chúng ta tu
tập như
thế nào để hộ trợ
cho pháp môn trên
thân quán thân đạt được viên mãn. Vậy chúng ta hãy nghe đức Phật
dạy: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Ba Thiện Hành?
Các Căn Được Chế Ngự, cần phải trả lời như
vậy”.
Thầy xin nhắc lại, nếu chúng
ta tu tập pháp môn TỨ NIỆM XỨ
trên thân quán thân mà không
thực hiện BA
THIỆN HẠNH thì không
bao giờ chứng được trạng thái
TỨ NIỆM XỨ,
cũng như chúng
ta tu tập BA THIỆN HẠNH mà CÁC
CĂN không chế ngự tức
là không ĐỘC
CƯ thì BA THIỆN
HẠNH không thành
công có nghĩa là không bao giờ diệt hết ác pháp.
Cho nên CHẾ
NGỰ CÁC CĂN là một vấn đề quan trọng
trong việc tu tập BA THIỆN HẠNH. Vậy chế ngự
các căn là chế ngự như thế nào?
Trong thân
con người có sáu căn:
1- Nhãn căn
(hai con mắt)
2- Nhĩ căn
(hai lỗ tai)
3- Tỹ căn
(hai lỗ mũi)
4- Thiệt căn
(lưỡi)
5- Thân căn
(cơ thể)
Chế ngự các
căn là làm cho căn không chạy theo các
trần bên ngoài, không bị các trần
bên ngoài lôi cuốn các
căn. Căn và trần
không lôi cuốn,
không chạy theo
thì tâm BẤT ĐỘNG hiện tiền quý vị có thấy không?
Rất tiếc
quý vị về
đây tu tập
người nào cũng mong muốn chứng đạo nhưng luôn luôn để
CĂN và TRẦN
tìm nhau thì làm sau chứng đạo hỡi quý vị?
Đời thì
khổ vô vàn,
các pháp vô thường nay còn, mai mất không chờ đợi một
ai. Cớ
sao quý vị lại
xem thường, có gì vui mà ham nói chuyện; có gì vui mà ham nhìn ngó người khác làm gì?
Muốn tu chứng
đạo hãy siêng năng CHẾ NGỰ CÁC CĂN, nhờ
đó mới mong chứng đạo quý vị ạ!
Muốn chế ngự các
căn có kết quả vậy chúng ta hãy tu tập các pháp môn nào?
Chúng ta
hãy lắng nghe
đức Phật dạy: “Này các tỳ
kheo! Cái gì là thức ăn cho Các Căn
Được Chế Ngự?
Chánh
Niệm Tỉnh
Giác, cần phải
trả lời như
vậy”.
Đức Phật đã
dạy rõ ràng: “CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC” là pháp môn tu tập “CHẾ NGỰ CÁC CĂN”. Chánh Niệm Tỉnh Giác
là một pháp môn tu tập trên THÂN HÀNH NGOẠI và THÂN HÀNH NỘI tức là nương vào
THÂN HÀNH tu tập như:
1- Đi kinh
hành 10 bước hoặc 20
bước rồi đứng
lại nghỉ. Trong thời gian đứng nghỉ phải
tập trung tâm vào hơi thở,
nghĩa là biết hơi thở ra và hơi thở vào.
Khi thở ra thở vào đếm 1 kế tiếp thở ra thở vào đếm
2 và cứ như vậy nương theo hơi thở đếm đến 20
hơi thở, nhưng
phải nhớ khi nhiếp tâm
trong hơi thở
không để một niệm nào xen vào,
còn có niệm xen vào trong hơi thở thì
tu tập bớt hơi thở lại,
khi nào không có niệm khởi rồi lần lượt tăng
dần hơi thở lên cũng như đi kinh hành vậy rồi chuyển
tiếp tục đi kinh hành lại và cứ tu tập
như từ 5 phút
đến 30 phút rồi
sau này lần lượt tăng lên dần đến 1 giờ.
Nên lưu ý khi
bước đi
phải tập trung tâm
chỉ biết bước đi không có một niệm
nào sinh khởi vào
thì mới tăng dần lên đến 1 giờ,
còn có niệm
khởi thì phải
lui lại đúng thời gian chỉ còn biết bước đi mà thôi.
Đó là cách thức tu tập CHÁNH
NIỆM TỈNH GIÁC giai đoạn đầu.
2- Đi kinh
hành cũng 10 bước hoặc 20 bước rồi ngồi xuống nghỉ. Trong thời gian ngồi xuống
nghỉ phải tập trung tâm vào hơi thở, nghĩa là biết hơi thở ra và hơi thở vào.
