nêu ra.
Xét cho cùng
tìm một người
sống đúng 7 hạnh
này đâu phải
dễ tìm. Phải không quý vị?
Giới hạnh
chưa xong mà hô hào tu tập TỨ NIỆM XỨ là
để khoe khoang, “háo danh” chớ tu tập ra gì.
Ai cũng
trình bày sự tu tập của
mình là tâm BẤT ĐỘNG từ một giờ,
hai, ba giờ trên tứ niệm xứ, mà xem lại 7 hạnh ở trên
không được một hạnh nào cả thì quý vị nghĩ sao? Có phải do
tâm háo danh
mà người ta sống
trong tưởng không?
Tứ niệm xứ
đâu phải là pháp môn để cho người
có gia đình,
chồng con hay vợ con còn ra vào mà tu tập được sao?
Muốn vào tu
tập TỨ NIỆM XỨ thì lấy 7 hạnh làm tiêu
chuẩn mà xét người
tu, chớ quý vị muốn nói sao thì nói thật là vô trách nhiệm. Đâu phải quý
vị muốn nói như thế là chúng
tôi nghe theo
như vậy sao. Chúng tôi có đủ cách để trắc nghiệm quý
vị. Chúng tôi chỉ cần xem cách
sống của quý vị
là chúng tôi biết ngay liền tu tập tứ niệm xứ được hay không.
OAI NGHI
TẾ HẠNH
Một tu
sĩ Phật giáo
phải biết giữ
gìn oai nghi tế hạnh, nếu không giữ gìn oai nghi tế hạnh
thì không phải là đệ tử của Phật. Oai nghi tế hạnh của Phật giáo rất là
quan trọng. Vậy oai nghi tế hạnh như thế nào?
Chúng ta
hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Thế nào là các Tỳ kheo giữ gìn oai nghi
tế hạnh đầy đủ? Ấy là các Tỳ kheo khi ĐI thì biết mình ĐI, khi ĐỨNG thì biết
mình ĐỨNG, cho đến như LIẾC NGÓ hai bên hoặc
CO, DUỖI, CÚI,
NGƯỚC, ĐẮP Y, MANG
BÁT và những việc ĂN UỐNG, THUỐC
MEN đều phù hợp với
oai nghi. Phải khéo từ bỏ năm ấm
cái, cho đến đi, đứng, nằm, ngồi,
thức, ngủ, nói
năng hay im lặng đều phải nhiếp
tâm không cho tán loạn. Ấy là oai
nghi mà các thầy
Tỳ kheo
phải giữ gìn đầy đủ”.
(Trường A Hàm tập 1 trang 111)
Oai
nghi tế hạnh của đức Phật dạy không
ngoài pháp tỉnh thức trong các hành động thân, khẩu, ý. Người tu sĩ Phật giáo
là tu tập tỉnh thức trên
thân hành, nên đạo
Phật mới có bài
pháp THÂN HÀNH
NIỆM. Một bài pháp
mà ai chuyên
cần tu tập
thì sẽ chứng đạo.
Trong kinh
sách Phật giáo thường ca ngợi pháp môn THÂN HÀNH NIỆM, một pháp môn mà chúng
tôi biên soạn thành một cuốn sách gối đầu nằm cho các tu sĩ lấy tên là:
“Muốn Chứng Đạo Phải
Tu Pháp Môn
Nào?” Như vậy quý vị biết rằng pháp
môn thân hành niệm quan trọng đến
bậc nào trong việc tu tập để được làm chủ sinh, già, bệnh, chết.
CÓ NĂM THỨ
BÁU KHÓ ĐƯỢC
1- GẶP PHẬT RA ĐỜI LÀ KHÓ
Được sinh
ra đồng thời với đức Phật
thật là
một việc khó,
cũng như sinh ra đồng thời
với một người
tu chứng làm chủ sinh, già, bệnh, chết là một việc khó.
Cách đây
hơn 2500 năm đức Phật ra đời, mãi cho đến nay giáo pháp của Người
đã bị phủ dày một lớp, giáo
lý của ngoại
đạo đã làm mất dấu chánh
pháp của Phật.
Vì thế hiện giờ không còn ai biết
đâu là chánh pháp của Phật để tu hành giải thoát.
Sinh ra đồng
thời với một
người tu chứng là một việc khó, thế mà mọi người không
biết tích cực siêng
năng tu hành
thì thật là quá uổng.
Chúng ta hãy lắng nghe đức
Phật dạy:
“Đức Như
Lai chí chơn xuất
hiện ở thế gian, thật là khó gặp”.
Đúng vậy, lời
dạy này rất đúng, hiện giờ chúng ta
có mơ ước gặp Phật thì cũng
chẳng bao giờ gặp được.
Đó là việc
khó thứ nhất, phải không quý vị?
2- NGƯỜI DIỄN
GIẢNG ĐÚNG PHÁP NHƯ LAI THẬT LÀ KHÓ GẶP
Chúng ta là
những người tu theo Phật giáo, mà được
một người giảng
dạy đúng chánh pháp của Phật
thì đâu phải dễ
dàng. Tất cả giảng sư hiện giờ đang thuyết giảng là thuyết giảng kinh
sách phát triển theo kiến giải của các sư thầy, chứ không giảng đúng nghĩa lý
tu hành làm chủ sinh
già, bệnh, chết. Vì họ có
tu hành làm chủ sinh,
già, bệnh, chết đâu?
Chỉ có học
chữ nghĩa kiến giải không đúng nghĩa lý chân thật của Phật dạy. Vì thế sự giảng dạy của các sư
thầy không ai
tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết.
Cho nên hiện giờ không có một vị giảng sư nào dạy đúng nghĩa những lời dạy của
đức Phật trong kinh điển. Chúng ta hãy lắng nghe đức
Phật dạy:
“Hạng người
diễn giảng chánh pháp của
Như Lai thật là khó gặp”.
