là buông
xả thứ nhất.
Nếu ai muốn
tu tập như Phật
để làm chủ
SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT
mà không sống
như Phật thì khó
có thể làm chủ bốn sự đau
khổ này.
Khi buông xả được như vậy, kế tiếp chúng ta phải chọn lấy một chỗ thanh
vắng yên tịnh
như: một gốc cây có bóng mát, một
đống rơm, một mái nhà tranh, một bụi
tre, v.v... Rồi ở đó một
mình, khi đi, khi đứng, khi
ngồi hoặc khi nằm
đều tập TỈNH
GIÁC, đi thì biết
bước đi, còn nằm,
ngồi hay đứng đều biết hơi thở ra, hơi thở vô. Khi tập tỉnh giác như vậy tâm không còn hôn trầm,
thùy miên, vô ký, ngoan không và vọng niệm thì đây là giai đoạn thứ hai.
Khi tu tập tỉnh
giác được như vậy thì chúng
ta tiếp tục
tu tập trong
bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi đều dùng sức TỈNH GIÁC xả
từng tâm niệm
và các ác
pháp bên ngoài khi chúng tấn công vào thân tâm chúng
ta. Đây là giai
đoạn xả rốt
ráo cho nên phải
dùng pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý, lúc nào cũng
phải nhớ tác ý. Xin quý vị
nhớ lời Phật dạy: “Ý làm chủ, ý tạo
tác, ý dẫn đầu các pháp”, cho nên TÁC
Ý là ý thức không
bị diệt. Khi chúng ta tu chứng đạo thì ý vẫn còn hoạt động
như thường, nhưng
sự hoạt động của
nó bấy giờ
là diệu dụng của tâm thanh
tịnh. Người
chưa có tâm thanh tịnh thì không thể bảo rằng ý thức là diệu dụng được, chỉ có
người tu chứng đạo tâm thanh tịnh thì ý thức bấy giờ là diệu dụng khi người tu
chúng đạo điều khiển nó.
Cho nên pháp
môn nào tu tập mà làm cho ý thức đình chỉ thì
pháp môn đó không phải của Phật giáo, mà của tà giáo.
Như quý vị đều
biết, pháp môn niệm Phật nhất tâm, tham công án, tham thoại đầu, biết vọng liền
buông, v.v... là những pháp ức chế tâm chịu ảnh hưởng tư tưởng
VÔ VI của Lão Trang thuộc
văn hóa Trung
Hoa. Những phương pháp
này tu hành
chẳng làm chủ sinh, già, bệnh, chết, mà chỉ lọt vào
KHÔNG TƯỞNG của thiền Đông Độ, gọi là Phật
Tánh (Tánh Không).
Mười hai
nhân duyên tu tập đến
đây chúng ta đã
làm chủ SINH,
GIÀ, BỆNH, CHẾT. Giảng
đến đây chắc
quý vị đều biết
khi muốn làm chủ
sinh, già bệnh,
chết phải vào cửa nào mới làm chủ
được sự sống chết.
Nhưng chúng
ta cũng cần nghiên cứu thêm để hiểu biết 12 nhân duyên vào cửa nào cũng được,
song có cửa vào được mà ra không được, cho nên chúng ta chỉ nghiên cứu cho biết,
chớ không thể tu tập được, xin quý vị lưu ý. Dưới
đây là những
duyên mà trong kinh Mười Hai Nhân Duyên chỉ dạy cho chúng ta thấy duyên khởi
trùng trùng, hễ có duyên này thì có duyên kia, như trong kinh dạy:
“Từ duyên
GIÀ, BỆNH, CHẾT diệt thì duyên VÔ MINH diệt.
Từ duyên
VÔ MINH diệt
thì duyên
HÀNH diệt.
Từ duyên
HÀNH diệt thì duyên
THỨC
diệt.
Từ duyên
THỨC diệt thì duyên
DANH SẮC diệt.
Từ duyên DANH SẮC diệt
thì duyên
LỤC NHẬP diệt.
Từ duyên
LỤC NHẬP diệt
thì duyên
XÚC diệt.
Từ duyên
XÚC diệt thì
duyên THỌ
diệt”.
Trên đây là
bắt đầu diệt duyên già, bệnh, chết. Diệt duyên
GIÀ, BỆNH, CHẾT tức là diệt duyên CẢM THỌ. Duyên cảm thọ diệt thì
tất cả
11 nhân duyên khác đều bị diệt theo và như vậy một thế giới đau khổ bị diệt,
loài người thoát khổ.
Nhưng muốn vậy
cũng
không phải dễ,
vì muốn diệt duyên cảm thọÏ chúng
ta là người
phải có đầy đủ ý
chí và nghị lực, nếu không
đủ ý chí và
nghị lực thì đừng vào cửa cảm thọ. Nếu
chúng ta không đủ
sức chịu đựng những cơn đau xé ruột,
xé gan thì nên vào các cửa khác,
xin quý vị lưu
ý. Duyên
cảm thọ chỉ có người có
ý chí dũng mãnh kiên
cường, chẳng hề nao
núng trước cái chết và các cảm thọ đau đớn.
DIỆT DUYÊN
SINH
Nếu chúng
ta vào cửa
duyên sinh thì phải buông xả hết như đức Phật. Bởi vì
SINH là đời sống,
do có đời sống nên
con người phải trăm cay, ngàn đắng
khổ đau.
Mười hai
nhân duyên chúng
ta bắt đầu chọn vào duyên sinh để đoạn trừ mọi sự khổ
đau.
Như chúng
tôi đã nói ở trên, ngày xưa đức Phật đã chọn duyên SINH, vì thế Ngài từ bỏ ngai
vàng, cha, mẹ, vợ, con và thân bằng, quyến thuộc, chỉ sống ba y một bát đi xin ăn hằng ngày, nhờ diệt
duyên sinh này mà Ngài mới đoạn tận mọi sự khổ đau. Vậy thế nào là lý DUYÊN
SINH khởi?
Chúng ta hãy
dựa vào lời dạy của Phật mà tham khảo mười hai nhân duyên, khi duyên này khởi
thì duyên kia khởi:
“1- Từ
duyên SINH khởi
GIÀ CHẾT
khởi.
2- Từ duyên
GIÀ CHẾT khởi duyên VÔ MINH khởi.
3- Từ duyên
VÔ MINH khởi
các HÀNH
khởi.
4- Từ các
duyên HÀNH khởi nên THỨC
khởi.
5- Từ
duyên THỨC khởi
DANH SẮC
khởi.
