1- Hiếu sinh
2- Buông xả
và cần lao
3- Chung thủy
4- Thành thật
5- Sáng suốt,
minh mẫn
Hiện giờ như
chúng ta đã biết:
con người chỉ là hình
người mà tâm địa là
loài động vật. Có phải
vậy không các bạn? Cho
nên, con người sinh
ra nhiều nhưng không
phải người thật các bạn ạ.
Vì thế, chúng
ta xác định những con người mà chúng ta gặp hằng
ngày là từ loài thú vật đã trải qua nhiều
kiếp làm loài thú vật để trả nợ nhân quả, vì thế họ đã huân nhiều sự ác độc, hung dữ. Đến khi họ được
sinh ra làm người thì bản chất loài thú vật vẫn còn nguyên. Cho nên, con người
hiện giờ rất hung dữ, tham lam
và độc ác. Mọi người
vì miếng cơm manh áo
mà chà đạp
lên cuộc sống của
nhau chẳng chút
thương tâm. Xét
cho cùng, một con người chết đi đến
khi được sinh ra làm người trở lại thì phải
trải qua làm thân
chúng sanh vô lượng vô
biên kiếp. Do vậy, đức Phật
bảo rằng: quá
khó. Nếu xét ra
các bạn có thấy đúng như vậy không?
Từ những con
người đã có gieo duyên với chánh
pháp của Phật
bằng cách “Thọ
Bát Quan Trai” nên may mắn nhờ
duyên này gặp lại được chánh pháp. Từ đó, chúng ta tu sửa lần lần bỏ những ác hạnh bản chất của
loài động vật, sống đúng năm thiện
hạnh không còn sai trái vi phạm những lỗi lầm. Nhờ sự tu tập theo thiện pháp
ngăn và diệt ác
pháp, chúng ta đã
trở thành con người thật người. Từ con người thật người,
khi chết đi chúng
ta tiếp tục
sinh làm người ngay liền, vì chúng ta
không có vay nợ
máu xương của loài động vật
khác nữa. Do đó
nhân quả không có. Cho nên, một con người thật người
sinh ra là
không ăn thịt
chúng sanh, không tham lam, trộm cắp, cướp của, không vọng ngữ, không tà
dâm, không ưa thích uống rượu. Những
đứa trẻ sinh
ra mà mang bản chất
như vậy là
con người thật
người. Những con người ấy được nuôi dưỡng theo đúng chánh pháp của Phật
thì những người này sẽ
dễ dàng trở thành những bậc Thánh A La
Hán sau này.
Ở đây,
chúng tôi xin
lưu ý các bạn, muốn sinh ra được làm người thì không phải khó, bởi vì đức
Phật đã cho
chúng ta biết
năm tiêu chuẩn để được làm người. Chỉ cần các bạn sống
đúng năm
tiêu chuẩn ở trên thì lúc nào bỏ thân
này các bạn sẽ có thân người mới ngay liền, không có khó khăn, vì năm tiêu chuẩn
ở trên là năm tiêu chuẩn làm người chân
thật không còn mang bản chất loài cầm thú. Cho nên, hiện giờ các bạn thấy người
sinh ra rất nhiều, nhưng người thật người rất ít các bạn ạ!
Các bạn cũng
nên nhớ: Được thân người còn mang bản chất loài thú vật đã khó khăn vô
cùng, phải trải
qua vô lượng kiếp làm chúng sanh, như trên đã nói, huống hồ là được
thân người thật người còn khó hơn. Phải không hỡi các bạn?
Bởi vậy, muốn
được thân người thật người thì các bạn ngay bây
giờ hãy bắt đầu tập sống cho đúng
năm điều thiện ở trên
đã nói. Nhờ sống
đúng năm điều
thiện này thì không
bao giờ các bạn còn làm thân chúng sanh nữa. Các bạn có nhớ không?
Khó
thứ ba: “Được
sanh vào trung
tâm của đất
nước là khó”.
Những con
người sinh ra ở những nơi biên cương thống khổ
vì nơi đó thường hay
có giặc giã, trộm
cướp, v.v..; những nơi ấy đất
cày lên sỏi đá, chai cằn cỗi; những
nơi ấy khó được học
tập kiến thức
sâu rộng; những
nơi ấy làm ra
thực phẩm rất vất vả và khó khăn. Cho nên “Được sanh vào trung tâm
của đất nước là khó”. Chỉ nơi trung tâm của đất nước
mới có sự yên ổn, mới
có cơm ăn áo mặc đầy đủ, mới có
đủ duyên trau dồi kiến thức và nơi đó mới có những bậc Thánh xuất hiện dạy người
sống có đạo đức, để tu tập trở thành
những bậc Thánh Hiền.
Khó
thứ tư: “Được
gặp thiện hữu tri
thức là khó”.
Trong thời đại nào
cũng vậy, ác hữu tri thức thì nơi đâu cũng có, còn thiện hữu
tri thức thì dù có thắp
đuốc đi suốt
ngày đêm từ năm
này đến năm khác cũng rất khó gặp.
Bởi vì,
trong thời đại tu hành theo Phật giáo hiện tại của chúng
ta, ác hữu
tri thức thì không thiếu
gì. Họ chỉ học hỏi kiến giải
trong kinh sách, chứ chưa có vị nào tu chứng đắc. Lấy sự học ra làm thầy
hoặc tu hành chỉ có hình thức, tu chưa đến đâu mà vội đem ra dạy thiên hạ tu
hành, thì các bạn
nghĩ sao? Có phải những
hạng thầy này chỉ là những hạng
giỏi lừa gạt người bằng khoa ngôn ngữ học lỏm của người khác?
Cho nên, người tu
theo Phật giáo thì đông
như kiến, nhưng
thành tựu đạo giải
thoát thì chẳng
có ai. Vì thế, đức Phật dạy:
“Được gặp
thiện hữu tri thức là khó”.
Thưa các bạn!
Thiện hữu tri thức đâu phải dễ tìm. Họ
là những
bậc tu chứng: thứ nhất là chứng Giới luật; thứ hai là chứng Thiền định;
thứ ba là chứng tuệ Tam Minh. Những bậc tu chứng như vậy mới được
gọi là
thiện hữu tri thức, mới là những bậc Thầy của chúng ta.
Khi chúng ta muốn
tìm một bậc thiện
hữu tri thức nào, thì phải xem
xét cho kỹ ba cấp chứng đạo này. Nếu trong ba cấp này xét thấy họ không chứng được cấp nào hết thì họ
là những ác tri
thức, chúng ta không nên thân cận.
