chánh định
được, chỉ nhập vào định tưởng, định điên khùng rối loạn thần kinh.
Tóm lại,
hơi thở ra, vô
chỉ là một
thân hành trong nhiều thân hành. Vì trong thân có rất nhiều hành động mà
Đạo Phật lấy đó làm niệm để tu tập tỉnh
thức gọi là
Thân Hành Niệm. Người tu nương
vào thân hành niệm là mục đích để
tu tập tỉnh
giác mà thôi.
Đừng nghĩ rằng: quán
niệm hơi thở
theo Sổ Tức Quán
của Đại Thừa
hay Lục Diệu Pháp
môn của Ngài Trí Khải Đại Sư (sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh), tu tập
như vậy là để nhập định. Đó là quan niệm sai lầm, không
đúng pháp môn của Phật dạy.
Sao các Tổ tự đặt ra
nhiều pháp môn
quá vậy để làm gì
trong khi mọi người
tu tập chỉ tìm cầu
sự thoát khổ:
sinh, già, bệnh,
chết và chấm dứt luân hồi, chứ
không cầu thần thông, không cầu vãng sanh Cực lạc, không cầu Phật tánh, bản thể
chân như vô phân biệt? Chính vì các Tổ sản
sinh thần quyền và thêu dệt thần thông
huyễn hoặc quá
nhiều. Các Tổ dựa
vào hơi thở Yoga
sinh ra lắm thiền
định, khiến người tu hành điên đảo chẳng biết tu pháp nào, họ như lọt
vào rừng hơi thở.
6- Tầm, tứ
là khẩu hành. Có
nghĩa là gì? Câu này đức Phật
xác định để chúng
ta nhận xét khi nhập
Nhị Thiền để thấy và hiểu
biết cho rõ ràng.
Khi nhập Nhị
Thiền tầm tứ diệt.
Tầm tứ là ý thức, thuộc trong nhóm sáu
thức: mắt, tai, mũi, miệng, thân,
ý. Khi tầm tứ diệt thì mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý đều diệt.
Sao ở đây đức Phật dạy:
“Tầm tứ là
khẩu hành”? Khẩu hành là sự hoạt động của miệng. Sự hoạt
động của miệng có hai phần:
a) Ăn b) Nói
Khi nhập Nhị
Thiền thì miệng không còn ăn và nói chuyện. Nếu còn ăn và nói chuyện là
không nhập Nhị
Thiền. Hiển nhiên đúng
như vậy các bạn ạ!
Cho nên
câu nói: “Tầm,
tứ là khẩu hành”
là để chúng
ta biết rõ khi
nhập Nhị Thiền là
không nói chuyện,
không ăn uống được, có
nghĩa là miệng
không còn hoạt động.
Do từ chỗ Tầm tứ diệt là khẩu hành diệt ta suy ra và biết ngay tầm tứ diệt là
sáu thức diệt, có nghĩa là khi nhập
Nhị Thiền thì người
nhập định không phải giống
như cây đá
vô tri, vô
giác, không
phải giống như thây ma người chết. Khi nhập
Nhị Thiền đức Phật
còn xác định rõ ràng: “Định sinh hỷ
lạc”. Vậy, cái gì còn biết hỷ lạc khi sáu
thức bị ngưng
hoạt động. Cái biết trong Nhị Thiền là cái biết của tưởng
thức. Tưởng thức biết là nhờ thức uẩn hoạt động.
Thưa các bạn! Khi các
bạn ngủ thì sáu thức
không hoạt động
nên bạn mới
có chiêm bao. Trong chiêm bao cái gì biết, nghe, thấy và cảm nhận,
các bạn có biết không? Đó là tưởng thức các bạn ạ!
Nhập Nhị
Thiền, nói cho dễ
hiểu là nhập vào
thế giới chiêm
bao. Thế giới chiêm
bao là thế giới tưởng.
Cho nên, nhập
Nhị Thiền là nhập
vào trạng thái của tưởng
căn (nhóm tế bào tưởng) do tưởng uẩn hoạt động.
Tóm lại “Tầm,
tứ là
khẩu hành”, là chỉ cho trạng thái
Nhị Thiền cần phải diệt.
7- Tưởng, thọ là
tâm hành. Vậy tưởng, thọ là tâm hành, là gì? Tưởng là tưởng
uẩn; thọ là thọ uẩn. Khi tưởng uẩn và thọ uẩn còn hoạt động thì không
bao giờ nhập diệt
thọ tưởng định được. Ở đây đức Phật
nêu: “Tưởng, thọ là
tâm hành” để nhắc khéo cho chúng ta biết khi nhập Tam
Thiền thì phải ly tưởng
dục (ly
hỷ trú xả nhập
Tam Thiền), nếu còn một
chút xíu tưởng hỷ dục
thì không bao giờ nhập
Tam Thiền được. Khi nhập Tứ Thiền thì phải xả hết cảm thọ,
còn một chút cảm thọ
nơi thân tâm thì không nhập được Tứ Thiền.
Ở đây, chúng tôi xin nhắc lại các bạn cần lưu ý: Khi muốn nhập Sơ
Thiền thì các bạn cần ly dục, ly ác
pháp. Muốn ly dục
ly ác
pháp thì các bạn cần phải tịnh
chỉ ngôn ngữ (lời nói) tức là sống độc cư trầm lặng một
mình mà tâm không phóng
dật thì mới có thể nhập
được Sơ Thiền. Khi tâm không phóng dật là tâm bất động. Tâm bất động là
tâm có đầy đủ bảy năng lực Giác Chi, do đó mới nhập được Sơ Thiền.
Khi muốn nhập
Nhị Thiền thì các
bạn phải diệt tầm tứ. Muốn diệt tầm tứ thì các bạn phải tịnh chỉ khẩu
hành. Muốn tịnh chỉ khẩu hành thì phải có đủ bảy năng lực Giác Chi, nếu
không có
đủ bảy năng lực Giác
Chi thì không bao giờ tịnh
chỉ khẩu hành
được. Và như vậy,
các bạn cũng không bao giờ nhập Nhị Thiền được.
Khi muốn nhập
Tam Thiền thì các
bạn phải ly các trạng thái hỷ tưởng.
Ly các trạng thái hỷ tưởng tức là tịnh chỉ mộng tưởng,
có nghĩa là người
nhập Tam Thiền
thì thoát ra
khỏi thế giới mộng
tưởng. Muốn thoát
ra khỏi thế giới mộng tưởng thì phải dùng bảy năng lực của Giác
Chi, nếu không
có bảy năng lực
Giác Chi thì không bao giờ ly hỷ được.
