NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
Nói đến Từ, Bi, Hỷ, Xả
là người ta nghĩ ngay Tứ Vô Lượng Tâm, cho Tứ Vô Lượng
Tâm là một pháp môn, nhưng không ngờ Tứ Vô Lượng Tâm là một cái
tên chỉ chung cho bốn
pháp môn
đôïc nhất của Đạo Phật, từ pháp môn
đó tu tập đi đến cứu
cánh mà không
cần phải tu tập những thiền định
nào cả. Khi pháp môn đó tu tập thành tựu tâm vô lậu là có đủ Bốn Thiền và Tam
Minh. Cho nên, em trai ông Cấp Cô Độc chỉ do tu một pháp độc nhất “Từ Tâm” mà
chứng quả A La Hán.
Khi
chúng ta
dùng pháp như lý tác
ý tu tập tâm từ, từ
tâm được hiện bày
thì có một trạng thái thanh tịnh,
an lạc, thương yêu hòa mình trong sự sống của
muôn loài hiện
ra, do đó mà ngũ triền
cái và thất
kiết sử bị đoạn
diệt.
Ở đây,
các bạn nên
lưu ý bốn
pháp độc nhất này không phải như
bốn thiền ở trên khi nhập phải
dùng bảy năng lực Giác
Chi. Pháp Tứ Vô Lượng Tâm chỉ có dùng pháp như lý tác ý
đánh thức tình cảm yêu thương sâu kín tận trong tâm của con người. Nó gồm có:
1- Từ tâm;
2- Bi tâm;
3- Hỷ tâm; 4- Xả tâm. Tùy theo đặc
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
tướng của
các bạn mà chọn
lấy một
trong bốn pháp này tu tập.
Các bạn đâu có
ngờ rằng bốn pháp Tứ Vô Lượng Tâm này là bốn Pháp tuyệt vời trong
Phật giáo, nó giúp các bạn trở thành những bậc Thánh một
cách dễ dàng
không có khó
khăn
các bạn ạ!
THỨ SÁU: BI
TÂM LÀ PHÁP
ĐỘC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH
BI TÂM
“Bi tâm
này là pháp hữu vi,
do suy tư tác thành. Phàm
sự vật gì là
pháp hữu vi, do suy tư tác
thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy
vững trú
ở đây đoạn
trừ được các lậu hoặc.
Và nếu các lậu hoặc
chưa được đoạn trừ, do
tham luyến pháp
này, do hoan hỷ
pháp này, vị ấy đoạn
trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết
Bàn tại cảnh
giới ấy, khỏi phải
trở lui đời này.
Này Gia chủ như vậy
là pháp độc nhất,
do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, bậc A La Hán, Chánh
Đẳng Giác
tuyên bố ...”.
CHÚ GIẢI:
Bi tâm là một
pháp tu tập lòng thương xót trước cảnh thương tâm, bất hạnh của chúng
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
sanh. Nếu một
người tu tập rèn luyện được lòng thương
xót tất cả
chúng sanh, khi lòng thương xót
ấy hiện tiền
thì tất cả ác
pháp như tham, sân,
si, mạn, nghi đều vô
tác dụng vào tâm mình.
Do đĩ, tâm vô lậu hoàn
toàn và chứng quả A La Hán ngay liền. Người chứng quả
A La Hán đều có đầy đủ thiền định và Tam Minh.
Các bạn đừng
hiểu lầm
là khi tu tập Bi
Tâm rồi
còn phải tu tập bốn
Thiền và Tam Minh nữa.
Hiểu như vậy
là sai các bạn ạ! Vì
trạng thái Bi
Tâm đã có đầy đủ thiền định và Tam
Minh, mặc dù bạn
chưa bao giờ có một phút tu tập Thiền định.
THỨ BÂY: HỶ
TÂM LÀ PHÁP
ĐỘC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH
HỶ TÂM
“Hỷ tâm
này là pháp hữu vi, do suy tư tác
thành. Phàm sự vật gì
là pháp hữu vi, do suy tư
tác thành, thời sự vật
ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững
trú ở đây
đoạn trừ được các lậu
hoặc. Và
nếu các lậu hoặc chưa
được đoạn trừ, do tham
luyến pháp này,
do hoan hỷ pháp
này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được
hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cảnh
giới ấy, khỏi phải
trở lui đời này.
Này Gia chủ như vậy
là pháp độc nhất,
do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A La Hán, Chánh
Đẳng Giác
tuyên bố ...”.
CHÚ GIẢI:
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Nếu bạn
chọn Hỷ tâm
tu tập rèn
luyện, khi Hỷ
tâm thành tựu
thì tâm tham, sân, si, mạn, nghi
không còn nữa, do lòng hoan hỷ của bạn
đã đoạn trừ các
ác pháp. Nhờ
đó, tâm bạn vô lậu hoàn
toàn, chứng quả
A La Hán. Khi chứng
quả A La Hán với
tâm hỷ thì bạn không
cần phải tu tập thiền
định và Tam Minh gì cả, vì chính
trong tâm hỷ của bạn đã đầy
đủ Bốn Thiền
và Tam Minh, bạn
có thể thực hiện
giờ nào cũng
được, không có khó khăn, không có mệt nhọc.
THỨ TÁM: XÂ
TÂM LÀ PHÁP
ĐỘC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH
XÂ TÂM
“Xả tâm
này là pháp hữu vi, do suy tư tác
thành. Phàm sự vật gì
là pháp hữu vi, do suy tư
tác thành, thời sự vật
ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững
trú ở đây
đoạn trừ được các lậu
hoặc. Và
nếu các lậu hoặc chưa
được đoạn trừ, do tham
luyến pháp này,
do hoan hỷ pháp
này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được
hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cảnh
giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.
Này Gia chủ
như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A La
Hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên
bố ...”.
CHÚ GIẢI:
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Nếu bạn chọn
lấy pháp Xả tâm mà tu tập và rèn
luyện tâm mình,
khi tâm xả thành tựu
thì bảy năng lực
Giác Chi xuất
hiện, lúc bấy giờ
các bạn muốn
nhập thiền nào
thì các
bạn sẽ tác ý
theo trạch Pháp Giác Chi thì nhập
ngay thiền ấy
và thực hiện Tam Minh không có khó
khăn không có mệt nhọc.
Bởi vì xả vô
lượng tâm ác thì tất
cả lậu hoặc sẽ được đoạn trừ. Khi lậu
hoặc đã trừ diệt
xong thì các bạn chứng quả
A La Hán,
không cần phải
tu tập pháp môn nào khác nữa.
Trên đây
là tám pháp độc nhất
mà các bạn tự lựa
chọn cho mình một
pháp phù hợp với
đặc tướng, để tiện việc
tu tập cho đến
nơi đến chốn.
Thưa các bạn!
Các bạn nên nhớ kỹ và hãy xét lại thân
tâm của các bạn trong
giai đoạn ôm một pháp độc nhất
này tu tập. Nếu các bạn cảm thấy mình
có đủ khả
năng để ôm một
pháp độc nhất thì nên tu tập, còn nếu thấy khả năng chưa đủ
thì đừng nên. Nếu
các bạn miễn cưỡng tu tập sẽ bị ức chế tâm, và tu như
vậy dễ thành bệnh hơn là thành đạo. Một người mới vào tu
theo Phật giáo
thì không được phép
tu tập một pháp độc nhất
mà phải tu tập nhiều
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
pháp, vì tu
tập nhiều pháp nên không bị ức chế tâm. Tu ức chế tâm có hai điều nguy hiểm:
1. Căng đầu,
căng mặt, căng
thần kinh thành bệnh.
2. Rơi vào
tưởng định, tưởng
tuệ phát triển, kiến giải tưởng
giải lung tung. Con đường tu giải thoát
bế tắc, biến người tu sĩ
Phật giáo trở thành những vị thầy
phù thủy, thầy cúng, thầy bùa, thầy
thuốc trị bệnh,
trừ tà yểm quỷ,
v.v..
Kinh Bát
Thành chỉ dành
riêng cho những bậc giới luật
nghiêm túc, tâm không phóng dật, như trên đã
nói, chứ không phải để cho những người phá giới, phạm giới, tâm còn
phóng dật. Các bạn
nhớ kỹ,
như kinh đã dạy: “Nếu có
Tỳ Kheo nào
tâm không phóng dật”. Xưa đức Phật sáu năm tu tập khổ
hạnh trong rừng già,
Ngài đã sống
một đời sống Phạm
hạnh chưa từng có một tu
sĩ nào sống được như vậy. Vì thế, thân tâm Ngài quá
thanh tịnh, giới luật quá nghiêm túc. Do đó, Ngài trở về với
pháp Sơ Thiền độc nhất ly dục ly bất
thiện pháp, Ngài
thành tựu giải
thoát nơi chính pháp
môn này. Xin
các bạn đọc lại
bài Đại Kinh Saccaka thì rõ.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Bây giờ
xin các bạn vui lòng
đọc lại đoạn kinh Bát
Thành trên đây
thì hiểu rõ ràng: “Nếu có Tỳ
Kheo nào không
phóng dật, nhiệt tâm tinh cần sống
hành trì pháp ấy, thời tâm chưa
giải thoát của vị ấy được
giải thoát, hay
các lậu hoặc
chưa được đoạn trừ, đi đến đoạn trừ, hay pháp an ổn khỏi các ách
phược, chưa được
chứng đạt được chứng đạt”.