Đúng vậy,
hiện giờ gặp một người
giảng dạy đúng chánh pháp của Phật thì khó vô cùng, vì người giảng đúng
nghĩa lý những lời của Phật dạy phải là người tu chứng làm chủ sinh, già, bệnh, chết.
Còn những người
tu chưa chứng giảng
thuyết là nói
sai Phật pháp. Đó là một việc khó thứ hai
mà đức Phật đã dạy.
3- HIỂU
ĐƯỢC CHÁNH PHÁP
CỦA NHƯ LAI LÀ KHÓ
Khi một
người tu chứng
đạo làm chủ thân tâm giảng nói chánh pháp của Phật
đâu phải ai nghe
cũng hiểu hết,
trăm vạn người chỉ
mới được một
hai người hiểu
và tu tập đến
nơi đến chốn,
còn tất cả mọi người
chỉ hiểu một cách cạn cợt nên không tích cực tu tập, chỉ tu chơi, tu cho
có hình thức. Cho nên được nghe
và hiểu chánh
pháp của Phật
là khó. Vậy chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Hạng người đã hiểu được
chánh pháp của Như Lai thật là khó gặp”.
Đúng vậy,
người hiểu được chánh pháp của Phật thật là ít.
Trăm vạn
người nghe chánh pháp của Phật mà
tu chứng thì chỉ có một hai người
là nhiều rồi,
đôi khi còn
không có người nào nữa. Đó là
cái khó thứ ba mà đức Phật đã dạy. Theo kinh nghiệm dạy người tu tập xả
tâm, ly dục ly ác
pháp để làm chủ
sinh, già, bệnh,
chết thì mọi người
không hiểu, nên tu tập ức chế tâm, khiến ý thức tê liệt không
làm chủ sinh,
già, bệnh, chết
mà lại rơi vào không tưởng, một trạng thái thiền bệnh mà hầu hết các sư
thầy đều bị kẹt trong trạng thái này cho là mình đã tu chứng.
Tu chứng đạo sao quý
sư, thầy không làm chủ sinh, già, bệnh, chết, nên quý sư, thầy
chết trong bệnh tật khổ
đau tận cùng của
kiếp làm người, thật đáng thương.
Bởi vậy, hiểu
được chánh pháp của Phật thật là khó,
nhưng quý vị rất ỷ lại vào sự
hiểu biết của
mình. Quý vị đều là những
người tu hành chưa chứng, vì vậy sự hiểu biết còn rất
nông cạn. Quý vị nên lắng nghe lại
lời Phật dạy lần nữa: “Hạng người đã hiểu được
chánh pháp của
Như Lai thật là khó gặp”.
Quý vị đừng xem
thường Phật pháp dễ
hiểu. Ba
mươi bốn năm2 chúng tôi dựng lại chánh
pháp của Phật,
đã giảng nói hết lời thế mà quý vị có hiểu được những gì đâu.
Quý vị đã tu
sai hết, giảng nói một đàng mà quý vị hiểu một nẻo, nên khi kiểm tra lại quý vị đã tu sai cả. Bởi vậy, hiểu
được Chánh pháp của Phật
không phải dễ
đâu quý vị ạ!
Đó là lời dạy thứ ba của đức Phật. Phật pháp khó hiểu
nên quý vị
hãy lưu ý, đừng ỷ mình
và cho mình là hạng người
có trí tuệ, quý vị
đã lầm.
4- THỰC HÀNH
PHÁP NHƯ LAI LÀ KHÓ
Phật pháp
hiểu đúng thì mới tu tập
đúng, còn hiểu sai thì làm sao tu tập đúng được. Hiểu đúng mà thực hành còn khó
thay, huống chi là hiểu sai. Phải không quý vị?
Cho nên pháp
thực hành là khó chớ không phải dễ, nếu dễ thì mọi người đã tu chứng từ lâu.
Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Hạng người thực hành thành tựu được chánh pháp
của Như Lai thật là khó gặp”.
2- LBT:
Tính từ năm
1975 đến năm
2009 (năm đức Trưởng Lão viết cuốn
sách này) là 34 năm.
Đúng vậy, lời
dạy của đức Phật nghiệm lại ba mươi bốn
năm hướng dẫn
người tu tập, đến
giờ này chỉ
có năm ba người làm chủ
thân tâm
được ba phần, còn phần sau cùng rốt
ráo thì chưa thấy ai
làm chủ tự tại sống chết. Bởi vậy Phật pháp tu hành đâu phải
dễ dàng, cho nên đức Phật nói khó là phải.
Bỏ hết cuộc đời
tu hành mà
không làm chủ sinh,
già, bệnh, chết
là quá dở. Vậy quý vị hãy xét lại mình về bốn điều khó mà đức
Phật đã dạy, mình có duyên gặp và hiểu
biết đầy đủ giáo
pháp này chưa?
Nếu chưa hiểu thì hãy tìm bậc tu
hành chứng đạo.
Tìm những
bậc thiện hữu
tri thức chứng đạo để thưa hỏi
cho rõ ràng, chớ đừng tự một mình
nghiên cứu thì chúng tôi
e rằng quý vị sẽ đi tìm tà pháp giống như kinh sách Đại
Thừa và Thiền Đông Độ.
Một lần nữa,
muốn tu hành làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT thì quý vị hãy thưa hỏi với những
người đã tu chứng, rồi nghiên cứu cho kỹ chớ đừng cho mình là người có trí tuệ, trí tuệ của
quý vị chỉ
là trí tuệ của
người phàm phu. Đem
trí tuệ phàm phu
mà hiểu Phật pháp thì tôi e rằng quý vị chỉ là những
người mù rờ voi.
Nếu có
duyên và hiểu
biết đầy đủ
chánh
Phật pháp,
thì quý vị tu
hành chứng đắc sẽ
không còn xa nữa. Đó là một điều khó thứ tư quý vị cần lưu ý để thưa hỏi, thì
con đường tu tập của quý vị không còn sai lầm nữa.