6- Từ
duyên DANH SẮC
khởi LỤC NHẬP khởi.
7- Từ duyên
LỤC NHẬP khởi XÚC khởi.
8- Từ duyên
XÚC khởi THỌ khởi.
9- Từ duyên
THỌ khởi ÁI khởi.
10- Từ duyên
ÁI khởi HỮU khởi.
11- Từ duyên
HỮU khởi THỦ khởi.
12- Từ duyên
THỦ khởi SINH khởi.”
Trên đây
là lý duyên
sinh khởi, nó tập
hợp mọi sự đau khổ của kiếp làm người. Thật khổ thay!
DUYÊN SINH
PHÁP
Thế nào
là lý duyên
sinh pháp? Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Già chết
là pháp hữu vi,
là vô thường,
duyên sanh biến hoại tánh, biến
diệt tánh, ly tham tánh, đoạn diệt tánh. Và tất cả 12 nhân duyên đều là
như vậy.
Này các tỳ kheo,
vị Thánh đệ tử thấy
như chơn với chánh trí tuệ lý duyên khởi
này và
các pháp duyên
sinh này, nên chắc
các vị ấy
không có những
câu hỏi về quá khứ: “Ta
có mặt trong quá
khứ? Ta không có mặt trong quá khứ? Ta là gì trong quá khứ?
Ta có mặt
như thế nào trong quá khứ? Trước ta là gì? Và nay
trong quá khứ ta là gì?”
Về tương lai
cũng vậy, không
có những câu hỏi:
“Ta có mặt
trong tương
lai? Ta không có mặt trong tương lai? Ta sẽ làm gì
trong tương lai? Ta có mặt như thế nào
trong tương lai? Hay trước trong tương
lai ta là gì, và nay trong tương lai ta sẽ là gì?”
Hay nay
các vị ấy sẽ khởi
lên những nghi ngờ về tự
mình trong hiện tại như sau: “Ta hiện có mặt? Ta hiện không có mặt? Ta hiện là
gì? Ta hiện
có mặt như thế nào?” Sự kiện như vậy không xảy ra? Vì sao? Vì rằng vị
Thánh đệ tử,
này các tỳ kheo,
đã khéo thấy
như chơn với chánh
trí tuệ, định lý
duyên khởi này, với các pháp DUYÊN SINH này, thì không
bao giờ có những câu hỏi ngớ ngẩn như trên,
không bao giờ
có những câu hỏi
điên đảo như trên”. (53 Tương Ưng tập 2)
Khi đã hiểu
lý DUYÊN KHỞI với các pháp DUYÊN SINH, thì chúng ta không
còn nghi ngờ đặt ra những câu hỏi ngớ ngẩn mà từ xưa đến nay người ta đã đặt
ra, những câu hỏi mà không có câu trả lời:
“Con người từ đâu sinh ra? Chết đi về đâu?”
Câu hỏi được
đặt ra với những người thông suốt
12 nhân duyên
đều biết ngay
họ là những người đang sống
trong VÔ MINH.
Bởi con người
có mặt trong cuộc sống hôm nay là do 12 nhân duyên hợp khởi, chứ không có kiếp
người trong quá khứ, cho nên nếu chúng ta
hỏi: “Ta có mặt trong quá
khứ? Ta không có mặt trong quá
khứ? Ta là gì trong quá khứ? Ta có mặt như thế nào trong
quá khứ? Trước ta là gì? Và nay trong quá khứ ta là gì?” Vì hỏi như vậy tức là
không hiểu 12 nhân duyên.
Khi hiểu 12
nhân duyên thì trong quá khứ chúng ta chẳng có gì cả, tức là không có đời trước. Cho
nên nói có đời trước
là người không hiểu 12 nhân
duyên. Đời trước tôi là Khổng Minh Gia Cát Lượng, đời sau tôi là Trương Lương,
v.v... Đó là những người sống trong TƯỞNG TRI
chứ không phải sống trong LIỄU TRI.
Khi ngộ được
12 nhân duyên thì không có kiếp trước mà chỉ có kiếp hiện tại mà thôi.
Khi ngộ
12 nhân duyên
thì chúng ta không
có những câu hỏi: “Ta
có mặt trong tương lai? Ta
không có mặt
trong tương lai? Ta sẽ làm gì trong tương lai? Ta có mặt như thế nào
trong tương lai?
Hay trước trong tương lai ta là gì, và nay trong tương
lai ta sẽ là gì?” Có những câu hỏi như vậy là chúng ta trở thành
những người ngớ ngẩn chưa hiểu
12 nhân duyên.
Vì 12 nhân duyên
xác định con người chỉ do 12 nhân
duyên hợp lại mà thành trong kiếp
hiện tại. Cho
nên trong tương lai chúng ta chẳng
có gì cả.
Trong hiện tại
chúng ta có mặt, có cuộc sống như thế
này mà 12
nhân duyên hỏi rằng:
“Ta hiện có mặt? Ta hiện không
có mặt? Ta hiện là gì? Ta hiện có mặt như thế nào?” Hỏi như vậy là những
người chưa am tường 12 nhân duyên.
Vì 12 nhân duyên
đã xác định chúng ta có mặt trong hiện tại là do các duyên
hợp lại mà
thành, chớ không
có cái gì là chúng ta
cả. Cho nên nếu
không có
12 nhân
duyên hợp lại
thì không có
con người trên hành tinh này.
Như vậy, con người có mặt trên hành tinh này chỉ
là con người
duyên hợp, chớ con
người thật là
con người thì không
bao giờ có.
Đó là đôi mắt nhìn của
đức Phật
qua 12 nhân duyên, còn
chúng ta nhìn với
đôi mắt VÔ
MINH nên có con
người thật trong hiện tại, quá khứ và vị lai.
BỐN CỬA VÀO
ĐẠO
Có bốn cửa vào để phá
vòng tròn MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN. Phá vòng tròn 12 nhân
duyên tức là diệt thế giới quan đau khổ
của con người. Vì thế, mọi người
phải tùy theo đặc
tướng và hoàn cảnh của
mình để chọn lấy
một cửa mà
vào, để cứu
mình ra khỏi sinh, già, bệnh, chết
và chấm dứt luân hồi.