Đọc hết đoạn kinh
này, chúng tôi xin nhắc lại, các bạn cần phải lưu ý câu duy nhất: “Nếu có Tỳ Kheo
nào tâm không phóng dật”. Bốn chữ
“Tâm không phóng dật” các bạn nên biết đó
là một giai đoạn tu tập sống chết với tâm tham, sân,
si của bạn bằng nhiều pháp môn cho đến khi nào tâm thuần phục, không phóng dật
thì bạn mới dám ôm một pháp độc nhất. Các bạn có hiểu chưa?
Chúng tôi
đưa bài kinh Bát Thành này ra đây
có ba điều rất
quan trọng để các bạn cần phải lưu ý:
- Thứ nhất:
Không nên tin trọn
vẹn vào kinh sách, vì kinh sách
được kết tập là do
các Tổ, nhưng các Tổ thêm
vào và pha trộn các pháp
môn của ngoại
đạo, làm cho kinh sách Phật mất hết giá trị giải
thoát chân thật của
nó.
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
- Thứ
hai: Phải biết
khả năng và đặc
tướng của các bạn khi chọn
tu tập một
pháp môn độc nhất nào hay phải tu tập nhiều pháp môn. Nếu chưa nắm vững
được điều này thì nên tập sống đúng đời sống Phạm hạnh, giới luật nghiêm trì,
chứ đừng nên tu tập pháp môn nào khác cả, vì nếu có tu tập bất cứ một pháp nào
cũng chỉ
là ức chế
tâm mà thôi.
Ngày xưa, các Tổ không có người
tu chứng hướng dẫn nên các Ngài
tuy tu tập
theo pháp môn
của Phật, nhưng đã biến pháp môn của Phật thành pháp môn ức chế tâm của ngoại
đạo. Đó là một lỗi
lầm rất lớn của các Tổ, làm cho người đời sau mất đường
lối tu tập
theo đúng Chánh
Phật
pháp.
- Thứ ba:
Pháp môn độc nhất của Phật ở đây đã khiến cho những
nhà học giả điên đầu, không thể hiểu được, nhất
là lời dạy này:
“Vị ấy đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hoá sanh, nhập Niết Bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui lại
đời này nữa”.
Nếu đoạn kinh này không được giải
thích rõ ràng thì mọi
người sẽ nghĩ rằng Đạo Phật có thế
giới siêu hình. Nếu dựa vào kiến giải của
những nhà học giả cho rằng Đạo Phật có thế giới siêu
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
hình thì rất oan uổng cho Phật giáo, khiến cho
Phật giáo tự
mâu thuẫn lại với nó.
Phật
giáo cho rằng không có thế giới siêu
hình là vì chủ trương tự lực vượt thoát
khổ đau, không nhờ tha lực: “Tự thắp đuốc
lên mà đi”. Bởi vì, nếu có thế giới
siêu hình thì phải có tha lực,
mà có tha lực thì sẽ có sự bất công. Có
sự bất công
thì trong cuộc đời
này đau khổ sẽ không
bao giờ hết và
như vậy bốn
chân lý loài người của Phật giáo
không còn là chân lý nữa. Và thế
gian này sẽ
không còn có
công bằng và công lý, chỉ còn là một cuộc sống bất công. Tôn Giáo chỉ là
một mánh khoé lừa đảo bằng hình thức cầu
khẩn, cúng tế, bái lạy, v.v.. Các đấng
thiêng liêng ảo tưởng của các tôn giáo gia hộ
tai qua, nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ,
chỉ là những trò bịp bợm,
chứ thế gian
này khổ cũng không
bao giờ hết khổ.
Và cũng vì vậy,
mà nền
đạo đức nhân bản – nhân
quả của con người không bao giờ có được.
Muốn biết rõ
Phật giáo không có thế giới siêu
hình qua đoạn kinh Bát Thành
này, thì chúng tôi
xin rút ra và
giải thích một
pháp trong tám pháp của kinh Bát
Thành, chẳng hạn như bài
pháp thứ nhất
là pháp Sơ Thiền. Xin
các bạn vui lòng đọc lại
đoạn kinh này: “-
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
Ở đây
này gia chủ, Tỳ
kheo ly dục ly
bất thiện pháp chứng và
trú thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh,
có tầm, có tứ. Vị
ấy suy tư và được
biết: “Sơ Thiền này là
pháp hữu vi,
do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là
pháp hữu vi, do suy
tư tác thành, thời
sự vật ấy
là vô thường chịu sự đoạn
diệt”. Vị ấy vững
trú ở đây đoạn
trừ được các lậu hoặc. Và nếu
các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham
luyến pháp này,
do hoan hỷ pháp
này, vị ấy đoạn
trừ được năm hạ phần kiết sử,
được hóa sanh, nhập
Niết Bàn tại cảnh
giới ấy,
khỏi phải trở lui đời này. Này
gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế
Tôn, bậc Trí Giả,
Kiến Giả, Bậc
A La Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố ...”.
Qua đoạn kinh này
chúng ta cần
lưu ý đoạn: “Sơ Thiền này là
pháp hữu vi, do suy tư tác
thành. Phàm sự vật gì
là pháp
hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”.
Bốn Thánh Định
là Thiền Hữu Sắc, Thiền Hữu Sắc là
pháp hữu vi do ý
thức tu tập
làm nên (do suy
tư tác thành),
và như vậy bốn
Thiền là pháp vô thường, mà pháp vô thường là
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
phải chịu sự hoại
diệt (thời sự vật ấy
là vô thường chịu sự đoạn diệt).
Đoạn kinh trên
đã xác định cho các
bạn thấy rất rõ trạng thái
Sơ Thiền trong tâm các bạn không phải là trạng thái vĩnh hằng mà
chỉ là một trạng thái thọ hưởng phước thiện trong một
thời gian nhất định.
Khi thọ hưởng phước thiện
do diệt năm hạ phần
kiết sử hết thời gian nhất định thì trạng thái ấy bị hoại
diệt vì nó là pháp hữu vi vô thường.
Thưa các bạn! Trạng
thái ấy không
phải là cảnh giới
siêu hình như các
bạn tưởng. Khi nào các bạn nhập
Sơ Thiền là bạn cảm nhận trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh có tầm, có tứ, có hỷ,
có lạc, có nhất tâm,
do ý thức bạn biết
rất rõ
như vậy làm
sao là cảnh giới
siêu hình được. Ngoài ý thức,
thân và tâm của bạn
thì không có cái biết và cái cảm nhận trạng
thái Sơ Thiền đó. Khi thân tâm bạn
hoại diệt mất thì trạng thái hỷ lạc của
Sơ Thiền cũng không còn. Trạng thái hỷ lạc của Sơ Thiền không còn thì làm sao bảo
rằng có cảnh giới Sơ Thiền Thiên được. Không
có cảnh giới Sơ Thiền
Thiên thì làm sao bảo
rằng có thế giới siêu hình
được. Phải không hỡi các bạn? Các bạn cứ suy ngẫm lại rồi mới tin lời
chúng tôi nói. Nếu
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
các bạn nhập định và
có Tam Minh thì khỏi cần chúng tôi phải giải thích,
vì các bạn cũng thấy rõ như chúng tôi.
Điều đặc biệt ở
đoạn kinh này là nhập vào cho được trạng thái Sơ Thiền và an trú trong
trạng thái đó, đừng lìa khỏi trạng
thái đó, dù bất cứ có những pháp ác nào tác động vào
thân tâm bạn, bạn cũng đừng rời bỏ trạng thái này, như đoạn kinh đã dạy: “Vị ấy
vững trú ở đây đoạn trừ được các
lậu hoặc”. Các bạn nên lưu ý bốn chữ: “vững trú ở đây”.
Nếu các bạn có được cơ thể
còn khỏe mạnh
không bị chết một
cách đột ngột
và cứ luôn
luôn an trú
nơi trạng thái này thì các bạn sẽ đoạn trừ được tất cả các lậu hoặc và
chứng quả vô lậu A La Hán. Còn nếu các bạn có cơ
thể suy yếu hay bệnh
tật, chết thình lình, lậu hoặc chưa đoạn trừ thì các bạn nên
vững trú nơi trạng thái
Sơ Thiền này, vì trong trạng thái Sơ Thiền là các bạn đã đoạn trừ năm hạ phần
kiết sử, như kinh đã dạy: “Và nếu
các lậu hoặc
chưa được đoạn trừ, do tham luyến
pháp này (Sơ
Thiền), do hoan hỷ
pháp này (Sơ
Thiền), vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử”.
Khi đã đoạn
trừ được năm hạ phần kiết sử tức là nhập Sơ Thiền, lúc bấây giờ cơ thể không
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
may bị bệnh
chết thì trạng thái
Sơ Thiền này được tưởng thức
tu tập tiếp để đoạn diệt
lậu hoặc. Khi lậu hoặc được đoạn diệt sạch thì trạng thái Sơ
Thiền này liền mất
và thay thế vào trạng thái Niết Bàn. Khi ở trạng thái Niết Bàn thì không còn tương ưng với
chúng sanh nữa, nên không
còn tái sanh
làm người, như trong
kinh đã dạy: “được
hóa sanh, nhập Niết
Bàn tại cảnh
giới ấy, khỏi phải
trở lui đời này”. Ở đoạn kinh
này, có nhiều người đã hiểu lầm hai chữ “hoá sanh” vì cho rằng có hóa sanh là
phải có một thế giới siêu hình. Họ hiểu
rằng: Hóa sanh là biến hóa
sanh ra cũng giống như người thị hiện thần
thông một thân biến
ra nhiều thân. Thật
ra, chữ hoá sanh ở
đây phải
hiểu nghĩa là tưởng uẩn.