5- CỨU ĐỘ
CHÚNG SANH LÀ MỘT ĐIỀU KHÓ
Chúng sanh
thiếu phước, nên khi một người tu chứng đạo xong, đem những kinh nghiệm tu chứng của
mình ra dạy để mọi người cùng được giải thoát, nhưng khi đem
ra dạy thì gặp biết
bao nhiêu là gian
nan khổ ải. Bởi vậy tu viện Chơn
Như phải trải
qua biết bao sóng gió, nếu không phải là người ly dục ly ác
pháp thì sẽ nhập
vào Niết Bàn từ
lâu. Thầy thấy
rõ nhân quả của chúng
sanh rất mỏng, nên lại càng cố gắng để dựng lại
nền đạo đức nhân bản - nhân quả cho bằng được,
đó là để
giúp cho chúng sanh sống không
làm khổ mình,
khổ người và khổ tất cả chúng sanh.
Chỉ cần dựng lại nền đạo đức của Phật
giáo là
giúp cho chúng sanh sống thiện,
làm mọi việc thiện. Nhờ đó mới đủ phước báu tu tập, kế
tiếp mới làm
chủ được sinh,
già,
bệnh, chết.
Muốn độ thoát
chúng sanh thật là
cam go, muôn vàn sự thử thách.
Cho nên đức Phật dạy: “Hạng người có tài xoay sở vào nguy
khốn để cứu độ chúng
sanh thật là khó gặp”. (Trường
A Hàm tập 1
trang 113)
Đúng vậy, độ
chúng sanh rất khó, nên một người
không đủ khả
năng khó xoay trở
vào nguy ra khốn để cứu độ chúng sanh.
Ba mươi
bốn năm chúng
tôi dựng lại chánh
pháp của Phật,
mong có người
tu chứng để làm sống lại Phật giáo,
nhưng khó vô cùng.
Trí tuệ của mỗi
người sao mà hiểu Phật pháp một cách sai lầm quá lớn, dạy
tu tập một đàng mà mọi người hiểu một nẻo, khiến chúng tôi nhiều khi muốn vào Niết bàn cho xong, nhưng bỏ
đi thì rất tội
nghiệp. Bỏ đi thì làm
sao chúng sanh biết đường tu tập.
Phải kiên gan bền chí chờ người đủ nhân duyên
phước báu, nhất
là các cháu
tuổi còn trẻ, chúng mới có đủ
duyên tu tập chứng quả. Chớ những người
lớn tuổi bị nhiễm ô giáo
pháp ngoại đạo sâu nặng nên hiểu sai chánh pháp
của Phật, vì thế họ
tu tập sai lời chỉ dạy nên biết chừng nào chứng đạo.
ĐỊNH KHÔNG
TƯỞNG
Người tu
theo Phật giáo
khi thân già yếu dễ bị đau nhức
chỗ này hay chỗ khác, hoặc bệnh này, bệnh khác. Ngay cả đức
Phật còn nói: “Ta
nay già rồi,
tuổi đã tám mươi,
ví như chiếc
xe cũ, nhờ
phương tiện sữa chữa,
mà đi đến nơi, đến chốn. Nay
thân Ta cũng vậy, nhờ sức phương tiện
mà kéo dài mạng sống đến ngày nay”.
Nhờ sức
phương tiện mà
kéo dài mạng sống
đến ngày nay. Vậy sức
phương tiện là gì?
Sức phương
tiện là ĐỊNH KHÔNG
TƯỞNG. Nếu ai nhập được định không tưởng thì thân được an ổn không đau
nhức và tuổi thọ được kéo dài thêm, như đức Phật đã dạy: “Ta nhờ sự cố gắng mà
đè nén được cơn đau. Hơn
nữa, Ta nhập
Định Không Tưởng thì không còn nghĩ đến một điều gì,
nên thân Ta an ổn không có
đau nhức”. (Trường A Hàm tập 1 trang
120)
Định không
tưởng là một loại thiền định của ngoại đạo, đó là KHÔNG VÔ BIÊN XỨ TƯỞNG. Ngoại
đạo có bốn loại định tưởng:
1- Không Vô
Biên Xứ Tưởng.
2- Thức Vô
Biên Xứ Tưởng.
3- Vô Sở Hữu
Xứ Tưởng.
4- Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ Tưởng.
Chỉ cần nhập
được không vô biên xứ tưởng là làm chủ được thân bệnh, nhưng
khi xả ra thì thân bệnh
đau nhức trở lại
bình thường. Ngược lại,
chúng ta nhập vào
CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC ĐỊNH trên TỨ NIỆM XỨ
thì thân có bệnh sẽ hết bệnh, và thân không bệnh sẽ không bệnh.
Chánh niệm tỉnh
giác định là một phương pháp gọt rửa tâm, làm cho tâm quét sách ngũ triền cái
và thất kiết sử. Do ngũ triền cái và thất kiết sử bị quét sạch nên tâm BẤT ĐỘNG,
không một ác
pháp nào xen
vào được. Nhờ thế tâm mới chứng đạo hoàn toàn, không
còn trở lui trạng thái tâm thế gian nữa.
Định không
tưởng chỉ là một pháp
môn trốn tránh bệnh, chớ không phải là một pháp môn đuổi bệnh như BẤT ĐỘNG
TÂM ĐỊNH, quý vị nên lưu ý.