Cũng vì lẽ
đó mà đức Phật giảng dạy mười hai nhân duyên xong, Ngài kêu gọi mọi người hãy
tinh tấn dõng mãnh tu tập để chứng đạt chân lý giải thoát: “Này các tỳ kheo! Với
pháp được Ta khéo thuyết, hiện thị, hiện
lộ các buộc ràng được cắt đoạn. Chắc chắn
dù chỉ còn lại da,
gân và xương trên
thân; dù thịt
máu trở thành
khô cạn, mong rằng
tinh tấn lực, sẽ được kiên
trì để chứng đắc những gì
chưa
chứng đắc,
nhờ trượng phu lực, nhờ trượng phu tinh
tấn, nhờ trượng phu cần dõng. Và như vậy toàn bộ khổ uẩn này bị đoạn diệt”.
Đúng vậy,
nếu khi hiểu
biết 12 nhân duyên thì phải đem hết sức lực ra tu
hành đừng nên biếng
trễ, vì cuộc sống của
con người chẳng có
gì, chỉ là một chuỗi
nhân duyên tạo ra muôn
thứ khổ đau mà
không phải mình làm hay người khác làm. Tại có duyên này
thì có duyên kia,
có duyên này có
duyên kia hợp thành con người khổ.
Nếu không bẻ
gãy 12 nhân duyên này thì không làm sao thoát khổ. Bẻ gãy 12 nhân duyên tức làm
cho chúng không còn hợp lại được nữa. Làm cho chúng không còn hợp lại được nữa
thì có đầy đủ ý chí dũng mãnh kiên cường
bằng cách giữ
gìn tâm BẤT
ĐỘNG trước các ác pháp và từng tâm niệm của mình từng phút giây đang khởi
lên liên tục.
Một lần nữa
chúng tôi xin nhắc lại quý vị nhớ lời dạy trên đây của đức Phật: “Này các Tỳ
kheo! Với pháp được Ta khéo thuyết, hiện thị,
hiện lộ các buộc ràng
được cắt đoạn. Chắc
chắn dù chỉ
còn lại da,
gân và xương trên
thân; dù thịt
máu trở thành
khô cạn, mong rằng tinh tấn lực, sẽ được
kiên trì để
chứng đắc những
gì chưa chứng đắc, nhờ trượng phu lực, nhờ trượng phu tinh tấn, nhờ trượng phu cần dõng.
Và như vậy
toàn bộ khổ uẩn này bị đoạn diệt”.
Loài người
trên hành tinh này
chịu nhiều khổ đau là vì không siêng năng, luôn luôn sống trong ác pháp
và các dục, đui mù không thấy SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT
là bốn sự khổ
đau lớn của con người,
vì thế mà để cho thời gian
trôi qua mà không
hề có chút
tiếc rẻ. Trong khi đức Phật thường dạy:
“Tấc bóng thời
gian, một tấc vàng Tấc vàng tìm được
không gì khó, Tấc bóng thời gian khó hỏi
han”
Đức Phật thường
trách những người lười biếng không chịu tu
tập làm chủ
sinh, già, bệnh, chết:
“Khổ thay!
Này các tỳ kheo, là người sống biếng nhác, dính đầy các ác pháp bất thiện, và mục
đích lớn làm chủ sinh, già, bệnh, chết
bị suy giảm,
nên con người phải chịu nhiều
đau khổ. Thật thương thay!”
Và thường ca
ngợi những ai siêng năng tu hành:
“An lạc
thay! Này các
tỳ kheo, là những
người sống tinh
cần, tinh tấn, viễn
ly các ác bất thiện
pháp, và mục đích lớn làm chủ sinh, già, bênh, chết được
viên mãn!” (57 Tương Ưng tập 2)
Nếu thông suốt
12 nhân duyên mà không siêng năng tu tập, viễn ly các ác bất thiện pháp, thì làm
sao gọi là người
thông suốt 12 nhân
duyên. Thông suốt
12 nhân duyên không phải là đi thuyết giảng, để dối
gạt người, mà thông suốt 12 nhân duyên là siêng năng cần mẫn ngăn ác, diệt các
bất thiện pháp, để chứng đạt tâm VÔ LẬU hoàn toàn.
SỐNG TRONG HẠ
LIỆT KHÔNG THỂ CHỨNG ĐẠT
CÁI CAO THƯỢNG
Trong con đường
tu tập theo Phật giáo, điều quan trọng nhất là phải sống đúng giới luật, vì giới luật
là đời sống
cao thượng. Người tu sĩ sống phạm
giới luật là người tu sĩ không có đời
sống cao thượng,
do đó họ không bao giờ tu chứng đạo. Vì chứng đạo
là tâm phải BẤT ĐỘNG. Tâm bất động là tâm không phạm giới. Đức Phật thường
nhắc nhở chúng ta tu tập phải sống đúng
giới luật: “Này các thầy tỳ
kheo! Không phải với
cái hạ liệt có thể đạt cái cao thượng”.
Đúng vậy, đức
Phật đã xác định rõ ràng: Một người sống trong hạ liệt mà muốn chứng trong cái
cao thượng thì không thể nào chứng đạt được. Vậy sống trong hạ liệt là sống như
thế nào?
Sống hạ liệt
là sống chạy theo dục lạc thế gian, tâm còn đầy tham, sân, si, mạn, nghi;
tâm chưa sống ly dục
ly ác pháp, mỗi
chút mỗi phiền não giận hờn khổ đau; tâm
còn ham muốn cái
này cái kia, hằng
ngày tâm còn phóng dật, thấy cái
này cái kia đều muốn nhìn ngó lưu ý thì
làm sao chứng đạt được cái cao thượng được.
Cho nên quý
thầy, quý cô tu tập thì tốt, nhưng không chứng đạo là hay nhìn ngó ra
ngoài. Tại sao quý
thầy, quý cô
không nhìn ngó vào thân tâm của
mình, mà lại nhìn ngó ra ngoài. Nhìn ngó ra ngoài có ích lợi gì?
Khi quyết tâm tu tập để làm chủ sinh, già, bệnh,
chết, thì hãy nhìn vào
thân tâm của mình để làm chủ nó,
nếu nó làm sai hay làm đúng
thì chúng ta đều biết
liền. Biết sai thì ngăn
chặn lại không
làm theo; biết đúng
thì tăng trưởng và
làm theo cho thân
tâm mỗi ngày một tốt
hơn. Nhờ chúng ta biết tập sống như vậy, nên từ chỗ sống
hạ liệt trở thành thanh cao, còn nếu không biết sống như vậy thì từ cái hạ liệt sẽ mãi
mãi sống trong cái hạ liệt. Cho nên đức Phật mới dạy như vậy: “Sống trong hạ liệt
không thể chứng đạt cái cao thượng”. Dù chúng ta muốn
tu chứng đạt
giải thoát mà cứ sống trong hạ liệt thì tu vô lượng kiếp cũng chẳng đi đến đâu.