Khi muốn nhập Tứ Thiền thì phải xả lạc,
xả khổ, xả niệm thanh tịnh tức là xả thọ. Muốn xả thọ thì phải tịnh chỉ hơi thở
ra, hơi thở vô. Muốn tịnh chỉ hơi thở ra, hơi thở vô thì phải có đủ bảy năng lực của Giác Chi, nếu không có đủ bảy năng lực Giác
Chi thì khó mà nhập được Tứ Thiền.
Khi muốn nhập
Diệt Thọ Tưởng
Định thì phải có đủ bảy năng lực Giác
Chi mới nhập Diệt
Thọ Tưởng, nếu
không có bảy
năng lực Giác Chi thì không bao
giờ nhập Diệt Thọ Tưởng được.
Tóm lại, bảy
lời dạy trên đây của đức Phật là chỉ thẳng mục đích tu tập từ con người phàm
phu để trở thành những bậc Thánh nhân A
La Hán vô lậu, làm chủ sự sống chết hoàn toàn và chấm dứt luân hồi, không còn
trở lui trạng thái này nữa.
KỆ LÚC THÀNH ĐẠO
LỜI PHẬT DẠY
“Thiên thượng,
thiên hạ
Duy ngã độc
tôn Nhất thiết thế gian Sanh, lão, bệnh,
tử”
CHÚ GIẢI:
Bốn câu kệ trên để chứng minh và xác định Đạo Phật ra đời
vốn giải quyết bốn sự đau khổ lớn nhất của loài người: “sanh, già, bệnh, chết”.
Vì thế, mục đích tu
hành của Đạo Phật
là “tâm
bất động trước
các pháp và các
cảm thọ”, chứ không
phải vì Thiên đàng, Cực lạc, Niết bàn, Phật tánh, v.v..
Trong tất cả các
pháp môn của đức Phật đều
dạy chúng ta tu tập để thực hiện đạo đức làm Người, làm Thánh. Muốn làm người có đạo
đức không làm khổ mình, khổ người và khổ
tất cả chúng sanh
thì duy chỉ có thiện
pháp mới
giải quyết mọi
sự đau khổ của chúng ta, tức là không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh
nữa.
Muốn được
thân tâm thanh
thản, an lạc và vô sự đều phải sống đúng thiện pháp, hằng
ngày thường ngăn và diệt ác pháp; muốn làm chủ sanh tử luân hồi và chấm dứt tái
sanh đều phải sống đúng
thiện pháp. Nếu
không do thiện pháp
mà tu tập
thì không bao giờ làm chủ
và chấm dứt được
nó, vì thế, đời đời phải
chịu trôi lăn trong sáu đường luân hồi khổ đau.
Thiền định
có nhập được cũng
phải do thiện pháp, ngoài thiện
pháp đi tìm thiền định thì không bao giờ
có, chỉ có tà
thiền của ngoại đạo mà thôi. Do đó, chúng ta thấy ai tu thiền định
mà không
giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì biết ngay họ tu
tà thiền, tà định,
dù họ
có tu muôn đời, muôn kiếp cũng chẳng có kết quả giải thoát gì, chỉ uổng
phí một đời tu hành mà
thôi.
Đối với Đạo
Phật, thiện pháp có một tầm rất là quan trọng trên bước đường tu hành giải
thoát, nếu không tu thiện pháp mà dù có
tu tất cả các pháp môn nào khác cũng đều tu hành không đúng pháp môn của Đạo Phật.
Vì thế, tu theo Phật giáo mà không tu tập thiện pháp tức
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
là không
giữ gìn giới luật
nghiêm túc thì đừng mong làm chủ
sanh, già, bệnh, chết, như trong bài kệ đức Phật đã tự tán thán mình:
“Thiên thượng,
thiên hạ
Duy ngã độc
tôn Nhất thiết thế gian Sanh, lão, bệnh,
tử”.
Sau khi
tu chứng
đạo, đức Phật dùng
trí
tuệ Tam
Minh quan sát thấy rằng khắp
trên thế gian này từ vô thủy cho đến ngày
nay (ngày đức Phật tu chứng) không thấy có một người nào làm chủ sanh,
già, bệnh, chết như Ngài, nên Ngài nói
lên bài kệ
này là để xác
định vị trí và thế đứng độc lập của Đạo Phật. Cho nên, Đạo Phật không vay mượn giáo
lý của bất cứ một tôn giáo khác. Một bằng chứng hiển nhiên là tất cả
các tôn giáo
khác trên hành tinh này
đều tin tưởng có thế giới
siêu hình, còn Phật
giáo thì không chấp
nhận thế giới siêu
hình. Cũng như tất cả
các tôn giáo
nào khác không có nền tảng đạo đức vững chắc như Đạo Phật. Đạo đức tự lực
không dựa vào thần quyền. Vì thế, đạo đức
của Phật giáo là đạo đức nhân bản – nhân quả, một đạo đức cao thượng sống không
làm khổ mình,
khổ người và khổ
tất cả
chúng sanh; một đạo đức cao quý
tuyệt vời làm chủ được sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái
sanh luân hồi; một đạo đức biến
cuộc sống loài người
trên thế gian
này thành cõi Thiên đàng, Cực lạc.
Nói đến đạo đức nhân bản – nhân quả là phải dẹp bỏ tha lực,
nếu còn cầu cúng, tế lễ, cầu phước, cầu tự, cầu an, cầu siêu, v.v.. là đi ngược
lại đạo đức nhân bản – nhân quả của Đạo
Phật và con người sẽ sống trong ảo tưởng,
mê tín và lạc hậu. Đạo Phật là đạo tự lực, nên đức Phật khuyên các đệ tử của mình:
“Hãy tự mình thắp đuốc lên mà
đi, Ta chỉ
là người hướng đạo, không thể đi
thay cho các con được”.
Vì tự
mình phải thắp đuốc lên mà đi, nên Phật
giáo phải xây dựng một nền tảng đạo đức
nhân bản – nhân quả vững chắc cho ngôi nhà thiền định. Cho nên, thiền
định của Phật giáo mới được gọi là chánh định, bởi chánh định có một nội lực giúp
cho chúng ta làm chủ thân tâm,
tự tại trong
sự sống chết như bài
kệ trên đã nói.
TỨ CHÁNH CẦN
LỜI PHẬT DẠY
1- Ngăn ác
2- Diệt ác
pháp
3- Sanh thiện
4- Tăng trưởng
thiện pháp
CHÚ GIẢI:
Đó là lời
dạy tu
tập thiền định của
Đạo Phật, một thứ
thiền định ly dục ly
ác pháp để khắc phục tâm tham ưu của hành giả, để đi
đến cứu cánh giải
thoát hoàn toàn,
làm chủ sanh già bệnh chết, và chấm dứt tái sanh luân
hồi.