NGƯỜI ĐỆ TỬ
CHÂN CHÁNH
Chúng ta
sinh ra cách đức Phật 2553 năm kể từ năm 2009 dương lịch, mà chúng
ta tu hành làm chủ được
sinh, già, bệnh,
chết tức là chúng ta là đệ tử xuất sắc nhất của đức Phật theo như lời
Ngài đã dạy: “Sau khi Ta diệt độ, người
nào có thể hành đúng như thế, tức là đệ tử chân chánh của Ta, là người học đạo
xuất sắc nhất”. (Trường A Hàm tập 1 trang 121)
Đúng vậy,
con đường tu tập của đạo Phật tưởng chừng như bị mất,
vì một lớp
giáo lý của ngoại đạo đã phủ dầy
lên che mất những lời dạy chân chánh của đức Phật. May thay, trong thời
đại chúng ta
còn có người
tu chứng, thật là hạnh phúc thay cho loài người còn đủ duyên với chánh
pháp của Phật. Vậy chúng ta sinh
ra trong thời
này gặp được
chánh pháp của
Phật là một phước báu vô lượng. Do đó chúng ta hãy nỗ lực tu tập, đừng biếng trễ
bỏ qua một dịp may ít có.
Gặp được
chánh pháp là khó, thế mà đã gặp được thì nên
buông bỏ hết
các pháp thế gian,
để thực hiện
con đường giải thoát,
ngõ hầu cứu mình
ra biển khổ và
cũng là làm gương sáng cho mọi người soi, để cùng
nhau tiến bước trên
đường về xứ Phật, để xứng
đáng là người đệ tử xuất sắc nhất của Phật.
MỌI VẬT
ĐỀU VÔ THƯỜNG
Bước chân
vào đạo Phật, chúng ta được học các pháp đều vô thường. Khi thấu hiểu CÁC
PHÁP ĐỀU VÔ THƯỜNG đó
là chúng ta đã có một PHÁP TRÍ.
Pháp trí này giúp chúng ta thấu hiểu
trên thế gian
không có một vật
gì thường hằng, nhờ đó chúng ta không còn chấp
ngã, không còn
dính mắc, không
còn tham đắm dù bất cứ một vật gì nên chúng ta giải thoát hoàn toàn.
Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Các
ông hãy dừng
cơn bi lụy, chớ ôm lòng buồn tủi, vì từ trời, đất cho đến người
và vật, không
một ai sanh ra mà không chết, nếu các ông muốn cho
pháp hữu
vi không biến dịch, thì không thể
có được”. (Trường
A Hàm tập 1
trang
132)
Đúng vậy,
quý vị hãy nhớ lời dạy này của
đức Phật.
Ngài dạy tất cả mọi
người khổ là do không
biết các pháp
VÔ THƯỜNG, nên ưu bi, sầu khổ, buồn
tủi. Nhưng từ khi đức Phật dạy các pháp đều vô thường, sao mọi
người nghe đều hiểu biết như vậy mà mọi người vẫn khổ.
Đó là hiểu
biết là hiểu biết, nhưng xả bỏ các
pháp thế gian
thì họ rất tiếc.
Tại sao vậy? Vì họ không
gan dạ, chí
kiên cường không có nên không mạnh
mẽ dứt khoát. Vì thế biết các pháp vô thường nhưng vẫn còn thấy thường hằng,
còn dính mắc chấp ngã.
Muốn ra khỏi sự
đau khổ thì
ai cũng muốn, nhưng lìa bỏ các
pháp thế gian thì không ai lìa được. Đức Phật biết chúng sanh khó dạy,
nghe hiểu biết rồi để
đó chớ không bao giờ làm theo lời dạy.
Từ ngày đức Phật
ra đời đến nay là
2553 năm, tính vào
năm 2009 dương
lịch, mọi người đến với đạo Phật
ai cũng biết các pháp vô thường, nhưng lại không buông bỏ. Có một bài kệ dạy
buông bỏ rất hay:
“Buông xuống
đi, hãy buông xuống đi! Chớ giữ làm chi, có ích gì.
Thở ra chẳng lại còn chi nữa,
Vạn sự vô
thường buông xuống đi!”
Theo như lời Phật dạy, dù
chúng ta có muốn các pháp hữu vi không vô thường thì
cũng không thể được, vì nó là các pháp VÔ THƯỜNG nên
nó phải vô thường, không
ai làm nó thay đổi được. Cho nên
có những tôn giáo luyện thuốc trường sinh bất tử, mong
muốn sống lâu, đấy là ảo tưởng
của một số tôn giáo giàu tưởng tượng, sống trong tưởng.
Tiên đạo của Trung Hoa có một vị nào trường sinh bất tử chưa? Hay chỉ lừa đảo mọi người, người tu theo Tiên Đạo
thành ra hồn và xác? Thân ngũ uẩn này
là pháp VÔ THƯỜNG, cái gì trong
thân ngũ uẩn
này là cái hồn, cái gì
là cái xác. Khi chết đi thân ngũ uẩn tiêu hoại không còn một vật gì cả, vì nó
là các pháp vô thường.
Do một số
tôn giáo không thấu hiểu cho trong
thân con người có linh
hồn. Các
nhà khoa học cũng đã tốn biết bao nhiêu công sức để khám
phá linh hồn có hay
không. Nhưng cuối cùng cũng chỉ hoài
công vô ích mà thôi. Người nào thấy thật các pháp VÔ THƯỜNG là người chứng
đạo bằng PHÁP
TRÍ và TÙY TRÍ... Bởi, chỗ tâm BẤT ĐỘNG THANH THẢN
AN LẠC VÔ SỰ là chỗ sống của người chứng đạo.
Chứng đạo của Phật giáo
thật là đơn giản,
người chưa tu tập
cũng vẫn biết
được tâm bất động.
Các tôn
giáo tin có linh hồn
là các tôn giáo
giàu tưởng tượng,
sống trong TƯỞNG, trong VÔ MINH không biết các pháp vô
thường, đó là tự ôm
vào lòng những sự
khổ đau mà không biết.