Bậc thiện hữu
tri thức là người không những học thức thông suốt giáo pháp mà còn tu hành chứng
đạo, sống một đời sống đạo đức trọn vẹn, giới luật không hề vi phạm,
thường làm gương đức hạnh
cho mọi người soi. Những bậc này
trong đời người rất khó tìm kiếm. Cho nên, đức Phật bảo gặp thiện hữu tri thức
khó là như vậy.
Khó
thứ năm: “Gặp
Chánh pháp là
khó”.
Gặp chánh
pháp là khó, vì hiện giờ quý vị muốn tìm chánh pháp để tu tập được giải thoát
thì đâu phải
là một việc dễ, bởi
vì Phật giáo hiện đang có tám mươi bốn ngàn pháp môn
của Đại Thừa. Chính tám mươi bốn ngàn
pháp môn này đã đánh lạc hướng quý vị. Quý vị có biết không?
Trong khi ấy
Đạo Phật duy chỉ có một
pháp môn
chân chánh. Đó là Bát
Chánh đạo. Bát Chánh
Đạo đang bị dìm mất nên hỏi đến tín đồ
Phật giáo thì họ
đều ngơ ngẩn
không biết tu tập Bát Chánh Đạo như thế nào, và họ
cũng không hiểu nữa. Do đó, muốn tu theo Phật giáo họ
chẳng biết tìm
đâu ra pháp
chân chánh, vì chùa
nào hiện giờ
cũng dạy ngồi thiền,
tụng kinh, niệm Phật,
cầu cúng, lễ
bái, sám hối, v.v..
Vì thế, đức Phật dạy: “Gặp Chánh
pháp là khó”. Đúng vậy.
Hiện giờ muốn tu
hành theo Phật giáo
mà không có một vị
tu chứng quả A La Hán hướng dẫn
thì rất khó cho chúng ta biết pháp nào tu tập đến nơi đến chốn giải thoát hoàn
toàn. Cho nên, “Gặp Chánh pháp là khó”, lời dạy ấy không bao giờ sai.
Phải không quý vị?
Khó thứ sáu: “Nghe được Chánh pháp
là khó”.
Nghe được Chánh
pháp là khó. Tại sao vậy? Vì quý vị đã chịu ảnh hưởng giáo
pháp của Đại Thừa và Thiền Tông quá
sâu đậm, nên kiến chấp
(kiến kiết sử) về
tà giáo này
quá kiên cố. Nó đã trở thành
một thói quen
tu hành ức chế
thân tâm của quý vị rất khó bỏ,
nhất là
ngồi thiền giữ
tâm hoặc niệm
Phật nhất tâm, hoặc sổ tức, tùy tức
không cho niệm khởi. Khi tu tập ức chế
tâm như vậy
đã trở thành một
thói quen với 18 loại hỷ tưởng
xuất hiện, mà các vị Sư Thầy trong Đại Thừa và Thiền Tông cho đó
là nhập định. Từ
đó, thói quen này đã trở thành một
nếp nhăn trong đầu óc của quý vị Sư Thầy này.
Bị kiến chấp
quá kiên cố, nên khi nghe pháp môn tu thiền xả
tâm thì quý vị
đâu hiểu rõ xả
như thế nào,
cho nên khi tu tập
quý vị đều rơi vào
pháp ức chế
tâm mà không
biết. Khi tu pháp thiền ức chế
tâm, quý vị
đã quen tập trung
tâm cho hết vọng
tưởng; khi không vọng tưởng cho
là mình tu tập tốt, còn có vọng tưởng
cho là mình tu tập thất niệm, tu không
chất lượng, tu không
tiến bộ. Cũng
như do từ kiến chấp pháp
môn của Đại Thừa và Thiền
Tông cho rằng không niệm khởi là tu đúng. Với kiến chấp
và thói quen như
vậy quý vị muốn
gạt bỏ nó để tu hành trở lại pháp môn xả tâm chân chánh
của Đạo Phật
thì rất khó, khó muôn vàn. Phải không quý vị?
- Thứ nhất,
là vì thói quen tập
trung gom tâm vào một đối tượng
như ngựa quen đường
cũ.
- Thứ hai,
tư tưởng chưa thông
suốt chân lý Phật giáo, còn bán
tin bán nghi Đại Thừa và Nguyên Thủy, chưa biết phân biệt pháp nào đúng, pháp
nào sai.
Kính thưa các bạn! Nếu các bạn quyết tâm tu hành để cầu sự giải
thoát thì các bạn
hãy lắng nghe cho kỹ những
lời chúng tôi dạy,
khi nào hiểu tường tận, biết rõ pháp môn Đại Thừa là pháp tưởng của ngoại đạo
Bà La Môn thì chừng đó các bạn mới nên
tu tập thiền định xả tâm ly dục ly
ác pháp,
mới thấy được kết
quả tốt. Còn chưa thông suốt, còn bán tin bán nghi thì các bạn
khoan vội tu tập mà
hãy nên chịu khó
nghiên cứu kỹ lại tạng
kinh Nguyên Thủy do HT Minh Châu
dịch từ Tạng kinh Pali.
Có HAI LỘ
TRÌNH
LỜI PHẬT DẠY
“Có hai đường
đi, một là đường ác; hai
là đường thiện. Người làm ác từ đường
ác đến chỗ khổ, người
làm lành dạo chơi đường lành đến
chỗ vui”.
(Tăng Nhất A
Hàm tập 3 trang 498)
CHÚ GIẢI:
Đạo Phật
chỉ dạy rất
rõ ràng về cuộc
sống của
con người. Cuộc sống của con người chia làm hai con đường:
1- Con đường
sống lối ác
2- Con đường
sống lối thiện.
Người tu
theo Phật giáo
chọn lấy con đường
sống thiện để
đi, vì thế họ luôn
luôn sống thảnh thơi, an lạc và hạnh phúc. Con đường thiện là con
đường sống không
làm khổ mình, khổ người
và khổ tất cả
chúng sanh. Đó là con đường đạo đức nhân bản – nhân quả, con
đường cao
quý nhất của đời người. Những người nào
chọn Phật giáo
làm chỗ nương
tựa vững chắc để sống
một đời sống có đạo đức,
có đầy đủ nhân cách làm người, có
đầy đủ trực hạnh, thắng hạnh, diệu hạnh của bậc Thánh
nhân, v.v.. Đó là đạo lộ
duy nhất của Phật
giáo. Thế mà Phật giáo ngày nay
có 84 ngàn đạo lộ. Như vậy quý vị có tin được không?