SỐNG TRONG
CAO THƯỢNG
MỚI CHỨNG ĐẠT
CÁI CAO THƯỢNG
Như chúng ta đã từng biết, giới luật đức hạnh là
pháp môn tu tập hàng đầu trong Phật giáo, người sống giới luật đức hạnh
là người sống trong
cao thượng. Có sống
trong cao thượng thì chúng
ta mới
giữ gìn tâm bất động
dễ dàng, còn sống
phạm giới thì không bao giờ giữ
gìn tâm bất động được.
Do tâm BẤT ĐỘNG mới làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT.
Cho nên đức
Phật đã dạy rõ ràng: “Này các thầy tỳ kheo! Phải sống với cái cao thượng mới đạt
được cái cao thượng”. Đúng vậy, sống
trong cao thượng mới chứng
cái cao thượng.
Sống trong
cao thượng là sống đúng Phạm hạnh của Phật giáo, tức là sống thiểu dục tri túc,
chỉ còn ba y một bát, tất cả đều buông xả sạch, không còn để tâm thương hay
ghét, không còn ái kiết sử trói buộc, không còn người thân kẻ sơ, không còn tài
sản lớn tài sản nhỏ, không còn tiền để dự phòng trong cuộc sống
hay đau ốm,
không còn đất
đai ruộng vườn, không còn nhà cửa lớn nhỏ, phải sống như đức Phật
chỉ còn ba y một
bát, đi xin ăn hằng ngày mà thôi.
Người sống
được như vậy mới gọi là cao thượng, như đức Phật đã từng ca ngợi và tán
thán phạm hạnh
này: “Đáng được
tán thán, nầy các thầy Tỳ
kheo! Là phạm hạnh với sự có mặt của bậc Đạo Sư. Do vậy, này
các thầy Tỳ
kheo, hãy tinh tấn lên
để chứng đạt những gì chưa
chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ”. (57 Tương Ưng tập 2)
Quý vị có
nghe lời đức Phật dạy trên đây không? Đó là những lời dạy về lối sống cao thượng.
Sống cao thượng như đức Phật đã xác định rõ ràng: “Là phạm hạnh với sự có mặt của bậc Đạo Sư”.
Có phải chăng
lời dạy này là
chỉ cho sự “THÂN
CẬN THIỆN HỮU
TRI
THỨC”? Nhờ
thân cận thiện
hữu tri thức để thấy được những gì? Không phải là để nhìn
thấy những hành động Phạm hạnh sống của bậc thiện hữu tri thức sao?
Phạm hạnh
của đức Phật
như thế nào?
- Ăn không
phi thời.
- Ngủ không
phi thời.
- Sống độc
cư, phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, và ý của mình.
- Đi đứng nhẹ
nhàng, lời nói ôn tồn nhã nhặn, tức là những oai nghi chánh hạnh.
Người giữ
gìn bốn hạnh này là người sống cao thượng. Người sống cao thượng mới chứng đạt
pháp cao thượng. Pháp cao thượng của Phật
giáo không có gì
cao thượng cả, mà rất
cao thượng chỉ vì con
người sống trong
thế gian không làm được.
1- Điều
thứ nhất: Con
người thế gian ham
ăn, ăn ngày
ba bữa còn ăn
đêm. Ngược lại, người sống trong
pháp cao thượng của Phật giáo thì không tham ăn, ăn ngày một bữa.
2- Điều thứ
hai: Con người thế gian ham ngủ, lúc
nào ngủ cũng
được. Ngược lại,
người
sống trong
pháp cao thượng của Phật giáo thì không
tham ngủ, thường
tu tập tỉnh
thức, sống trong tâm bất động.
3- Điều thứ
ba: Con người thế gian ham tiền bạc nhiều, ham nhà cửa cao sang đẹp đẽ, ham xe
cộ này xe cộ khác. Ngược lại, người sống trong pháp cao thượng của Phật giáo
thì không ham tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, thường buông xả hết, chỉ
còn sống ba
y, một bát hằng
ngày đi xin
cơm một bữa để sống
tu tập.
4- Điều thứ
tư: Con người thế gian
ham uy quyền, lúc nào
cũng muốn ra oai,
la lối, nạt nộ chửi mắng
người khác. Vả lại còn muốn ăn trên ngồi trước không ai hơn mình. Ngược lại,
người sống trong
pháp cao thượng của Phật
giáo thì không tham
uy quyền, mà chỉ muốn làm một người
thấp nhất trong xã hội (người ăn mày).
5- Điều thứ
năm: Con người thế gian hay giận hờn, phiền não, lo sợ: lo đói, lo sợ trộm cướp, chiến
tranh, lo sợ con cái
nghèo khổ, v.v... Ngược lại, người
sống trong pháp cao thượng của Phật
giáo thì không giận hờn, ai chửi
mắng thì tha thứ
thương yêu, không ghét ai, nhất là không lo sợ một thứ gì
cả.
6- Điều thứ
sáu: Con người thế gian tâm ưa thích
dâm dục, nên lớn lên đều lấy vợ gả chồng,
nhưng người ta
đâu biết rằng
đó là con đường khổ của thế
gian, nối tiếp từ đời này
đến đời khác
mãi mãi khổ
đau, thế mà sinh ra
làm người ai
cũng ưa thích,
v.v... Ngược lại, người
sống theo pháp
cao thượng của Phật giáo
thì tránh xa dâm dục, thấy dâm dục như thấy rắn độc, một khi đã bị nọc độc rắn dâm dục cắn thì suốt đời phải
chịu khổ đau.
Cho nên
dâm dục là
con đường sinh tử
luân hồi, con đường bất tịnh, uế trược, tràn đầy đau khổ, không đi vào con đường
này thì thôi, mà hễ đi vào con đường này thì khổ đau ngút ngàn. Hỡi quý vị có
trí tuệ hãy tránh xa. Ở xa tưởng nó
là hạt kim cương, nhưng khi đến gần thì nó là giọt nước mắt đấy quý vị
ạ!
Sáu điều
trên đây nếu
người nào muốn sống
một đời sống
cao thượng thì hãy tránh xa sáu điều này, đó là sáu điều hạ liệt.
Có tránh xa sáu điều hạ liệt
trên thì đời sống mới cao thượng theo đúng đường lối của
Phật giáo. Nhờ có sống cao thượng như vậy mới chứng được pháp cao thượng.