Khi thân tứ đại này mất là sắc uẩn diệt; sắc uẩn diệt
thì bốn uẩn kia cũng đều diệt
theo, chỉ còn nghiệp tiếp tục luân hồi tái
sanh. Nhờ tu tập nhập được Sơ Thiền nên
năm hạ phần
kiết sử đoạn diệt nên nghiệp
thế gian đã bị muội
lược, không còn tương ưng với nghiệp chúng sanh, do đó không thể tái sanh luân hồi. Con người vốn do
năm uẩn duyên hợp tạo thành nên không có một
linh hồn thường còn bất biến. Vì thế,
khi sắc uẩn diệt mà
nghiệp không tương
ưng với nghiệp chúng sanh thì
không tái sanh được, tại
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
vì hành giả đã đoạn dứt năm
hạ phần kiết sử. Khi
đoạn trừ năm hạ
phần kiết sử
thì từ trường thiện
do sự đoạn trừ năm hạ phần
kiết sử phóng xuất ra và bảo vệ sắc uẩn làm cho sắc uẩn không
bị hư hoại,
giống như một người đang ngủ nằm mộng. Khi một người tu
hành thân tứ đại chết thì không
nên đem thiêu đốt, chỉ nên đem chôn cất nơi khô ráo để giúp
cho người ấy tiếp tục tu tập bằng tưởng uẩn. Tu tập bằng tưởng
uẩn giống như
trong chiêm bao thấy tu tập vậy, nhưng lúc bây giờ sắc uẩn
phải không bị hư hoại; nếu sắc uẩn hư hoại do một nhân duyên gì thì người ấy
không còn tu tập được và như vậy
duyên người ấy
đã thọ hết phước báo đoạn diệt năm hạ phần kiết sử.
Mọi người đều
dễ hiểu lầm chỗ hóa sanh trong bài kinh
này. Trong kinh
Nikaya, có nhiều bài kinh nhắc đến
chỗ hóa sanh này, nếu không phải là một người
tu chứng thì không thể
hiểu được. Cho nên, sự hiểu
biết của các nhà học giả đã biến Phật giáo thành một
tôn giáo có thế giới siêu
hình: có linh hồn,
thần thức hay Phật
tánh giống như tất cả
các tôn giáo khác.
Hiểu như vậy,
thì Phật giáo sẽ tự
mâu thuẫn lại nó, lúc thì nói 33 cõi Trời
là cõi tưởng, lúc thì nói
hóa sanh vào
cõi Trời Sơ Thiền, Nhị
Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, v.v..
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Khi người ta
không hiểu hai chữ “hóa sanh” thì nghĩ tưởng
rằng phải có
cõi siêu hình mới
có hóa
sanh. Thật ra, hai
chữ hóa sanh
còn nằm trong bốn loại sanh của loài thực vật và động vật
trên hành tinh này.
Bốn loại sanh này gồm có:
1. Thấp sanh
như loài rong
rêu, cỏ cây, loài động vật sanh nơi ẩm thấp.
2. Noãn sanh
như loài thảo
mộc (hạt giống), loài động vật như chim,
thú sanh trong trứng.
3. Thai sanh
như loài người, loài thú sanh ra con.
4. Hoá sanh
không phải là những Thần, Tiên
biến hoá như
trong truyện Tàu,
như các phù thủy trong truyện cổ
tích Tây Phương. Hoá sanh là một sự hợp
duyên của qui luật nhân quả
tạo thành vạn vật trong
vũ trụ; hóa
sanh là một sự hợp các gen tạo thành người, vật như các nhà khoa học.
Các nhà tu theo Phật giáo có đủ bảy năng lực Giác
Chi dùng thực
hiện sự hóa sanh nghĩa là phối hợp
các gen tạo thành người, vật và vật dụng theo ý muốn của mình, giống như
chúng ta hợp
các duyên tạo thành
nhà cửa, đồ vật dụng như: bàn, ghế, tủ,
giường,
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
chỏng, v.v..
Cho nên, đừng hiểu hóa sanh là khi chết linh hồn biến hoá vào cảnh giới siêu
hình.
Chữ hóa sanh
ở đây có nghĩa là tâm bám chặt ở trạng thái
Sơ Thiền hoặc luôn luôn
giữ tâm sống trong
trạng thái ấy thì
các lậu
hoặc lần lượt cũng sẽ được đoạn trừ, như
kinh dạy: “Vị ấy vững
trú ở đây
đoạn trừ được các lậu
hoặc”. Và nếu
chưa đoạn trừ được các lậu hoặc
mà lỡ mất
thân (chết) thì tiếp
tục tu tập bằng tưởng thức như trên đã nói. Tu tập bằng
tưởng thức được là
nhờ nhập được Sơ Thiền; nhờ Sơ Thiền
mà diệt được năm
hạ phần kiết sử;
nhờ diệt được năm hạ phần kiết sử
nên phát sinh từ trường bảo vệ thân tứ đại
không bị hư hoại, nhờ
đó mà tưởng
thức thay thế ý
thức tu tập cho đến khi lậu hoặc diệt sạch, như kinh dạy: “Và nếu các lậu hoặc
chưa được đoạn trừ, do tham
luyến pháp này,
do hoan hỷ pháp
này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cảnh
giới ấy, khỏi phải
trở lui đời này”. Như vậy,
chỉ cần được nhập
Sơ Thiền thì chúng ta cũng vào được Niết Bàn, tức là cũng đã đi đến nơi
đến chốn.
Bài kinh này
dạy tám pháp độc nhất, chỉ cần
tu một pháp
là đã đi đến cứu
cánh giải
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
thoát hoàn
toàn, không cần phải tu cả tám pháp. Nhưng ở đây, chúng tôi xin các bạn lưu ý, các bạn nên
nhớ tùy theo
khả năng của
mình có đủ sức kham nhẫn một pháp này hay không? Nếu không
đủ sức thì các
bạn tu tập cũng
chỉ hoài công mà thôi.
NIỆM PHẬT
LỜI PHẬT DẠY
“Ở đây,
này Mahànàma, Thánh đệ tử
tùy niệm Như Lai, trong
khi ấy, tâm không bị
tham chi phối, tâm
không bị sân chi phối, tâm
không bị si chi phối; trong
khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực,
nhờ dựa vào Như Lai. Và này Mahànàma, một
vị Thánh đệ tử, với tâm chánh trực, liền được
nghĩa tín thọ, được
pháp tín thọ, được hân hoan
liên hệ đến pháp. Người ấy
có hân hoan nên hỷ sanh.
Người có hỷ, nên
thân được khinh an. Với thân khinh an, người ấy có cảm
giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định
tỉnh”.
“Này
Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được
nói như sau: “Với mọi
người không bình thản, vị ấy sống bình
thản. Với mọi người não hại, vị ấy
không não hại. Nhập được
pháp lưu, vị ấy tu tập
niệm Phật là vậy”.
(Kinh Tăng
Chi tập 3 trang 16)
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
CHÚ GIẢI:
Muốn tu Tứ Bất
Hoại Tịnh thì phải tu Định Vô Lậu, tu Định Vô Lậu tức là thể hiện pháp môn Tứ Niệm Xứ, thể hiện Tứ Niệm Xứ tức là trên thân, thọ tâm và pháp mà tu tập,
sống và
làm việc giống
như thân, thọ,
tâm,
pháp của đức Phật;
nhưng muốn tu tập cho
được tốt thì các
bạn phải tùy
theo đặc tướng thân, thọï, tâm và pháp của các bạn mà
niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng và niệm Giới được triển khai mạnh,
quét sạch tất cả các
lậu hoặc, diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp.
Tu như vậy gọi
là tu Định Vô Lậu câu hữu (kết hợp) với pháp Tứ Bất Hoại Tịnh, tức là tu Định
Vô Lậu
thân, thọ, tâm và
pháp
để sống và làm đúng như đức Phật
đang sống và đang hành. Đúng như
pháp mà đức
Phật đã dạy không được làm sai lời dạy của pháp.
Đúng như đời sống chúng Thánh Tăng đang sống đang hành và đúng như giới luật
đã dạy không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt
nào cả.
Tứ Bất Hoại Tịnh là bốn pháp hay là bốn đối tượng
gương hạnh thanh
tịnh của Đạo Phật,
để làm bốn chỗ chúng
ta lấy thân,
thọ,
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
tâm và pháp
của mình nương theo đó giữ gìn tu tập sống
đúng đời sống giải thoát của bốn chỗ này,
khiến cho thân tâm
chúng ta thanh
tịnh, nên đức Phật gọi pháp môn này là Tứ Bất Hoại Tịnh.
Tứ Bất Hoại
Tịnh có nghĩa là bốn pháp tu tập giúp cho thân tâm thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh
tức là sự giải thoát của Đạo Phật, sự giải thoát của Đạo Phật có nghĩa là tâm
ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp có nghĩa là không làm khổ mình,
khổ người, không
làm khổ mình, khổ người
là một đạo đức
nhân bản của Đạo Phật, một đạo đức tuyệt vời biến cảnh thế gian này thành cảnh
Cực Lạc, Thiên Đàng.