Khi thở ra thở vào cũng đếm 1 kế tiếp thở ra thở vào đếm 2 và cứ như vậy
nương theo hơi thở đếm đến
20 hơi thở,
nhưng phải nhớ khi
nhiếp tâm trong
hơi thở không để một niệm vọng
nào xen vào, còn có
niệm vọng xen vào trong
hơi thở thì tu
tập bớt
hơi thở lại,
khi nào không
có niệm khởi rồi lần lượt
tăng dần hơi thở lên
cũng như đi kinh hành vậy. Ở
đây chỉ có
khác ở phần đi kinh
hành 1 là tu tập hơi thở là
phải ngồi.
Khi tu tập xong
hơi thở thì lại
tiếp tục
đi kinh hành và
cứ tu tập như vậy từ
5 phút đến 30 phút
rồi sau này lần lượt
tăng lên dần đến 1 giờ.
Nên lưu ý khi
bước đi
phải tập trung tâm
chỉ biết bước đi không có một niệm
nào sinh khởi vào
thì mới tăng dần lên đến 1 giờ,
còn có niệm
khởi thì phải
lui lại đúng thời gian chỉ còn biết bước đi mà thôi.
Đó là cách thức tu tập CHÁNH
NIỆM TỈNH GIÁC THÂN HÀNH NIỆM NỘI
VÀ THÂN HÀNH NIỆM NGOẠI,
đây là ở
giai đoạn kinh hành thứ nhất.
Muốn tu tập
CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC như trên đã dạy thì tu tập THÂN HÀNH NIỆM NỘI và THÂN HÀNH
NIỆM NGOẠI, nhưng khi
tu tập hai
pháp môn này mà
không có PHÁP
DẪN TÂM thì tu
tập không mang đến kết quả tốt đẹp được. Vậy PHÁP DẪN TÂM như thế nào?
Chúng ta
hãy lắng nghe
đức Phật dạy: “Này các tỳ
kheo! Cái gì là thức ăn cho Chánh Niệm Tỉnh
Giác? Như Lý Tác Ý, cần phải trả lời như vậy”.
Đúng vậy,
pháp NHƯ LÝ TÁC Ý
là PHÁP MÔN
DẪN TÂM. Đến lời dạy này chúng ta thấy đức Phật dạy từ
pháp môn này kế tiếp pháp môn
khác, pháp thấp đến pháp cao cụ thể rõ ràng như hai bàn tay của
chúng ta
có 10 ngón là 10
ngón không sai một
ngón nào cả.
Còn nói về
pháp cơ bản cho đến
pháp chứng đạo
nó giống như chương trình giáo dục
đào tạo văn hóa của
Bộ Giáo Dục. Nếu một người tu theo Phật giáo mà tu không chứng đạo là tu lấy
hình thức chứ không quyết tâm thật sự.
Chúng tôi
xin bảo đảm, nếu ai quyết tâm tu tập thật sự
đúng như lời dạy của Phật trên
đây thì một trăm người sẽ chứng
đạt 100 người không
bỏ sót một
người nào cả. Qua những
bài pháp này
chúng ta mới rõ Phật pháp là pháp cứu loài người thoát
khổ với tầm sức và khả năng của con người. Cho nên là con người bất cứ ai học
và tu tập đều đạt kết quả làm chủ sanh tử dễ dàng không có khó khăn, không có mệt nhọc.
Chỉ có những người mới đầu
thì hăng hái tu tập, nhưng chỉ được một tuần lễ hay
nửa tháng là mở cửa thất đi tìm người
khác nói chuyện giả vờ giúp bạn đồng
tu hoặc xin
phép để gặp Thầy hỏi điều này, thế
kia hay viết thư thưa hỏi đúng sai v.v... Đó là những người không quyết
tâm giải thoát mà chỉ tu danh tu
lợi khoe khoang
sự tu tập của mình để
làm thầy mọi người.
Đó chính là
hành động tự giết mình trong sự tu tập.
Một khi
Thầy đã dạy
cũng như đức Phật đã dạy BA MƯƠI BẢY PHÁP MÔN vào cửa giải thoát là đầy
đủ giáo pháp của đức Phật.
Không còn thiếu
một pháp nào cả. Nếu bảo rằng BA
MƯƠI BẢY PHÁP MÔN này còn thiếu là người ấy chưa hiểu Phật giáo,
họ bị ảnh hưởng của
tà giáo ngoại đạo TÁM MƯƠI BỐN
NGÀN PHÁP MÔN. Bài pháp trên đây đức Phật dạy rất cặn kẻ, nếu người
nào đọc xong mà
không biết cách tu tập thì thật
là tối tăm và trí óc mất bình thường.
