách dễ
dàng, nhất là
khi truyền sang
qua Nhật Bổn được
người Nhật triển
khai tận cùng loại tư tưởng Phật giáo này.
Đại diện
cho Phật giáo Thiền
Tông Nhật Bổn có đại sư SUZUKI, ông đã viết sách thiền làm nổi
sóng các nước Đông Nam Á Châu. Từ năm 1970 đến năm 1980 người ta hướng về
Thiền Tông như làn sóng ào ạt, nhưng từ năm 1980 đến nay làn sóng thiền Tông mới
lần
lần xuống cấp. Bởi vì THIỀN TÔNG
lý luật rất hay nhưng tu chứng đạo thiền thì
không ai tu tập được. Có đạt được
cũng chỉ
lọt vào trạng
thái KHÔNG TƯỞNG.
Qua mọi sự kiện
trên chúng ta nên
lưu ý
pháp môn nào
tu tập được
và pháp môn nào tu tập không được.
Mục đích tu tập của Phật giáo không phải diệt ý thức. Vì ý thức vốn là điều kiện
cần thiết cho sự làm chủ thân tâm
nên đức Phật
Thích Ca Mâu Ni dạy: “Ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp”. Nếu ý
thức bị ức chế như Tịnh
Độ Tông, Thiền Tông và Mật Tông thì
đó là tu tập sai pháp của Phật giáo.
Phật giáo lấy ý thức dẫn tâm
vào đạo. Cho
nên đạo Phật mới
có pháp môn
NHƯ LÝ TÁC
Ý như lời đức Phật đã dạy trong kinh LẬU HOẶC:
“CÓ NHƯ
LÝ TÁC Ý LẬU HOẶC
CHƯA SINH SẼ KHÔNG SINH MÀ ĐÃ SINH
THÌ
BỊ DIỆT”. Câu này
dạy quá rõ ràng, nhờ đó chúng ta mới biết Phật giáo Thiền Tông và Phật giáo Tịnh
Độ Tông Trung Quốc không phải là Phật dạy
mà do các tổ
Trung Quốc tu hành chưa tới nơi tới
chốn rồi kiến giải viết ra kinh sách theo kinh nghiệm tu tập của mình.
Khi văn
hóa Phật giáo
từ Ấn Độ truyền sang thì người Trung
Quốc mượn nền văn hóa đó khéo tự
chế biến thành một nền văn hóa Phật
giáo Trung Quốc
làm dồi dào cho văn
hóa đất nước
mình, thật là tuyệt
vời.
- Ngõ thứ
hai từ Ấn Độ Phật giáo truyền sang vào
miền Bắc đất
nước ta, nhưng dân tộc Việt Nam
đã chịu ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc
nên họ không theo, vì thế các nhà sư Ấn
Độ trở về nước. Do những điều kiện này mà di tích văn hóa Phật giáo Ấn Độ
không có lưu lại đền
tháp chùa ở miền Bắc Việt Nam.
- Ngõ thứ ba
Phật giáo Nam Tông từ Lào, Thái Lan,
Campuchia truyền sang, vì thế
mà những tỉnh
sát ranh giới Camphuchia, Lào
có một số
người theo tu
tập, nhưng
phần đông họ là người Việt lai Campuchia, chớ người Việt chính gốc thì không
theo.
Như vậy
chúng ta thấy rất rõ dân tộc Việt Nam chịu
ảnh hưởng văn
hóa Phật giáo Trung Quốc rất sâu nặng, không thể có một tư tưởng
Phật giáo nào làm thay đổi tư tưởng họ
được.
Như chúng
ta ai cũng
biết, nếu dựa theo dòng lịch sử Phật giáo truyền sang
qua đất nước chúng ta
thì Phật giáo không
còn là của Phật giáo chính gốc nữa mà là một Phật giáo
lai căng. Phật
giáo lai căng
là một loại Phật giáo tu hành uổng công vô ích vì tu
hành chẳng đến
đâu cả mà
còn làm hao tốn tiền của một cách
vô ích...
Phật giáo hiện
giờ là Phật giáo Bà La Môn giáo, cho nên
không ai tu chứng làm chủ
sinh, già, bệnh,
chết được, nếu
chúng tôi không ra công dựng lại Chánh pháp của Phật, chắc không còn ai
biết Phật giáo chân chánh gì nữa.
Cho nên nói
NGŨ LỰC mà nhận ra đúng Chánh pháp của Phật thì
tu tập lần lượt
xuất hiện đủ NĂM LỰC,
còn nhận ra
không đúng Chánh
pháp của Phật
thì khó có NĂM LỰC được. Tại sao
vậy?
Vì lòng tin
phải đặt đúng chánh Pháp của Phật thì
siêng năng tu tập mới
có kết quả tốt đẹp, còn
không đúng chánh
pháp của Phật thì
tu tập không
bao giờ có kết quả nên
dù có siêng năng cũng chỉ một
thời gian mà thôi.
Chính siêng năng
là nhờ tu tập
có kết quả, còn tu tập không kết quả thì không sao siêng năng được. Phải
không quý
vị?
Khi tu tập siêng năng đúng pháp thì NIỆM LỰC hiện
tiền mà niệm lực hiện tiền từ giờ này
sang giờ khác thì
đó là ĐỊNH LỰC.
Khi định lực ngự trị
trong tâm chúng ta suốt bảy
ngày đêm thì
tâm rất thanh tịnh, giống như nước
hồ trong xanh,
vì thế tất cả mọi sự việc
trong quá khứ
hay tương lai khi chúng
ta muốn biết
thì chúng hiện ra
rất rõ. Do
đó mà danh từ trong
kinh Phật gọi đó là TUỆ LỰC.
Tới đây con
đường tu tập của chúng ta đã hoàn mãn tâm luôn luôn BẤT ĐỘNG. Do sự bất động này mà
người tu hành làm chủ sự sống chết dễ như trở bàn tay.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!