Ngăn ác diệt
ác pháp,
sanh thiện tăng trưởng
thiện pháp là
pháp môn “Tứ Chánh Cần. Tứ
Chánh Cần tức là Tấn Lực,
là Định Tư Cụ, là giới hành của Đạo
Phật”.
Đây là pháp
môn vô lậu đệ nhất của Đạo Phật. Khi một hành
giả bước chân
vào Đạo Phật mà được sự hướng dẫn
tu tập ngay
liền pháp môn này, thì chắc chắn phải thấy kết quả
giải thoát
không có thời
gian chờ đợi. Người được hướng dẫn
pháp môn này
là người có duyên phước đầy đủ với đạo giải thoát sâu
xa nhiều đời.
Chúng tôi
không đủ nhân duyên, nên khi bước
chân vào chùa
lúc tám tuổi đời, không được dạy tu hành theo pháp này, mà chỉ
được Thầy Tổ dạy
cho hai thời công
phu chiều và khuya rồi học thêm ứng phú đạo tràng, đánh
đẩu, trống, mõ để tụng
kinh, niệm Phật, tụng niệm đám ma chay, cầu siêu, cầu an, làm
tuần làm tự, cúng vong tiễn linh, cúng sao giải hạn, xem ngày
giờ tốt xấu cất nhà, dựng vợ, gả
chồng, xây mồ mả và những lúc rảnh rang thì lần
chuỗi niệm Phật lục tự
Di Đà, v.v..
Làm được những việc này
các Thầy Tổ
cho đó là những công phu tu tập.
Đến bây giờ, chúng
tôi mới hiểu
ra Thầy Tổ của chúng tôi chỉ dạy cho chúng tôi một cái nghề để sống
như bao nhiêu nghề
khác trong xã hội.
Nhưng những nghề
khác thì lương thiện,
còn nghề của
chúng tôi thì không
lương thiện chút nào
cả, nó là một nghề
mê tín chuyên lừa đảo, dối gạt người
để ngồi mát ăn
bát vàng. Chúng
tôi ở trong
chùa hằng ngày mang
mõ, chuông, đẩu
đi tụng niệm
đám ma
này hết, đến đám
ma khác, không
tụng đám ma thì lại tụng kinh cầu
an, cầu siêu, làm tuần, làm tự, v.v..
Quanh năm suốt
tháng chúng tôi hành nghề này, thấy sao mà giả dối... Chúng tôi suy tư nghĩ lại rất buồn khổ
trong lòng nhưng không dám nói với ai, mà nếu hỏi đến
các Thầy Tổ thì bị la rầy mắng và còn bảo
rằng nói bậy sẽ bị đọa địa ngục.
Mãi đến khi chúng
tôi được về thành
phố vì chiến cuộc ở nông thôn bất
an và được học thêm giáo lý của Đạo Phật,
chừng đó chúng tôi nghiên cứu về Thiền
Tông thì thấy Thiền Tông hay quá, không dạy làm những điều mê tín, lừa đảo, mà
chỉ dạy tu tập ức chế tâm cho hết vọng tưởng để
thành Phật hoặc giữ tâm không niệm thiện niệm ác thì kiến tánh thành Phật. Càng nghiên
cứu sách kinh Thiền
Tông thì lại càng thích thú. Những lời nói và
hành động của các Tổ sao mà
hay quá, nhất
là những công
án Thiền Tông lại tạo cho chúng tôi có một sức tò mò ghê gớm, cứ
nghĩ rằng Thiền Tông có
một cái gì bí ẩn ghê lắm không thể dùng tri kiến, ý thức mà hiểu được.
Khi thấu hiểu Thiền Tông như thế,
chúng tôi đặt trọn lòng
tin ở pháp môn này. Từ
đó, chúng tôi bỏ hết toàn bộ cuộc
đời, quyết tâm
theo tu tập
thiền do HT Thanh Từ hướng dẫn. Suốt chín năm trời tu tập,
đem hết sức tu tập để ức chế tâm không cho vọng tưởng. Trong đầu, niệm thiện niệm
ác vắng bặt từ giờ này đến giờ khác. Lúc bấy giờ có 18 loại hỷ tưởng hiện ra
(có thể gọi đó là thần thông), nhưng
nhìn lại cũng không tìm thấy sự làm chủ
sanh, già, bệnh,
chết, tâm tham,
sân, si vẫn còn. Cái đặc biệt nhất là loại thiền này
khi hết vọng tưởng thì tuệ
tưởng xuất hiện.
Khi nó xuất hiện thì tất cả các công án đều thông suốt, thấy tánh thì rất
rõ ràng vì mỗi khi động tay, động chân đều là Phật Tánh
nơi đó, nhưng
lại có tật thường
dùng ngôn ngữ
công án, vì thế
nên thường xảy ra
những cuộc tranh luận
hơn thua, dù ai
nói một điều
gì thì chúng tôi cũng đều dùng
công án đối đáp và vấn nạn họ. Thấy những hiện
tượng lạ lùng
như vậy, nên
chúng tôi đành bỏ, dù khi ấy
chúng tôi đã nhập được Thức Vô Biên Xứ Định.
Khi tu tập
không tìm được sự giải
thoát nơi kinh sách Đại Thừa và Thiền
Tông, chúng tôi phải
tìm pháp môn khác.
Sau này nhờ giới luật, chúng tôi học tập và rèn luyện sống
đúng giới đức làm Người, làm Thánh của
Phật giáo Nguyên Thủy. Trong
khi sống đúng giới
luật
như vậy, chúng tôi tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần và
dùng pháp hướng
tâm Như Lý
Tác Ý: “Ly dục,
ly ác pháp, tâm
như cục đất, ly tham,
sân, si cho thật
sạch”. Chính nhờ sống đúng giới luật và tu tập như vậy
chúng tôi cảm thấy tâm
mình thanh thản,
an lạc và vô sự, ít phóng dật, thường thích sống độc cư một mình. Và cũng chính nhờ tu tập như
vậy tâm chúng tôi hết tham, sân, si và thường ở
trong một trạng thái tâm bất động, an lạc vô cùng, không thể diễn tả cho
các bạn hiểu được vì đó là trạng thái ly dục ly bất thiện
pháp.
Sau khi tu
xong chúng tôi mới hiểu Giới Hành của Đạo Phật không phải là pháp môn nào khác
hơn là “Tứ Chánh Cần”.
Tứ Chánh Cần là pháp môn ngăn ác
diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, chỉ có pháp môn này tu tập trên Tứ
Niệm Xứ mà chúng tôi làm chủ sanh,
già, bệnh, chết.
Do thế, đức
Phật
dạy:
“Chư ác mạc
tác
Chúng thiện
phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật
giáo”.