Học qua bài
pháp BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO trên đây,
chỉ còn có theo thứ lớp các pháp tu tập
thì sự chứng đạo sẽ ở trong
tầm tay quý vị, không
còn phải tu tập thêm một pháp môn nào nữa cả và cũng không
cần phải thưa hỏi với một vị thầy
nào. Trong bài dạy rất kỹ dù
có một trạng thái
tưởng hay một hiện tượng
nào xảy ra thì
trong bài pháp
này cũng chỉ
rõ ràng, nên những ai cứ theo
bài pháp này
tu tập dù bất cứ nơi đâu cũng
không sợ điên khùng loạn trí hay bị tẩu hỏa nhập ma.
Nếu chúng
ta sợ hãi
thì nên lắng nghe
đức Phật dạy
thì quý vị
càng vững lòng tin hơn: “Này các tỳ
kheo! Cái gì là thức ăn cho
Như Lý Tác Ý? Lòng
Tin, cần phải trả lời như vậy.”
Những lời
chúng tôi khuyên
quý
vị trên đây
cũng là ý này, nếu có lòng tin
chúng ta
mới nhiệt tâm
tu tập, tu thật sự, còn
không có lòng tin thì dù có tu tập
cũng chỉ tu lấy có
hình thức làm vừa lòng
người
khác.
Lời đức Phật
xác định trên đây chúng tôi tin rằng mọi người
sẽ tin tưởng hơn
nhiều. Người
tu theo đạo Phật mà không tin
Phật
thì còn tin ai. Phải không quý vị?
Nhưng trong
cuộc đời con
người có quá nhiều sự gian dối,
khi họ theo một tôn giáo nào
thì dựa vào đó làm nghề buôn thần
bán thánh, dựa vào
đó chia phe chia nhóm để mình làm
bá chủ lãnh đạo một góc trời chẳng thua kém một ai. Đó là danh đã
làm cho họ lạc lối tu hành. Rồi đây sinh tử luân hồi đến họ biết lấy gì
bảo vệ.
Đức Phật thường
dạy: “Được thân người là
khó mà gặp được
chánh pháp còn khó hơn”. Vậy
hôm nay quý vị đã gặp hai thứ
khó thế mà
quý vị lại
xem thường không lo
tu tập. Chánh pháp
của Phật là một phương thuốc cứu người, nhưng ai có uống thì mới hết bệnh còn
ai không tin, không uống thì cũng đành chịu mà thôi.
Khi nói
về chánh pháp
của Phật chúng tôi hết sức giảng
dạy để làm cho mọi người dễ hiểu và thấy kết quả ngay
liền, nhưng không đủ duyên nên họ tu tập lơ là không nghiêm
chỉnh thường phá hạnh
độc cư thích tụm ba tụm bảy
nói chuyện. Dù pháp có hay
đến cỡ
nào mà thấy mọi
người
dụm ba dụm
bảy nói chuyện
thì pháp hay cũng thành pháp dở.
Những người
dụm ba dụm bảy nói chuyện là những người không có lòng tin chánh pháp của Phật.
Không có lòng tin chánh pháp của Phật
thì tu tập
theo Phật giáo để làm gì?
Đối với đạo
Phật, pháp môn thứ nhất là LÒNG TIN. Nhờ
có LÒNG TIN chúng ta mới tu tập đến nơi đến chốn.
Trên đời người
ta sinh sống
làm ăn được giàu sang hay nghèo
khổ là nhờ vào LÒNG TIN khả năng của
mình và chọn lựa nghề nghiệp,
nếu không có LÒNG
TIN vào khả năng của mình
và sự lựa chọn
nghề nghiệp thì luôn luôn sẽ gặp thất bại.
Cho nên
LÒNG TIN rất
quan trọng trong cuộc sống đời
người, vì thế
nó còn quan trọng gấp trăm ngàn lần
trong việc tu hành theo Phật giáo.
Trong pháp
môn NGŨ LỰC của Phật giáo, LÒNG TIN đứng hàng đầu
gọi là TÍN LỰC. Trong
tất cả Pháp
môn tu tập của
Phật giáo, pháp
tu tập thứ nhất là
LÒNG TIN, quý vị có
LÒNG TIN này
không? Nếu
quý vị
chưa có LÒNG
TIN thì hãy lắng
nghe đức Phật dạy: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Lòng Tin? Nghe Diệu
Pháp (chân pháp của Phật), cần
phải trả lời như vậy”.
Đúng vậy,
nếu chưa có
LÒNG
TIN thì hãy nghe giảng dạy về DIỆU PHÁP. Vậy DIỆU PHÁP là pháp gì?
Diệu Pháp là
pháp môn TỨ DIỆU ĐẾ là một pháp
môn chỉ thẳng
vào con người nói rõ sự chân thật
của một kiếp làm người.