Trong kinh sách
Nguyên Thủy đức Phật
dạy tu Tứ Bất Hoại Tịnh là có bốn cách niệm:
- Cách thứ
nhất: Niệm Phật.
- Cách thứ
hai: Niệm Pháp.
- Cách thứ ba: Niệm Tăng.
- Cách thứ
tư: Niệm Giới.
1- NIỆM PHẬT:
a) Niệm Phật
như thế nào?
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Các kinh sách
Đại Thừa và
các nhà học giả Phật giáo dạy niệm Phật là niệm danh
hiệu Phật như:
- Nam Mô Phật
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni hay Nam Mô Ứng Cúng Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
b) Niệm Pháp
như thế nào?
Kinh sách Đại thừa dạy niệm
Pháp là tụng kinh, tụng chú,
v.v..
c) Niệm Tăng
như thế nào?
Kinh sách Đại thừa dạy niệm
Tăng là cúng dường trai tăng y
áo, thực phẩm, tiền bạc và tứ sự.
d) Niệm Giới
như thế nào?
Kinh sách Đại
Thừa dạy niệm Giới là mỗi tháng tụng giới hai
ngày vào ngày
14 và ngày
30.
Cho nên,
hiện giờ trong
các chùa theo tưởng giải của các nhà học giả Phật giáo
Đại Thừa dạy Tăng Ni và
các cư sĩ niệm
Phật rất ồn náo, niệm tất cả những
danh hiệu của chư Phật mà các
nhà học giả tưởng tượng
ra vô số tên Phật. Thậm chí, như
bộ Tây Du Ký của Ngô
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
Thừa Ân tưởng
tượng viết theo kiểu tiểu thuyết bốn thấy trò
Tam Tạng thỉnh
kinh Đông Độ, đó là những nhân vật giả tưởng, không có thật,
thế mà bộ kinh Hồng Danh sám hối lại ghi những
nhân vật đó
vào để chư
Tăng, những ngày 14 và ngày 30 mỗi
tháng đều niệm và lạy hồng danh chư Phật đó, để xin
sám hối cho tiêu tội. Trong kinh sám hối Hồâng Danh có cái tên Đấu Chiến Thắng Phật. Đấu Chiến Thắng
Phật tức
là Tôn Hành Giả,
Tôn Hành Giả
còn có tên là Tề Thiên Đại Thánh. Tề Thiên Đại Thánh là một loài
khỉ đột, nhà tiểu thuyết tưởng
tượng ra chứ không
có thật, thế
mà các Tổ Sư Đại
Thừa xem đó
là có thật
nên biên soạn kinh Sám
Hối Hồng Danh
ghi tên thầy trò Đường Tăng vào để bắt Tăng, Ni và
nam nữ cư sĩ niệm Hồng danh các vị ấy và lạy mòn đầu gối. Thật là buồn cười cho
quý Tăng, Ni và cư sĩ u mê ngu si bị lừa đảo
mà không hay biết bị lừa đảo.
Niệm Phật
như kiểu này dù có niệm muôn ngàn kiếp
thì thân tâm cũng
không bao giờ thanh tịnh, một bằng
chứng hiển nhiên mà ai cũng thấy, quý thầy và quý Phật tử trong các chùa quanh
năm suốt tháng không có ngày nào mà
không tụng kinh niệm
Phật, nhưng chúng
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
ta xét lại xem số
tu sĩ và cư
sĩ hiện
giờ tụng kinh niệm Phật thân tâm
có thanh tịnh hay không? Hay tâm
còn tham, sân,
si như các người
khác. Như vậy, gọi là niệm Phật
thân tâm được thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh chỗ nào? Đó
là tưởng giải của các
nhà học giả dạy
sai ý
Phật, nên người
đời sau tu mà
không có kết quả, biến cảnh chùa
nơi tu hành thanh tịnh thành chỗ cúng tế, niệm danh hiệu Phật. Khi tụng kinh niệm
Phật thì chuông, trống, mõ làm inh ỏi ồn náo,
tụng kinh như ca hát ý ê, ý à ... giọng
cao giọng thấp, trầm bổng nghe như hát bộ. Kinh sách
Đại Thừa biến dần
Tứ Bất Hoại Tịnh
thành pháp môn tụng niệm,
nói cách khác là biến thành
ca nhạc Phật giáo,
để ru hồn tín đồ
vào thế giới
siêu hình mê
tín, gây tinh thần tiêu
cực, tựa nương
vào thế giới tưởng, khiến cho Phật giáo mất hết ý
nghĩa tự lực giải thoát, cho nên
tín đồ hiện giờ
nghe vị Thầy nào tụng
niệm ê a giọng cao, giọng thấp thì rất thích, nghe
như nghe âm nhạc thế gian và còn thích
hơn vì thỏa
mãn được tình cảm thân thương
của mình đối
với những người thân đã khuất.
Từ cái hiểu sai, dẫn đến sự tu
sai, khiến cho Phật
giáo suy thoái
không còn người
tu
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
chứng đạo,
chỉ còn là vọng ngữ huyền thoại nói láo chuyền nhau.
Niệm người
ta hiểu nghĩa của nó là lặp đi lặp lại một câu kinh, một danh hiệu Phật bằng
ý không
lời hoặc phát
ra lời nói, họ
còn hiểu sai hơn nữa là nhờ câu niệm Phật để ức chế
tâm không vọng
tưởng như trong
kinh Di Đà dạy: “…Thất nhựt nhất
tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A
Di Đà
Phật, dữ chư Thánh chúng hiện tại
kỳ tiền”, có
nghĩa là niệm
Phật A Di Đà từ một ngày cho đến
bảy ngày, tâm không loạn tức là
không có vọng tưởng
thì thấy Phật Di Đà và Thánh Chúng hiện ra trước mặt, báo
cho biết trước
khi lâm chung,
đức Phật và Thánh Chúng sẽ phóng hào quang rước về
cõi Cực Lạc Tây
Phương. Hiểu như vậy, nên Thầy Tổ nào cũng có một xâu chuỗi, lúc nào
cũng lần chuỗi niệm Phật.
Từ chỗ hiểu sai Tứ Bất Hoại Tịnh các nhà học giả
Đại Thừa và Thiền Đông Độ đã biến thành một pháp môn ức chế tâm, pháp môn ức chế tâm chẳng giúp
cho người tu giải quyết được gì cả mà còn thêm bịnh.
Niệm trong Tứ
Bất Hoại Tịnh có nghĩa là tư duy,
quán xét, suy ngẫm
về thân, thọ,
tâm và pháp của đức Phật,
sống như thế
nào mà
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
tâm hồn
thanh thản an lạc giải thoát, cho nên niệm có nghĩa là tâm tâm niệm niệm về đời
sống của đức Phật, Ngài sống như thế nào mà tâm không phóng dật? Ngài sống như
thế nào mà không làm khổ mình, khổ người?
Khi mà tâm
niệm của chúng ta như vậy khiến cho tâm chúng ta đặt lòng tin trọn vẹn ở đức Phật,
do đó, đức Phật sống như thế nào thì chúng
ta sẽ cố gắng sống
như thế nấy, đức
Phật làm
như thế nào thì chúng
ta sẽ cố gắng
làm như thế nấy. Sống và
làm đúng như Phật
thì tâm chúng ta thanh tịnh, không còn phóng dật tức là tâm ly dục ly ác pháp,
tâm ly dục ly ác pháp tức là tâm giải thoát hay nói một cách khác hơn là làm chủ
cuộc sống, tâm bất động trước các pháp, như vậy, mới gọi là niệm Phật thân tâm
bất hoại tịnh.
Đây là một
bài kinh dạy cách thức niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới rõ
ràng, chỉ vì
các nhà Đại
Thừa chẳng chịu nghiên
cứu kinh sách Nguyên
Thủy, tự kiến giải rồi dạy niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng và niệm Giới
theo tưởng giải,
khiến cho người tu tập ức chế tâm
thành bệnh. Niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc đâu
không thấy mà chỉ
thấy bệnh đau quá
hiểm nghèo. Hòa
Thượng
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
Thiền Tâm
là người xương
minh pháp môn Tịnh Độ chuyên ròng niệm Phật, không biết
Ngài niệm Phật ức chế
tâm như thế
nào mà trước khi chết
Ngài đã ói
ra máu, chúng tôi cũng có một người đệ tử cũng tu
ức chế tâm để tịnh chỉ hơi thở cũng
khạc ra máu đống đống.
Muốn niệm Phật
cho đúng thì chúng ta nên
lắng nghe đức Phật dạy niệm Phật:
“Ở đây, này Mahànàma,
Thánh đệ tử
tùy niệm Như Lai, trong
khi ấy, tâm không bị tham chi phối,
tâm không bị sân chi phối, tâm không bị
si chi phối; trong khi ấy, tâm vị
ấy được
chánh trực, nhờ dựa
vào Như Lai”. Đoạn kinh trên
đây, đức Phật
đã xác định cách thức
niệm Phật rất
rõ ràng “Tuỳ niệm
Như Lai” có
nghĩa là tâm
Như Lai không tham,
không sân, không
si thì người sống (niệm
Phật) như Phật
không nên để tham, sân, si chi phối. Khi tâm không bị
tham, sân, si chi phối thì tâm được chánh trực. Danh từ “chánh
trực” ở đây,
chúng ta phải
hiểu nghĩa cho rõ ràng. Chánh trực có nghĩa là tâm ngay thẳng, tâm ngay
thẳng tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự là Tâm không phóng dật.