LÒNG TIN
CHÂN CHÁNH
LỜI PHẬT DẠY
“Này các
Kàlàmà! Chớ có
tin vì nghe truyền thuyết, chớ có
tin vì nghe truyền thống, chớ có tin vì nghe người ta nói đồn, chớ
có tin vì được
kinh tạng truyền tụng, chớ có tin
vì nhân lý luận siêu
hình, chớ có tin vì đúng
theo một lập trường, chớ
có tin vì đánh giá hời
hợt những dự kiện, chớ
có tin vì phù hợp với định kiến
của mình, chớ có tin
nơi phát
xuất có uy quyền,
chớ có tin vì bậc sa môn là đạo sư của mình v.v..
Nhưng này
các Kàlàmà! Khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp
này bất thiện, các pháp này
là có tội lỗi, các pháp
này bị người
có trí hiểu biết chỉ trích,
các pháp này nếu thực
hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”. Thời này,
Kàlàmà hãy từ bỏ
chúng không nên tin theo”.
CHÚ GIẢI:
Đức Phật
đã xác định
có 10 điều
không nên vội tin:
1/ Chớ có
tin vì nghe truyền thuyết.
2/ Chớ có
tin vì nghe truyền thống.
3/ Chớ có
tin vì nghe người ta nói đồn.
4/ Chớ
có tin vì được
kinh tạng truyền tụng.
5/ Chớ có
tin vì nhân lý luận siêu hình.
6/ Chớ có
tin vì đúng theo một lập trường.
7/ Chớ có
tin vì đánh giá hời hợt những dữ
kiện.
8/ Chớ có
tin vì phù hợp với định kiến của
mình.
9/ Chớ có tin
nơi phát xuất có uy quyền.
10/ Chớ có
tin vì bậc sa môn là đạo sư của mình,
v.v..
Lời dạy thứ
nhất: “Chớ có tin vì nghe truyền
thuyết”. Đức Phật khuyên chúng ta không
nên tin theo truyền
thuyết. Vậy truyền thuyết nghĩa là gì?
Truyền thuyết
là truyền miệng có nghĩa là kể chuyện, thuật
chuyện như kể
truyện dân gian về
các nhân vật,
kì tích lịch sử,
chuyện thần tiên, chuyện ma quỷ, chuyện địa ngục, chuyện Thiên đàng, Cực
lạc, v.v.. những câu chuyện thường mang nhiều yếu tố thần
kì. Đó là những câu chuyện truyền
miệng từ người này đến người kia nối tiếp
nhau trong một
quá trình thời gian dài vô cùng vô tận. Những chuyện ấy
là những chuyện
không có thật.
Từ xưa đến giờ có nhiều truyền thuyết về đức Phật Thích Ca Mâu Ni như sinh ở
hông và khi sinh ra đi bảy bước có bảy hoa sen đỡ chân. Tay chỉ trời chỉ đất, miệng tuyên bố:
“Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc
tôn”; sau khi Bồ Đề Đạt Ma chết,
người ta còn gặp ông quảy một chiếc giày đi về phương Tây; gia đình ông Bàng
Long Uẩn chết tự tại trong thiền định. Đó là những truyền
thuyết không có thật, do người sau ghi chép lại trong
sách. Do đó, đức Phật
bảo chúng ta đừng có tin.
Chính kinh tạng của đức Phật cũng do kết tập theo
kiểu truyền miệng,
vì thế chúng
ta cũng không nên
tin theo trọn vẹn, nếu
những lời dạy ấy không phải là thiện pháp thì không nên tin.
Lời dạy
thứ hai: “Chớ có
tin vì theo truyền thống”. Đức Phật khuyên chúng ta không nên
tin theo truyền thống.
Vậy truyền thống nghĩa là gì?
Truyền thống
là nền nếp thói quen tốt đẹp hay
thói quen mê tín, lạc
hậu được lưu giữ
từ đời này, qua đời khác.
Cho nên, những
gì truyền thống lâu đời chúng ta cũng không nên đặt trọn
lòng tin ở đó,
vì không phải tất cả những truyền thống đều tốt đẹp cả.
Lời dạy
thứ ba: “Chớ có tin vì nghe người ta nói đồn”. Đức Phật
khuyên chúng ta không nên tin vì
nghe người ta đồn. Vậy
tin đồn nghĩa là gì?
Tin đồn là
tin tức
truyền miệng từ người
này đến
người khác. Tin đồn thường
là những tin tức thất thiệt không
đúng sự thật. Ví dụ: Ở núi Bà Tây Ninh có Bà Đen, ở Miền Bắc có Bà Chúa Kho, ở Châu Đốc An Giang có Bà Chúa Xứ,... rất
thiêng thường ban tài lộc cho người đến
cầu xin. Hay ở Bến Củi có
ông thầy nước lạnh,
ai đau bệnh
gì ông cho một chai
nước lạnh về uống là hết bệnh. Đó là những tin đồn, chúng ta không nên
tin.
Lời dạy
thứ tư: “Chớ có
tin vì được kinh tạng truyền tụng”. Đức Phật khuyên chúng ta
không nên tin vì được kinh
tạng truyền tụng. Vậy
kinh tạng truyền tụng
nghĩa là gì?
Kinh tạng truyền
tụng là những
lời dạy của các bậc Thánh
và chư Phật được ghi
chép lại thành sách.
Kinh tạng ở đây
gồm có cả những
lời dạy của đức Phật
Thích Ca Mâu Ni. Nhưng
tại sao đức Phật
Thích Ca Mâu Ni lại dạy chúng ta đừng tin lời Ngài dạy?
Ngài biết rất rõ ba
lần chép
lại một bản kinh là
đã chép sai lời
dạy của Ngài, chứ chưa nói chi
là kiến giải,
tưởng giải viết
ra; nên người xưa nói: tam sao thất
bổn.
Như thế,
qua lời dạy này
ngay cả kinh tạng
Nguyên Thủy còn
không tin trọn vẹn thì làm sao chúng ta tin kinh sách Đại Thừa được. Phải không các bạn?
Lời dạy thứ năm: “Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình”. Đức Phật
khuyên chúng ta không nên tin vì
nhân lý luận
siêu hình. Vậy lý luận siêu hình nghĩa là gì?
Không có cõi
Cực lạc, Thiên đàng mà lý luận bằng cách này, cách khác để cho có các cõi
ấy; sau khi chết
không có sự sống
nhưng khéo lý luận bằng cách này,
cách khác để cho mọi người tin rằng người
chết còn có
linh hồn; không có Phật tánh mà
lý luận bằng cách này, cách khác để cho
mọi người tin rằng
có Phật tánh, v.v.. Đó là những lối
lý luận siêu hình để lừa đảo mọi người,
cho nên đức Phật khuyên chúng ta chớ
có tin, vì nó không
ích lợi gì cho chúng ta cả.