Toàn bộ thân
tâm con người là một khối khổ trong
đó không có
gì là vui cả,
nhưng con người lầm chấp dục lạc cho là vui chứ
kỳ thật thân
tâm con người là pháp
vô thường. Cho nên
trong kinh TỨ ĐẾ đức Phật gọi là KHỔ ĐẾ.
Từ lâu loài
người chưa biết thân tâm của mình là
pháp vô thường,
là khối đau khổ
cho nên thường lo lắng yêu
thương nó và dính mắc ai đụng đến nó đều ăn thua đủ, bảo vệ
nó như bảo vệ một vật
quý giá nhất trên đời.
Khi đức Phật nói thân
tâm con người là một khối khổ đã làm sáng mắt mọi người nhưng bản chất
kiến chấp nhiều đời đã ăn sâu đã thành
một dấu ấn
nên họ muốn bỏ
mà bỏ chẳng được.
Thân tâm con
người là một khối
khổ, đó là một sự thật
nên không còn
ai dám phủ nhận lời đức Phật dạy
là sai. Nhưng muốn thoát ra khỏi sự khổ của thân tâm thì chẳng biết
làm sao cả. Lấy
cái gì làm cho
nó hết đau khổ đây, do đó các tôn giáo khác tưởng tượng
ra thế giới
siêu hình: Cõi Trời
có Ngọc Hoàng Thượng Đế và chư Thiên,
cõi Phật có Tam Thế Chư Phật, Phật ông,
Phật bà, chư Bồ Tát và các bậc A La Hán ngồi lủ khủ đầy
bàn đầy ghế
khiến con người trần gian
lạy lễ quá mệt nhọc và
tốn hao tiền bạc công sức cúng
bái cầu nguyện,
nhưng khổ vẫn còn
nguyên vẹn và
còn gia tăng hơn.
Khi mình đi
ăn trộm của
người khác công an bắt được
thì đi tù thì có bậc Thánh Thần, chư Thiên, chư Phật chư Bồ
Tát nào dám cứu khổ những kẻ này, bộ
các vị muốn ở tù phải không?
Tội ở
tù của Thánh,
Thần, chư Phật, chư Bồ Tát là tội
ăn lo hối lộ nải chuối bình hoa, cây hương v.v...
Cho nên những việc dạy tín đồ mê tín của các tôn giáo cầu nguyện chư Phật ban
phước, chư Bồ Tát cứu khổ, Chúa ban phước lành
là những việc
làm lừa gạt
con người, phi pháp luật. Nhà nước
cần phải quan tâm những hệ phái tôn giáo
này để giúp
nhân dân sống có đạo đức văn hóa
lành mạnh tốt đẹp hơn.
Chấm dứt
ngay những phong tục lạc hậu đồng cốt nhảy múa
hát hò trống
kèn rập rình miệng gọi cô, cậu,
thánh thần, âm binh v.v...
Đó là những
văn hóa lạc hậu
cách đây hơn mấy ngàn năm.
Chấm dứt
ngay những đàn tràng cúng bái cầu hồn, gọi hồn, cúng
vong tiển linh, làm tuần, làm tự cầu siêu tụng kinh bảy
ngày, hai mươi mốt ngày rồi bốn mươi
chín ngày làm tuần giáp năm và làm tuần mãn tang. Tất cả những
hành động này đều là mê
tín lạc hậu. Đạo Phật
không có dạy những điều này vì đức Phật đã xác định
không có linh hồn. Thân tâm của con người
gồm có năm uẩn:
1- Sắc uẩn
2- Thọ uẩn
3- Tưởng uẩn
4- Hành uẩn
5- Thức uẩn
Khi năm uẩn này hoại diệt thì không còn một uẩn nào cả. Vậy linh hồn ở
đâu mà người ta gọi hồn về
cúng bái. Một việc
làm sao quý vị cứ
nghe đâu làm theo mà
không
chịu
suy xét.
Không lẽ chúng
ta toàn là người mù mắt hết sao bị tôn giáo lừa gạt
mà không biết. Trong
khi đức Phật dạy: “Ba mươi ba cõi trời là cõi tưởng”, vậy Ngọc
Hoàng Thượng Đế ở đâu khi mà 33 cõi Trời là cõi tưởng. Vậy
quý vị cầu
nguyện ai đây khi mà không có thế giới siêu hình. Quý vị
làm một điều mê tín mù quáng mà quý vị
không biết.
Sau khi chỉ
cho con người thân tâm của con người là một khối khổ, vậy khối
khổ này từ nguyên nhân nào làm cho nó khổ? Câu hỏi được đặt ra đức Phật mới xác
định chân lý thứ
hai để mọi người
biết nguyên sinh ra đau khổ của
con người là chính LÒNG THAM MUỐN của con người. Lòng tham muốn
của con người
làm khổ con người
chớ không có
ai làm đau khổ con người cả.