CHẲNG NÊN
TIN VÀO TÀ GIÁO
Chúng tôi dựa vào
kinh sách Nguyên Thủy do Hòa Thượng Minh Châu dịch ra
Việt ngữ, mà xem lại kinh sách phát triển và kinh sách thiền
tông, thì những
loại kinh này không
phải là Phật
thuyết mà do kiến
giải của các tổ viết ra, biết rõ được như vậy nên chúng tôi nói thẳng để
giúp cho mọi người đừng lầm lạc.
Đó là một loại
kinh sách giả hiệu Phật giáo. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Những điều
tôi đích thân nghe từ Phật nói như thế
thì các ông chớ
nên không tin, chớ nên hủy báng.
Nếu họ nói
như thế thì các ông phải y cứ
vào các kinh Nguyên
Thủy để suy
nghiệm điểm hư thật, hãy y cứ theo luật, theo pháp gốc
Nguyên Thủy mà
nghiên cứu tường
tận
ngọn nguồn lời
nói ấy, nếu nhận thấy không đúng với
kinh, với luật, với
pháp thì hãy nói với họ, đức Phật không
có dạy những điều
gì mà ông đã
lãnh thọ. Ông đã lãnh thọ sai lầm
đấy! Tại vì sao?
Vì tôi đã y
cứ vào kinh, luật, pháp mà so nghiệm, thì nhận thấy lời ông trình bày không phù
hợp với chánh pháp. Vậy này hiền sĩ,
không nên thọ
trì, không nên giảng dạy cho người
khác và hãy từ bỏ”. (Trường A Hàm tập 1 trang 139)
Lời dạy
trên đây không
đủ minh chứng cho kinh sách
phát triển và
kinh sách thiền tông là
không phải của Phật giáo
sao? Vậy quý vị hãy từ bỏ nó, dù
quý vị có tu tập ngàn đời cũng chẳng có lợi ích gì cả.
TỨ QUẢ SA
MÔN
Lần đầu
tiên đức Phật
thuyết giảng và dạy
cho năm anh
em Kiều Trần
Như TỨ DIỆU ĐẾ,
bài pháp ấy
đã làm cho giáo
pháp của ngoại đạo rơi rụng như lá vàng mùa Thu, làm cho tất cả
giáo pháp của
ngoại đạo không còn ai tin tưởng
nữa. Bởi Phật pháp là chân lý của loài người, dạy đâu có đó.
Chân lý thứ
nhất: “Đức Phật nói con người trên thế
gian này không
ai là không KHỔ”. Vì thế, khổ là
một chân lý không ai dám phủ nhận.
Chân lý thứ
hai: “Đức Phật nói con người trên thế
gian này không
ai là không DỤC”. Vì thế, dục là
một chân lý không ai dám phủ nhận.
Chân lý
thứ ba: “Đức
Phật nói con người
trên thế gian
này không ai là
không có TÂM
BẤT ĐỘNG, THANH THẢN”. Vì thế, tâm bất động,
thanh thản là một
chân lý mà không ai dám phủ nhận.
Chân lý
thứ tư: “Đức
Phật nói con người
trên thế gian này muốn thoát mọi
khổ đau thì phải theo chương trình giáo dục đào tạo của
TÁM LỚP TU HỌC, thì mới chấm dứt khổ đau”.
Nếu theo
chương trình tu học này thì có bốn cấp chứng
đạo rõ ràng.
Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Nếu trong giáo
pháp nào không có pháp Bát Chánh Đạo thì không
có quả Sa
môn thứ thất,
thứ nhì, thứ ba, thứ tư. Này Tu Bạt,
vì trong giáo pháp có
Bát Chánh Đạo
nên có 4 quả
Sa môn thứ nhất, thứ
nhì, thứ ba, thứ tư. Này Tu Bạt, nay trong giáo pháp Ta có
Bát Chánh Đạo,
có Sa môn quả
thứ nhất, thứ
nhì, thứ ba, thứ tư. Trái lại, trong
giáo pháp của ngoại
đạo không có quả vị Sa môn”. (Trường
A Hàm tập 1 trang 197)
Đúng vậy, chỉ có giáo pháp bát chánh đạo của đạo Phật mới mới
có bốn quả Sa Môn, ngoài giáo pháp của đức Phật không
bao giờ có quả Sa Môn.
Nhờ có BÁT
CHÁNH ĐẠO mà chúng ta so sánh với giáo pháp của của kinh sách phát triển và thiền tông
Trung Hoa, thì chúng ta biết ngay chính những giáo pháp này không
phải của Phật giáo.
CHỚ NÊN
PHÓNG DẬT
Phòng hộ sáu
căn là một pháp môn rất cần thiết trên đường tu tập, cho nên đức Phật dạy:
“Ta chính nhờ tâm không bung lung
phóng dật mà
thành chánh quả,
vô lượng điều lành
đều nhờ tâm
không phóng dật mà
có được. Tất cả vạn vật
điều vô thường, đó là lời dạy cuối cùng của
đức Như Lai”.
(Trường A Hàm tập 1 trang 200)
Phòng hộ sáu
căn là giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Vậy giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng,
thân, ý bằng cách nào?
Pháp NHƯ
LÝ TÁC Ý
là pháp phòng
hộ sáu căn tuyệt
vời, mỗi lần mắt đang
nhìn thấy một cái gì thì nên tác ý bảo nó nên quay vào nhìn
TÂM BẤT ĐỘNG,
tai, mũi, miệng,
thân, ý cũng
như vậy, đều tác ý kêu nó quay vào trong thân. Cứ bền chí tu tập
hằng ngày tác ý như vậy thì sáu căn sẽ không phóng dật chạy theo sáu trần. Sáu
căn sẽ không phóng dật chạy theo sáu trần là chúng ta đã chứng đạo như
đức Phật đã dạy: “TA
THÀNH CHÁNH GIÁC LÀ NHỜ TÂM
KHÔNG PHÓNG DẬT”.