Lời dạy
thứ sáu: “Chớ có
tin vì đúng theo một lập
trường”. Đức Phật
khuyên chúng ta không
nên tin một điều
gì dù đúng theo một lập trường của mình. Vậy, đúng
theo một lập trường nghĩa là gì?
Trước tiên,
chúng ta nên hiểu hai chữ lập trường. Lập trường là thái độ, chỗ đứng nhìn nhận
và xử lý. Ví dụ: anh có lập trường đối với kinh sách Đại Thừa
và Thiền Tông nên
không ai có thể lay chuyển hay bảo anh bỏ nó được. Ở đây đức Phật dạy:
“Chớ có tin vì đúng theo một lập trường”, có nghĩa là kinh
sách Đại Thừa và Thiền Tông có lối lý luận giống như lập trường của anh.
Ví dụ: anh
có lập trường
rất vững về thế
giới siêu hình,
có nghĩa là
thái độ, chỗ đứng,
nhìn nhận và xét lý rõ ràng, vì vậy dù
ai nói gì
anh cũng
không bỏ lập
trường đó. Khi anh
có lập trường như vậy thì có những loại kinh sách nói về thế giới siêu
hình giống như lập trường của anh thì
anh tin ngay. Nhưng điều này đức Phật
khuyên anh: “Chớ có
tin vì đúng theo một lập trường”.
Tin như vậy vẫn không đem đến sự lợi
ích cho anh, tin như
vậy là tà
tín, quá chủ quan ở lập trường của
mình.
Lời dạy thứ
bảy: “Chớ có tin vì đánh giá hời
hợt những dự
kiện”. Đức Phật khuyên chúng ta không nên tin vì đánh
giá hời hợt những dự kiện. Vậy dự kiện nghĩa là gì?
Dự kiện
có nghĩa là những cơ sở
để tìm tòi, là những điều
coi như biết
trước, đã dự phòng trước. Nhưng ở đây, đức Phật khuyên chúng ta đừng tin một
cách hời hợt đối với những dự kiện. Tại vì những dự kiện chưa hẳn đã mang lại lợi
ích thiết thực cho mình.
Ví dụ: Thiền
Tông lấy Phật tánh làm tiền đề (dự kiện) cho sự
kiến tánh thành
Phật của pháp môn. Ở đây, đức Phật khuyên chúng ta đừng vội
tin mà hãy tư duy
kỹ lưỡng, xem lại dự kiện Phật
tánh có đúng không?
Trong kinh Đại Thừa dạy: Phật
tánh là tánh giác, thường biết, thường nghe, thường thấy. Như vậy, khi ngủ say,
ngủ quên thì tánh
thấy, tánh nghe,
tánh biết ở đâu?
Hay nó cũng
ngủ theo... Như vậy những dự kiện có đáng tin không?
Lời dạy
thứ tám: “Chớ có
tin vì phù hợp với định kiến của
mình”. Đức Phật khuyên chúng ta không nên tin vì phù hợp với định kiến của
mình. Vậy định kiến nghĩa là gì?
Định kiến là
ý kiến riêng có sẵn từ trước, khó
thay đổi. Từ
lâu ta có định
kiến về con người “Có sự sống
sau khi chết”, nên
khi đọc kinh sách Đại Thừa
thấy nói nhiều
về cảnh giới siêu hình
như: cảnh giới Thiên đàng, cảnh giới
Cực lạc, cảnh
giới Niết bàn
và cảnh giới địa ngục, v.v.. trong
các cảnh giới
đó có Thần, Thánh,
Tiên, Phật, Ngọc Hoàng
Thượng Đế, linh hồn, thần thức,
Phật tánh, đại ngã, tiểu ngã, ma quỷ, yêu quái, v.v.. Do định kiến ta tin
ngay liền không cần phải suy tư
xem xét cho kỹ lại.
Ở đây, đức
Phật khuyên chúng ta đừng có tin, vì
tin như vậy sẽ trở thành
những người mê tín, lạc
hậu. Sự mê
tín, lạc hậu mang đến
nhiều điều bất hạnh, nhất
là bị kẻ
khác lừa đảo, tốn hao tiền của và
công sức nhảm nhí không ích lợi cho
mình, cho người mà còn
làm hại mình.
Lời dạy thứ chín: “Chớ có tin nơi phát xuất
có uy quyền”. Đức Phật khuyên chúng ta
không nên tin nơi
phát xuất có uy
quyền. Vậy nơi phát xuất có uy quyền nghĩa là gì?
Uy quyền là
quyền thế của vua, của quan, của những người có thế lực đông người.
Ngày xưa,
trong thời phong kiến nước ta cũng như nước Trung Hoa, nếu nhà vua nào lấy tôn giáo
làm quốc giáo
thì bắt buộc dân
chúng nước đó phải theo tin tôn giáo đó.
Thời nhà Lý ở nước ta, nhân dân sùng tin Phật giáo Đại Thừa
là vì vua, quan, đều là tín
đồ Phật
giáo. Cho nên, thời
đó người ta
theo Phật giáo vì uy quyền của nhà vua. Ở
đây, đức Phật khuyên chúng
ta “Chớ có tin nơi phát xuất có uy quyền”. Lời khuyên của
đức Phật muốn chúng ta tin
một điều
gì thì không phải vì thế lực, vì
uy quyền, vì sợ mà tin hay vì thấy linh thiêng mà tin.
Ví dụ:
Đình, miếu, chùa, Thần Thánh, quỷ ma, bà
Chúa Kho, bà Chúa Xứ, cây đa, gốc cây, cục đá, gò mối, v.v.. linh thiêng. Đó là thấy
uy quyền linh thiêng rồi mọi người
tin theo đến cúng bái lạy lễ cầu
xin.
Tin như vậy, đối với Đạo Phật không chấp nhận vì
đó là tin mù
quáng. Tin mù
quáng là đem lại sự
tai hại cho chúng
ta chứ không
ích lợi gì, biến chúng ta trở
thành kẻ ngu si
dễ bị uy quyền và sự linh thiêng
sai khiến.
Lời dạy
thứ mười: “Chớ có
tin vì bậc Sa Môn là Đạo Sư của mình”. Đức Phật khuyên chúng ta không
nên tin vì bậc Sa Môn là Đạo Sư của
mình. Tại sao ở
đây đức Phật dạy chúng ta
không nên tin những
Sa Môn là Đạo Sư của mình?
Vậy Sa Môn
và Đạo Sư nghĩa là gì? Sa Môn có nghĩa là một nhà tu
hành, một vị
tu sĩ; Đạo sư
là một
vị thầy dạy phương pháp tu hành.