Pháp Phật
thật là vi diệu
nói đâu là đúng
đó không sai một li hào
nào cả. Chữ DIỆU
PHÁP không có nghĩa là
thần thông phép lực cao cường
hô phong hoán vũ,
tàng hình biến hóa; DIỆU PHÁP không phải là pháp cao siêu vĩ đại mà DIỆU
PHÁP chỉ là một pháp thuyết
về con người
đến đâu
khiến cho mọi
người hiểu biết (giác
ngộ) rõ ràng đến đó
không
có một chỗ nào
không
biết.
Pháp môn TỨ
DIỆU ĐẾ là một
pháp môn DIỆU PHÁP. Quý vị có nhớ
không, bài pháp đầu tiên của đức Phật thuyết cho năm anh em Kiều Trần
Như không? Một
bài pháp đã khiến cho tất cả các
tôn giáo ngoại đạo rung chuyển, được xem là một bài pháp làm cho cả thế
giới chấn động
và thế giới siêu hình rơi rụng như lá vàng mùa Thu.
LÒNG THAM MUỐN
của con người làm khổ con
người cho nên
không ai cứu khổ
con người bằng
chính mỗi người
hãy dẹp bỏ LÒNG
HAM MUỐN của
mình thì ngay đó
thân tâm hết khổ, thế giới không còn xung đột và chiến tranh nữa.
LÒNG
HAM MUỐN là một sự thật và ai cũng
biết rằng dẹp nó thì chấm dứt khổ
đau. Nhưng dẹp nó thì họ sẽ mất hết không còn
gì nữa cả. Cho nên
đức Phật biết
tâm trạng con người
như vậy nên Ngài
dạy: “LY DỤC LY BẤT THIỆN PHÁP DO
LY DỤC SINH HỶ LẠC”. Danh từ HỶ LẠC ở đây có nghĩa là HÂN HOAN VUI VẺ và AN LẠC.
Nghe lời
dạy này quý
vị có hiểu không?
Khi dẹp bỏ LÒNG
HAM MUỐN thì chúng
ta lại được
TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ
SỰ. Cho nên dẹp bỏ
LÒNG HAM MUỐN
chúng ta lại được
AN VUI gấp
trăm ngàn lần. Vậy quý vị có bỏ
không?
Nói thế chứ
của cải tài sản đất đai ruộng vườn tiền bạc bỏ
đâu phải dễ, nhất là danh thì lại
càng khó bỏ hơn. Nghe hết khổ thì ai
cũng ham nhưng
buông bỏ hết thì ít
ai làm được. Bởi vậy bỏ cái gì thì dễ chứ bỏ LÒNG THAM,
SÂN, SI, MẠN,
NGHI thì quá khó phải không quý vị?
Đời người khổ
là do NGŨ TRIỀN CÁI và THẤT KIẾT SỬ
chính trong thân
tâm họ, đức Phật dạy rất rõ nhưng
đến giờ này có
mấy ai bỏ sạch đâu.
Chỉ có muội
lược
3/10
hay 5/10 mà người
ta cảm thấy
mình đã an vui, nếu bỏ hết thì đã
làm Phật xong rồi. Phải không quý vị?
Biết rõ
chân lý DIỆT
ĐẾ là một trạng
thái giải thoát
trong thân tâm của
mỗi người nên Thầy dùng
pháp NHƯ LÝ TÁC
Ý mà tác
ý ngay TÂM BẤT ĐỘNG,
THANH THẢN,
AN LẠC, VÔ SỰ để giữ gìn và bảo vệ
nó, khiến cho nó
luôn luôn hiện tiền
trong tâm thì LẬU HOẶC
không còn có nghĩa là đau khổ không còn nữa. Như đức Phật đã dạy: “Có
như lý tác
ý lậu hoặc chưa
sinh sẽ không sinh
mà đã sinh thì bị diệt”.
Một người
tu tập cứ bền tâm
bền chí TÁC
Ý khi
có niệm khởi, khi có hôn trầm thì niệm khởi và hôn trầm sẽ bị tiêu
diệt, nó bị tiêu diệt thì chứng đạo ngay
liền tại chỗ đó. Cho nên
tu hành khi biết đúng Chánh pháp
thì tu hành
chứng đạo không còn
khó khăn mệt nhọc
gì cả. Thầy đã dạy
rất rõ thì
quý vị hãy
ôm cho chặt pháp để
chiến thắng giặc sinh tử luân hồi.
Con đường tu
tập của Phật giáo rất rõ có tám lớp tu học mà
ai cũng biết,
đó là BÁT CHÁNH
ĐẠO. BÁT CHÁNH
ĐẠO gồm có:
1- Chánh kiến
2- Chánh tư
duy
3- Chánh ngữ
4- Chánh
nghiệp
5- Chánh mạng
6- Chánh
tinh tấn
7- Chánh niệm
8- Chánh định
Bởi vậy đến với đạo Phật
là đến với sự
thật, đến với sự thật
là đến với
tri kiến thì tri kiến ấy mới đem lại
sự bình an cho loài người.