Chúng ta hãy
lắng tai nghe tiếp đức Phật dạy:
“Và này Mahànàma, một vị
Thánh đệ
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
tử, với tâm
chánh trực, liền được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp. Người ấy có hân hoan nên hỷ sanh.
Người có hỷ,
nên thân được khinh an.
Với thân khinh an, người ấy có cảm
giác lạc
thọ. Người có lạc thọ,
tâm được định tỉnh”.
Đoạn kinh
trên đây, đã xác định cho chúng ta thấy
kết quả cách thức sống như Phật sẽ hiện ra những trạng thái gì?
Khi sống như
Phật, tâm được thanh thản, an lạc và vô sự thì liền có một niềm tin nơi đức Phật khởi
lên trong ta,
vì thế kinh xác
định trạng thái đó bằng những danh từ ngắn gọn: “liền được nghĩa tín thọ”
nhưng rất đầy đủ ý nghĩa cho những ai thực hiện đúng lời dạy này, còn những người sống không đúng
như Phật thì chẳng hưởng được những kết quả này. Vì thế, Phật dạy: “Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy”.
Khi
trong ta
có trạng thái
lòng tin Phật khởi lên, nếu ai
có thực hiện
được mới biết trạng thái này, một
trạng thái tuyệt vời của người có lòng
tin như thật. Còn bây giờ, chúng ta
chưa có trạng
thái này, nói
tin Phật chứ
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
chúng ta
chưa có tin như thật.
Khi nhận được cảm thọ lòng tin
này thì ngay đó tâm hân hoan thích thú pháp niệm Phật. Vậy hân hoan thích thú
pháp niệm Phật là gì? Nghĩa là chúng ta luôn luôn thích sống như Phật, có nghĩa
là tâm không còn ham muốn một vật gì hết, ngay cả chuyện ăn uống cũng không còn
ham muốn ăn uống gì cả. Tâm sân cũng vậy, không còn một pháp ác nào tác động
vào thân tâm, làm ta không thể nổi sân được và si cũng vậy lúc bây giờ không
còn ham thích
lười biếng ưa ngủ
nghỉ, có nghĩa
là trong trạng
thái tín thọ không còn hôn trầm, thuỳ miên, vô ký nữa mà rất
siêng năng sống
như Phật. Cho nên,
đoạn kinh dạy: “Được
hân hoan liên
hệ đến pháp”. Cụm danh từ này có
nghĩa là vui mừng thích thú sống như Phật.
Khi
trong tâm có trạng thái
thích sống như Phật thì một
trạng thái khác
hiện lên, đó là trạng
thái niềm vui mừng
khởi lên trong
ta như kinh dạy: “Người
ấy có hân hoan nên hỷ sanh”. Niềm vui mừng hiện rõ trong ta thì cơ
thể ta
an lạc và nhẹ
nhàng như không
còn trọng lượng, bước đi rất thoải mái, thân không còn đau nhức hay mệt
mỏi gì cả, một trạng thái của thân an lạc vô cùng, nên kinh dạy: “Người
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
có hỷ,
nên thân được khinh an”. Đúng
vậy, người có niềm vui thì thân được nhẹ nhàng an lạc. Khi thân
được nhẹ nhàng
an lạc thì toàn bộ thân tâm có được
một cảm giác thọ lạc một cách kỳ lạ mà
không thể nói ra được, vì không có
danh từ nào để diễn tả, chỉ
có người nào tu
tập đến những trạng thái này mới cảm nhận được như người
uống nước nóng lạnh tự biết,
không thể người
ngoài cuộc biết
được. Đoạn kinh đã xác định rõ
ràng: “Với thân
khinh an, người ấy có cảm giác lạc thọ”.
Trong trạng thái lạc thọ này, hành giả mới xác định được tâm định tỉnh.
Từ lâu, mọi người
ai cũng nói tâm định tỉnh,
nhưng chưa ai biết được trạng thái tâm định tỉnh như thế nào? Trải
qua bao nhiêu trạng thái mới thấy được tâm định tỉnh. Với
tâm định tỉnh này,
các bạn sẽ nhập thiền
định không có khó
khăn, không có mệt
nhọc. Tu tập được tâm định tỉnh không phải dễ đâu các bạn ạ!
Sống như Phật,
cuối cùng chúng ta mới có được trạng
thái tâm định tỉnh
như trong kinh dạy:
“Người có lạc
thọ, tâm được
định tỉnh”. Nếu tâm bạn
chưa có lạc thọ
thì không bao giờ bạn có được tâm định tỉnh.
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
Sau khi được
tâm định tỉnh thì các
bạn mới có một cuộc sống bình thản trước mọi ác pháp và mọi cảm thọ; chừng
đó chúng ta mới không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh
như thật; chừng
đó tâm chúng
ta mới bất động thật sự trước các ác pháp và các cảm thọ. Chúng ta hãy lắng
nghe đức Phật dạy: “Này Mahànàma, về vị Thánh đệ
tử này, được nói như
sau: “Với mọi người
không bình thản, vị ấy sống bình
thản. Với mọi người não hại, vị ấy không
não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Phật là vậy”. (Kinh Tăng Chi tập 3 trang 16).
Đến đây, các
bạn đã thấy rõ phương pháp niệm Phật của
Phật giáo Nguyên Thuỷ không giống
phương pháp niệm
Phật của kinh sách Đại
Thừa. Niệm Phật của kinh sách
Đại Thừa là phương
pháp niệm Phật ức chế
tâm nhằm chế ngự vọng tưởng “Thất
nhựt nhất tâm bất loạn…”. Đó là một phương pháp niệm Phật của ngoại đạo,
chúng ta tu
theo Phật thì hãy
ném bỏ nó vì đó là phương pháp
tu tập sai. Xin các bạn
cần lưu ý để tránh
sự lừa đảo của ngoại
đạo.
Trên đây
là một trong
những bài kinh đã xác
định đức Phật
dạy niệm Phật
rõ ràng,
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
“Dựa vào
Như Lai” có nghĩa
là sống giống như
Như Lai thì đó
là niệm Phật
đúng nghĩa. “Dựa vào
Như Lai” còn có nghĩa là tất cả
oai nghi đi, đứng,
nằm, ngồi, nói,
nín, ăn, uống, mặc
y, mang bát,
v.v.. đều có mặt Như
Lai đang theo mình từng bước, từng
việc làm, từng oai nghi tế hạnh.
Người niệm
Phật luôn luôn lúc nào cũng thấy Phật ở
bên mình nên cẩn thận phòng hộ sáu căn, giữ gìn nghiêm chỉnh không dám
lơ đễnh, lúc nào
cũng cảnh giác đề phòng.
Do tu tập như nên tâm thanh tịnh, tỉnh giác trong chánh niệm.
Nhờ đó, mà
tâm được định tỉnh. Tâm được định tỉnh thì tâm nhu
nhuyễn, dễ sử dụng nên nhập
các định không có
khó khăn, không có mệt nhọc
như trong kinh Phật
đã
dạy.
2- NIỆM PHÁP:
Niệm Pháp
như thế nào?
Niệm Pháp
theo kiểu các nhà học giả Đại Thừa
dạy: “Nam Mô Pháp”,
tức là tụng
kinh, tụng chú. Trong
các chùa hiện
nay, ngày bốn thời tụng niệm: Tối tụng kinh cầu an, cầu
siêu; khuya công phu tụng chú Thủ Lăng
Nghiêm cúng nước; trưa cúng cơm chim
đại bàng; Chiều
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
công phu thí thực
gạo muối cúng
cô hồn tụng kinh Mông Sơn. Niệm Pháp như vậy,
dù cho có niệm đến 1.000 năm, 1.000.000
năm, thân tâm của quý vị cũng không thanh tịnh.
Niệm Pháp
theo kinh Nguyên Thủy dạy,
có nghĩa
là phải tư duy
suy nghĩ những pháp mà đức Phật đã dạy như: Tứ Bất Hoại Tịnh,
Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Như Ý Túc, v.v.. cách thức sống và
tu tập như thế
nào rồi theo đó sống và tu tập cho đúng pháp như vậy
gọi là niệm Pháp.
Ví dụ: đức
Phật dạy: “Ngăn
ác diệt ác pháp, sanh
thiện tăng trưởng thiện pháp”, theo
lời dạy này, ngày
ngày tâm tâm niệm
niệm luôn luôn cảnh giác giữ gìn và ngăn ngừa các pháp ác, nếu lỡ có các pháp
ác nào sanh ra thì mau mau tìm cách diệt nó,
không được để trong
tâm kéo dài sự khổ
đau giận hờn phiền toái bất toại nguyện, khiến cho tâm
thanh thản an lạc nhẹ nhàng thoải mái yên ổn, đó chính là chúng ta niệm Pháp,
niệm Pháp như vậy mới có kết quả giải thoát
ngay liền, khiến cho tâm thanh tịnh
nên gọi là niệm Pháp thân, tâm bất hoại tịnh.
Pháp của đức
Phật có 37 phẩm trợ đạo, chúng ta nên chọn
trong 37 phẩm trợ đạo này
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
với một pháp
môn nào phù hợp với đặc tướng của
mình, rồi lấy
đó thực hành
áp dụng vào cuộc sống hằng ngày, để xây dựng cho mình có một
đạo đức làm
người mà không
làm khổ mình, khổ
người, đây là niệm pháp bất hoại
tịnh.