Người ta đừng
hiểu sai là tu theo đạo Phật phải
buông bỏ hết,
không còn có một vật gì
còn dính
trong thân tâm, phải trống không, không ngơ. Đó là hiểu sai, người đi tu theo
Phật giáo sống thiểu dục tri túc, chỉ còn ba y một bát mà thôi, đó là những vật
dụng cần thiết cho một người tu hành giải thoát. Nhờ sống như vậy nên
làm chủ được cái
ăn, cái ngủ và
cái sống một
mình. Cho nên, tất cả
ngũ dục
lạc thế gian đều buông
bỏ xuống sạch, không còn một chút
xíu nào dính trong tâm. Chúng ta lắng
nghe đức Phật dạy: “Sự xuất gia này của chúng ta sẽ không phải trống không. Có kết
quả, có thành tích. Và những vật dụng chúng
ta thọ dụng như y phục, đồ ăn khất
thực, thuốc trị bệnh, dầu cho những thứ này là khiêm tốn, đối với chúng
ta sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn”. (57 Tương Ưng tập 2)
Lời dạy
trên đây rất
rõ ràng, vì
y phục vừa đủ để thay đổi mặc hằng ngày,
không thừa dư một y áo nào cả, và đồ ăn khất thực vừa đủ ăn ngày một bữa
để sống rất là khiêm tốn, nhưng xét lại người
sống được như vậy
thì quả là giải thoát, lợi ích rất lớn mà người thế gian không thể sánh được.
Khi chúng ta
sống được như vậy thì hãy lắng nghe đức Phật dạy tiếp: “Này các thầy tỳ kheo,
thấy được tự lợi là vừa đủ để
tinh tấn không
phóng dật. Hay
này các thầy tỳ
kheo, khi thấy lợi
tha là vừa đủ để
tinh tấn không phóng
dật, hay này các
thầy tỳ kheo,
thấy lợi cả hai
là vừa đủ để
tinh tấn không phóng
dật”. (58
Tương Ưng tập
2)
Lời dạy
trên đây giúp
chúng ta biết pháp tu hành rất dễ dàng. Khi sống đời sống cao thượng như vậy thì điều
cần thiết là phải
siêng năng sống KHÔNG PHÓNG DẬT.
Khi
siêng năng tinh cần
tu tập giữ
gìn tâm không phóng dật thì lậu hoặc sẽ bị đoạn diệt. Vì thế, những người
này là người sáng suốt minh mẫn. Cho nên đức Phật dạy: “Này các thầy tỳ kheo, đối
với người biết, đối với người thấy, Ta
nói các lậu hoặc được đoạn diệt không
phải đối với
người không thấy, không
biết”. (58 Tương
Ưng tập 2)
Người có trí
tuệ mới
sống không phóng dật, còn những người không trí tuệ thường
sống tâm phóng dật, thấy điều gì ưa thích thì chạy theo
điều ấy, khiến
cho cuộc sống bất an. Người
có trí tuệ là người biết
tìm sự giải thoát nơi thân tâm mình,
còn người không trí tuệ thì không biết
tìm giải thoát, cho nên cứ đắm mê ngũ dục lạc, vì vậy cuộc đời luôn
luôn sống
trong khổ đau. Do đó đức Phật dạy: “Trong
đoạn diệt ấy,
phải có trí
tuệ đoạn diệt. Ta
nói rằng trí tuệ
ấy có duyên không phải không có
duyên”.
Để xác định
làm sáng tỏ điều này, để mọi người triển
khai tri kiến giải thoát
mà trong kinh Phật thường dạy là tu tập. Chính tu tập là triển khai tri kiến giải thoát của
mình chứ có tu tập cái gì đâu, điều mà
người ta lầm tưởng là ngồi thiền lâu tâm sẽ sinh trí tuệ, sự thật là
không phải vậy.
Ngồi thiền lâu mà
tâm bất động do xả tâm ly dục ly ác pháp bằng phương pháp dẫn tâm, thì làm chủ
thân bệnh chứ không phải sinh trí tuệ. Trí tuệ giải thoát là do
huân tập
sự hiểu biết
giải thoát, từ đó
chúng ta ly tham,
sân, si, mạn,
nghi đều bằng tri kiến hiểu biết này. Cho nên chúng ta hãy nghe đức Phật
dạy về nhân duyên: “Từ duyên
của Trí Tuệ về Đoạn
diệt là gì? Giải Thoát là câu trả lời”.
Đúng vậy, muốn
đoạn diệt sự khổ đau của kiếp người thì phải
bằng trí tuệ. Vậy
trí tuệ phải hiểu biết cái gì mới đoạn diệt khổ đau?
Trí tuệ phải
hiểu biết cái gì làm cho con người khổ đau. Khi
trí tuệ của chúng ta
biết rõ cái gì làm cho đau khổ thì chúng ta lìa xa, hoặc từ bỏ hay đoạn diệt.
Có lìa xa, hay từ bỏ
hoặc đoạn diệt
thì chúng ta có giải thoát liền. Cho nên từ duyên trí tuệ về đoạn diệt là giải
thoát, như lời đức Phật đã dạy ở trên. Chúng ta
hãy nghe tiếp đức Phật dạy từ bỏ hay
lìa xa hoặc đoạn diệt
cái gì để được
giải thoát: “Từ duyên
của Giải Thoát
là gì? Ly Tham là câu trả lời”.
Muốn thoát mọi
sự khổ đau trong cuộc đời thì chỉ
có lìa xa, hay
từ bỏ, hoặc
đoạn diệt tâm tham thì giải thoát
ngay liền.
Đúng vậy, nếu
không đoạn diệt tâm tham thì không bao giờ có giải thoát, muốn đoạn
diệt tâm
tham thì trước tiên
phải xa lìa tâm tham, có nghĩa là tâm tham khởi lên ham
muốn một điều gì thì không nên làm theo.
Vậy chúng ta
hãy nghe tiếp đức Phật dạy duyên ly
tham: “Từ duyên
Ly Tham là gì? Yểm Ly là câu trả
lời”.
Đúng vậy,
trước khi muốn
lìa tâm tham thì phải
chế ngự tâm
tham, làm cho
tâm tham yếu đi mà đức Phật gọi là yểm ly. Yểm ly có nghĩa là đầu tiên
chúng ta khởi ham muốn một điều gì thì
hãy mau mau dừng lại, không được làm theo hay chạy theo. Không làm theo,
không chạy theo bằng trí tuệ
như trên đã dạy.