Trong cuộc đời
của chúng ta gặp biết bao nhiêu là bậc Sa Môn đều là những tu sĩ Phật
giáo, nhưng đừng
tin họ là Đạo Sư
của chúng ta, vì có nhiều loại Sa Môn:
Sa Môn phạm giới, Sa Môn phá giới, Sa
Môn bẻ vụn giới, Sa Môn chỉ biết dựa vào kinh thuyết giảng
nói láo, chứ chưa có một ngày
tu tập hoặc
tu tập chưa đến nơi đến chốn, tâm tham, sân, si còn
ngút ngàn, họ còn tham danh, đắm lợi như người thế gian. Có những Sa Môn dám lấy Phật giáo biến làm nghề mê tín, chuyên cúng
bái tụng niệm, bói khoa, xem ngày giờ tốt xấu, v.v.. Đối với những
Sa Môn này đức Phật
khuyên chúng ta chớ có tin họ là bậc Đạo Sư của mình.
Phần đông
tín đồ Phật giáo,
hễ thấy ai cạo
bỏ râu tóc đắp áo
cà sa thì cúng dường
và lạy lễ mà không chịu xem họ có phải là những người tu thật hay những người
tu giả.
Trên đây
là 10 điều dạy
của đức Phật, Ngài
khuyên chúng ta
không nên tin từ
các pháp môn, đến những bậc Sa
Môn và
ngay cả những lời dạy của Ngài
cũng chẳng nên
tin. Chỉ tin là khi nào
chúng ta thực
hành thấy có kết quả, bằng không kết quả thì không tin.
Có kết quả tức
là có giải
thoát nơi thân
tâm. Có giải thoát tức là phải sống
đúng đạo
đức làm Người, làm Thánh; có sống đúng đạo đức làm Người, làm
Thánh thì mới
không làm khổ mình,
khổ người; không
làm khổ mình,
khổ người là người đã ly dục ly ác pháp. Nếu có kết quả ly dục ly ác
pháp như vậy thì chúng ta mới
tin.
Chỉ vì
các bạn không
nghe lời dạy của Phật, gặp pháp môn nào cũng tin, hay nghe
người nào thuyết giảng hợp lý với mình là tin ngay, nhất là nghe nói bài kinh
đó của Phật thuyết là tin liền.
Tin một cách
mù quáng không cần
tìm hiểu cho rõ
ràng, có đúng
là
Phật thuyết
hay không. Do tin mù
quáng nên dễ bị
kinh sách Đại Thừa lừa đảo,
vì thế cuộc đời tu hành của chúng
ta đến nay vẫn là số không, chỉ sống trong ảo tưởng tôn giáo.
THIỀN XÂ TÂM
LỜI PHẬT DẠY
“Giữ thân được
nhẹ nhàng Giữ tâm khéo giải thoát Không còn các sở hành
Chánh niệm
không tham trước Biết rõ được chánh pháp
Không tầm tu thiền định Không phẫn nộ vọng niệm Không thuỳ miên giải đãi
Như vậy vị tu sĩ
Sống giữa
nhiều chướng ngại
Đã vượt năm
bộc lưu
Lại gắng vượt
thứ sáu
Như vậy tu thiền tư (xả)”
CHÚ GIẢI:
Trong thời
đại chúng ta
nói đến tu
thiền thì ai
cũng đều hiểu là phải ngồi bán già hay
kiết già rồi tập trung gom tâm, giữ tâm không
vọng tưởng. Như Tịnh Độ
Tông trong kinh Di Đà dạy: “Thất
nhật nhất tâm bất
loạn chuyên trì danh hiệu A Di
Đà Phật”, tức là bảy ngày đêm niệm
Phật A Di Đà không có niệm vọng tưởng xen vào câu niệm Phật thì khi lâm chung được
đức Phật A Di Đà rước về cõi
Cực Lạc Tây
phương. Thiền Tông trong kinh Pháp Bảo
Đàn dạy: “chẳng
niệm thiện niệm ác bản
lai diện mục hiện tiền”
tức là kiến tánh thành
Phật. Trong kinh sách
Đại Thừa Kim Cang
dạy: “Ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm”, có nghĩa
là đừng nên trụ tâm vào
bất cứ một chỗ nào
thì tâm kia là Phật.
Pháp An
Ban Thủ Ý, Lục
Diệu Pháp Môn của
các Tổ dạy đều đếm hơi thở hoặc tùy hơi thở ra vô để ức chế
tâm không cho vọng
tưởng xen vào. Từ xưa
cho đến ngày nay,
người ta đã tu
tập thiền ức chế tâm như vậy, nhưng kết quả không thấy ai giải thoát cả, chỉ
huyền thoại những câu chuyện
lừa đảo chúng
ta mà thôi, cho nên
một Thiền sư Việt Nam,
Ngài Thường Chiếu nói về Thiền
Đông Độ, Ngài
cho đó là
bọn đại bịp, một
con chó sủa một bầy chó sủa
theo. Biết tu
không kết quả
nhưng chẳng có Thầy Tổ nào dám nói thật cho chúng ta biết.
Đến ngày
nay, chúng ta vẫn còn chịu ảnh hưởng quá
sâu đậm, nên ngồi lại tu thiền người nào
cũng gom tâm tập trung,
chỉ mong diệt sạch
vọng tưởng. Đó
là một tập
khí thói quen, mọi
người không thể bỏ được. Ngược
lại, Đạo Phật dạy
thiền xả tâm
“Ngăn ác diệt
ác pháp, sanh thiện tăng
trưởng thiện pháp”, chứ
không phải ngồi
bán già, kiết già
ức chế tâm như vậy.
Qua bài kệ trên đây chúng tôi xin hỏi quý vị, quý vị cứ thành thật mà trả lời.
Khi ngồi bán
già, hoặc kiết già mà cố chịu đựng khi hai chân bị đau hoặc tê hoặc nóng, đó là
ác pháp hay là thiện pháp? Đây có phải là tự mình làm khổ mình
chăng?
Khi tập
trung gom tâm đầu nặng hay nhức đầu mà cố kéo dài chịu trận, đây là thiện pháp
hay là ác pháp?
Đây có phải tự mình
làm khổ mình chăng?
Đức Phật dạy
ngăn ác diệt ác pháp mà tự làm khổ mình
thì có ngăn ác diệt
ác pháp không? Xin quý vị trả lời.
Trong bài kệ đức
Phật dạy: “giữ
thân được nhẹ nhàng”, tức là thân
khinh an, thân khinh an ở đây
thân có đau, tê,
nóng không quý vị?
Câu kệ
thứ hai: “giữ
tâm khéo giải thoát”. Ở đây tâm hữu sự hay vô sự? Nếu bảo
rằng vô
sự thì sao tâm Thiền
Tông, Đại Thừa lại làm việc quá
nhiều (gom tâm tập trung vào hơi thở, dùng
câu niệm Phật,
đi kinh hành, khởi nghi
tình đến nỗi nặêng
đầu, v.v..). Khéo giữ tâm giải thoát có nghĩa là tâm thanh
thản, an lạc và vô sự.