Đây, chúng
ta hãy lắng
nghe một đoạn kinh mà
đức Phật đã dạy niệm
Pháp: “Lại nữa này Mahànàma,
Thánh đệ tử tùy niệm Pháp: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại,
không có thời gian, đến
để mà thấy, có
khả năng hướng thượng, được những
bậc trí tự mình
giác hiểu!”.
Đoạn kinh trên
đây đức Phật
khéo nhắc nhở chúng ta phải
nghiên cứu kỹ “giáo pháp phải thiết thực
hiện tại” nghĩa là giáo
pháp không có mơ hồ trừu tượng, không có ảo tưởng
mê tín, không có nói chuyện trên trời dưới đất, thế giới siêu hình, linh hồn ma quỉ thần thánh, không nói
chuyện thần thông
pháp thuật bày trò lừa đảo, v.v..
“Không có thời gian, đến
để mà thấy”, có nghĩa
là Pháp của Phật không
phải tu nhiều đời nhiều kiếp như kinh sách Đại thừa
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
dạy: “Tu phải nhiều
đời nhiều kiếp, tu vô lượng kiếp”. Lời dạy ấy
là lời nói
sai. Pháp của Phật là đạo đức làm người, nếu chúng ta không sống
như pháp thì
không đạo đức. Không đạo đức là sống trong các ác pháp. Sống trong các
ác pháp là khổ đau, là không giải thoát.
Cho nên, pháp
không có thời
gian, hễ nếu ai sống đúng
như pháp thì có
giải thoát ngay liền. Cho nên, đức
Phật dạy: “Đến để mà thấy”.
Pháp của Phật
rất thực tế như vậy. Cho nên, ai sống được
như pháp là niệm Pháp, chứ không phải
niệm pháp là tụng kinh, xin
các bạn lưu ý cho. Sống như pháp
của Phật sẽ đưa chúng ta từ loài
động vật chuyển thành con người, từ con người
chuyển thành Thánh
nhân “Có khả năng hướng thượng”.
Thưa các bạn! Khi chúng
ta sống đúng như pháp thì tâm tham, sân, si không
chi phối được ta, nên hoàn toàn thân tâm ta được giải thoát. Vậy chúng ta hãy lắng
nghe Phật dạy niệm Pháp: “Này Mahànàma, trong khi vị Thánh đệ tử
tùy niệm Pháp,
trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối,
không bị sân chi phối, không bị si
chi phối”. Đúng vậy, chúng
ta sống đúng
như pháp đã dạy
thì tâm
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
tham, sân,
si không còn
tác động được nên thân
tâm được thanh thản
an lạc và
vô sự. Thân tâm được thanh thản,
an lạc và vô sự mà trong kinh dạy
tâm vị ấy được
chánh trực: “Trong khi ấy tâm vị ấy được
chánh trực, nhờ dựa vào Pháp”.
Khi tâm được
thanh thản, an lạc và vô sự thì lòng tin
đối với
chánh pháp của Phật mới được đầy
đủ trọn vẹn:
“Và này Mahànàma, Thánh đệ tử với tâm
chánh trực, được nghĩa tín thọ”.
Khi
lòng tin chánh pháp
được hiện tiền thì tâm ta
hân hoan rất
thích thú ưa
pháp muốn tu mãi, muốn không rời pháp. Do đó, đức Phật xác định: “Được
pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp”.
Khi tinh tấn siêng
năng ôm pháp
tu tập thì niềm vui
trong ta sinh
khởi: “Người có hân hoan nên hỷ sanh”.
Khi niềm vui
trong ta sinh
khởi thì cảm giác toàn
thân nhẹ nhàng
an lạc, nên đoạn
kinh xác định: “Người có hỷ nên
thân được khinh an”.
Khi cảm giác
toàn thân nhẹ nhàng an lạc thì thân
tâm có một trạng thái lạc thọ
tuyệt
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
vời, đến đây
người nào có tu tập mới cảm nhận được: “Với
thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ”.
Khi chúng ta
cảm giác thân tâm lạc thọ đầy đủ thì tâm
lúc nào cũng
không phóng dật, luôn luôn bất động định tỉnh. Chúng ta
nghe Phật dạy: “Với tâm định
tỉnh nhu nhuyễn, dễ sử dụng”.
Đây là tâm định
tỉnh mà
trên con đường tu tập từng giờ, từng phút mà chúng ta mới thấy được: “Người
có lạc thọ,
tâm được định tỉnh”.
Để kết luận
phương pháp niệm pháp chỗ tâm bất động chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này
Mahànàma, về vị
Thánh đệ tử này được nói như sau: “Với mọi
người không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với mọi người có
não hại, vị ấy sống
không não hại. Nhập được pháp
lưu, đó là vị ấy
tu tập niệm Pháp”. (Kinh Tăng Chi tập 3 trang
18).
3- NIỆM TĂNG:
Niệm Tăng
như thế nào?
Nếu theo
kinh sách của các
nhà học giả Đại Thừa dạy: “Nam Mô Tăng” và cứ như vậy mà niệm thì dù có tu trăm muôn ngàn kiếp thì
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
thân tâm này
cũng chẳng thanh tịnh. Nam Mô Tăng
như vậy là một pháp ức chế
tâm, khiến cho tâm bị dồn nén
tham, sân, si, mạn, nghi, càng tu thì tâm
này càng tham,
sân, si dữ tợn
khi gặp chướng ngại pháp.
Nam mô
Tăng theo nghĩa
của kinh sách Đại Thừa dạy là
trai tăng cúng
dường y áo, thực phẩm, thuốc thang, giường nằm, nhà ở, tứ sự, v.v.. nhờ cúng dường như vậy, nên thọ
được phước báu hữu lậu vô lượng.
Điều này
không đúng với đường
lối tu tập của Đạo Phật,
đó là lối niệm Tăng của Đại Thừa,
không đúng chánh pháp của Phật.
Theo kinh
sách Nguyên Thủy, muốn tu pháp niệm Tăng
cho đúng thì trước tiên
phải chọn những vị
Tăng nghiêm trì
giới luật. Những vị
Tăng nghiêm trì Giới
luật là những vị
sống thiểu dục
tri túc, ba y một
bát, sống không có
chùa to Phật lớn, sống
xa lìa những vật chất tiện
nghi đầy đủ, sống
không có ăn mặc
sang đẹp, sống thường đi
xin từng miếng mà ăn, sống không cất giữ tiền bạc của
cải tài sản, thường lấy gốc cây làm giường nằm, sống ngày một bữa, không có ăn
uống phi thời.
Chọn được những
vị Tăng như vậy,
chúng ta tôn kính những bậc này
và xin họ làm Thầy.
Từ đây, chúng ta có ngọn đuốc soi đường, hằng
ngày ta quan sát tư duy qua gương Thánh hạnh đạo đức của họ và chúng ta tập sống như họ, để biết
nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, để biết đẩy lui các chướng ngại pháp trong
tâm, để biết thương yêu hòa hợp với mọi người, để biết chịu phần thiệt
về mình, luôn
luôn bắt chước
các đức hạnh của chúng Tăng, sống theo gương Thánh đức của chúng
Tăng. Chính những
vị Tăng này là
thân giáo đang dạy chúng
ta tu tập bằng
những bài pháp
không lời, họ
là những người tu
chứng. Ngược lại,
những vị Tăng phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới thì chúng ta xem họ như những
tu sĩ Bà La Môn không đáng cho chúng ta cung kính và cúng dường.
Tư duy quán
xét những đức hạnh sống của chúng Thánh Tăng để lấy đó làm gương sống tu tập ly
dục ly ác pháp, đó mới chính là chúng ta niệm Tăng. Niệm Tăng như vậy,
có ích lợi cho mình,
cho người rất lớn, sẽ
không làm khổ mình,
khổ người; niệm Tăng như vậy thân tâm mới thanh tịnh; niệm Tăng như vậy
mới gọi là niệm Tăng Bất Hoại Tịnh.
Đây là lời đức
Phật dạy chúng
ta cách thức niệm Tăng: “Lại nữa
này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Tăng: “Diệu hạnh là
chúng đệ tử Thế Tôn.
Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế
Tôn. Ứng lý hạnh
là chúng đệ tử của Thế
Tôn. Chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám vị.
Chúng đệ tử Thế Tôn này đáng được cung
kính, đáng được
tôn trọng, đáng
được cúng dường, đáng
được chấp tay, là vô
thượng phước điền ở đời”.
Đoạn kinh
này đức Phật nêu ra rất rõ các hạnh của vị Thánh
Tăng để chúng
ta lấy đó làm
gương mà sống
theo cho đúng.
