Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

mười hai cửa vào đạo 2


là  buông  xả  thứ  nhất.  Nếu  ai  muốn  tu  tập như   Phật   để   làm   chủ   SINH,   GIÀ,   BỆNH, CHẾT  mà  không  sống  như  Phật  thì khó  có thể  làm  chủ  bốn  sự  đau khổ  này.  Khi buông xả được như vậy, kế tiếp chúng ta phải chọn lấy  một  chỗ  thanh  vắng  yên  tịnh  như:  một gốc cây có bóng mát, một đống rơm, một mái nhà  tranh, một  bụi  tre,  v.v...  Rồi  ở  đó  một mình,   khi đi,  khi   đứng,  khi   ngồi  hoặc  khi nằm  đều  tập  TỈNH  GIÁC,  đi  thì biết  bước  đi, còn  nằm,  ngồi  hay đứng  đều  biết  hơi  thở  ra, hơi thở vô. Khi  tập tỉnh giác như vậy tâm không còn hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không và vọng niệm thì đây là giai đoạn thứ hai.

Khi  tu  tập  tỉnh  giác  được  như  vậy  thì chúng  ta  tiếp  tục  tu  tập  trong  bốn  oai  nghi: đi, đứng, nằm, ngồi đều dùng sức  TỈNH GIÁC xả  từng  tâm  niệm  và  các  ác  pháp  bên  ngoài khi chúng tấn công vào thân tâm chúng ta. Đây  là  giai  đoạn  xả  rốt  ráo  cho  nên  phải dùng pháp môn NHƯ  LÝ TÁC Ý, lúc nào cũng phải  nhớ tác  ý. Xin quý vị  nhớ lời Phật  dạy: “Ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp”,  cho nên  TÁC  Ý  là  ý  thức  không  bị diệt. Khi chúng ta tu chứng đạo thì ý vẫn còn hoạt  động  như  thường,  nhưng  sự  hoạt  động của  nó  bấy  giờ  là  diệu  dụng  của  tâm  thanh


tịnh. Người chưa có tâm thanh tịnh thì không thể bảo rằng ý thức là diệu dụng được, chỉ có người tu chứng đạo tâm thanh tịnh thì ý thức bấy giờ là diệu dụng khi người tu chúng đạo điều khiển nó.

Cho nên pháp môn nào tu tập mà làm cho ý thức  đình  chỉ  thì pháp  môn đó  không phải của Phật giáo, mà của tà giáo.

Như quý vị đều biết, pháp môn niệm Phật nhất tâm, tham công án, tham thoại đầu, biết vọng liền buông, v.v... là những pháp ức chế tâm chịu ảnh hưởng tư   tưởng  VÔ VI  của Lão Trang   thuộc   văn   hóa   Trung   Hoa.   Những phương  pháp  này  tu  hành  chẳng  làm  chủ sinh, già, bệnh, chết, mà chỉ lọt vào KHÔNG TƯỞNG  của thiền Đông Độ, gọi là Phật Tánh (Tánh Không).

Mười   hai   nhân   duyên   tu   tập   đến   đây chúng   ta   đã   làm   chủ   SINH,   GIÀ,   BỆNH, CHẾT.  Giảng  đến  đây  chắc  quý  vị  đều  biết khi muốn  làm  chủ  sinh,  già  bệnh,  chết  phải vào cửa nào mới làm chủ được sự sống chết.

Nhưng chúng ta cũng cần nghiên cứu thêm để hiểu biết 12 nhân duyên vào cửa nào cũng được, song có cửa vào được mà ra không được, cho nên chúng ta chỉ nghiên cứu cho biết, chớ không thể tu tập được, xin quý vị lưu ý. Dưới


đây là những duyên mà trong kinh Mười Hai Nhân Duyên chỉ dạy cho chúng ta thấy duyên khởi trùng trùng, hễ có duyên này thì có duyên kia, như trong kinh dạy:

“Từ duyên GIÀ, BỆNH, CHẾT diệt thì duyên VÔ MINH diệt.

Từ   duyên   VÔ   MINH  diệt   thì  duyên
HÀNH diệt.

Từ  duyên  HÀNH  diệt  thì duyên  THỨC
diệt.

Từ  duyên  THỨC  diệt  thì duyên  DANH SẮC diệt.

Từ  duyên  DANH  SẮC   diệt  thì duyên
LỤC NHẬP diệt.

Từ  duyên  LỤC  NHẬP   diệt  thì duyên
XÚC diệt.

Từ   duyên   XÚC   diệt   thì  duyên   THỌ
diệt”.

Trên đây là bắt đầu diệt duyên già, bệnh, chết.  Diệt  duyên  GIÀ,  BỆNH,  CHẾT  tức  là diệt duyên CẢM THỌ. Duyên cảm thọ diệt thì tất  cả  11 nhân  duyên  khác  đều  bị  diệt  theo và như vậy một thế giới đau khổ bị diệt, loài người   thoát   khổ.   Nhưng   muốn   vậy   cũng


không phải dễ, vì muốn diệt duyên cảm thọÏ chúng  ta  là  người  phải  có  đầy  đủ  ý  chí  và nghị  lực,  nếu  không  đủ  ý  chí và  nghị lực  thì đừng  vào  cửa  cảm  thọ.  Nếu  chúng  ta  không đủ  sức  chịu đựng  những cơn đau xé  ruột,  xé gan thì nên  vào  các  cửa  khác,  xin  quý  vị  lưu ý.  Duyên  cảm  thọ chỉ  có  người  có  ý  chí dũng mãnh  kiên  cường,  chẳng  hề  nao núng  trước cái chết và các cảm thọ đau đớn.














 

DIỆT DUYÊN SINH





Nếu  chúng  ta  vào  cửa  duyên  sinh  thì phải buông xả hết như đức Phật. Bởi vì SINH là  đời  sống,  do  có  đời  sống  nên  con  người phải trăm cay, ngàn đắng khổ đau.

Mười  hai  nhân  duyên  chúng  ta  bắt  đầu chọn vào duyên sinh để đoạn trừ mọi sự khổ đau.

Như chúng tôi đã nói ở trên, ngày xưa đức Phật đã chọn duyên SINH, vì thế Ngài từ bỏ ngai vàng, cha, mẹ, vợ, con và thân bằng, quyến thuộc, chỉ  sống ba y một bát đi xin ăn hằng ngày, nhờ diệt duyên sinh này mà Ngài mới đoạn tận mọi sự khổ đau. Vậy thế nào là lý DUYÊN SINH khởi?