KHÔNG CÓ PHẬT
QUÁ KHỨ
Trong
quá khứ,
trước đức Phật
Thích Ca Mâu Ni không
có một vị Phật nào cả, nhưng trong
kinh sách dù kinh Nguyên
Thủy hay kinh sách Đại Thừa vẫn
nói đến bảy vị Phật ở quá khứ. Sự thật này ra sao?
Nếu không có
lời dạy của đức Phật thì chúng ta
không bao giờ dám
nói rằng không có
bảy đức Phật
trong quá khứ:
“Này chư hiền giả, đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đầy đủ 10 hiệu,
ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai
và hiện tại có đầy đủ 10 danh hiệu
như Phật.
Pháp Phật vi
diệu, giảng giải rõ ràng, được người trí hành theo. Ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và
hiện tại có giáo pháp vi diệu như Phật.
Phật do
pháp ấy tự
giác ngộ thông đạt vô ngại để tự vui thú. Ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và
hiện tại đối với pháp này mà tự giác ngộ, thông đạt vô
ngại để tự vui thú như Phật”. (Trường A Hàm tập 1 trang 240)
Đúng vậy,
theo lời dạy
này, kinh sách phát
triển và thiền
tông chỉ là
do những người sau thêm
vào có bảy vị Phật
quá khứ, với mục đích làm giảm uy
tín đức Phật thích Ca Mâu Ni. Đó là ý đồ
của ngoại đạo.
Theo lời dạy của đức Phật Thích
Ca Mâu Ni thì trong quá khứ
không có vị Phật nào cả.
Cho nên, bảy vị Phật chỉ
là một huyền thoại của ngoại đạo mà thôi.
HÃY TỰ THẮP
ĐUỐC LÊN MÀ ĐI
Con đường tu
hành thành chánh quả thì không có một
người nào tu
hành thay cho mình
được. Bởi con đường
đó ai có
tu thì có được, ai
không tu thì không
được. Đó là con
đường tự nguyện tự giác. Không ai cứu khổ ai được. Biết rõ điều này, nên đức Phật
đã dạy: “Này các thầy Tỳ kheo,
thế nào là tự
mình thắp đuốc
mà đi, hãy
thắp lên chánh pháp,
đừng thắp lên một pháp nào
khác, và hãy
nương tựa với
chính mình, hãy nương
tựa với chánh
pháp, đừng nương tựa một pháp
nào khác. Ấy là Tỳ kheo quán thân trên thân, siêng năng
không biếng nhác, nhớ mãi đừng quên để trừ tâm tham ưu, sân giận và si mê. Cho đến quán
ngoại thân và
quán nội thân và
quán nội ngoại
thân. Siêng
năng không
biếng nhác, nhớ mãi không quên để trừ
tâm tham ưu ở thế
gian. Quán sát về thể, về
ý và về
pháp cũng như thế”. (Trường A Hàm tập 1 trang 806)
Lời dạy trên
đây là dạy cách thức tu tập trên tứ niệm xứ. Trên TỨ NIỆM XỨ có một pháp tu tập
hay nhất, đó là pháp DẪN TÂM VÀO ĐẠO.
Muốn quán
thân trên thân
hay là quán trên
thân nội, ngoại
thì nên tác ý:
“TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC”, rồi im lặng ngồi,
hay đi, hoặc nằm, hay đứng đều nhìn
vào tâm, sẽ thấy sự bất động của nó hiện
ra rất rõ. Ngày
ngày cứ tu tập như vậy thì sẽ cảm nhận chứng đạo từng giây,
từng phút, từng giờ, từng ngày và cuối cùng từng tháng, từng năm rồi chứng đạo
mãi mãi.
Vì sự
tu hành chứng
đạo không có khó
khăn, không có mệt nhọc, nên đức Phật căn dặn rất kỹ càng, không nên tu tập pháp nào khác mà
hãy tu tập chánh pháp của Phật.
Phải tự
mình thắp đuốc
lên mà đi, tức là tự
mình hãy tác
ý tâm BẤT ĐỘNG thì sẽ chứng đạo. Chứng đạo không có khó
khăn, không có mệt nhọc, phải cố gắng lên quý vị.
THƯA HỎI
CHÁNH PHÁP
Trong cuộc đời
tu hành theo chánh pháp của Phật, thì nên chọn lựa một bậc thiện hữu tri thức. Đó
không phải là một việc dễ, vì chọn
lựa bậc thiện
hữu tri thức là bậc tu chứng đạo thì họ mới đủ khả năng hướng dẫn
mình tu hành đúng chánh pháp của Phật.
Đây là một
việc khó, mà trong kinh sách Phật thường nhắc
nhở. Chúng ta
hãy nghe đức Phật dạy:
“Trong lãnh thổ của ngươi, nếu có
Sa môn, Bà la
môn nào
tu hành chân chánh, đầy
đủ công đức
siêng năng, không lười
biếng, xa lìa tâm
kiêu mạn, phải nhẫn
nhục, nhân từ,
một mình ở nơi thanh vắng tu tập, một mình đạt được Niết
bàn, họ không những diệt trừ tham, sân,
si, hơn nữa họ ở chỗ ô nhiễm mà họ không
bị ô nhiễm,
ở chỗ
ngu si
mà họ không
bị ngu si
ám ảnh nào, ở chỗ đắm nhiễm mà không bị đắm nhiễm, ở chỗ
đáng trụ không trụ, ở chỗ đáng ở mà
không ở.
Thân hành động ngay
thẳng, miệng nói lời chân thật, ý
nghĩa chân chánh, thân làm việc
thanh tịnh, có lòng
nhân từ vô hạn, biết đủ trong sự ăn mặc, và mang bát đi khất thực để gây phúc lành cho chúng
sanh. Có những
hạng người như thế.
Ngươi phải thỉnh
thoảng tìm đến, tùy thời hỏi
han về việc
tu hành, thế nào là thiện, thế
nào là ác, thế nào là phạm, thế nào là không phạm, người nào
đáng gần, người nào không đáng gần, việc gì đáng làm và việc gì không đáng làm,
và pháp gì tu tập suốt ngày đêm được thanh thản, an lạc và vô sự.