Bởi sinh
ra làm người
mà bản thân con người có một loại vũ khí tối tân nhất để bảo vệ sự sống
bình an yên
vui và hạnh phúc
của con người. Đó
là tri kiến, tri kiến
của con người
rất là quan trọng. Nếu con người cứ để tri
kiến ấy
nuôi lớn bằng NGŨ TRIỀN CÁI và THẤT
KIẾT SỬ
thì con người phải
chịu vô vàn khổ đau, còn
ngược lại nuôi lớn bằng tri kiến diệt NGŨ TRIỀN CÁI và THẤT
KIẾT SỬ
thì con người sống bình an, yên vui và hạnh phúc.
Ai cũng biết
con người sống bằng tri kiến, nhưng tri kiến
phải được rèn
luyện trong nền đạo đức của Phật giáo
qua tám lớp học như trên đã kể.
Tám lớp học
này phải
do một bậc chứng
đạo giảng dạy
thì sự tu học
mới có kết quả
thiết thực. Khi giảng dạy tất cả tu
sinh có quyền thưa hỏi những gì không biết.
Một vị tu hành chứng đạo sẽ đáp ứng những đòi hỏi của tu sinh đầy đủ, còn ngược
lại người tu chưa chứng đạo sẽ không đáp ứng được. Do
đó đức Phật dạy: “Này
các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn
cho Nghe Diệu Pháp? Thân Cận Với Bậc Chân Nhân (Bậc tu chứng đạo),
cần phải trả lời
như vậy”.
Đúng vậy,
chỉ có thân cận với
những người tu chứng thì
con đường tu học mới chứng
đạo. Trong đời
rất khó gặp
những bậc tu
chứng đạo. Đó là một điều khó nhất trên đường tu tập. Tu tập các pháp
không khó nếu
có bậc thiện
hữu tri thức tu chứng.
Bậc tu chứng
tuy ở trước mặt nhưng không đủ duyên cũng không phải dễ gặp, dù có gặp
nhưng phước duyên
không đủ thì lòng tin không có và như vậy gặp cũng như không.
Bởi người xưa
nói: “Hữu duyên thiên
lý nan tương
ngộ, vô duyên
đối diện bất tương phùng”. Đó là một bằng chứng như hiện giờ ai cũng gặp
Thầy nhưng có mấy ai đủ lòng tin tu tập
chứng đạo như Thầy không?
Cho nên tìm một
người tu chứng đạo là phải đủ nhân duyên, nếu không đủ duyên
thì khó
mà gặp người
tu chứng. Vì thế quý vị tha
thiết tu hành và tu tập hết sức mình thì đó
là quý vị tạo duyên
gặp người tu chứng,
nếu không suốt đời
quý vị khó gặp
lắm dù
có gặp cũng
chỉ như gặp một
người bình thường chứ
không được truyền
trao kinh nghiệm tu tập. Dù những bậc tu chứngï có truyền
trao nhưng quý vị nghe rồi
cũng bỏ ngoài tai.
Căn cứ theo
những lời Phật dạy trên đây Thầy sẽ chỉ dạy BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO để quý vị hiểu
rõ phải tu tập
pháp môn nào trước pháp môn nào sau.
1/ Người tu
sĩ muốn được
Nghe
Chân
Pháp Của
Phật thì phải
THÂN CẬN BẬC TU CHỨNG
ĐẠO, đã làm chủ
sinh,
già, bệnh,
chết. Đó là pháp thứ nhất, quý vị cần phải nhớ kỹ lời dạy này.
2/ Người tu
sĩ muốn có Lòng
Tin thì phải được
NGHE CHÂN PHÁP CỦA PHẬT.
Đó là pháp
thứ hai cần phải ghi nhớ. Nếu quên đó là một sự sai lầm hết sức trong đường tu tập
theo Phật giáo.
3/ Người
tu sĩ muốn đạt được
pháp môn Như Lý Tác Ý thì phải có LÒNG TIN. Đó là pháp thứ ba cần phải
ghi nhớ.
4/ Người tu
sĩ muốn đạt được Chánh
Niệm Tỉnh Giác
thì phải tu tập NHƯ LÝ TÁC Ý. Đó là pháp thứ tư cần phải ghi
nhớ.
5/ Người
tu sĩ muốn
Chế Ngự Được
Các Căn
thì phải tu tập CHÁNH
NIỆM TỈNH GIÁC. Đó là pháp thứ năm cần phải ghi nhớ.