Chúng ta hãy dựa vào lời dạy của Phật mà tham khảo mười hai nhân duyên, khi duyên này khởi thì duyên kia khởi:


“1-  Từ   duyên   SINH  khởi   GIÀ   CHẾT
khởi.

2- Từ duyên GIÀ CHẾT khởi duyên VÔ MINH khởi.

3- Từ  duyên  VÔ  MINH  khởi  các  HÀNH
khởi.

4- Từ các duyên  HÀNH  khởi nên THỨC
khởi.

5-  Từ   duyên   THỨC   khởi   DANH  SẮC
khởi.

6-   Từ   duyên   DANH  SẮC   khởi   LỤC NHẬP khởi.

7- Từ duyên LỤC NHẬP khởi XÚC khởi.

8- Từ duyên XÚC khởi THỌ khởi.

9- Từ duyên THỌ khởi ÁI khởi.

10- Từ duyên ÁI khởi HỮU khởi.

11- Từ duyên HỮU khởi THỦ khởi.

12- Từ duyên THỦ khởi SINH khởi.”

Trên  đây  là  lý  duyên  sinh  khởi,  nó  tập hợp mọi sự đau khổ của kiếp làm người. Thật khổ thay!








DUYÊN SINH PHÁP





Thế  nào  là  lý  duyên  sinh  pháp?  Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Già chết là pháp  hữu  vi,  là  vô  thường,  duyên  sanh biến hoại tánh, biến diệt tánh, ly tham tánh, đoạn diệt tánh. Và tất cả 12 nhân duyên đều là như  vậy.

Này  các  tỳ  kheo,  vị Thánh  đệ  tử  thấy như  chơn với chánh trí tuệ lý duyên khởi này  và  các  pháp  duyên  sinh  này,  nên chắc  các  vị  ấy  không  có  những  câu  hỏi về  quá  khứ:  “Ta  có  mặt  trong quá  khứ? Ta không có mặt trong quá khứ? Ta là gì trong quá  khứ?  Ta  có  mặt  như  thế  nào trong quá khứ? Trước ta là gì? Và nay trong quá khứ ta là gì?”

Về   tương lai   cũng   vậy,   không   có những  câu  hỏi:  “Ta  có  mặt  trong tương


lai? Ta  không có mặt trong tương lai? Ta sẽ làm gì trong tương lai? Ta  có mặt như thế nào trong tương lai? Hay  trước trong tương lai ta là gì, và nay trong tương lai ta sẽ là gì?”

Hay  nay  các  vị  ấy  sẽ  khởi  lên  những nghi  ngờ  về  tự  mình trong hiện  tại  như sau: “Ta hiện có mặt? Ta hiện không có mặt?  Ta  hiện  là  gì?  Ta  hiện  có  mặt  như thế nào?” Sự kiện như  vậy không xảy ra? Vì sao? Vì rằng  vị  Thánh  đệ  tử,  này  các tỳ   kheo,   đã   khéo   thấy   như   chơn   với chánh  trí tuệ,  định  lý  duyên  khởi  này, với các pháp DUYÊN SINH này, thì không bao giờ có những câu hỏi ngớ ngẩn như trên,  không  bao  giờ  có  những  câu  hỏi điên đảo như  trên”. (53 Tương Ưng tập 2)

Khi đã hiểu lý  DUYÊN KHỞI  với các pháp DUYÊN SINH, thì chúng ta không còn nghi ngờ đặt ra những câu hỏi ngớ ngẩn mà từ xưa đến nay người ta đã đặt ra, những câu hỏi mà không có câu trả lời:  “Con người từ đâu sinh ra? Chết đi về đâu?”

Câu hỏi được đặt ra với những người thông suốt   12  nhân   duyên   đều   biết   ngay  họ   là những người đang sống trong VÔ MINH.


Bởi con người có mặt trong cuộc sống hôm nay là do 12 nhân duyên hợp khởi, chứ không có kiếp người trong quá khứ, cho nên nếu chúng ta  hỏi:  “Ta  có  mặt  trong quá  khứ?  Ta không  có  mặt  trong quá  khứ?  Ta là  gì trong quá khứ? Ta có mặt như thế nào trong quá khứ? Trước ta là gì? Và nay trong quá khứ ta là gì?” Vì hỏi như vậy tức là không hiểu 12 nhân duyên.

Khi hiểu 12 nhân duyên thì trong quá khứ chúng ta chẳng có gì cả, tức là không có đời trước.   Cho  nên   nói   có   đời   trước   là   người không hiểu 12 nhân duyên. Đời trước tôi là Khổng Minh Gia Cát Lượng, đời sau tôi là Trương Lương, v.v... Đó là những người sống trong TƯỞNG TRI  chứ không phải sống trong LIỄU TRI.

Khi ngộ được 12 nhân duyên thì không có kiếp trước mà chỉ có kiếp hiện tại mà thôi.

Khi  ngộ   12  nhân   duyên   thì  chúng   ta không  có  những  câu  hỏi:  “Ta  có  mặt  trong tương lai?  Ta  không  có  mặt  trong tương lai? Ta sẽ làm gì trong tương lai? Ta có mặt như thế   nào   trong  tương  lai?   Hay   trước   trong tương lai ta là gì, và nay trong tương lai ta sẽ là gì?” Có những câu hỏi như vậy là chúng ta trở  thành  những  người  ngớ  ngẩn  chưa hiểu


12 nhân  duyên.  Vì  12 nhân  duyên  xác  định con người chỉ do 12 nhân duyên hợp lại mà thành  trong  kiếp  hiện  tại.   Cho  nên  trong tương lai chúng ta chẳng có gì cả.

Trong hiện tại chúng ta có mặt, có cuộc sống  như  thế  này  mà  12  nhân  duyên  hỏi rằng:  “Ta  hiện  có  mặt?  Ta  hiện  không  có mặt? Ta hiện là gì? Ta hiện có mặt như thế nào?” Hỏi như vậy là những người chưa am tường  12 nhân  duyên.  Vì  12 nhân  duyên  đã xác định chúng ta có mặt trong hiện tại là do các  duyên  hợp  lại  mà  thành,  chớ  không  có cái  gì là  chúng ta  cả.  Cho nên  nếu  không  có
12  nhân   duyên   hợp   lại   thì  không   có   con người trên hành tinh này.