Những người
nào chọn lấy
con đường ác thì đó là con đường phàm phu đi, con đường tội lỗi,
con đường sống vô đạo đức,
con đường đầy rẫy tham, sân, si,
mạn, nghi, con đường luôn luôn làm khổ mình,
làm khổ người và làm khổ tất cả chúng
sanh, con đường ích kỷ cá
nhân, con đường đầy rẫy những sự khổ đau. Vì
thế, đời sống của họ khổ
đau vô cùng, vô tận, họ luôn luôn sống trong những ngày mai đen tối,
trong những khu rừng âm u, ảm đạm, buồn tẻ không một chút ánh sáng thoát khổ.
Thưa các bạn!
Đọc đoạn kinh trên đây các bạn quan sát lại đường lối tu tập của Đạo Phật thì
các bạn sẽ nhận ra được nền đạo đức nhân
bản –
nhân quả một
cách cụ thể,
rõ ràng như đã
nói ở trên.
Vì thế, pháp môn hướng dẫn tu
tập của
Phật giáo rất
đơn giản, chỉ cần biết nhận
ra: “Thiện pháp và
Ác pháp”. Và khi
nhận ra thiện
pháp và ác
pháp thì các bạn phải
ngăn và diệt ác
pháp, không được để trong tâm dù chỉ
là một giây,
một sát na cũng phải diệt trừ, từ bỏ ngay liền. Có
như vậy mới thấy Phật giáo
giải thoát thiết
thực, cụ thể trong
cuộc sống hằng
ngày của đời
người, đến để mà thấy, để mà hướng
thượng...
Thiện và ác
tức là nhân quả. Do nhân quả mà con người có
vui, có khổ.
Hiểu được điều này nên đức Phật dạy
cho chúng ta chọn lấy
con đường thiện, dù
tu sĩ hay cư
sĩ, là
tín đồ hay không phải là tín
đồ của
Phật giáo. Vì lợi ích
cho mình cho người, cho gia
đình, cho xã hội, cho đất
nước quê hương, các
bạn đều phải tập luyện và sống
trong nền đạo đức này. Nó sẽ giúp các bạn không
còn khổ đau. Các
bạn có biết không?
Do lợi ích
thiết thực cho loài
người như vậy, nên đức Phật dạy
cho mọi người sống phải siêng năng, cần mẫn hằng ngày tu tập “ngăn ác, diệt
ác pháp, sanh
thiện, tăng trưởng thiện pháp”. Đó
là bốn điều siêng năng
chuyên cần quan
trọng trong Phật giáo mà
người tín đồ nào
cũng phải biết, cũng
phải tập tu; chứ không phải siêng
năng cúng bái, cầu nguyện tụng niệm, ngồi thiền, v.v..
Phương pháp
tu tập này có tên gọi là “Tứ Chánh Cần”.
Nếu ai không
nghe lời dạy này, không thực hiện ngăn
ác, diệt ác pháp,
thì người ấy đang
chọn con đường ác để đi, suốt
cuộc đời
mình luôn luôn
gánh chịu nhiều
tai ương, hoạn nạn,
khổ đau, v.v..
Đi trên con đường ác ấy không thể có người nào tránh
khỏi đau khổ được. Và cứ thế tiếp tục tương ưng luân hồi từ kiếp
này, đến
kiếp khác, thọ khổ vô
lượng vô biên kiếp. Đạo Phật gọi đó là tái sanh luân hồi khổ đau triền miên bất
tận.
Những ai
nghe và tin theo lời dạy này, thường sống ngăn ác và diệt ác pháp, luôn sống
sanh thiện, tăng
trưởng thiện pháp
thì người ấy đã chọn đi trên con
đường thiện. Và vì thế, đời sống của họ sẽ được
thảnh thơi, an vui và hạnh
phúc, sau khi chết sẽ
tương ưng với sự
giải thoát của chư Phật nên chấm dứt tái sanh luân hồi.
Thưa các bạn! Nếu
các bạn chọn
con đường thiện này
là các bạn
đã xây dựng
cho mình một cuộc sống ngay tại thế
gian này là cõi Cực lạc hay Thiên đàng. Đó chính là bạn
đã tự thắp đuốc
lên mà đi
và cũng chính
bạn đã lấy mình làm hòn đảo nương
tựa vững chắc cho
mình. Những
việc làm này
các bạn có
tin không?
Bảo đảm với các bạn, con đường
tu tập này, nếu các bạn tu tập ít
thì có lợi ích ít, còn bạn cố gắng tu tập nhiều
thì có lợi ích nhiều. Pháp tu
hành này cũng
giống như công
việc làm hằng ngày của các bạn; pháp tu hành này giống như bạn sống phải
ăn, ăn để sống; pháp tu hành này có tu tập thì tâm bạn thanh
thản, an lạc và vô sự, còn không tu tập thì các bạn sẽ phải chịu nhiều khổ đau,
phiền muộn, v.v..
Chọn lấy con đường
thiện để sống thì các bạn đâu cần gì phải cầu an cầu siêu,
đâu cần gì phải tụng kinh, lạy
hồng danh chư Phật
sám hối chi cho mệt,
đâu cần gì phải
ngồi thiền ức chế
tâm cho hết vọng tưởng
để chịu đau chân, căng đầu, mệt óc, cuối cùng sanh ra
loạn tưởng, bệnh thần kinh điên loạn, mất trí nhớ.
Chính đức Phật đã
xác định: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện
pháp” là
“Định Tư Cụ”, tức là
phương pháp tu thiền định. Vậy
mà thời nay,
người ta tu theo thiền định Phật giáo lại không tu
theo pháp này. Không
tu theo pháp
này mà bảo rằng tu theo Phật giáo thì các bạn nghĩ
sao? Có đúng không? Những pháp hành như
vậy chúng
ta có tin
không? Tu theo pháp của Phật mà không giống lời dạy của Phật chút nào cả, thì
thật là buồn cười cho những ai còn đam mê Đại Thừa và
Thiền Tông, sống
trong ảo tưởng, mộng
mơ như đang
trong một giấc mộng dài của Đại Thừa.
ĐỪNG NÊN DẠY
ĐẠO KHI MÌNH
TU CHƯA XONG
LỜI PHẬT DẠY
“Như có người
tự mình chìm đắm mà muốn cứu
người thì trọn không có lý, mình
tu chưa giải
thoát mà dạy người
tu giải thoát,
việc ấy không thể làm được”.