“Diệu hạnh, Trực hạnh, Ứng lý hạnh, Chánh hạnh”. Muốn
biết rõ các hạnh này
thì chúng ta nên hiểu từng hạnh một.
a) Diệu Hạnh:
Vậy diệu hạnh nghĩa
là gì? Diệu hạnh
là những oai nghi tế hạnh của một tu sĩ đều được dạy
trong bộ giới
luật đức Thánh
hạnh của Phật. Xin các bạn hãy đọc
bộ sách Văn Hoá Truyền Thống từ tập 1,
2, 3, 4,
5… thì sẽ rõ. Diệu hạnh là những hành động ngăn ác diệt
ác pháp, sinh thiện
tăng trưởng thiện
pháp của Tứ Chánh
cần; là những
hành động từ,
bi, hỷ, xả của Tứ vô Lượng Tâm.
b) Trực Hạnh:
Vậy Trực hạnh
nghĩa là gì? Trực hạnh là những hành động trực tiếp làm chủ bốn sự đau khổ trên
thân, thọ tâm và pháp có nghĩa làm làm
chủ sinh, già, bệnh, chết
chấm dứt luân hồi. Trực hạnh chính là những hành động
Tứ Thánh Định, Tứ Như Ý Túc và Tam Minh.
c) Ứng Lí Hạnh:
Vậy Ứng
lý hạnh nghĩa
là gì? Ứng lý
hạnh là hành động sống hằng ngày tương ứng đúng lý với hành động của Phật, của
Pháp, của chúng Thánh Tăng
và của Giới
Luật, đó là những hành động sống Tứ Bất Hoại Tịnh.
d) Chánh Hạnh:
Vậy Chánh hạnh
nghĩa là gì? Chánh hạnh là những hành động sống không làm khổ mình, khổ người
và khổ tất cả chúng
sanh. Chánh hạnh tức là tâm thanh
thản, an lạc và vô sự.
Tóm lại, một người
tu tập pháp
môn Tứ Bất Hoại Tịnh sẽ có đủ bốn
hạnh trên đây. Người có đủ bốn hạnh trên là người toàn thiện, là người
làm chủ nhân
quả, là người
vượt ra khỏi không
gian vũ trụ,
là người không
còn bị chi phối bởi qui luật của
nhân quả.
Khi chúng ta
niệm Tăng đúng pháp như vậy thì tâm không bị tham, sân, si chi phối, do
đó tâm được thanh
thản, an lạc và
vô sự như đức Phật đã dạy: “Này Mahànàma, trong khi
Thánh đệ tử tùy niệm chúng
Tăng, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, không bị sân chi phối, không bị si
chi phối, trong khi ấy tâm vị ấy được
chánh trực, nhờ dựa vào tùy niệm chúng Tăng”.
Khi tâm được
thanh thản, an lạc và vô sự thì tất cả những
trạng thái tín thọ,
vui mừng, hoan hỷ,
khinh an, lạc thọ
và định tỉnh lần lượt
xuất hiện đầy đủ. Khi sống
đúng niệm chúng Thánh
Tăng như vậy
thì sự tu tập giải
thoát đâu phải là sự khó khăn. Phải không các
bạn?
Chúng ta hãy
lắng nghe cho kỹ những lời Phật dạy: “Và
này Mahànàma, một vị Thánh đệ
tử, với tâm chánh trực,
được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên
hệ đến chúng
Tăng. Người có hân hoan
nên hỷ sanh.
Người có hỷ nên
thân được khinh an. Với thân khinh an,
vị ấy cảm giác lạc thọ. Người
có lạc thọ tâm được định tỉnh”.
Khi sống
đúng như chúng Thánh Tăng thì tâm chúng ta bất động trước các ác pháp và các
cảm thọ tức
là tâm chúng ta ly dục ly ác pháp hoàn toàn nhập vào dòng Thánh như kinh dạy:
“Này Mahànàma, về vị Thánh
đệ tử này, được
nói như sau: “Với mọi
người không bình thản, vị
ấy sống bình
thản. Với mọi người có
não hại, vị ấy sống
không não hại. Nhập được pháp lưu,
đó là vị ấy tu tập niệm chúng Tăng”. (Kinh Tăng Chi tập 3 trang 19).
4- NIỆM GIỚI:
Niệm Giới
như thế nào?
Các nhà Đại Thừa dạy niệm giới, cứ mỗi nửa tháng một
kỳ tụng giới vào
ngày 14 hoặc
ngày 30. Họ tập
trung nhau lại tụng giới. Đó là cách thức
của họ niệm giới của Đại Thừa. Niệm giới như vậy, dù họ niệm một triệu kiếp
cũng không nghiêm trì được giới luật, cũng
không thanh tịnh
được thân tâm, chỉ là một hình
thức lừa đảo tín đồ, xem như
mình có giữ giới.
Họ đâu biết rằng Giới
luật là hành động
sống đạo
đức của một vị
Thánh Tăng, nếu họ
tụng giới luật
suông như vậy
thì không có ý nghĩa
và lợi ích gì cả,
đó chỉ là
hình thức che đậy cho sự phá giới của họ.
Cho nên, hầu
hết các thầy Đại Thừa niệm Giới như vậy đều sống
phá giới, phạm giới,
bẻ vụn giới hết
không còn một giới nào
là họ không vi phạm.
Các nhà Đại
Thừa hiểu không đúng pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh nên thực hành sai, do thực hành
sai mà thân
tâm ô nhiễm
không thanh tịnh, cuối
cùng tu Tứ Bất Hoại Tịnh
mà thành Tứ Hoại Tịnh, không có giải thoát chút nào. Vậy niệm Giới như thế nào
cho đúng?
Muốn niệm
Giới cho đúng
thì phải học giới luật
cho thông suốt. Khi Giới
luật đã học thông suốt thì chúng ta quán xét và tư
duy những đức hạnh
nào của giới dạy
về đạo đức làm
người và những
giới luật nào dạy về giới
đức làm
Thánh. Chúng ta
đã hiểu rõ
các đức hạnh của giới xong, thì từ
đó hằng ngày chúng ta quyết
tâm phải sống
cho đúng những đạo đức
làm người và
làm Thánh, nhờ
có quán sát và
tư duy theo từng
hành động thân
miệng ý của mình như vậy, nên sống
đúng giới luật nghiêm túc, do sống đúng
giới luật nghiêm
túc nên thân tâm thanh tịnh
ly dục ly ác pháp, từ đó thân tâm không hoại sự
thanh tịnh.
Người tư duy
quán sát và sống đúng giới luật như vậy
nên gọi là niệm Giới Bất Hoại
Tịnh, niệm
như vậy mới gọi là niệm giới, chứ không phải niệm giới theo kiểu các nhà Đại Thừa
tụng một bài giới là xong, niệm Giới như vậy, gọi là niệm giới Đại Thừa, chứ
không phải niệm Giới Bất Hoại Tịnh.
Đây chúng ta
hãy lắng nghe đức Phật dạy niệm Giới: “Lại nữa này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm
các giới của mình: “Giới không bị bẻ vụn,
không bị sứt mẻ,
không bị vết chấm, không bị uế tạp, đưa
đến giải thoát, được người
trí tán thán, không bị chấp thủ,
đưa đến thiền định”.
Đoạn kinh này
các bạn có
nghe lời Phật dạy chăng? Giới không bị bẻ vụn, không bị
sứt mẻ, không bị vết chấm,
không bị uế tạp, lời dạy
này giúp cho chúng
ta xét thấy từng giới một của Phật xem coi có giới nào bị ai bẻ vụn, làm sứt mẻ, làm
cho có vết chấm,
làm cho uế tạp giới
thì chúng ta không chấp nhận
những loại giới này.
Ví dụ: giới
không ăn phi thời thì các
Tổ sau này làm thành vết chấm là ăn ngọ. Bẻ vụn: chư Thiên
ăn sáng; Phật
ăn giờ ngọ;
chúng sanh ăn sau giờ ngọ;
ngạ quỷ ăn
đêm. Làm uế tạp sáng ăn, trưa ăn, chiều ăn hoặc không
ăn sáng, chiều thì lại uống sữa bột đường, v.v.. Các
Nhà Đại Thừa
do Giới bị bẻ vụn, bị sứt mẻ,
bị vết chấm, bị uế tạp
nên tâm bị
tham, sân, si chi phối, vì vậy nên thích sống trong chùa
to Phật lớn, mỗi ngôi chùa cất hằng tỷ bạc, xe hơi tủ lạnh,
máy điều hòa
không khí, tivi,
điện thoại di động, v.v..
Ngược lại,
niệm đúng như lời Phật
dạy trong kinh Nguyên Thủy
thì tâm không tham, sân, si chi phối thì lúc nào cũng thanh
thản, an lạc và vô sự như đoạn kinh dưới đây Phật dạy: “Này Mahànàma,
trong khi Thánh đệ tử tùy niệm Giới, trong khi ấy,
tâm không bị tham chi phối, không
bị sân chi
phối, không bị si chi phối, trong
khi ấy, tâm vị
ấy được chánh trực, nhờ dựa vào Giới”.
Khi niệm giới
đúng pháp như giới thì tâm bất động, thanh thản, an lạc vô sự. Tâm bất động, thanh
thản, an lạc
vô sự thì các
trạng thái giải thoát
sẽ xuất hiện đầy đủ
như: tín thọ, hân
hoan, hỷ lạc,
khinh an, lạc thọ và
định tỉnh. Đây chúng
ta hãy lắng
nghe đức Phật dạy: “Và này
Mahànàma, một Thánh đệ tử, với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp
tín thọ, được hân hoan liên hệ đến giới pháp.
Người có hân hoan
nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh
an. Với thân khinh an, vị ấy cảm
giác lạc
thọ. Người
có lạc thọ, tâm được định tỉnh”.