Như  vậy, con người có mặt trên hành tinh này  chỉ  là  con  người  duyên  hợp, chớ   con   người   thật   là   con   người   thì không  bao  giờ  có.  Đó  là  đôi  mắt  nhìn  của đức  Phật  qua 12 nhân  duyên,  còn  chúng  ta nhìn  với  đôi  mắt  VÔ  MINH  nên  có  con người thật trong hiện tại, quá khứ và vị lai.







BỐN CỬA VÀO ĐẠO





Có  bốn  cửa  vào  để  phá  vòng  tròn  MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN. Phá vòng tròn 12 nhân duyên  tức  là  diệt  thế  giới  quan đau khổ  của con người.  Vì  thế,  mọi  người  phải  tùy  theo đặc  tướng  và  hoàn  cảnh  của  mình  để  chọn lấy  một  cửa  mà  vào,  để  cứu  mình   ra khỏi sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Cũng vì lẽ đó mà đức Phật giảng dạy mười hai nhân duyên xong, Ngài kêu gọi mọi người hãy tinh tấn dõng mãnh tu tập để chứng đạt chân lý giải thoát: “Này các tỳ kheo! Với pháp được Ta  khéo thuyết, hiện thị, hiện lộ các buộc ràng được cắt đoạn. Chắc chắn  dù  chỉ  còn  lại  da,  gân  và  xương trên  thân;  dù  thịt  máu  trở  thành  khô cạn,  mong  rằng  tinh  tấn  lực,  sẽ  được kiên  trì để  chứng  đắc  những  gì  chưa


chứng đắc, nhờ trượng phu  lực, nhờ trượng phu tinh tấn, nhờ trượng phu cần dõng.  Và  như  vậy  toàn  bộ  khổ  uẩn  này bị đoạn diệt”.

Đúng   vậy,   nếu   khi  hiểu   biết   12  nhân duyên thì phải đem hết sức lực ra tu hành đừng  nên  biếng  trễ,  vì  cuộc  sống  của  con người  chẳng  có  gì,  chỉ   là  một  chuỗi  nhân duyên  tạo  ra muôn  thứ  khổ  đau mà  không phải mình làm hay người khác làm. Tại có duyên  này  thì có  duyên  kia,  có  duyên  này  có duyên kia hợp thành con người khổ.

Nếu không bẻ gãy 12 nhân duyên này thì không làm sao thoát khổ. Bẻ gãy 12 nhân duyên tức làm cho chúng không còn hợp lại được nữa. Làm cho chúng không còn hợp lại được nữa thì có đầy đủ ý chí dũng mãnh kiên cường   bằng   cách   giữ   gìn   tâm   BẤT   ĐỘNG trước các ác pháp và từng tâm niệm của mình từng phút giây đang khởi lên liên tục.

Một lần nữa chúng tôi xin nhắc lại quý vị nhớ lời dạy trên đây của đức Phật: “Này các Tỳ kheo! Với pháp được Ta khéo thuyết, hiện thị,  hiện  lộ  các  buộc  ràng  được  cắt  đoạn. Chắc  chắn  dù  chỉ  còn  lại  da,  gân  và  xương trên  thân;  dù  thịt  máu  trở  thành  khô  cạn, mong rằng  tinh  tấn  lực,  sẽ  được  kiên  trì để


chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ trượng phu lực, nhờ trượng phu tinh tấn, nhờ trượng  phu  cần  dõng.  Và  như  vậy  toàn  bộ khổ uẩn này bị đoạn diệt”.

Loài  người  trên  hành  tinh này  chịu nhiều khổ đau là vì không siêng năng, luôn luôn sống trong ác pháp và các dục, đui mù không thấy  SINH,  GIÀ,  BỆNH,  CHẾT  là  bốn  sự  khổ đau lớn  của  con người,  vì thế  mà để  cho thời gian  trôi  qua mà  không  hề  có  chút  tiếc  rẻ. Trong khi  đức Phật thường dạy:

“Tấc bóng thời gian,  một tấc vàng Tấc vàng tìm được không gì khó, Tấc bóng thời gian  khó hỏi han”

Đức Phật thường trách những người lười biếng  không  chịu tu  tập  làm  chủ  sinh,  già, bệnh, chết:

“Khổ thay! Này các tỳ kheo, là người sống biếng nhác, dính đầy các ác pháp bất thiện, và mục đích lớn làm chủ sinh, già,   bệnh,   chết   bị   suy  giảm,   nên   con người phải chịu nhiều đau khổ. Thật thương thay!”

Và thường ca ngợi những ai siêng năng tu hành:


“An   lạc   thay!  Này   các   tỳ   kheo,   là những   người   sống   tinh  cần,   tinh  tấn, viễn  ly  các  ác  bất  thiện  pháp,  và  mục đích lớn làm chủ sinh, già, bênh, chết được viên mãn!” (57 Tương Ưng tập 2)

Nếu thông suốt 12 nhân duyên mà không siêng năng tu tập, viễn ly các ác bất thiện pháp,  thì làm  sao gọi  là  người  thông  suốt  12 nhân   duyên.   Thông   suốt   12   nhân   duyên không phải là đi thuyết giảng, để dối gạt người, mà thông suốt 12 nhân duyên là siêng năng cần mẫn ngăn ác, diệt các bất thiện pháp, để chứng đạt tâm VÔ LẬU hoàn toàn.

















SỐNG TRONG HẠ LIỆT KHÔNG THỂ CHỨNG ĐẠT
CÁI CAO THƯỢNG





Trong con đường tu tập theo Phật giáo, điều quan trọng nhất là phải sống đúng giới luật,   vì  giới   luật   là   đời   sống   cao  thượng. Người tu sĩ sống phạm giới luật là người tu sĩ không   có   đời   sống   cao  thượng,   do  đó   họ không bao giờ tu chứng đạo.  Vì chứng đạo  là tâm phải BẤT ĐỘNG. Tâm bất động là tâm không phạm giới. Đức Phật thường nhắc nhở chúng  ta  tu  tập  phải  sống  đúng  giới  luật: “Này  các  thầy  tỳ  kheo!  Không  phải  với cái hạ liệt có thể đạt cái cao thượng”.

Đúng vậy, đức Phật đã xác định rõ ràng: Một người sống trong hạ liệt mà muốn chứng trong cái cao thượng thì không thể nào chứng đạt được. Vậy sống trong hạ liệt  là sống như


thế nào?