“Như có người
tự mình không chìm đắm mới có thể cứu
người, lý ấy có
thể được, nay cũng lại như thế, tự
mình tu được giải thoát
khiến cho người khác tu được giải thoát, lý ấy có thể được”.
(Tăng Nhất A
Hàm tập 3 trang 239)
CHÚ GIẢI:
Hiện giờ
người dạy đạo
tu hành theo Phật
giáo, phần đông
là học giả
chưa có tu hành ngày nào cả và cũng có một số người
tu hành chưa tới nơi tới chốn
cũng ra giảng đạo
dạy người tu
hành. Họ nương theo lời dạy trong kinh sách
Đại Thừa, tự vỗ ngực
xưng mình “Hành Bồ Tát đạo, tu Bồ
Tát hạnh”, vừa tu vừa độ người. Do kinh
sách Đại Thừa dạy như vậy, nên
Tăng, Ni và ngay cả những
người cư sĩ cũng ra giảng đạo dạy
người tu hành, trong khi tâm mình như
bãi sình lầy
hôi thối nực
mùi danh lợi, giới luật
bẻ vụn tan
nát. Trong lúc dạy người
tu sợ người
ta cười chê
nên bảo: “Y kinh
bất y nhân”.
Ngược lại, trong
kinh Nguyên Thuỷ của Đạo Phật
thì không chấp nhận làm những việc
này; dạy đạo theo
kiểu này là đưa người vào cõi chết.
Thưa các bạn!
Nhìn lại Đạo Phật hiện giờ, người đứng
ra thuyết giảng dạy người
tu hành phần đông là
những học giả
tu hành chưa đến nơi đến chốn; họ cũng giống như một
người mù dắt một đoàn
người mù đi,
vì thế biết
bao nhiêu người bị rối loạn
thần kinh, tẩu hỏa
nhập ma, điên khùng. Nhìn thấy cảnh này,
chúng tôi không
biết làm cách nào để cho mọi người hiểu rõ những giáo pháp của Đại
Thừa và Thiền Tông tai
hại như vậy,
để mọi người tránh khỏi cạm bẫy của chúng.
Do lòng
thương tưởng các bạn tu
hành, nên chúng tôi
nói quá thẳng
và nói quá mạnh
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
để mọi người
đừng bị những vị giảng sư học giả lừa đảo, vì thế có người ngộ nhận, cho chúng tôi: hằn học, mạ lị, mạt sát. Chúng
tôi vui lòng chấp nhận miễn là tiếng nói của chúng tôi là tiếng sét làm cho mọi
người thức tỉnh cơn ác mộng Đại Thừa và Thiền Tông.
Tóm lại, những
người tu hành chưa chứng quả A La Hán thì đừng có giảng đạo; giảng đạo như vậy
là giết Phật giáo và làm khổ đau cho nhiều người khi họ bị trở thành những người
bệnh rối loạn thần kinh. Người không bệnh do tu hành thành bệnh, biến họ thành
gánh nặng cho gia đình và xã hội. Các bạn có biết không?
VƯỢT DÒNG SANH TỬ
LỜI PHẬT DẠY
“Ý muốn qua dòng sanh tử mà không tu tập theo
pháp cấm giới” thì bị Ma Ba Tuần chiếm
phần tiện lợi, đó là theo con đường đi tìm
cầu Niết
Bàn mong được giải
thoát trọn không đạt kết
quả, tự tạo tội lỗi
và nghiệp báo cho mình, lại còn
làm cho người khác đắm chìm trong tội lỗi và nghiệp khổ”.
(Tăng Nhất A
Hàm tập 4 trang 179)
CHÚ GIẢI:
Hầu hết
tu sĩ và cư
sĩ hiện
giờ không giữ gìn giới luật
nghiêm chỉnh, nên bị Ma Ba Tuần xỏ mũi.
Cho nên nhìn
trước, nhìn sau chúng ta chưa thấy có một vị tu sĩ nào
tu chứng quả A La
Hán, chỉ là
nói vọng ngữ
khéo che đậy theo
kinh sách Đại Thừa
“Vô sở đắc”
hoặc “còn thấy mình tu
chứng là chưa
chứng” hoặc
“tu vô lượng kiếp”.
Đó là những
lối nói để lừa
đảo tín đồ bằng tưởng giải nghĩa lý kinh sách.
Người tu
hành nào cũng mong cầu sự giải thoát để ra khỏi bốn sự đau khổ của cuộc đời,
nhưng lại gặp giáo pháp Đại Thừa phá giới, bẻ vụn giới,
nên tu sĩ
và cư sĩ thời
nay không có một sư thầy nào giới
hạnh nghiêm chỉnh, chỉ toàn chạy theo dục ăn, dục
ngủ, dục danh, dục lợi, dục chùa to, vật chất nhiều, v.v..
Muốn giải thoát mà không
ly dục ly
ác pháp thì làm
sao giải thoát được. Phải không hỡi các bạn?
Không giữ giới thì
Ma Ba Tuần
chiếm phần tiện lợi. Ma Ba Tuần chiếm phần tiện lợi là gì?
Không giữ giới
Ma Ba Tuần chiếm phần tiện lợi có
nghĩa là không
giữ giới thì tâm tham, sân,
si lẫy lừng.
Người tu hành
mà không giữ giới thì đâu khác gì là người thế tục. Đi tu như vậy chỉ
phí uổng một cuộc đời, chẳng làm ích lợi gì cho mình cho người, cho gia đình và xã hội
Người đi
tu mà không
giữ giới luật
thì theo lời dạy trên
đây: “Tự tạo tội lỗi
và nghiệp báo cho mình,
lại còn làm
cho
nghiệp khổ”. Đúng
vậy, đi tu
mà không giữ gìn giới luật là tự tạo tội
lỗi. Tạo tội lỗi là tạo
thành nghiệp báo đời này sang đời khác không bao giờ dứt,
không những cho riêng
mình mà còn cho những người khác
nữa.
Người tu
hành không giữ gìn
giới luật thì oai nghi tế hạnh của vị
chân tu Thánh Tăng, Thánh Ni, Thánh Cư sĩ
không bao giờ có. Giới luật đức hạnh Thánh
Tăng, Thánh Ni,
Thánh Cư sĩ không có thì lấy gì làm gương cho tín đồ theo đó
mà tu hành.