Sau khi hỏi xong,
ngươi hãy lấy
ý mình quan sát,
thấy việc nên
làm thì làm, thấy việc đáng bỏ
thì nên bỏ. Trong nước có những
trẻ mồ côi,
người già cả thì
hãy chuẩn cấp,
hoặc người nghèo nào
khốn khổ đến
xin thì cẩn thận chớ trái ý họ”. (Trường A Hàm tập 1 trang
310)
Khi được thân cận với bậc thiện
hữu tri
thức, thì
chúng ta thưa hỏi cặn kẻ và thực hành đúng lời dạy của Người, thì kết quả giải
thoát đâu phải khó khăn.
Bởi gặp được
bậc thiện hữu
tri thức là con đường tu tập
chúng ta đã đi qua được một nửa.
Thế mà có người gặp được thiện hữu tri thức mà chỉ xem thường lời dạy của Người
thì thật uổng cho một
kiếp người. Lời dạy của thiện
hữu tri thức là những lời vàng, lời bạc, những lời dạy này giúp cho
chúng ta ra khỏi mọi sự khổ đau của cuộc đời này.
Khi được thiện
hữu tri thức dạy bảo thì làm ngay liền không nên bỏ qua và biếng
trễ, phải siêng năng tinh tấn không hề buông pháp, cứ luôn luôn ôm chặt pháp để
giúp cho thân tâm bất động và không còn một ác pháp nào tác động vào tâm.
Người thiện
hữu tri thức
sẽ dạy chúng ta
tu tập pháp
DẪN TÂM VÀO ĐẠO,
thì chúng ta lại
càng nên siêng
năng cần mẫn tu tập hơn nhiều. Nhờ siêng năng tu tập nên sự chứng
đạo không còn
xa, chỉ nỗ lực tu tập một thời
gian ngắn là chúng ta làm chủ thân tâm.
SỐNG ĐỘC CƯ
Sống một
mình tức là một bí
quyết thành công trong sự tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết.
Nhờ sống độc cư
mà tâm
mới lộ diện phóng
niệm, khi niệm
phóng ra là chúng
ta tác ý
tâm bất động
thì niệm liền dừng lại, niệm này
dừng lại thì sẽ có niệm khác khởi lên,
và chúng ta cứ tiếp tục tác ý
cho đến khi không
còn niệm nào khởi ra thì con đường tu tập đã thành công. Cho
nên, người xưa tu hành thường tìm chỗ thanh tịnh vắng vẻ
như ở núi rừng. Chúng ta
hãy nghe đức Phật dạy: “Ngươi
há không nghe
các bậc tiền bối Phạm Chí đều ở
nơi núi rừng thanh vắng, cũng
như Ta
ngày nay, ưa ở chỗ vắng, chớ
không phải như pháp của các
ông, chỉ thích ở
chỗ ồn náo, nói chuyện vô ích mất nhiều ngày tháng”. (Trường A Hàm tập 1
trang 381)
Đúng vậy, tu
hành mà ở nơi ồn náo thì rất khó gọt rửa
tâm mình, vì
nơi đó rất
nhiều pháp tác động
vào sáu căn,
khiến sáu căn luôn luôn phóng dật theo sáu trần. Cho
nên, người tu hành cần phải
tìm nơi vắng vẻ để
gạn lọc
tâm thì mới mong
tâm mình thanh tịnh.
LỜI KHUYÊN
RĂN
Con đường tu
tập không phải khó khăn, nhưng khó khăn là vì nơi đâu mọi người cũng tạo ra cảnh
ồn náo, nhất
là tụm năm tụ ba nói chuyện. Bởi hạnh độc cư rất cần thiết
nhưng mọi người cứ
xem thường, vì thế
mà tu mãi không thành tựu.
Tu hành là bỏ hết một kiếp
người mà lại tu
chơi, tu lấy
có hình thức
thì phí cả một cuộc đời. Cho nên tu hành thì phải cố gắng
tu tập như một người xông trận, một là tiêu diệt giặc sạch;
hai là phải
hy sinh vì tổ quốc để
đem lại sự bình an cho nhân dân.
Đứng trước
giặc sinh tử,
nếu chúng ta không nỗ lực tu tập thì làm sao dẹp giặc
sinh tử cho xong. Hôm nay sống biết ngày mai còn sống được
hay không? Tất cả các
pháp đều VÔ THƯỜNG.
Cho nên tu tập thì phải
đem hết sức mình
ra tu tập, nếu
không tận dụng
toàn tâm
toàn lực thì khó mà thắng được giặc sinh tử. Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy:
“Này các tỳ kheo! Phải ở chỗ thanh vắng
hoặc dưới gốc
cây hay nơi trống trải, siêng năng tọa thiền chớ tự buông lung.
Nếu nay không nỗ lực cố gắng, về sau có ăn
năn cũng đã muộn. Đây
là lời dạy của
Ta, các ngươi
hãy siêng năng hộ
trì”. (Trường A Hàm tập 1 trang 462)
Lời dạy
này mang đầy đủ ý nghĩa khuyên dạy
chúng ta với một lòng yêu thương của đức Phật. Vì thế chúng ta không nên phụ
công ơn của Người, hãy cố gắng
lên, tu tập
cho đến nơi đến chốn mới không phụ công ơn của Người.