Chúng ta
tiếp tục nghe
đức Phật dạy duyên
yểm ly: “Từ
duyên Yểm Ly
là gì? Tri kiến Như Chơn là câu trả lời”.
Đúng như lời
đức
Phật dạy, muốn yểm ly thì phải
dùng tri kiến hiểu
biết nhân quả, hiểu biết các pháp vô thường, hiểu biết
các pháp không có
pháp nào là
ta là của
ta, là bản ngã của ta, và hiểu biết
cái nào đúng cái nào sai; kế đó còn phải hiểu biết cái nào là chân lý và cái
nào không phải là chân lý. Bởi danh từ như
chơn của Phật
dùng nơi đây chúng ta
phải hiểu nghĩa. NHƯ
CHƠN ở đây có nghĩa là TÂM BẤT ĐỘNG. Tâm bất động là
thiền định. Cho
nên đức Phật
dạy: “Từ duyên của
Như Chơn là
gì? Định là câu
trả lời”.
Đúng vậy,
như chơn tức là định, mà ĐỊNH là TÂM BẤT ĐỘNG. Khi
tâm bất động không còn niệm vọng tưởng và hôn trầm thùy miên vô ký xen
ra, xen vô thì tâm sẽ có một niềm vui an lạc. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ
duyên của Định
là gì? Lạc là
câu trả lời”.
Đúng vậy,
khi tâm có ĐỊNH
thì phải có LẠC. Tâm
có định mà
không có an lạc thì định
đó không phải
là định của Phật giáo. Khi tâm
có an lạc thì thân
tâm phải có cảm
giác khinh an.
Khinh an có
nghĩa là thân tâm
khi có định
thì thân tâm
phải nhẹ nhàng và an ổn. Cho nên
đức Phật dạy có duyên định thì
phải có duyên
khinh an, không bao giờ có định
mà không có khinh an, cho nên định có là khinh
an có, đó là
duyên của chúng không thể
tách lìa ra được.
Có an lạc là phải có
khinh an. Chúng ta hãy lắng
nghe đức Phật dạy:
“Từ duyên của Lạc là gì? Khinh An là câu trả lời”.
Đúng vậy,
duyên của LẠC là phải có duyên của KHINH AN, nếu thân tâm có niềm vui thì phải
có khinh an, đó là các duyên theo pháp duyên khởi mà không thể tách lìa chúng
ra được, cho nên nó thuộc về 12 nhân
duyên, vì vậy đức Phật dạy các
pháp duyên khởi rất
cẩn thận và kỹ càng không bỏ sót một duyên nào cả. Chúng ta hãy lắng nghe đức
Phật dạy tiếp: “Từ duyên
của Khinh An là
gì? Hỷ là câu trả lời”.
Đúng vậy,
khi thân tâm có cảm giác
nhẹ nhàng an ổn thì rất
vui mừng. Sự
vui mừng này đức Phật gọi
là HỶ. Hỷ
là niềm vui,
khi có niềm vui
thì phải có tâm
HÂN HOAN, cho nên đức Phật dạy: “Từ duyên của Hỷ là gì?
Hân Hoan là câu trả lời”.
Đúng vậy,
hân hoan là lòng rất vui mừng
giống như
người đi xa về gặp lại những người thân. Do đâu mà có lòng hân hoan ấy? Như
trên đã
nói, người đi
xa lâu ngày gặp lại nhau,
hay chúng ta tin
vào khả
năng của mình sẽ
làm nên một
sự nghiệp to lớn,
nhưng khi làm được một việc gì lợi ích
và tốt đẹp cho mình và cho người thì
lòng hân hoan phải có. Để
xác định rõ điều này
chúng ta hãy nghe
đức Phật dạy:
“Từ duyên của Hân
Hoan là gì?
Lòng Tin là câu trả
lời”.
Đúng vậy,
khi có lòng hân
hoan như vậy là nhờ
lòng tin của chúng
ta biết chắc
khả năng của mình
làm nên sự sự nghiệp
to lớn, mà nay
đã làm nên sự nghiệp
to lớn thì chúng ta phải hân hoan. Có những điều
trong cuộc sống chúng ta không biết, nay có người chỉ cho chúng ta biết như thật
thì lòng tin tưởng rất mãnh liệt.
Từ xưa chưa có
ai nói cho chúng
ta biết SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT là khổ. Hôm nay có người chỉ
cho chúng ta biết đó
là bốn sự đau khổ
của kiếp người
mà không ai
tránh khỏi. Khi biết rõ
như thật thì chúng
ta khởi lòng tin tuyệt đối,
không có cái
gì làm thay đổi
lòng tin này được.
LÒNG TIN xuất
phát từ sự giác ngộ một sự
thật. Biết
rõ được sự thật như vậy thì lòng HÂN HOAN
không thể có bút mực nào nói lên hết
được. Xưa chưa ai chỉ
cho chúng ta biết khổ
như thật, thì nay chúng ta rất
vui mừng vì chúng
ta sẽ diệt
chúng, làm cho
chúng không còn sinh
khởi được nữa.
Vì vậy chúng ta hãy
tiếp tục nghe
đức Phật dạy:
“Từ duyên của Lòng
Tin là gì? Khổ là câu
trả lời”.
Khổ là những
nỗi buồn, lo lắng, sợ hãi, thương ghét, giận hờn, nhớ nhung, mong chờ, v.v...
Đó là do có một cuộc sống, trong cuộc sống có những người thân thương và những
người không ưa thích, có những vật chất ưa thích và những
vật chất
không ưa thích. Tất cả những điều gọi chung là KHỔ.
Đúng vậy, từ lâu
chúng ta chưa có
ai dạy về khổ, bây giờ được dạy về
khổ, đó là một sự thật mà không ai dám phủ nhận. Có ai dám bảo rằng SINH, GIÀ,
BỆNH, CHẾT là không khổ? Như trên đã nói, khổ là do có cuộc sống. Chúng ta
không tin thì hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Khổ là gì? Sanh là câu
trả lời”.
Đúng vậy,
sanh có nghĩa là
đời sống của con người, nếu con người không có ĐỜI SỐNG thì làm sao có KHỔ.
Trên thế
gian này không
ai là không
có đời sống. Vậy đời sống
do đâu mà có.
Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Sanh là gì? Hữu là câu trả lời”.