Câu kệ
thứ ba: “Không
còn các sở hành”. Ở
đây, chúng ta cần phải hiểu nghĩa sở hành. Vậy sở hành nghĩa là gì? Sở
hành nghĩa là bản tính thói quen của một con người.
Khi tu tập
khéo giữ gìn tâm bằng cách dùng ý thức tri kiến ly dục, ly ác pháp thì tâm sẽ được thanh
thản, an lạc
và vô sự. Do
tâm được thanh thản,
an lạc và
vô sự, nên
không còn các sở
hành tức là
thói quen không còn, hay nói cách khác là tập khí không còn.
Thiền Tông
hay Đại Thừa
khi tu hành kiến tánh thành
Phật rồi mà
tâm tham, sân, si, mạn, nghi vẫn còn thì họ bảo rằng “Bồ
Tát
vẫn còn tập khí”.
Đó cũng là lời nói lừa mình, lừa người của kinh sách Đại Thừa. Còn
Phật giáo Nguyên Thủy
thì đức Phật
xác định “Không còn
các sở hành”, tức
là không còn tập khí (thói quen).
Câu kệ
thứ tư: “Chánh
niệm không tham trước”.
Vậy tham trước
nghĩa là gì? Tham
trước có nghĩa
là do tâm
tham muốn dính mắc các pháp. Toàn câu kệ “Chánh niệm
không tham trước”
có nghĩa là
tu tập Tứ Niệm
Xứ nên tâm
đã khắc phục
được những tham ưu trên thân, thọ,
tâm, và pháp. Nhờ đó, mà tâm không còn phóng dật.
Câu kệ thứ
năm: “Biết rõ được chánh pháp”. Biết rõ được
chánh pháp tức là biết cách tu tập của pháp Tứ Niệm Xứ.
Câu kệ thứ
sáu: “Không tầm tu thiền định”. Ở đây đức Phật dạy: Biết
cách tu tập của
pháp Tứ Niệm Xứ thì không
cần phải đi tìm pháp tu tập thiền định nào khác nữa.
Câu kệ thứ bảy:
“Không phẫn nộ vọng niệm”. Người tu tập theo thiền xả tâm của Tứ Niệm Xứ thì vọng
niệm đến càng tốt, vì có đối tượng dùng pháp tác ý trong chánh tư duy. Nhờ
có tu
tập như vậy
tri kiến giải thoát sẽ hiện
bày. Do tri
kiến giải thoát hiện
bày thì sở hành và tham
trước không còn. Sở hành
và tham trước không
còn thì tâm không
phóng dật; tâm không
phóng dật thì thành
chánh giác. “Nhờ Tâm
không phóng dật mà Ta
thành Chánh Giác”,
đây là lời
di chúc của đức Phật đã xác định lúc sắp nhập Niết
bàn.
Người tu
hành hiện nay ngồi hoặc đi kinh hành thấy không vọng niệm là cho mình tu tập có kết quả tốt, còn có vọng niệm xen
vào là cho tu tập xấu, không tốt. Đó là một quan niệm hết sức sai lầm trong
vấn đề tu tập để
làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Đối với Phật
giáo thì vọng niệm là một đối tượng để tu tập Định Vô Lậu. Có tu tập Định Vô Lậu thì
mới chứng quả A La Hán vô lậu. Phải không các bạn?
Bởi vậy
câu kệ dạy:
“Không phẫn nộ vọng niệm” xác định
được pháp tu không ức
chế tâm. Xin các bạn lưu ý câu kệ này, nó giúp các bạn tu tập đúng pháp.
Câu kệ thứ
tám: “Không thuỳ miên giải đãi”. Vậy thuỳ
miên, giải đãi nghĩa là gì? Thùy miên
là buồn ngủ;
giải đãi là lười biếng.
Khi biết cách tu tập Tứ Niệm Xứ thì phải thiện xảo phá cho sạch buồn ngủ
và lười biếng, vì trạng thái buồn ngủ
và lười biếng
thuộc về tâm si
nên rất khó
dẹp, phải kiên trì, bền chí đi kinh hành Chánh Niệm tỉnh giác hoặc tu tập pháp
môn Thân Hành Niệm thì mới có hy vọng dẹp
bỏ được.
Câu kệ thứ chín: “Như vậy vị tu
sĩ”. Câu này đức Phật xác định nếu vị tu sĩ tu tập được như
trên, thì dù bất cứ ở
nơi đâu chẳng
còn lo sợ các ác pháp, vì tu tập như vậy thì không có ác pháp nào tác động vào
tâm được, tâm luôn luôn bất động.
Câu kệ thứ
mười: “Sống giữa nhiều chướng ngại”. Câu
này lại chỉ rõ hơn, không còn sợ chướng ngại nào tác động vào tâm tư họ được,
có nghĩa
là người tu
sĩ tu tập được như vậy dù sống giữa nhiều chướng ngại pháp
mà tâm vẫn thanh thản, an lạc và vô
sự một
cách tự nhiên.
Câu kệ thứ mười một: “Đã vượt năm bộc lưu”. Khi người tu
sĩ tu tập
như vậy, dù sống
giữa nhiều chướng
ngại mà tâm vẫn bất động,
đó là đã vượt những bộc lưu. Chúng ta cần phải hiểu nghĩa bộc lưu trong câu kệ
thứ mười. Vậy bộc lưu là gì? Bộc lưu là
dòng thác. Ở
đây có năm bộc lưu, tức là năm
dòng thác:
1- Dục bộc lưu
2- Hữu bộc lưu
3- Kiến bộc lưu
4- Vô minh bộc lưu
5- Ái bộc lưu.
Bộc lưu là
dòng thác; dòng thác là chỉ cho sức mạnh của nước từ trên cao đổ xuống khó có ai vượt qua. Như vậy, người tu
sĩ Đạo Phật phải vượt qua năm dòng thác này mới tìm thấy sự chân thật giải
thoát. Vậy nghĩa của năm dòng thác này là gì?
• Dục bộc
lưu: là dòng
thác dục tức là
sức mạnh của lòng tham muốn.
• Hữu bộc lưu:
là dòng thác của
các vật sở hữu tức là sức mạnh
dính mắc của các vật sở hữu.
• Kiến bộc
lưu: là dòng
thác kiến chấp tức là sức mạnh của kiến chấp.
• Vô
minh bộc lưu: là
dòng thác ngu si không thấy như thật các pháp tức là sức
mạnh của ngu si khiến cho chúng ta thấy các pháp không như thật.