Cho nên, đoạn kinh này dạy: “Lại
còn làm cho
người khác đắm chìm
trong tội lỗi và nghiệp khổ ”.
Lời dạy
này rất
đúng các bạn ạ!
Các bạn có thấy
không, các thầy Đại Thừa
và Thiền Tông không giữ gìn giới
luật nghiêm chỉnh nên đệ tử của họ (cư sĩ
và tu sĩ)
cũng xem thường giới luật Phật,
phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới (ăn uống,
ngủ nghỉ, cất giữ tiền bạc phi thời, sống ưa thích tụ tập nói chuyện phi thời)
chẳng có một ngày sống độc cư. Họ sống như
người thế gian, chỉ có khác là chiếc áo cà sa với chiếc đầu cạo trọc, chứ
cũng danh, cũng lợi, cũng
xe hơi, nhà cao cửa
rộng, chùa to Phật lớn,
v.v.. Đó là do
các thầy không
giữ gìn giới
luật
nghiêm chỉnh
nên các đệ tử của họ đắm
chìm trong tội lỗi và nghiệp khổ.
Thấy gương hạnh
xấu này, nếu chúng ta quyết tu theo Phật giáo thì hãy tránh xa họ. Tránh xa để
làm gương tốt cho tín đồ
hay nói cách khác là đệ tử của mình,
để họ không bị tội lỗi và nghiệp khổ.
Có phải như vậy
không các
bạn?
Xin các bạn vui lòng đọc kỹ đoạn kinh này thì mới rõ lời răn dạy đối với
tu sĩ Phật
giáo hiện nay rất đúng:
“Ý muốn qua dòng
sanh tử mà không tu tập
theo pháp cấm giới”. Người tu sĩ nào cũng muốn tìm tu để vượt
thoát sanh tử, nhưng giới luật
lại vi phạm. Vi phạm giới
thì tâm không bao giờ
ly dục ly ác
pháp như trên đã
nói. Không ly dục ly
ác pháp thì làm sao tìm cầu Niết Bàn được, phải không
các bạn? Cho nên, lời Phật dạy
rất đúng: “Bị Ma Ba
Tuần chiếm phần tiện lợi,
đó là theo con đường đi tìm cầu Niết Bàn mong được giải thoát trọn
không đạt kết quả”. Tìm cầu giải thoát không được lại tự tạo tội lỗi rất lớn
làm cho mình cho người
chìm đắm trong
biển sanh tử luân hồi, như kinh dạy: “tự tạo tội lỗi và nghiệp báo
cho mình, lại còn làm
cho
nghiệp khổ”. Như
vậy, các Thầy
tu theo Đại Thừa
và Thiền Tông phạm
giới, phá giới thật đáng trách vì làm cho Phật giáo suy đồi,
diệt mất chánh pháp của Phật:
“Giới luật còn là
Phật giáo còn,
giới luật mất là Phật giáo mất”
và cuối cùng đánh mất nền đạo đức nhân bản
– nhân quả của loài người.
BIẾT RÕ SỰ TÁI
SANH TRONG
TƯƠNG LAI
LỜI PHẬT DẠY
“Bị vô
minh ngăn che, bị tham ái trói buộc, các
loài hữu tình thích
thú chỗ này, chỗ kia như vậy, tái sanh
trong tương lai sẽ xảy ra”.
“Vô minh
được xả ly,
minh khởi tham ái được đoạn diệt (ly dục ly ác pháp).
Như vậy tái sanh trong
tương lai
sẽ không xảy
ra”.
(Tăng Nhất A
Hàm tập 3)
CHÚ GIẢI:
Muốn hiểu rõ
đoạn kinh này thì chúng ta phải hiểu
rõ những danh từ cần
thiết như: Vô minh, Tham ái, Hữu tình, Tái sanh.
1- Vô minh
nghĩa là gì? Các bạn đừng hiểu nghĩa là không biết, không hiểu, không
thông minh, ngu dốt, v.v..
Vô minh ở
đây có
nghĩa là hiểu biết rất
rõ ràng, thông
minh, có trí tuệ, không
ngu dốt, v.v.. nhưng
nó thường đối mặt với minh,
nên nó có một nghĩa
khác hơn minh. Phần đông trong xã
hội loài người, đều là những
người vô minh.
Các bạn có nhận xét
điều này chưa?
Khi nói mọi người
đều vô minh thì các
bạn rất ngạc nhiên vì không thể ngờ được. Phải vậy không các bạn?
Các bạn
có biết không?
Những người vô minh
không riêng giới bình dân ít học, tay lấm chân bùn,
cùng đinh khốn
khổ, sống không
đủ cơm ăn áo mặc, mà cho đến những giới trí thức có đầy đủ học thức, như
những nhà Bác học, những ông Giáo sư, các Bác sĩ, Thạc sĩ, Tiến sĩ và những nhà
khoa học danh tiếng, v.v.. tuy họ có trình độ học thức về đời cao như vậy,
nhưng đối với Phật
giáo họ vẫn
là những người
vô minh. Các bạn
có tin lời nói của chúng
tôi không? Xin các bạn bình tĩnh đọc tiếp những dòng dưới
đây thì các bạn sẽ rõ
vô minh của giới có học thức là một sự thật, chứ không
phải chúng tôi có
ý chỉ trích hay
nói không đúng, mà từ lâu chưa có ai nghĩ đến.
Vô minh đức Phật xác định nghĩa ở đây là sự hiểu biết thông minh theo tâm ái dục, tưởng ái dục,
nên sự hiểu
biết ấy bị hạn cuộc
trong
không gian
và thời gian. Đức Phật dạy: “Bị vô minh ngăn
che” tức là bị sự hiểu
biết ái dục, tưởng dục ngăn che
làm cho mọi người không thấy, không hiểu rõ mọi sự việc như thật. Do không thấy,
không hiểu biết mọi sự vật như thật
nên sinh ra tham
ái dính mắc,
chấp chặt không dám buông bỏ. Vô
minh là một sự hiểu biết trong góc độ ái
dục, tưởng dục. Khi vượt ra ngoài ái dục, tưởng dục thì sự thấy vàø hiểu biết
đó là
“minh”. Khi nói đến vô
minh thì phải nói đến minh. Vậy
minh nghĩa là gì?
Như trên
đã nói: “Vượt ra ngoài
ái dục, thì sự thấy vàø
hiểu biết là minh”. Minh là trí tuệ hiểu biết không bị ái
dục, tưởng dục chi phối, nên thấy
và hiểu biết mọi sự vật như thật, không bị dục ngăn che. Cho nên, khi
nào tâm hết dục thì ta mới có “minh”.