Sống hạ liệt là sống chạy theo dục lạc thế gian, tâm còn đầy tham, sân, si, mạn, nghi; tâm  chưa sống  ly dục  ly ác  pháp,  mỗi  chút mỗi  phiền  não  giận  hờn  khổ  đau; tâm  còn ham  muốn  cái  này  cái  kia, hằng  ngày  tâm còn phóng dật, thấy cái này cái kia đều muốn nhìn  ngó lưu ý thì làm sao chứng đạt được cái cao thượng được.

Cho nên quý thầy, quý cô tu tập thì tốt, nhưng không chứng đạo là hay nhìn ngó ra ngoài.  Tại  sao quý  thầy,  quý  cô  không  nhìn ngó vào thân tâm của mình,  mà lại nhìn  ngó ra ngoài. Nhìn  ngó ra ngoài có ích lợi gì?

Khi  quyết tâm tu tập để làm chủ sinh, già,  bệnh,  chết,  thì hãy  nhìn vào  thân tâm của mình để làm chủ nó,  nếu nó làm sai  hay làm  đúng  thì chúng ta  đều  biết  liền. Biết  sai  thì ngăn  chặn  lại  không  làm  theo; biết  đúng  thì tăng  trưởng  và  làm  theo  cho thân  tâm  mỗi  ngày  một  tốt  hơn.  Nhờ  chúng ta biết tập sống như vậy, nên từ chỗ sống hạ liệt  trở  thành thanh cao, còn nếu không  biết sống như vậy thì từ cái hạ liệt sẽ mãi mãi sống trong cái hạ liệt. Cho nên đức Phật mới dạy như vậy: “Sống trong hạ liệt không thể chứng đạt cái cao thượng”. Dù chúng ta muốn


tu chứng đạt giải thoát mà cứ sống trong hạ liệt thì tu vô lượng kiếp cũng chẳng đi đến đâu.




















SỐNG TRONG CAO THƯỢNG
MỚI CHỨNG ĐẠT CÁI CAO THƯỢNG




Như  chúng ta đã từng biết, giới luật đức hạnh  là  pháp  môn  tu  tập  hàng  đầu  trong Phật giáo, người sống giới luật đức hạnh là người  sống  trong  cao thượng.  Có  sống  trong cao thượng  thì chúng ta  mới  giữ  gìn tâm  bất động  dễ dàng,  còn  sống  phạm  giới  thì không bao giờ  giữ  gìn  tâm  bất  động  được.  Do tâm BẤT ĐỘNG mới làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT.

Cho nên đức Phật đã dạy rõ ràng: “Này các thầy tỳ kheo! Phải sống với cái cao thượng mới đạt được cái cao thượng”. Đúng  vậy,  sống  trong  cao thượng  mới  chứng cái cao thượng.


Sống trong cao thượng là sống đúng Phạm hạnh của Phật giáo, tức là sống thiểu dục tri túc, chỉ còn ba y một bát, tất cả đều buông xả sạch, không còn để tâm thương hay ghét, không còn ái kiết sử trói buộc, không còn người thân kẻ sơ, không còn tài sản lớn tài sản nhỏ, không còn tiền để dự phòng trong cuộc  sống  hay  đau  ốm,  không  còn  đất  đai ruộng vườn, không còn nhà cửa lớn nhỏ, phải sống  như  đức  Phật  chỉ  còn  ba y một  bát,  đi xin ăn hằng ngày mà thôi.

Người sống được như vậy mới gọi là cao thượng, như đức Phật đã từng ca ngợi và tán thán   phạm   hạnh   này:   “Đáng   được   tán thán,  nầy  các  thầy  Tỳ  kheo!  Là  phạm hạnh với sự có mặt của bậc Đạo Sư. Do vậy,  này  các  thầy  Tỳ  kheo,  hãy  tinh tấn lên  để  chứng  đạt  những  gì chưa  chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc,  để chứng ngộ những gì chưa  chứng ngộ”. (57 Tương Ưng tập 2)

Quý vị có nghe lời đức Phật dạy trên đây không? Đó là những lời dạy về lối sống cao thượng. Sống cao thượng như đức Phật đã xác định rõ ràng: “Là phạm hạnh với sự có mặt của  bậc  Đạo  Sư”.  Có  phải  chăng  lời  dạy  này là  chỉ  cho sự  “THÂN  CẬN  THIỆN  HỮU  TRI


THỨC”?  Nhờ  thân  cận  thiện  hữu  tri thức  để thấy được những gì? Không phải là để nhìn thấy những hành động Phạm hạnh sống của bậc thiện hữu tri thức sao?

Phạm  hạnh   của   đức   Phật   như   thế nào?

- Ăn không phi thời.

- Ngủ không phi thời.

- Sống độc cư, phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, và ý của mình.

- Đi đứng nhẹ nhàng, lời nói ôn tồn nhã nhặn, tức là những oai nghi  chánh hạnh.

Người giữ gìn bốn hạnh này là người sống cao thượng. Người sống cao thượng mới chứng đạt pháp cao thượng. Pháp cao thượng của Phật  giáo  không  có  gì cao thượng  cả,  mà  rất cao thượng  chỉ  vì  con người  sống  trong  thế gian không làm được.

1-  Điều  thứ  nhất:  Con  người  thế  gian ham  ăn,  ăn  ngày  ba bữa  còn  ăn  đêm.  Ngược lại, người sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không tham ăn, ăn ngày một bữa.

2- Điều thứ hai:  Con người thế gian ham ngủ,  lúc  nào  ngủ  cũng  được.  Ngược  lại,  người


sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không  tham  ngủ,  thường  tu  tập  tỉnh  thức, sống trong tâm bất động.

3- Điều thứ ba: Con người thế gian ham tiền bạc nhiều, ham nhà cửa cao sang đẹp đẽ, ham xe cộ này xe cộ khác. Ngược lại, người sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không ham tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, thường buông  xả  hết,  chỉ   còn  sống  ba  y,  một  bát hằng  ngày  đi  xin  cơm  một  bữa  để  sống  tu tập.

4- Điều  thứ  tư: Con người  thế  gian  ham uy quyền,  lúc  nào  cũng  muốn  ra oai,  la  lối, nạt  nộ  chửi  mắng  người  khác.  Vả  lại  còn muốn ăn trên ngồi  trước không ai  hơn mình. Ngược  lại,  người  sống  trong  pháp  cao thượng của  Phật  giáo  thì không  tham  uy quyền,  mà chỉ muốn làm một người thấp nhất trong xã hội (người ăn mày).