6/ Người
tu sĩ muốn
đạt được Ba
Thiện Hạnh
thì phải tu tập CHẾ NGỰ CÁC CĂN (Độc Cư). Đó là pháp thứ sáu
cần phải ghi nhớ.
7/ Người tu
sĩ muốn đạt được Tứ Niệm
Xứ thì phải tu tập BA THIỆN
HẠNH. Ba
Thiện Hạnh tức
là ý hành thiện, khẩu hành
thiện, thân
hành thiện (Tứ Chánh Cần). Đó là pháp thứ
bảy cần phải ghi nhớ.
8/ Người
tu sĩ muốn đạt được
Bảy Năng Lực Giác Chi
thì phải tu tập TỨ NIỆM XỨ.
Đó là pháp
thứ tám cần
phải ghi nhớ.
9/ Người
tu sĩ muốn đạt được
Tam
Minh để làm chủ sinh tử và chấm dứt
luân hồi thì phải
có đủ Bảy
Năng Lực Giác Chi.
Bảy năng lực
giác chi xuất
hiện khi tâm bất động
trên Tứ
Niệm Xứ. Tâm chưa bất động trên Tứ niệm Xứ thì
không bao giờ có Bảy năng
Lực Giác Chi xuất hiện. Đó là pháp thứ chín cần phải ghi
nhớ.
Ba muai bdy
phd'm trC? dq,o
Trên đây
là ba mươi bảy
pháp tu
tập để
làm chủ sinh,
già, bệnh, chết rất thực
tế và cụ thể. Cho nên
trong thời đức Phật có
nhiều Vương Tử con các nhà quý tộc bỏ gia đình, nhà cửa đi tu theo Phật
như:
1- Nhóm
Anuruddha (A Na Luật Đà)
2- Nhóm
Nandiya
3- Nhóm
Kimbila
4- Nhóm
Bhagu
5- Nhóm
Kundadhana
6- Nhóm
Revata
7- Nhóm
Ananda
Và còn nhiều
nhóm con nhà quý tộc khác nữa. Vì các
nhóm Vương Tử này muốn xuất gia
tu theo Phật, nên đức Phật bảo: “Này các Vương
Tử, các ông vì lòng tin Ta đã xuất
gia làm chủ sinh tử, nên các ông mới từ
bỏ gia
đình, sống không gia đình. Như vậy
các ông có hoan hỷ sống trong Phạm hạnh
này không?”.
Ba lần hỏi
như vậy, nhưng các nhóm Vương Tử không có nhóm nào dám trả lời. Đức Phật mới
suy nghĩ Ta phải hỏi từng nhóm một chứ họ
không đại diện chung cho các nhóm trả lời,
vì thế, đức Phật gọi
tên từng nhóm một mà hỏi:
“Này Anuruddha, các Vương Tử có
hoan hỷ trong Phạm hạnh này không?”.
Ông A
NA LUẬT thay mặt nhóm của mình mà trả lời Phật: “Bạch
Thế Tôn, thật sự chúng con hoan
hỷ sống trong Phạm hạnh”.
Khi nghe Anuruddha trả lời như vậy
đức Phật ca ngợi ý chí tìm cầu sự giải thoát: “Lành thay, lành thay, này nhóm
Anuruddha, các Vương Tử thật xứng đáng là
những Thiện gia
nam tử, vì lòng tin
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình, sống trong Phạm hạnh này,
các ông có
hoan hỷ sống
trong Phạm hạnh này không?
Trong khi các
Vương Tử với tuổi
trẻ tốt
đẹp, trong tuổi thanh xuân, với tóc
đen nhánh, có thể hưởng
thụ các
dục lạc, cớ sao lại
xuất gia từ bỏ gia
đình, sống
không gia đình?”
Các Vương
Tử tuổi còn
thanh niên nên đức Phật cẩn thận
nhắc đi, nhắc lại vì một lý do gì,
có phải
vì mệnh lệnh của vua hay vì mệnh lệnh của kẻ trộm
cướp hay vì nợ nần
hay vì sợ
hãi hay vì mất nghề nghiệp sinh sống? Muốn biết
rõ những điều này, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật hỏi:
“Này nhóm
Anuruddha, các Vương Tử không vì
mệnh lệnh của vua mà xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình.
- Hay
vì mệnh lệnh
của kẻ ăn trộm
mà xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình.
- Hay vì nợ nần mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
- Hay vì sợ hãi
mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
- Hay vì
mất
nghề sinh sống
mà xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình.
Các Vương
Tử nhóm Anuruddha trả lời:
“Thưa không phải
vậy, bạch Thế Tôn”.