Tóm lại,
vô minh gọi
là sự hiểu
biết của dục tri, tưởng tri; còn
minh gọi là sự hiểu biết của Liễu tri, Thắng tri, Trực tri, Chánh
tri.
Bát Chánh Đạo
là con đường tu tập của Phật giáo dạy
cho chúng ta có
cái nhìn thấy đúng
đắn, cái suy
tư đúng đắn
không mang theo dục tri, tưởng tri. Vì thế,
Bát Chánh Đạo dạy cho chúng ta “minh”.
Ngày xưa cho đến
ngày nay, Tổ tiên,
ông bà, cha mẹ, Thầy Tổ (các thầy Đại Thừa) và tất cả mọi
người chung quanh
ta đều dạy cho chúng
ta sự hiểu
biết thường tục, gọi là kiến
thức; nhưng kiến
thức ấy luôn
luôn mang đầy ắp
những ái dục
tri, ái dục tưởng tri. Từ
khi Đạo Phật ra đời dạy cho chúng ta cái hiểu biết khác, cái hiểu biết
ly dục tri, ly dục tưởng
tri và ly ác pháp. Do đó, chúng ta mới nhận thấy mình thoát khổ, tâm
không còn tham, sân, si phiền não, khổ
đau như trước nữa.
Cho nên, kinh Pháp Cú dạy:
“Vui thay Phật ra đời!”. Phật ra đời
luôn luôn đem lại
hạnh phúc, an vui cho mọi người và mọi loài trên hành
tinh sống này. Nhưng
có mấy ai
đã hiểu biết
đúng như vậy, tất cả mọi
người đang sống
trong mộng mơ, ảo tưởng, mơ hồ của thế tục, của các tôn giáo, của các
triết học, v.v..
Ở đâu có vô minh, thì ở đó không có minh; ở đâu có minh thì ở đó không có vô minh. Minh là bờ bên kia và vô minh
là bờ bên này, bờ bên này là đau khổ và bờ bên kia là giải thoát.
Như vậy,
luận về minh
và vô minh
thì chúng ta đã nhận ra pháp
tu hành của Phật
giáo rất
rõ ràng, chỉ
có điều chúng
ta muốn ở bờ
bên này hay ở bờ
bên kia mà
thôi. Muốn
khổ đau thì ở
bờ bên này; ở bờ
bên này thì đừng than trời trách đất. Muốn hết khổ
đau thì ở bờ bên kia; bờ bên kia là giải
thoát, tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự.
2- Tham
ái nghĩa là gì?
Tham là lòng ham
muốn; ái là
lòng yêu thích.
Đã là con người thì ai cũng có lòng ham muốn và ưa
thích hoặc nhiều hoặc ít. Lòng ham muốn và ưa thích là một sợi dây
vô hình thường
trói buộc rất chặt
chúng ta vào vạn
vật. Khi chúng ta khởi
tâm ưa
thích hay ham muốn một vật gì thì
chúng ta bị trói chặt vào vật ấy, khó cho chúng ta buông bỏ được nó. Ví dụ: khi
chúng ta khởi ý ham thích ưa muốn có một ngôi
nhà khang trang, đầy đủ tiện
nghi, thì lúc bây giờ muốn bỏ
ý niệm ấy rất khó.
Nó thôi thúc
chúng ta phải cố gắng làm lụng hoặc
phải bán đến cả
đất đai
của cha mẹ cho để
xây cất cho bằng được ngôi nhà. Đó là bị tham ái trói buộc. Cho nên, đức Phật đã
xác định cho chúng ta thấy
tham ái rất là nguy hiểm, nó như sợi dây trói buộc rất chặt “bị
tham ái trói buộc”. Đó là lời
cảnh báo để
chúng ta thoát
ra sợi dây vô hình
này. Nếu mọi người không biết Phật pháp thì chắc chắn
không người nào tự ý thức để
thoát khỏi sợi
dây tham ái này. Có đúng không các bạn?
Đời người
thường bị khổ
đau đều do sợi dây tham ái này.
Bát Chánh Đạo giúp chúng ta cắt đứt những sợi dây tham ái đó.
Thưa các bạn!
Chúng tôi đã nhờ pháp môn Bát Chánh Đạo mà đoạn lìa được sợi dây tham ái này
môt cách dễ dàng không mấy khó khăn và mệt
nhọc, chỉ có bền chí ngày ngày siêng năng
mài dũa tâm
mình đúng pháp.
“Có công mài sắt có ngày nên kim”
các bạn ạ!
3- Hữu tình
là gì? Hữu là có; tình là tình cảm, cảm mến.
Các loài hữu
tình là chỉ chung cho loài người và loài vật (loài có
tình cảm).
4- Tái sanh
là gì? Tái
sanh có nghĩa
là sanh trở lại
làm người làm
loài vật. Đọc hết
đoạn kinh này ta biết rõ: “Các loài hữu
tình thích thú chỗ này,
chỗ kia như vậy,
tái sanh trong tương lai sẽ xảy ra”.
Lời dạy này rất đúng. Mọi người đang sống trên hành tinh này luôn
luôn ưa thích cái
này cái kia,
lúc nào cũng ưa thích. Do tâm ưa
thích mà loài người cũng như loài vật đều phải chịu
tiếp tục tái sanh luân hồi.
Chúng tôi
xin các bạn vui lòng đọc lại trọn vẹn đoạn kinh trên đây để chúng ta rút ra được
một bài pháp tu tập thực tế và cụ thể có pháp hành hẳn
hoi: “Bị vô
minh ngăn che,
bị tham ái trói buộc, các loài hữu
tình thích thú chỗ này,
chỗ kia như vậy,
tái sanh trong tương
lai sẽ xảy ra”.
Như vậy, muốn chấm dứt tái sanh luân hồi thì phải diệt
trừ vô minh. Do vô minh
mà có tham
ái; do tham ái mà
thích cái này
cái kia; do ưa thích
cái này cái kia mà phải chịu tái
sanh luân hồi, khổ đau muôn kiếp. Như vậy, vô
minh là vấn đề quan trọng
hàng đầu trong
sự tu tập
thiền định của Phật giáo, là đề
tài tối hậu cần phải tiêu diệt, cần phải từ bỏ, cần phải xa lìa, v.v.. Với đề tài vô
minh này người
tu sĩ hay cư
sĩ Phật
giáo phải lưu ý bằng mọi cách để thiện xảo vén sạch màn vô minh.