5- Điều thứ năm: Con người thế gian hay giận hờn, phiền não, lo sợ: lo đói, lo sợ trộm cướp,  chiến  tranh, lo  sợ  con cái  nghèo  khổ, v.v... Ngược lại, người sống trong pháp cao thượng  của  Phật  giáo  thì không  giận  hờn,  ai chửi  mắng  thì tha  thứ  thương  yêu,  không ghét ai, nhất là không lo sợ một thứ gì cả.


6- Điều thứ sáu: Con người thế gian tâm ưa thích  dâm  dục,  nên  lớn  lên  đều  lấy  vợ  gả chồng,  nhưng  người  ta  đâu  biết  rằng  đó  là con đường  khổ  của  thế  gian,  nối  tiếp  từ  đời này  đến  đời  khác  mãi  mãi  khổ  đau, thế  mà sinh  ra  làm  người  ai  cũng  ưa  thích,  v.v... Ngược  lại,  người  sống  theo  pháp  cao thượng của  Phật  giáo  thì tránh  xa  dâm  dục,  thấy dâm dục như thấy rắn độc, một khi  đã bị nọc độc rắn dâm dục cắn thì suốt đời phải chịu khổ đau.

Cho  nên  dâm  dục  là  con  đường  sinh  tử luân hồi, con đường bất tịnh, uế trược, tràn đầy đau khổ, không đi vào con đường này thì thôi, mà hễ đi vào con đường này thì khổ đau ngút ngàn. Hỡi quý vị có trí tuệ hãy tránh xa. Ở  xa tưởng  nó  là  hạt  kim cương, nhưng  khi đến gần thì nó là giọt nước mắt đấy quý vị ạ!

Sáu  điều  trên  đây  nếu  người  nào  muốn sống  một  đời  sống  cao thượng  thì hãy  tránh xa sáu điều này, đó là sáu điều hạ liệt. Có tránh  xa sáu  điều  hạ  liệt  trên  thì đời  sống mới cao thượng theo đúng đường lối của Phật giáo. Nhờ có sống cao thượng như vậy mới chứng được pháp cao thượng.

Người ta đừng hiểu sai là tu theo đạo Phật phải  buông  bỏ  hết,  không  còn  có  một  vật  gì


còn dính trong thân tâm, phải trống không, không ngơ. Đó là hiểu sai, người đi tu theo Phật giáo sống thiểu dục tri túc, chỉ còn ba y một bát mà thôi, đó là những vật dụng cần thiết cho một người tu hành giải thoát. Nhờ sống  như  vậy  nên  làm  chủ  được  cái  ăn,  cái ngủ  và  cái  sống  một  mình.  Cho nên,  tất  cả ngũ  dục  lạc  thế  gian  đều  buông  bỏ  xuống sạch, không còn một chút xíu nào dính  trong tâm. Chúng ta lắng nghe đức Phật dạy: “Sự xuất gia này của chúng ta sẽ không phải trống không. Có kết quả, có thành tích. Và  những  vật  dụng  chúng  ta thọ  dụng như y phục, đồ ăn khất thực, thuốc trị bệnh, dầu cho những thứ này là khiêm tốn,  đối  với  chúng  ta sẽ  có  quả  lớn,  có lợi ích lớn”. (57 Tương Ưng tập 2)

Lời  dạy  trên  đây  rất  rõ  ràng,  vì  y  phục vừa  đủ  để  thay  đổi  mặc  hằng  ngày,  không thừa dư một y áo nào cả, và đồ ăn khất thực vừa đủ ăn ngày một bữa để sống rất là khiêm tốn,  nhưng  xét  lại  người  sống  được  như  vậy thì quả là giải thoát, lợi ích rất lớn mà người thế gian không thể sánh được.

Khi chúng ta sống được như vậy thì hãy lắng nghe đức Phật dạy tiếp:  “Này các thầy tỳ  kheo,  thấy  được  tự  lợi  là  vừa  đủ  để


tinh tấn  không  phóng  dật.  Hay  này  các thầy  tỳ  kheo,  khi thấy  lợi  tha là  vừa  đủ để  tinh tấn  không  phóng  dật,  hay  này các  thầy  tỳ  kheo,  thấy  lợi  cả  hai là  vừa đủ  để  tinh tấn  không  phóng  dật”.  (58
Tương Ưng tập 2)

Lời  dạy  trên  đây  giúp  chúng ta  biết  pháp tu hành rất dễ dàng. Khi  sống đời sống cao thượng  như  vậy  thì điều  cần  thiết  là  phải siêng năng sống KHÔNG PHÓNG DẬT.

Khi siêng  năng  tinh cần  tu  tập  giữ  gìn tâm không phóng dật thì lậu hoặc sẽ bị đoạn diệt. Vì thế, những người này là người sáng suốt minh mẫn. Cho nên đức Phật dạy: “Này các thầy tỳ kheo, đối với người biết, đối với người thấy, Ta  nói các lậu hoặc được đoạn   diệt   không   phải   đối   với   người không  thấy,  không  biết”.  (58  Tương  Ưng tập 2)

Người  có  trí tuệ  mới  sống  không  phóng dật, còn những người không trí tuệ thường sống tâm phóng dật, thấy điều gì ưa thích thì chạy  theo  điều  ấy,  khiến  cho cuộc  sống  bất an. Người  có  trí tuệ  là  người  biết  tìm sự giải thoát nơi thân tâm mình,  còn người không trí tuệ thì không biết  tìm giải  thoát, cho nên cứ đắm  mê  ngũ  dục  lạc,  vì  vậy  cuộc  đời  luôn


luôn sống trong khổ đau. Do đó đức Phật dạy: “Trong   đoạn   diệt   ấy,   phải   có   trí  tuệ đoạn   diệt.   Ta   nói   rằng   trí tuệ   ấy   có duyên không phải không có duyên”.

Để xác định làm sáng tỏ điều này, để mọi người  triển khai  tri kiến giải  thoát  mà trong kinh Phật thường dạy là tu tập. Chính  tu tập là triển khai tri kiến giải thoát của mình  chứ có tu tập cái gì đâu, điều mà người ta lầm tưởng là ngồi thiền lâu tâm sẽ sinh trí tuệ, sự thật  là  không  phải  vậy.  Ngồi  thiền  lâu  mà tâm bất động do xả tâm ly dục ly ác pháp bằng phương pháp dẫn tâm, thì làm chủ thân bệnh chứ không phải sinh trí tuệ. Trí tuệ giải thoát  là  do huân  tập  sự  hiểu  biết  giải  thoát, từ  đó  chúng  ta  ly tham,  sân,  si,  mạn,  nghi đều bằng tri kiến hiểu biết này. Cho nên chúng ta hãy nghe đức Phật dạy về nhân duyên:  “Từ  duyên  của  Trí Tuệ  về  Đoạn diệt là gì? Giải Thoát là câu trả lời”.