HẾT
Ï
MỤC LỤC
Lời nói đầu
.......................................................5
Thập nhị
nhân duyên ...................................13
Thường kiến
và đoạn kiến ...........................16
Duyên vô
minh sinh ......................................19
Duyên vô
minh diệt ......................................23
Diệt duyên
vô minh ......................................27
Diệt duyên lục
nhập ......................................30
Diệt duyên cảm
thọ .......................................35
Diệt duyên
ái .................................................37
Diệt duyên
sinh .............................................45
Duyên sinh
pháp ...........................................47
Bốn cửa vào
đạo ............................................51
Sống trong hạ
liệt
không thể chứng
đạt cái cao thượng ......56
Sống trong
cao thượng
mới chứng đạt
cái cao thượng .................59
Những căn bản
của trí ..................................86
Năm sợ hãi
và hận thù .................................88
Bốn dự lưu
chi ..............................................100
Các hành lấy
vô minh làm nhân ...............105
Không có dự
tính .........................................108
Cảm giác lạc
thọ .........................................114
Các pháp cần
phải liễu tri ..........................118
Tùy pháp
......................................................121
So sánh Phật
và A La Hán ........................123
Thấy Ta là
thấy pháp,
thấy pháp là
thấy Ta .............................127
Sống một
mình
............................................131
Ăn uống theo
Phật giáo ..............................134
Chú tâm tỉnh
giác .......................................138
Sa môn
.........................................................142
Nguyên do
nào có sanh tử ..........................145
Nguyên do nào
không có lão tử ..................148
Pháp chân
chánh ........................................150
Có bảy pháp
làm cho chánh pháp được
tăng trưởng
và không bị tổn hoại .........154
Thế nào tà Tỳ
kheo
tự thu nhiếp
tâm mình ..........................158
Oai
nghi tế hạnh
.........................................162
Có năm thứ
báu khó được ...........................164
Định không
tưởng .......................................172
Người đệ tử
chân chánh .............................175
Mọi vật đều
vô thường ................................177
Chẳng nên
tin vào tà giáo ..........................181
Tứ quả sa
môn .............................................183
Chớ nên
phóng dật .....................................186
Không có Phật
quá khứ ..............................188
Hãy tự thắp
đuốc lên mà đi .......................190
Thưa hỏi
chánh pháp ..................................192
Sống độc cư
..................................................195
Lời khuyên
răn ............................................198
Mục lục
.........................................................201
GIỚI THIỆU
SÁCH
Sách của
Trưởng lão Thích
Thông Lạc chỉ tặng, không bán. Xin các bạn tìm đọc:
1- Đạo Đức
Làm Người (tập I, II - 2011)
2- Sống Mười
Điều Lành (2011 - Quý IV)
3- Những Lời
Gốc Phật Dạy (4 tập - 2011)
4- Đường Về
Xứ Phật (10 tập - 2011)
5- Văn Hóa
Phật Giáo Truyền Thống
(2 tập -
2011)
6- Lòng Yêu
Thương - tập II (2011)
7- Lòng Yêu
Thương (2009, 2011)
8- Linh Hồn
Không Có (2010 - Quý IV)
9- Người Phật
Tử Cần Biết (2 tập - 2011)
10- Những Chặng
Đường Tu Học
Của Người Cư
Sĩ (2011)
11- Giới Đức
Làm Người (2 tập - 2010)
12-
Thanh Quy Tu Viện Chơn Như (2010)
13- Mười Hai
Cửa Vào Đạo (2012)
14- Sống Một
Mình Như Con Tê Ngưu (2010)
15- Ba Mươi
Bảy Phẩm Trợ Đạo (2010)
16- Muốn Chứng
Đạo Phải Tu
Pháp Môn Nào
(2010)
17- Hỏi Đáp
Oai Nghi Chánh Hạnh (2011)
18- Tạo
Duyên Giáo Hóa Chúng Sinh (2011)
19- Lịch Sử
Chùa Am (2010)
20- Thiền
Căn Bản - tập I
21- Thời
Khóa Tu Tập Trong Thời Đức Phật
22- Giáo Án
Rèn Nhân Cách Lớp Ngũ Giới: Đức Hiếu Sinh (tập I, II, II)
23- Giáo Án
Rèn Nhân Cách Lớp Ngũ Giới: Đức Ly Tham (tập I)
24- Giáo Án
Rèn Nhân Cách Lớp Ngũ Giới: Đạo Đức Gia Đình
(tập I)
25- Mười Giới
Thánh Đức Sa Di (tập I, II)
26- Giới Đức
Thánh Tăng, Thánh Ni
27- Phật
Giáo Có Đường Lối Riêng Biệt
28- Định Niệm
Hơi Thở
29- Những Lời
Tâm Huyết (tập I, II)
30- Pháp Môn
Niệm phật tứ Bất Hoại Tịnh
31- Nghi Thức
Thọ Trai
.............................................
Phật tử đã
đưa hầu hết kinh sách của Tu Viện
Chơn Như lên
mạng ở địa chỉ:
http://chonnhu.net
http://chonlac.org
Sách này do
phật tử
nhiều nơi, cả
trong nước và nước ngoài phát tâm
ấn tống.
Ước mong mọi
người sẽ cùng nhau sống không làm khổ mình,
khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
MƯỜI HAI CỬA
VÀO ĐẠO
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
----------------------------------------
NHÀ XUẤT BẢN
TÔN GIÁO
Phường Yên
Hòa - Q. Cầu Giấy - Hà Nội
ĐT: (04)
37822845 - Fax: (04) 37822841
Chịu trách
nhiệm xuất bản: NGUYỄN CÔNG OÁNH
Biên tập: Lê
Hồng Sơn
Bìa: Thiện
Thành Trình bày: Thiện Thành Sửa bản in: Ngọc Phúc
Đối tác liên
kết: TU VIỆN CHƠN NHƯ
Điện thoại:
(066) 389.2911 - 098.809.4445
Email:
chonnhu2@gmail.com
Số lượng in:
4.000 bản, khổ: 13 x 20,5 cm
In tại CÔNG
TY CP IN KHUYẾN HỌC PHÍA NAM
TP.HCM - ĐT: (08) 38164415
Số xuất bản:
144-2012/CXB/59-08/TG
In xong và nộp
lưu chiểu Quý I năm 2012
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!