Muốn vén sạch
màn vô minh thì chúng ta phải có
minh, tức là trí
tuệ Tam Minh. Nhưng làm sao có
Tam Minh được? Muốn
có trí tuệ Tam Minh thì chúng ta
phải tu tập bằng những con đường Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy,
Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn,
Chánh niệm, Chánh định.
Chánh niệm
tức là Tứ
Niệm Xứ thuộc Định Vô Lậu. Vậy muốn tu tập Định Vô Lậu
thì phải dùng pháp
gì? Muốn tu tập Định
Vô Lậu thì phải dùng
ý thức, pháp
tác ý và
pháp như lý tác
ý. Xin các bạn lưu
ý: con đường tu tập
theo Phật giáo ý thức là vũ khí hàng đầu
trong việc đánh giặc
sanh tử “Ý dẫn đầu,
ý làm chủ, ý tạo tác”. Dùng ý thức tu tập đúng cách chúng ta mới
ly dục ly ác pháp; nhờ ly dục ly ác pháp
mà tâm mới nhập định; nhờ
định mà ta có Tam Minh; nhờ Tam
Minh mà vô minh mới diệt trừ tận gốc hay
nói cách khác
nhờ Tam Minh mà tham
ái được diệt trừ
tận gốc. Như vậy, đến đây các bạn
đều đã biết phương pháp và cách
thức tu tập rất rõ ràng. Phải không hỡi các bạn?
Còn Chánh Định
tức là bốn thiền: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, ngoài bốn thiền này
không có thiền nào được gọi là Chánh Định. Vì thế, nói về thiền định các bạn cần
nên lưu ý để tránh khỏi những tà thiền của ngoại đạo.
Cho nên, kết luận
đoạn kinh, đức Phật dạy như dưới đây:
“Vô minh được xả ly, minh khởi tham ái được đoạn
diệt (diệt dục diệt ác pháp).
Như vậy, tái sanh trong
tương lai sẽ
không xảy ra”. Nếu chúng ta xét cho kỹ đoạn
kinh này thì chúng ta thấy đức Phật đã
trao cho chúng ta một bí quyết cốt
tủy giải thoát của đạo. Chỉ cần siêng năng tu tập là đạt được kết quả
ngay liền.
Như lời dạy
trên trong cuộc đời tu
hành theo Phật giáo, chúng ta thấy rất rõ, kẻ nào vô minh thường bị tham ái trói buộc thích thú vui
chơi chỗ
này, chỗ kia
thì sự đau khổ
và tái sanh luân hồi không
thể tránh khỏi;
còn kẻ nào ly dục, ly
ác pháp thì được
giải thoát, an vui,
tâm hồn lúc
nào cũng thanh
thản, an lạc và vô sự. Do tâm hồn
được như vậy thì sẽ chấm dứt tái sanh luân hồi chắc chắn.
XÁC ĐỊNH CÁC
PHÁP TU TẬP
LỜI PHẬT DẠY
1- Nhất tâm
là định.
2- Bốn niệm
xứ là định tưởng.
3- Bốn tinh
cần là định tư cụ.
4- Sự luyện
tập, sự tu tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là tu tập định ở đây vậy.
5- Thở vô và
thở ra là thân hành.
6- Tầm tứ là
khẩu hành.
7- Tưởng thọ
là tâm hành.
(Tăng Nhất A
Hàm tập 3)
CHÚ GIẢI:
Trên đây là sự
xác định rất rõ
ràng của đức Phật trong các pháp
môn tu hành về thiền định phải tu pháp
nào và tu tập như thế nào, nhất
là đức Phật
chỉ cho chúng ta thấy phải dùng
thân hành nào
trong thân để nhập các
loại định
và nhập định nào làm chủ được sanh tử
luân hồi.
Vậy, muốn thấu
hiểu rõ thì chúng ta phải thông hiểu từng câu, từng lời dạy của đức Phật
như dưới đây:
1- Nhất tâm
là gì? Nhất tâm là “tâm ly dục ly ác
pháp”, chứ không phải nhất tâm là
tâm “không vọng tưởng, tâm không niệm thiện niệm ác”.
Tâm ly dục ly ác pháp là tâm bất
động trước các
pháp và các cảm thọ,
cho nên đức Phật gọi là “Bất Động Tâm
Định”. Do vậy nên câu
này đức Phật dạy:
“Nhất tâm là định”. Ở đây các bạn phải
khéo hiểu, nếu hiểu không đúng nghĩa thì các bạn sẽ hiểu theo kiểu kinh
sách Đại
Thừa và Thiền
Tông. Hiểu theo kinh sách Đại Thừa
và Thiền Tông thì dù các bạn có tu muôn ngàn kiếp cũng chẳng bao giờ có giải
thoát.
2- Bốn Niệm
Xứ là gì? Bốn Niệm Xứ là một phương pháp tu tập trên bốn chỗ của thân ngũ uẩn
là: thân, thọ, tâm và pháp để đạt được ý
thức ly dục ly bất thiện pháp, tức là ý thức không phóng dật (không khởi niệm).
Sao lại gọi: “Bốn
Niệm Xứ là định
tưởng”? Khi mới
bước chân vào
tu tập Bốn
Niệm Xứ thì
phải tu
tập 16 loại tưởng.
Nhờ tu tập 16 loại tưởng
này nên tâm mới sinh
ra nhàm chán các
pháp thế gian
vì thấu suốt
lý các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, uế trược, do
qui luật nhân
quả duyên hợp
tạo thành chẳng có gì
là ta,
là của ta,
là bản ngã của
ta. Do ý
nghĩa này mà Bốn Niệm Xứ là Định Tưởng. Các bạn nên hiểu: “Định Tưởng
chứ không phải Tưởng Định”.
3- Bốn Tinh
Cần là gì? Bốn Tinh Cần là một tên khác của Tứ Chánh
Cần. Tứ Chánh Cần
là một phương
pháp tu tập
dùng ý thức ngăn
ác và diệt ác
pháp, sanh thiện
tăng trưởng thiện pháp.
Một pháp môn
dùng cho mọi người
tu tập lúc mới bắt đầu theo Đạo
Phật. Do tu tập Tứ Chánh
Cần mà mọi người mới giữ gìn giới luật trọn vẹn. Do
tu tập Tứ Chánh Cần mà
giới luật không
bao giờ vi phạm.