Đúng vậy, muốn đoạn diệt sự khổ đau của kiếp  người  thì phải  bằng  trí tuệ.  Vậy  trí tuệ phải hiểu biết cái gì mới đoạn diệt khổ đau?

Trí tuệ phải hiểu biết cái gì làm cho con người  khổ  đau. Khi  trí tuệ  của  chúng ta  biết rõ cái gì làm cho đau khổ thì chúng ta lìa xa, hoặc từ bỏ hay đoạn diệt. Có lìa xa, hay từ bỏ


hoặc đoạn diệt thì chúng ta có giải thoát liền. Cho nên từ duyên trí tuệ về đoạn diệt là giải thoát, như lời đức Phật đã dạy ở trên. Chúng ta  hãy  nghe tiếp  đức  Phật  dạy  từ  bỏ  hay lìa xa hoặc  đoạn  diệt  cái  gì để  được  giải  thoát: “Từ   duyên   của   Giải   Thoát   là   gì?   Ly Tham là câu trả lời”.

Muốn thoát mọi sự khổ đau trong cuộc đời thì chỉ  có  lìa  xa, hay  từ  bỏ,  hoặc  đoạn  diệt tâm tham thì giải thoát ngay liền.

Đúng  vậy,  nếu không đoạn diệt  tâm  tham thì không bao giờ có giải thoát, muốn đoạn diệt  tâm  tham  thì trước  tiên  phải  xa lìa  tâm tham, có nghĩa là tâm tham khởi lên ham muốn một điều gì thì không nên làm theo.

Vậy chúng ta hãy nghe tiếp đức Phật dạy duyên  ly tham:  “Từ  duyên  Ly Tham là  gì? Yểm Ly là câu trả lời”.

Đúng  vậy,  trước  khi   muốn  lìa  tâm  tham thì phải  chế  ngự  tâm  tham,  làm  cho  tâm tham yếu đi mà đức Phật gọi là yểm ly. Yểm ly có nghĩa là đầu tiên chúng ta khởi ham muốn một  điều gì thì hãy mau mau dừng lại, không được làm theo hay chạy theo. Không làm  theo,  không  chạy  theo  bằng  trí tuệ  như trên đã dạy.


Chúng   ta   tiếp   tục   nghe  đức   Phật   dạy duyên  yểm  ly:  “Từ  duyên  Yểm  Ly  là  gì? Tri kiến Như  Chơn là câu trả lời”.

Đúng  như  lời  đức  Phật  dạy,  muốn  yểm  ly thì phải  dùng  tri kiến  hiểu  biết  nhân  quả, hiểu biết các pháp vô thường, hiểu biết các pháp  không  có  pháp  nào  là  ta  là  của  ta,  là bản ngã của ta, và hiểu biết cái nào đúng cái nào sai; kế đó còn phải hiểu biết cái nào là chân lý và cái nào không phải là chân lý. Bởi danh  từ  như  chơn  của  Phật  dùng  nơi  đây chúng ta  phải  hiểu  nghĩa. NHƯ  CHƠN  ở  đây có nghĩa là TÂM BẤT ĐỘNG. Tâm bất động là thiền   định.   Cho  nên   đức   Phật   dạy:   “Từ duyên  của  Như  Chơn  là  gì?  Định  là  câu trả lời”.

Đúng vậy, như chơn tức là định, mà  ĐỊNH là  TÂM  BẤT  ĐỘNG. Khi  tâm bất động không còn niệm vọng tưởng và hôn trầm thùy miên vô ký xen ra, xen vô thì tâm sẽ có một niềm vui an lạc. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:  “Từ  duyên  của  Định  là  gì?  Lạc  là câu trả lời”.

Đúng  vậy,  khi tâm  có  ĐỊNH  thì phải  có LẠC.  Tâm  có  định  mà  không  có  an  lạc  thì định  đó  không  phải  là  định  của  Phật  giáo. Khi tâm  có  an lạc  thì thân  tâm  phải  có  cảm


giác  khinh an.  Khinh  an  có  nghĩa  là  thân tâm   khi   có   định   thì  thân   tâm   phải   nhẹ nhàng và an ổn. Cho nên đức Phật dạy có duyên   định   thì  phải   có   duyên   khinh   an, không bao giờ có định mà không có khinh an, cho nên  định  có  là  khinh  an có,  đó  là  duyên của  chúng không  thể  tách  lìa  ra được.  Có  an lạc  là  phải  có  khinh an. Chúng  ta  hãy  lắng nghe đức  Phật  dạy:  “Từ  duyên  của  Lạc  là gì? Khinh An là câu trả lời”.

Đúng vậy, duyên của LẠC là phải có duyên của KHINH AN, nếu thân tâm có niềm vui thì phải có khinh an, đó là các duyên theo pháp duyên khởi mà không thể tách lìa chúng ra được,  cho nên nó thuộc về 12 nhân duyên, vì vậy  đức  Phật  dạy  các  pháp  duyên  khởi  rất cẩn thận và kỹ càng không bỏ sót một duyên nào cả. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy tiếp:  “Từ  duyên  của  Khinh An  là  gì?  Hỷ là câu trả lời”.

Đúng  vậy,  khi thân  tâm  có  cảm  giác  nhẹ nhàng  an ổn  thì rất  vui  mừng.  Sự  vui  mừng này  đức  Phật  gọi  là  HỶ.  Hỷ  là  niềm  vui,  khi có  niềm  vui  thì phải  có  tâm  HÂN  HOAN,  cho nên đức Phật dạy: “Từ duyên của Hỷ là gì? Hân Hoan  là câu trả lời”.

Đúng  vậy,  hân  hoan là  lòng  rất  vui mừng


giống như người đi xa về gặp lại những người thân. Do đâu mà có lòng hân hoan ấy? Như trên  đã  nói,  người  đi  xa  lâu  ngày  gặp  lại nhau,  hay  chúng  ta  tin vào  khả  năng  của mình   sẽ   làm   nên   một   sự   nghiệp   to   lớn, nhưng khi  làm được một việc gì lợi ích và tốt đẹp cho mình  và cho người thì lòng hân hoan phải  có.  Để  xác  định  rõ  điều  này  chúng  ta hãy   nghe  đức   Phật   dạy:   “Từ   duyên   của Hân  Hoan   là  gì?  Lòng  Tin là  câu  trả lời”.