• Ái bộc
lưu: là dòng thác thất tình: hỷ, nộ,
ái, ố, ai, lạc, dục tức là sức mạnh của bảy
thứ tình,
người tầm thường không thể vượt qua được.
Khi vượt qua
năm bộc lưu này còn chưa đủ giải thoát rốt ráo, nên đức Phật dạy câu kệ thứ mười
hai: “Lại gắng vượt thứ sáu”.
Câu kệ này xác định người tu sĩ phải vượt qua sáu bộc
lưu. Vậy bộc lưu thứ sáu là gì?
Bộc lưu thứ
sáu là tưởng bộc lưu, tưởng bộc lưu
là dòng thác
tưởng tức là sức mạnh của
tưởng dục (tưởng lực). Tưởng dục gồm có 18 loại hỷ tưởng
và bốn định vô
sắc, bốn định vô
sắc gồm có: Không
Vô Biên Xứ Tưởng, Thức
Vô Biên Xứ Tưởng,
Vô Sở Hữu
Xứ Tưởng, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
Người vượt
qua được sáu bộc lưu này là do tu thiền quán tức là Định Vô Lậu, chứ không phải
thiền ức chế tâm cho hết vọng tưởng. Vì thế,
đến câu kệ thứ mười
ba đức Phật đã xác
định cho chúng ta thấy:
“Như vậy tu thiền tư”. Tu như vậy tức là tu thiền tư. Vậy
thiền tư
là gì?
Thiền tư là
thiền quán, quán bằng ý thức tri kiến. Thiền
tư còn gọi
là Định Vô Lậu,
là thiền xả tâm, tu tập bằng sự tư duy quán xét.
Thiền tư phải
tu tập bằng ý thức để ly dục ly ác pháp. Muốn tu tập Thiền tư thì phải dùng Định Vô Lậu, Định
sáng suốt, Định
Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi
Thở, Tứ Niệm Xứ, Thân Hành Niệm và pháp Như Lý Tác Ý.
Tóm lại, thiền
xả tâm là một thứ thiền tu hành bất cứ
trong oai nghi
nào cũng đều giữ
gìn thân
được khinh an, an lạc và
tâm được thanh thản và vô sự.
Thiền xả tâm
là một thứ thiền, tu hành có giải
thoát ngay liền,
càng tu càng
thấy thân tâm nhẹ nhàng, an ổn, sống
một đời sống trọn đầy đạo đức làm người, không làm khổ mình, khổ người
và cũng không
làm những điều
mê tín, lừa đảo người khác.
Xin quý vị đọc lại bài kệ thiền xả tâm của đức Phật
trên đây rồi suy tư từng câu đã giảng thì quý vị sẽ rõ và không còn nghi ngờ gì
nữa.
PHÁP HƯỚNG
TÂM
LỜI PHẬT DẠY
“Này các Thầy Tỳ Kheo! Do
không như lý tác ý các lậu hoặc
chưa sanh được sanh khởi và các lậu hoặc
đã sanh được tăng trưởng”.
“Này các Thầy Tỳ
Kheo! Do như lý tác
ý, các lậu
hoặc chưa sanh
không sanh khởi, các lậu hoặc đã
sanh được
đoạn trừ”.
CHÚ GIẢI:
Người phàm
phu tục tử
và những người tu hành theo pháp
môn của Đại Thừa, do không biết pháp Như Lý Tác Ý nên hằng ngày sống trong
các lậu hoặc
mà không biết lậu
hoặc, vì
thế lậu hoặc
chưa sinh lại sinh
khởi,
lậu hoặc
đã sinh lại
tăng trưởng, do đó
cuộc
sống khổ đau
lại càng khổ đau hơn. Cho nên, đoạn kinh này
dạy: “Này các Thầy Tỳ
Kheo! Do không như lý tác
ý, các lậu hoặc chưa
sanh được
sanh khởi và các lậu hoặc
đã
sanh được tăng trưởng”.
Đời người
sinh ra không gặp
chánh pháp của Phật, nên phải chịu
nhiều sự khổ đau của kiếp làm người trong qui luật nhân quả. Ngược lại, được sinh
làm người, được gặp
chánh pháp của Phật, thì người ấy
là người có diễm phúc nhất trần gian,
vì gặp được chánh
pháp nên được nghe lời dạy
này: “Này các
Thầy Tỳ Kheo! Do
như lý tác
ý, các lậu hoặc chưa sanh
không sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh
được đoạn trừ”.
Nói đến lậu hoặc
là nói đến sự
đau khổ của con người; nhưng muốn cho kiếp
làm người không còn khổ đau để được sống
yên vui, thanh thản, an lạc
và vô sự thì
nên y
theo lời đức Phật
nhắc nhở các vị Tỳ
Kheo phải luôn luôn tu tập pháp hướng tâm “Như lý tác ý”. Nếu
không dùng pháp hướng tâm như lý tác ý thì sự đau khổ sẽ đến với quý vị và sẽ
làm cho quý vị khổ đau hơn nhiều. Nếu
quý vị
biết dùng pháp như lý tác ý hằng
giây, hằng phút, hằng giờ, hằng
ngày, hằng tháng,
hằng năm thì sự
khổ đau sẽ không đến với quý vị và sẽ chấm dứt
vĩnh viễn.
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
Qua đoạn kinh
ngắn gọn như
trên đức Phật đã xác định pháp
“Như Lý Tác
Ý” rất là nhiệm mầu, nó giúp cho chúng ta thoát mọi sự khổ
đau trong kiếp sống làm
người, làm chủ được nhân quả và cả sự tái sanh luân hồi.
Như thế,
pháp “Như Lý
Tác Ý” có một
công năng rất lớn trên đường tu tập theo Đạo Phật để đạt được kết
quả như ý muốn “làm chủ sanh già, bệnh, chết”.
Lúc còn
đang nhập thất,
chúng tôi ngộ được pháp “Như Lý Tác Ý” nên suốt trong sáu tháng tinh cần
tu tập pháp
này với câu trạch
pháp: “tâm như cục đất phải ly dục ly ác pháp nhập sơ thiền”.
Chỉ có câu gắn gọn như vậy,
mà chúng tôi
đã nhập được Sơ Thiền
một cách dễ dàng không có khó khăn.
Chín năm trời
nhập thất, tu không đúng pháp rất là vất vả
gian nan, nhưng
đến khi dùng pháp “Như Lý Tác Ý”
chỉ có thời gian ngắn mà chúng tôi làm chủ được thân tâm, kết quả giải thoát
hoàn toàn.
Nội dung thì khỏi phải bàn, nhưng phần trình bày văn bảh chưa nghiêm chỉnh có thể làm ảnh hưởng Tâm Lý người đọc!
Trả lờiXóa