Khi tâm định tỉnh
nhu nhuyễn, dễ sử
dụng thì chúng ta đã nhập vào
dòng Thánh không bao giờ còn trở
lui về thế tục nữa: “Này Mahànàma, về vị Thánh đệ
tử này, được nói như sau: “Với mọi người
không bình thản, vị ấy sống bình
thản. Với mọi người có não
hại, vị ấy sống không não
hại. Nhập được pháp lưu, đó
là vị ấy
tu tập niệm Giới”. (Kinh Tăng Chi tập 3 trang 19).
Đây là một
trong những bài kinh để xác chứng lời đức
Phật dạy như vậy, mà
các Tổ dám cả gan dạy sai, khiến
cho người đời sau tu tập sai lạc, đó là các Tổ dạy sai pháp của đức Phật, còn những pháp
các Tổ bịa đặt ra
cũng đều gán cho là đức Phật thuyết. Bởi vậy, từ 25 thế kỷ
nay người ta
tu theo Đạo Phật chứ kỳ
thật là
người ta tu
theo Đạo của
các Tổ, cho nên hằng triệu vạn người tu hành mà chẳng
có ai làm chủ sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Các bạn nên
nhớ, nếu các bạn
quyết tâm tu hành tìm cầu sự giải thoát
của Đạo Phật, thì chỉ cần tu Tứ Bất Hoại Tịnh là các bạn cũng đã thành tựu viên
mãn con đường tu tập có
nghĩa
là các bạn sẽ
làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người:
sanh, già, bịnh, chết
và chấm dứt
luân hồi, thì cần gì các
bạn phải tu
các pháp môn khác.
Còn chúng
tôi nói tu Tứ Bất Hoại Tịnh câu hữu với Định Vô Lậu là vì
các bạn nên tư duy, quán xét,
suy ngẫm về Phật, Pháp,
Tăng và Giới để các bạn thực hiện
sống cho đúng như Phật như Pháp, như chúng Thánh Tăng và như giới luật đã dạy,
để không
hề vi phạm một lỗi
nhỏ nhặt
nào, đó là
cách thức quét sạch lậu hoặc trong các bạn nên mới gọi là câu hữu
với Định Vô Lậu, chứ kỳ thực các bạn không có tu Định Vô Lậu mà tu Tứ Bất Hoại Tịnh.
Tóm lại, một
người quyết tâm
tu hành để tìm cầu sự giải thoát thì chỉ cần tu Tứ Bất
Hoại Tịnh thì cũng đủ sự giải
thoát rồi, đâu cần gì phải tu nhiều thứ cho mệt.
Ví dụ:
mình quyết sống
như Phật thì khi gặp
chướng ngại pháp
trong tâm, chúng
ta nhất định không sân,
không phiền não,
không đau khổ, sống và
làm y như Phật
thì ngay đó thân tâm thanh tịnh hay nói cách khác là tâm bất động
trước các pháp.
Tu hành chỉ có như
vậy mà thôi, thế mà chẳng ai làm được cả.
Pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh là
một pháp môn tuyệt
vời, nếu một
người quyết tử
tu tập thì sẽ có kết quả ngay liền,
không còn phải chờ đợi kéo dài từ
năm này đến
tháng kia hoặc năm khác.
Để kết luận
bài pháp này bằng lời dạy của đức Phật: “Pháp được Thế Tôn
khéo thuyết, thiết thực hiện tại,
không có thời gian, đến để mà thấy,
có khả năng hướng thượng, được những bậc
trí tự mình giác hiểu!”.
ĐIỀU PHỤC
TÂM MÌNH
LỜI PHẬT DẠY
“Dạy người
như thế nào? Hãy dạy mình như vậy Khéo
điều, mới điều người Khó thay tự điều phục”.
(Kinh Pháp
Cú XII: Phẩm Tự Ngã (159))
CHÚ GIẢI:
Thường ở đời người ta hay đem đạo lý này, đạo lý
kia ra dạy người khác, nhưng chính bản
thân chưa làm đúng những đạo lý ấy. Cho nên, đức Phật dạy:
“Dạy người
như thế nào?
Hãy dạy mình
như vậy”
Điều
tâm là
một việc làm rất khó, nếu ai có tu tập thì mới biết. Khó, vô cùng khó
là phải điều tâm cho đúng cách, nếu điều tâm không đúng cách thì bị ức chế
tâm; ức chế
tâm là tự làm khổ mình, con đường tu hành chẳng đi đến
đâu cả. Điều phục
được tâm mình tức là làm
chủ được
tâm. Làm chủ được tâm
có nghĩa là tâm ham thích một việc gì thì không làm
theo.
Ví dụ 1: Tâm
muốn ăn, ngủ phi thời thì không làm theo
ăn ngủ phi thời, đó
là điều phục tâm.
Ví dụ 2: Tâm
tức giận, sân hận một người nào đó, ta
không làm theo
như vậy, luôn
giữ tâm thanh thản,
an lạc và
vô sự, đó
là điều phục tâm.
Ví dụ 3: Khi
thân bị bệnh đau nhức ta giữ tâm bất động,
không dao động, không
hề sợ hãi, không
sợ chết, không
lo bệnh nặng
hay nhẹ, không đi bác sĩ uống thuốc
này, thuốc nọ, để trấn áp tinh thần,
v.v.. đó là điều phục tâm, chứ không phải
điều phục tâm theo kiểu Đại Thừa và Thiền Đông
Độ là tập
trung tâm cho hết vọng tưởng.
Khi điều phục
tâm được như vậy
thì tâm được thanh thản, an lạc
và vô sự.
Khi tâm ta sống được an lạc và vô sự thì ta mới dạy người điều phục,
như kinh dạy:
“Khéo điều,
mới điều người
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Khó thay tự
điều phục”.
Bài kệ này
hàm ý đức Phật dạy
các đệ tử của mình,
khi tu tập chứng
đạo xong thì mới dạy người, còn nếu như
tu chưa chứng đạo mà
vội dạy người tu tập là dạy sai. Tại sao vậy?
Tại vì
tâm mình còn
như đống rác bẩn,
chưa tự
điều phục được: “Khó thay tự điều phục”. Vậy mà
đi dạy người
là dạy làm
sao? Nhưng khi biết cách điều phục
tâm, tâm không còn ương ngạnh
tức là tâm
không còn tham, sân, si. Tâm không còn tham sân si tức
là tâm bất động; tâm bất động là tâm nhu nhuyễn, dễ sử dụng; tâm
nhu nhuyễn, dễ sử dụng
là tu
đã xong. Chừng ấy, ta mới dạy người đâu có muộn. Phải không các bạn?
“Khéo điều,
mới điều người
Khó thay tự
điều phục”.
Mục đích tu
hành của chúng ta là nhắm vào chỗ cứu mình
ra biển khổ, chứ không phải làm
thầy dạy người
tu. Cho nên, khi tu
chưa xong mà dạy người thì làm sao người tu cho được. Phải không các bạn?
Hai câu đầu của
bài kệ trên
đây xin các bạn lưu ý: Đây là lời nhắc nhở của đức Phật
đối với những người
tu chưa chứng
mà đi giảng
đạo. Phần
đông các giảng
sư dạy người tu rất
hay, nhưng chính ông dạy ông rất dở.
Ví dụ:
Các bậc
tôn túc thường
truyền dạy Phật tử phải giữ gìn
năm giới, tám giới hoặc mười giới, nhưng
trái lại các ông đều phạm tất cả các giới cấm
này, không còn một giới
nào mà các ông không phạm. Cho nên, Phật dạy:
“Dạy người
như thế nào?
Hãy dạy mình
như vậy”.
Ghi nhớ lời
dạy trên
đây, các bạn
hãy nhìn xem các
ông giảng sư thời
nay có đúng như lời chúng tôi đã nói không?
--------
HẾT TẬP I
MỤC LỤC
Lời nói đầu
......................................................... 5
Trưởng lão
......................................................... 15
Hổ thẹn..............................................................
33
Khó! Khó!
Khó!!! ............................................... 39
Có hai lộ
trình .................................................. 52
Đừng nên dạy
đạo khi mình tu chưa xong ..... 58
Vượt dòng
sinh tử ............................................. 61
Biết rõ sự
tái sinh trong tương lai .................. 66
Xác định các
pháp tu tập ................................. 75
Kệ lúc thành
đạo .............................................. 87
Tứ chánh cần
.................................................... 91
Lòng tin
chân chánh ........................................ 96
Thiền xả tâm
.................................................. 108
Pháp hướng
tâm ............................................. 118
Thiền thứ tư
.................................................... 121
Không sở hữu
.................................................. 125
Bậc chiến thắng
.............................................. 136
Bà La Môn
...................................................... 141
Chọn bạn
......................................................... 147
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY-TẬP I
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
NHÀ XUẤT BẢN
TÔN GIÁO Phường Yên Hòa – Q.Cầu Giấy - Hà Nội ĐT: (04) 37822845 - Fax: (04)
37822841
Chịu trách
nhiệm xuất bản: Nguyễn Công Oánh Biên tập: Trần Xuân Lý
Bìa &
Trình bày: Ngọc Phúc
Sửa bản in:
Ngọc Phúc
Đối tác liên
kết: TU VIỆN CHƠN NHƯ
Điệnthoại:
066.3892911 - 0988094445
Email:
chonnhu.info@gmail.com
Số lượng in:
2.000 bản, khổ: 13 x 20,5 cm
In tại
CTY CỔ PHẦN IN KHUYẾN HỌC PHÍA NAM
(Tp.HCM. ĐT:
38164415)
Số xuất bản:
1171-2010/CXB/110-248/TG
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!