Đúng  vậy,  khi có  lòng  hân  hoan như  vậy là  nhờ  lòng  tin của  chúng  ta  biết  chắc  khả năng  của  mình  làm  nên  sự  sự  nghiệp  to  lớn, mà  nay  đã  làm  nên  sự   nghiệp  to  lớn  thì chúng ta phải hân hoan. Có những điều trong cuộc sống chúng ta không biết, nay có người chỉ cho chúng ta biết như thật thì lòng tin tưởng rất mãnh liệt.

Từ  xưa chưa có  ai  nói  cho chúng  ta  biết SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT  là khổ. Hôm nay có người  chỉ  cho chúng ta  biết  đó  là  bốn  sự đau khổ  của  kiếp  người  mà  không  ai  tránh  khỏi. Khi biết  rõ  như  thật  thì chúng  ta  khởi  lòng tin tuyệt  đối,  không  có  cái  gì  làm  thay  đổi lòng tin này được.

LÒNG TIN xuất phát từ sự giác ngộ một sự


thật. Biết rõ được sự thật như vậy thì lòng HÂN HOAN  không thể có bút mực nào nói lên hết  được.  Xưa chưa ai  chỉ  cho chúng  ta  biết khổ  như thật,  thì nay chúng ta  rất  vui  mừng vì  chúng  ta  sẽ  diệt  chúng,  làm  cho  chúng không  còn  sinh  khởi  được  nữa.  Vì vậy  chúng ta   hãy   tiếp   tục   nghe  đức   Phật   dạy:   “Từ duyên  của  Lòng  Tin   là  gì?  Khổ  là  câu trả lời”.

Khổ là những nỗi buồn, lo lắng, sợ hãi, thương ghét, giận hờn, nhớ nhung, mong chờ, v.v... Đó là do có một cuộc sống, trong cuộc sống có những người thân thương và những người không ưa thích, có những vật chất ưa thích  và  những vật  chất  không  ưa thích.  Tất cả những điều gọi chung là KHỔ.

Đúng  vậy,  từ  lâu  chúng  ta  chưa có  ai  dạy về khổ, bây giờ được dạy về khổ, đó là một sự thật mà không ai dám phủ nhận. Có ai dám bảo rằng SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT là không khổ? Như trên đã nói, khổ là do có cuộc sống. Chúng ta không tin thì hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Khổ là gì? Sanh là câu trả lời”.

Đúng  vậy,  sanh  có  nghĩa là  đời  sống  của con người, nếu con người không có  ĐỜI SỐNG thì làm sao có KHỔ.


Trên  thế  gian  này  không  ai  là  không  có đời  sống.  Vậy  đời  sống  do đâu  mà  có.  Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Sanh  là gì? Hữu là câu trả lời”.

Đúng vậy, nếu không có của cải tài sản, nhà   cửa,   ruộng   vườn,   đất   đai,   vợ   con  và những người thân, quyến thuộc, anh em bạn hữu thì làm sao có KHỔ. Do chúng ta có và có rất  nhiều,  cho  đến  những  vật  ném  bỏ  vào đống  rác  mà  chúng ta  còn  cố  giữ  lại  thì trên đời  này  có  vật  gì mà  chúng ta  bỏ.  Do chúng ta  không  biết  buông  xả  nên  chúng  ta  mới chịu biết  bao nhiêu  thứ  khổ  đau.  Cho  nên chúng ta có vật gì thì không bao giờ muốn bỏ, cố giữ lại, giữ lại cho đến khi  cái nhà ở trở thành   cái   nhà   kho,   hay  đúng   hơn  là   cái thùng rác. Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Hữu là gì? Thủ là câu trả lời”.1

Đúng vậy, nếu HỮU có nghĩa là CÓ thì những vật chất mà chúng ta có được là do duyên  hữu,  nhưng  nếu  chúng  ta  có  mọi  vật nhưng chúng ta đừng có giữ lại thì làm sao có

1-   Thông  thường,  trong  thứ  tự  các  duyên  theo

chiều  xuôi  thì Hữu

→  Thủ,  còn  theo  chiều  ngược  là

Thủ

→  Hữu.  Nhưng  12 Nhân  Duyên  không  cố  định,

chết cứng mà có sự linh động của nó. (Đoạn kinh  này trình bày thứ tự các duyên theo chiều ngược)


THỦ.  Cho nên  Phật  pháp  dạy  không  sai,  nó là  duyên,  nếu  duyên  này  có  thì duyên  kia phải  có,  không  thể  làm  sao không  có  được. Cho nên  chúng  ta  sống  không  có  duyên  hữu thì  làm   sao  có   duyên   thủ.   Chính  vì   có duyên hữu mới có duyên thủ. Những điều trên đây là do chúng ta không biết pháp môn TÁC Ý để phòng hộ sáu căn, nên khi vật chất đến  là  chúng  ta  dính  mắc,  cố  chấp,  giữ  gìn, bảo   thủ   làm   của   riêng   của   mình.   Vì  vậy duyên hữu  có  thì duyên  thủ có, vì hữu thủ có đủ  nên  chúng  ta  đang  ở  trong  mê  hồn  trận mà  không  biết  lối  nào  mà  ra. Pháp  12 nhân duyên rất tuyệt vời, khi duyên này có thì duyên kia có theo, mà khi  có theo như vậy là
12 nhân  duyên  đều  hiện  đủ.  Mười  hai  nhân
duyên  đều  hiện  đủ  thì một  thế  giới  khổ  đau hiện bày.

Khi duyên  thủ  có  thì không  phải  tới  đây nó chấm  dứt  mà  nó phải  có  duyên  khác nữa, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Thủ là gì? Ái là câu trả lời”.

Nếu duyên thủ có thì duyên ái dục có. Bởi vì có  giữ  lại  thì phải  có  ưa thích,  nếu  không ưa thích  thì làm  sao chúng ta  cố  giữ  lại  làm gì, cho nên khi  có giữ lại thì phải có ưa thích. Do đó trong kinh dạy: “Có duyên thủ thì phải


có duyên ái”.