Nghe các
Vương Tử thuộc nhóm Anuruddha trả lời
như vậy nên đức Phật hỏi tiếp:
“Hay các
Vương Tử có những tư tưởng như sau: “Vì bị sinh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ,
não áp bức, chi phối nên các Vương
Tử nhóm Anuruddha, chỉ mong có thể thấy được sự chấm
dứt toàn bộ khổ uẩn này mà đặt
trọn lòng tin xuất gia,
từ bỏ gia đình, sống không gia
đình, có phải vậy không?
Các Vương
Tử nhóm Anuruddha trả lời: “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”.
Đoạn kinh
trên đây đức Phật dạy rất
rõ: “Chỉ vì SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT mà
các Vương Tử con
vua cháu
chúa bỏ đi tu chấp nhận sống
không gia đình, không nhà cửa”. Các
Vương Tử đều là những người giàu sang phú quý thế mà họ hiểu được Phật pháp, sẵn
sàng buông bỏ tất cả không hề tiếc hối một điều gì. Đối với đời
sống của
các Vương Tử
thì đời sống
của chúng ta làm
sao bằng các Vương Tử này
đâu, thế mà chúng ta lại bỏ không được.
Sinh, già,
bệnh, chết sẽ không
chờ chúng ta đâu, một khi nó
đã đến thì
không còn cách nào
thương lượng, điều
đình được. Cho nên ngay từ phút
này phải lo cứu mình ra khỏi biển sinh tử.
Giặc sinh tử
đang cai trị đất nước của chúng ta. Chúng
ta đang là những người dân bị nô lệ, nếu chúng ta chấp nhận
làm người dân nô lệ thì đời đời kiếp kiếp không bao giờ làm chủ sinh
già bệnh chết.
Nếu
chúng ta không đứng lên đòi quyền
làm chủ sinh,
già, bệnh, chết thì muôn
đời ngàn kiếp của chúng
ta chỉ là người dân nô lệ làm tay sai cho giặc sinh
tử mà thôi.
Khi nổi
lên chống giặc
sinh tử chúng ta phải có chiến thuật, chiếc lược đấu tranh thì mới
mong thắng giặc. Nếu trong tay không có bản đồ chiến thuật, chiến lược thì
chúng ta có nổi lên chống giặc sinh tử thì cũng chỉ hy sinh vô ích mà thôi.
Cho nên trước khi
muốn đánh giặc sinh
tử thì chúng
ta nên theo một chiến thuật, chiến lược của một người đã chiến
thắng giặc sinh tử, nhờ đó nó là một kinh nghiệm sống
hay nói một
cách khác là chúng ta có bản đồ chiến lược chiến thuật.
Muốn có bản
đồ tu Phật thì chúng ta hãy lắng nghe đức
Phật dạy: “Và xuất gia như vậy,
này các Vương Tử nhóm Anuruddha,
các người Thiện
gia nam tử cần phải làm gì?”.
Trước
khi thuyết pháp đức Phật thường hay đặt ra
câu hỏi để
khiến mọi người chú ý lời dạy của
Ngài nhiều hơn.
Cho nên
khi xuất gia
đi theo Phật giáo
tu hành chỉ
có từ bỏ
gia đình, sống không gia đình là đủ hay còn phải tu tập
những pháp môn nào nữa?
Chúng ta
hãy nghe đức
Phật dạy: “Này các Vương Tử
nhóm Anuruddha, khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình thì
tiếp tục tu tập
ly dục ly bất thiện pháp”.
Theo như lời đức Phật dạy
trên đây khi từ bỏ gia
đình, sống không
gia đình xong thì chúng ta phải tiếp tục tu tập ly dục ly bất thiện
pháp. Vậy cách
thức ly dục ly bất thiện pháp như thế nào?
Ly dục
có nghĩa là lìa tất cả lòng ham muốn của
chúng ta, hễ
trong tâm chúng khởi lên niệm ham muốn nào thì chúng ta
nhất định không
làm theo, không chạy theo, như vậy gọi là lìa.
Ly bất
thiện pháp có
nghĩa là lìa tất cả các
ác pháp làm khổ mình, khổ người
và khổ tất cả chúng sinh. Người tu theo Phật giáo nhất định thà chết chớ không
làm theo những điều ác.
Cho nên người
tu sĩ Phật giáo
thường tỉnh giác
sáng suốt nhận
ra từng hoàn cảnh, từng đối tượng, từng hành động việc
làm, từng ý niệm khởi
lên, nếu xét thấy
làm khổ mình,
khổ người và khổ
tất cả chúng sinh thì nhất
định không làm và còn tránh xa.
Đó là ly bất thiện pháp.
Muốn ly dục
ly bất thiện pháp
cho có kết quả tốt thì chúng ta
nên sống một mình để phòng hộ sáu căn.
Lúc bây giờ trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm,
ngồi chúng ta đều
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!