Đúng vậy, nếu
không có của cải tài sản, nhà cửa, ruộng
vườn, đất đai,
vợ con và những người thân, quyến thuộc, anh em bạn
hữu thì làm sao có KHỔ. Do chúng ta có và có rất nhiều,
cho đến những
vật ném bỏ vào
đống rác
mà chúng ta còn cố giữ lại thì trên đời
này có vật gì
mà chúng ta bỏ. Do
chúng ta không biết
buông xả nên
chúng ta mới chịu biết
bao nhiêu thứ khổ
đau. Cho nên chúng ta có vật gì thì không bao giờ muốn
bỏ, cố giữ lại, giữ lại cho đến khi cái
nhà ở trở thành cái nhà
kho, hay đúng
hơn là cái thùng rác. Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy:
“Từ duyên của Hữu là gì? Thủ là câu trả lời”.1
Đúng vậy, nếu
HỮU có nghĩa là CÓ thì những vật chất mà chúng ta có được là do duyên hữu,
nhưng nếu chúng
ta có mọi vật
nhưng chúng ta đừng có giữ lại thì làm sao có
1- Thông
thường, trong thứ tự các
duyên theo
chiều xuôi
thì Hữu
→ Thủ,
còn theo chiều
ngược là
Thủ
→ Hữu.
Nhưng 12 Nhân Duyên
không cố định,
chết cứng mà
có sự linh động của nó. (Đoạn kinh này
trình bày thứ tự các duyên theo chiều ngược)
THỦ. Cho nên
Phật pháp dạy
không sai, nó là
duyên, nếu duyên
này có thì duyên
kia phải có, không
thể làm sao không
có được. Cho nên chúng
ta sống không
có duyên hữu thì
làm sao có
duyên thủ. Chính
vì có duyên hữu mới có duyên thủ.
Những điều trên đây là do chúng ta không biết pháp môn TÁC Ý để phòng hộ sáu
căn, nên khi vật chất đến là chúng
ta dính mắc, cố chấp,
giữ gìn, bảo thủ
làm của riêng
của mình. Vì vậy
duyên hữu có thì duyên
thủ có, vì hữu thủ có đủ nên chúng
ta đang ở
trong mê hồn trận
mà không
biết lối nào
mà ra. Pháp 12 nhân duyên rất tuyệt vời, khi duyên này có
thì duyên kia có theo, mà khi có theo
như vậy là
12 nhân duyên
đều hiện đủ. Mười hai
nhân
duyên đều hiện đủ thì
một thế
giới khổ đau hiện bày.
Khi
duyên thủ có thì
không phải tới
đây nó chấm dứt mà nó
phải có
duyên khác nữa, chúng ta hãy lắng
nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Thủ là gì? Ái là câu trả lời”.
Nếu duyên thủ
có thì duyên ái dục có. Bởi vì có giữ lại
thì phải có ưa thích,
nếu không ưa thích thì làm
sao chúng ta cố giữ lại làm gì, cho nên khi có giữ lại thì phải có ưa thích. Do đó trong
kinh dạy: “Có duyên thủ thì phải
có duyên
ái”.
Đúng vậy, nếu
không ưa thích (ÁI) thì làm sao
chúng giữ gìn bảo thủ
(THỦ) lại cho mình.
Bảo thủ giữ
gìn lại cho
mình là vì chúng ta
ưa thích hưởng thụ những vật chất
đó. Hưởng thụ tức là THỌ DỤNG.
Chính vì con người ưa thích hưởng
thụ mà đành chịu muôn ngàn thứ khổ đau trong
kiếp sống làm người. Từ duyên ái có thì duyên thọ có,
đó là một qui luật của 12 nhân
duyên không làm sao bảo rằng không có được. Cho nên cứ
theo
12 nhân
duyên thì những khổ đau của con người mở ra theo
lối nào chúng ta
cũng biết rất rõ. Học 12 nhân duyên
rất có lợi
cho đời sống của chúng ta. Khi chúng ta bị rơi vào duyên nào
thì biết ngay, khi
biết chúng ta TÁC Ý không để thân tâm dính vào duyên đó,
nhờ đó mà chúng ta thoát khổ, không bị một ác pháp nào sai khiến hay tác động
vào tâm chúng ta được.
Muốn biết và
đủ lòng tin với pháp môn này, không gì hơn là chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Từ duyên của Ái là gì? Thọ là câu trả lời”.
Đúng vậy, vì
hưởng thụ những vật chất đó nên chúng ta thường cảm nhận thích thú. Bởi vậy, muốn
có cảm thọ
thì phải có sự xúc
chạm.
Ví dụ: Muốn thưởng
thức một miếng
ăn ngon thì chúng ta phải ăn thực phẩm đó. Khi món ăn đó gia chạm vào miệng
lưỡi thì chúng ta mới cảm nhận món ăn ngon hay dở. Cho nên những cảm thọ là
nhờ có xúc chạm,
nếu không có XÚC CHẠM thì CẢM
THỌ không biết gì cả.
Ví dụ: chúng
ta lấy tay sờ vào chiếc nệm mới mua thì biết ngay chiếc nệm mềm và êm ái. Đó là
do tay của chúng ta xúc chạm vào nệm. Cho nên, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Từ duyên của Thọ là
gì? Xúc là câu trả lời”.
Xúc là sự va
chạm, nên khi có cảm
thọ là phải có sự va chạm (xúc). Sự VA CHẠM càng nhiều thì CẢM
THỌ càng lớn.
Người tu sĩ Phật
giáo biết như vậy, nhưng
khi va chạm với mọi vật thường
cảnh giác tác
ý: “Các pháp là vô thường, là khổ
đau, là nhân quả. Hãy ra khỏi thân
tâm ta. Chúng ta không chấp
nhận một pháp
nào cả. Hãy
đi, đi! Ở đây
chỉ có tâm BẤT ĐỘNG, THANH
THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ”.
Cho
nên, nếu
không có sự CẢM THỌ
thì làm sao phải có sự ƯA
THÍCH THAM ĐẮM, cho nên sự xúc chạm
là một điều quan trọng,
vì vậy người
tu hành cần phải quan tâm lưu ý SÁU CĂN đừng XÚC CHẠM với SÁU TRẦN mà sinh ưa
thích, dính mắc, chấp đắm. Do không đề
phòng sáu căn và sáu trần xúc chạm với nhau nên con người phải chịu khổ vô cùng
vô
tận.
Chúng ta
hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Từ duyên của Xúc là
gì? Sáu Xứ là câu trả lời”.