Do tu tập Tứ
Chánh Cần mà
tâm hồn mới được thanh thản, an lạc
và vô sự. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà cuộc sống gia đình mới được an vui và hạnh phúc. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà
không còn nạn trộm cắp cướp giựt
giết người, làm mất trật tự, an ninh. Do tu tập Tứ Chánh Cần
mà các tệ nạn xã hội không
còn
nữa, tạo
nên một xã hội có trật tự, một đất nước phồn vinh, thịnh trị, v.v..
Sao lại gọi
Bốn Tinh
Cần là Định Tư Cụï? Bốn tinh cần
là pháp môn
tu tập làm
cho giới luật thanh tịnh
như trên chúng
tôi đã nói.
Vì giới luật thanh
tịnh là tâm
thanh tịnh; tâm thanh
tịnh là tâm định, nên đức Phật
dạy: “Giới sinh định”. Muốn
có thiền định thì chỉ cần tu tập giới luật cho thanh tịnh.
Giới luật thanh tịnh tức
là tâm thanh
tịnh; tâm thanh tịnh là tâm ly dục ly ác pháp; tâm ly dục
ly ác pháp thì ngay đó là thiền định, nên
đức Phật dạy: “ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”.
Đọc đến
đây các bạn thấy rất
rõ thiền định của Đạo Phật là thiền định từ
giới luật sinh ra. Nó
không giống bất cứ một loại
thiền định nào của Đại Thừa và Thiền Tông. Phải không các bạn?
Nếu các bạn tu tập thiền
định mà loại thiền định đó không lấy giới luật làm tiêu chuẩn, sống
không đúng Phạm hạnh, thường phạm giới, phá giới mà cứ bảo đó là thiền định của Phật giáo thì các bạn đừng
có tin.
Khi biết rõ
pháp môn thiền định của Phật do từ giới luật
sinh ra thì không ai
còn đưa ra một pháp
môn nào khác để lừa đảo chúng
ta
được nữa. Vì
lý do này nên lời dạy
trong bài kinh nói: “Bốn
Tinh Cần Là Định
Tư Cụï”. Đúng vậy. Pháp
môn tu tập
thiền định của Phật giáo Nguyên
Thủy chỉ có Định Tư Cụ (Tứ Chánh Cần),
ngoài Tứ Chánh Cần ra thì không còn
pháp môn nào
khác nữa để
tu tập thiền định đúng chánh
pháp. Nếu có
pháp môn nào khác
nữa để tu tập thiền
định thì chúng ta phải biết
đó không phải là pháp môn của Phật giáo,
mà chính là
pháp môn của
ngoại đạo Bà La Môn.
4- Sự luyện
tập, sự tu tập, sự
tái tu tập của những pháp ấy là
tu tập định ở đây vậy.
Chúng ta hãy
lắng nghe lời đức Phật xác định những
pháp môn đức Phật đã dạy
ở trên đây là những pháp môn tu tập thiền
định của Đạo Phật. Vì vậy, quán niệm hơi thở có đúng là pháp môn tu tập thiền định
của Đạo Phật không? Không đúng
đâu các bạn ạ, nó chỉ là một phương pháp tu tập tỉnh thức mà thôi,
chứ nó không phải
thiền định. Tu hơi thở không thể
nhập định được, tu hơi thở là để an
trú thân tâm. An trú thân tâm trong hơi thở là để đẩy lùi các chướng ngại
pháp.
Quý Sư, Thầy
hiện giờ dạy người tu tập thiền định bằng
quán niệm hơi
thở, quán phình xệp cơ
bụng (Minh Sát Tuệ),
quán niệm Phật nhất
tâm (Tịnh Độ), quán
tri vọng (biết vọng liền buông), niệm chú bắt ấn (Mật Tông), tham công
án, tham thoại
đầu (Thiền Tông), v.v..
Các bạn hãy
xem các pháp
trên đây có phải từ giới luật mà thành định không? Nếu
không phải từ giới luật sinh ra định thì
những pháp thiền định này
là thiền tưởng,
thiền của Bà La Môn, thiền của
các nhà học giả nặn ra.
Tóm lại, muốn
tu tập thiền định của Phật giáo là phải
tu tập giới luật. Tu tập giới luật là có giải thoát ngay liền; tu tập giới luật
là tu tập đạo đức làm Người, làm Thánh;
tu tập giới luật là xây dựng cho mình
một cảnh giới Cực lạc, Thiên đàng ngay tại
thế gian; tu tập giới
luật là tu tập giúp cho thân tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự;
tu tập giới luật là tu tập tâm bất động
trước các pháp
và các cảm thọ,
một trạng thái
Niết bàn thật sự hiện
tiền mà mọi người không ai ngờ được.
5- Thở vô và
thở ra là thân hành. Tại sao hơi thở ra, vô gọi là thân hành?
Hơi thở ra, vô là sự hoạt động tự động của
thân để
tạo thành sức sống của cơ
thể để
tiếp
nhận dưỡng
khí (gió) bên ngoài. Có thở mới có sống, hết thở là chết. Hơi thở là sự hoạt độâng
của thân cũng giống như sự hoạt động đưa tay, đưa chân hay
là chúng ta bước đi
kinh hành. Về thân chúng
ta có thể
chia ra làm hai phần hoạt động:
a) Hoạt động
bên trong thân gồm có: hơi thở, đó là sự
hoạt động về hô hấp (phổi). Mạch máu khắp châu thân đang chuyển tải máu đi, máu
về. Đó là sự hoạt động về tuần hoàn (tim) gan, bao tử, ruột bộ óc
và các tế
bào đều đang hoạt
động trong thân.
Tất cả những
sự hoạt động đó gọi là thân hành
nội.
b) Thân
hành ngoại gồm
có: đi, đứng, nằm,
ngồi, co tay, duỗi
chân, nói nín,
cúi, gật,
v.v..
Cho nên, sử
dụng thân hành nội cũng như thân hành ngoại chỉ tu tập cho tâm được tỉnh thức
mà thôi, chứ nó không phải thiền định gì cả. Nếu lấy hơi thở
nhập định được thì đi kinh hành
cũng nhập định được, hay làm tất cả các công
việc cũng đều nhập định
được sao? Điều này không thể xảy ra được. Do hiểu rõ điều này nên chúng
tôi khẳng định: Đại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông,
Tịnh Độ Tông và tất cả các loại
thiền định ức chế
tâm đều không
nhập
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!