Đúng vậy,
do XÚC CHẠM của
SÁU XỨ nội và ngoại
nên mới có thân tâm của con người mà đức Phật gọi là DANH SẮC. Bởi vậy
danh sắc không ngoài sáu xứ nội và ngoại mà có được. Vạn vật trong vũ
trụ do xúc chạm
theo
12 nhân
duyên này mà thành lập vũ trụ. Cho nên trong vũ trụ hiện giờ các duyên đều xúc
chạm, do
đó mới có sự sinh
diệt liên tục không bao giờ dứt.
Cho nên
khi giác ngộ
12 nhân duyên, chúng
ta không tin có
một đấng vạn
năng, một ông Ngọc Hoàng Thượng Đế hay một vị Trời nào
sáng tạo ra vũ
trụ cả. Những
đấng ấy toàn là tưởng tri của
con người dựng lên, chớ chưa từng có một người nào trên thế
gian này trực tiếp gặp các
Ngài. Chỉ có những
người ợ ợ, ngáp ngáp, lên đồng nhập xác như các phù thủy để lừa đảo con người bằng
tưởng
thức, xây dựng
một thế giới siêu hình đầy đủ những hồn
ma người chết,
đầy đủ những Thần, Thánh, Tiên, Phật, Quỷ, Ma,
v.v...
Khi
thông suốt 12 nhân
duyên, không ai có thể gạt chúng ta rằng có các cõi Trời,
cõi Cực Lạc. Bởi do thông suốt 12 nhân duyên, nên đức Phật dạy: “33 cõi Trời là
tưởng tri chớ không phải liễu tri”.
Khi
thông suốt 12 nhân
duyên rất có lợi,
vì biết rõ vạn vật sinh
ra do đâu mà có,
con người sinh ra từ đâu đến và chết đi về đâu, có linh hồn hay không có
linh hồn, còn có sự sống sau khi chết hay
không? Thế giới
vô hình có hay
không có? Quỷ,
Ma, Thần, Thánh, Tiên, Phật, Trời,
Ngọc Hoàng Thượng Đế, các đấng bề trên có hay không có? Địa Ngục, các
vua Diêm Vương,
Quỷ Sứ, Ngưu Đầu Mã Diện, Quỷ Dạ Xoa có hay không có
đều biết rất rõ. Tất cả những nhân vật này là những nhân vật tưởng tri của những
nhà văn Trung Quốc dựng lên, từ truyện Tây Du Ký, Đông Du Bát
Tiên, Nam Du Huê Quang, Bắc Du Chơn Võ, Phong Thần, Phong Kiếm
Xuân Thu, Liêu Trai Chí Dị, v.v...
Tất cả nhân
vật trong những chuyện này toàn là tưởng tri của các nhà văn khéo tưởng tượng dựng
lên mà viết
ra. Các nhà làm
tôn
giáo không
thông suốt nên tin rằng những nhân vật này
có thật. Vì thế mới
đem các nhân vật hư
cấu trong các bộ truyện
này vẽ ra hình tượng,
hay tạc ra cốt
tượng rồi đặt lên bàn thờ, nơi trang trọng nhất trong
các đền thờ. Do vô
minh không biết
nên các tín đồ của các tôn giáo bỏ tiền ra xây chùa,
tháp, miếu, niệm Phật đường, thánh thất, nhà thờ, v.v... một số tiền không phải
nhỏ. Trong khi đất nước đang
xóa đói giảm
nghèo mà được số tiền ấy thì nhân dân làm sao đói, làm
sao nghèo. Phải không thưa quý vị?
Đành rằng
tinh thần tôn giáo là một điều cần thiết như cơm ăn
áo mặc, nhưng
phải là tinh thần có đạo đức,
có văn hóa,
chớ không lẽ tinh thần
lạc hậu mê
tín, quỳ lạy cầu
xin những nhân vật hư cấu như vậy ban phước lành, thì thật là ngu ngốc
vô cùng.
Trong thời đại được gọi là
tôn giáo văn minh,
nhưng chúng tôi thấy không
có văn minh chút nào cả, vì trong
các nơi thờ tự của các tôn giáo còn giữ nguyên những hình ảnh nhân vật hư cấu
giàu tưởng tượng.
12 nhân
duyên đã làm
sáng tỏ thế giới
siêu hình là thế giới tưởng, khiến con người không còn sống trong
mê tín mù quáng,
lạc hậu nữa. Mười
hai nhân duyên
cũng làm cho
chúng ta
thông suốt vũ trụ là một thế giới duyên hợp, nên không còn ai dối gạt được
chúng ta nữa.
SÁU XỨ
là sáu nơi
thường tiếp xúc với
SÁU TRẦN.
Sáu xứ là gì?
Sáu xứ là MẮT,
TAI, MŨI, MIỆNG, THÂN, Ý. Mắt, tai,
mũi, miệng, thân,
ý là chỉ
cho một con người. Một con người là phải có đủ mắt, tai, mũi, miệng,
thân và ý. Cho nên nói sáu xứ tức
là nói con người,
trong một con người có ba cái biết:
1- Ý thức.
2- Tưởng thức.
3- Thức thức.
- Ý thức là
cái biết của mọi người đang sử dụng trong cuộc sống hằng ngày.
- Tưởng thức
là cái biết
trong giấc mộng; là cái biết của các nhà ngoại cảm; là
cái biết của những người
lên đồng nhập
xác; là cái biết của những phù thủy.
- Thức thức
là cái biết của những người đã tu chứng đạo (tuệ Tam Minh).
Muốn biết
rõ sáu xứ,
chúng ta hãy lắng
nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Sáu Xứ
là gì? Danh
Sắc là câu trả lời”.
Danh sắc là
thân và tưởng thức của chúng ta. Bởi thân ngũ uẩn có năm uẩn: sắc, thọ, tưởng,
hành, thức. SẮC là thân, THỌ là các cảm thọ của thân và tâm, TƯỞNG là tưởng thức, HÀNH
là các hoạt động của
thân, tâm và tưởng,
THỨC là cái biết của
thân, tâm người đã tu chứng đạo.
Như vậy, bây
giờ quý vị đã hiểu rõ danh sắc.
DANH SẮC chỉ
là THÂN TÂM của chúng ta mà thôi.
DANH là TƯỞNG
THỨC và SẮC là SÁU THỨC. Vậy, danh sắc gồm
có bảy cái biết:
1- Nhãn thức.
2- Nhĩ thức.
3- Tỷ thức.
4- Thiệt thức.
5- Thân thức.
6- Ý thức.
7- Tưởng thức.
Cho nên nói
danh sắc tức là nói bảy cái thức. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ
duyên của Danh Sắc là gì? Thức
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!