Đúng vậy, nếu không ưa thích (ÁI) thì làm sao  chúng   giữ   gìn  bảo   thủ   (THỦ)   lại   cho mình.   Bảo  thủ  giữ  gìn  lại  cho  mình   là  vì chúng ta  ưa thích  hưởng  thụ  những  vật  chất đó.  Hưởng  thụ  tức  là  THỌ  DỤNG.  Chính  vì con người ưa thích hưởng thụ mà đành chịu muôn  ngàn  thứ  khổ  đau trong  kiếp  sống  làm người. Từ duyên ái có thì duyên thọ có, đó là một  qui  luật  của  12 nhân  duyên  không  làm sao bảo rằng không có được. Cho nên cứ theo
12 nhân duyên thì những khổ đau của con người  mở  ra theo  lối  nào  chúng ta  cũng  biết rất  rõ.  Học  12 nhân duyên  rất  có  lợi  cho đời sống của chúng ta. Khi chúng ta bị rơi vào duyên  nào  thì biết  ngay,  khi   biết  chúng  ta TÁC Ý không để thân tâm dính vào duyên đó, nhờ đó mà chúng ta thoát khổ, không bị một ác pháp nào sai khiến hay tác động vào tâm chúng ta được.

Muốn biết và đủ lòng tin với pháp môn này, không gì hơn là chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Ái là gì? Thọ là câu trả lời”.

Đúng vậy, vì hưởng thụ những vật chất đó nên chúng ta thường cảm nhận thích thú. Bởi vậy,  muốn  có  cảm  thọ  thì phải  có  sự  xúc


chạm.

Ví  dụ:  Muốn  thưởng  thức  một  miếng  ăn ngon thì chúng ta phải ăn thực phẩm đó. Khi món ăn đó gia chạm vào miệng lưỡi thì chúng ta mới cảm nhận món ăn ngon hay dở. Cho nên những cảm  thọ  là nhờ có  xúc  chạm,  nếu không  có  XÚC  CHẠM  thì CẢM  THỌ  không biết gì cả.

Ví dụ: chúng ta lấy tay sờ vào chiếc nệm mới mua thì biết ngay chiếc nệm mềm và êm ái. Đó là do tay của chúng ta xúc chạm vào nệm. Cho nên, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật  dạy:  “Từ  duyên  của  Thọ  là  gì?  Xúc là câu trả lời”.

Xúc là sự va chạm,  nên khi  có cảm  thọ là phải có sự va chạm (xúc). Sự VA CHẠM càng nhiều  thì CẢM  THỌ  càng  lớn.  Người  tu  sĩ Phật  giáo  biết  như  vậy,  nhưng  khi  va chạm với  mọi  vật  thường  cảnh  giác  tác  ý:  “Các pháp là vô thường, là khổ đau, là nhân quả. Hãy  ra khỏi  thân  tâm  ta. Chúng  ta không chấp  nhận  một  pháp  nào  cả.  Hãy  đi,  đi!  Ở đây  chỉ  có  tâm  BẤT  ĐỘNG,  THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ”.

Cho nên,  nếu  không  có  sự  CẢM  THỌ  thì làm  sao phải  có  sự  ƯA  THÍCH  THAM ĐẮM, cho nên sự xúc chạm là một điều quan trọng,


vì vậy người tu hành cần phải quan tâm lưu ý SÁU CĂN đừng XÚC CHẠM với SÁU TRẦN mà sinh ưa thích, dính  mắc, chấp đắm. Do không đề phòng sáu căn và sáu trần xúc chạm với nhau nên con người phải chịu khổ vô cùng vô
tận.

Chúng  ta  hãy  lắng  nghe  đức  Phật  dạy: “Từ  duyên của  Xúc là  gì?  Sáu Xứ là câu trả lời”.

Đúng  vậy,  do XÚC  CHẠM  của  SÁU  XỨ  nội và ngoại  nên mới  có thân tâm của  con người mà đức Phật gọi là DANH SẮC. Bởi vậy danh sắc không ngoài sáu xứ nội và ngoại mà có được.  Vạn  vật  trong vũ  trụ  do xúc  chạm  theo
12 nhân duyên này mà thành lập vũ trụ. Cho nên trong vũ trụ hiện giờ các duyên đều xúc chạm,  do  đó  mới  có  sự   sinh  diệt  liên  tục không bao giờ dứt.

Cho  nên   khi   giác   ngộ   12  nhân   duyên, chúng  ta  không  tin có  một  đấng  vạn  năng, một ông Ngọc Hoàng Thượng Đế hay một vị Trời  nào  sáng  tạo  ra vũ  trụ  cả.  Những  đấng ấy  toàn  là  tưởng  tri của  con người  dựng  lên, chớ chưa từng có một người nào trên thế gian này  trực  tiếp  gặp  các  Ngài.  Chỉ  có  những người ợ ợ, ngáp ngáp, lên đồng nhập xác như các phù thủy để lừa đảo con người bằng tưởng


thức, xây dựng một thế giới siêu hình  đầy đủ những   hồn   ma  người   chết,   đầy   đủ   những Thần, Thánh, Tiên, Phật, Quỷ, Ma, v.v...

Khi thông  suốt  12 nhân  duyên,  không  ai có thể gạt chúng ta rằng có các cõi Trời, cõi Cực Lạc. Bởi do thông suốt 12 nhân duyên, nên đức Phật dạy: “33 cõi Trời là tưởng tri chớ không phải liễu tri”.

Khi thông  suốt  12 nhân  duyên  rất  có  lợi, vì biết  rõ  vạn  vật  sinh  ra do đâu  mà  có,  con người sinh ra từ đâu đến và chết đi về đâu, có linh hồn hay không có linh hồn, còn có sự sống  sau khi chết  hay  không?  Thế  giới  vô hình   có   hay   không   có?   Quỷ,   Ma,   Thần, Thánh, Tiên, Phật, Trời, Ngọc Hoàng Thượng Đế, các đấng bề trên có hay không có? Địa Ngục,  các  vua  Diêm  Vương,  Quỷ  Sứ,  Ngưu Đầu Mã Diện, Quỷ Dạ Xoa có hay không có đều biết rất rõ. Tất cả những nhân vật này là những nhân vật tưởng tri của những nhà văn Trung Quốc dựng lên, từ truyện Tây Du Ký, Đông  Du Bát  Tiên, Nam  Du Huê  Quang, Bắc Du Chơn Võ, Phong Thần, Phong Kiếm Xuân Thu, Liêu Trai Chí Dị, v.v...

Tất cả nhân vật trong những chuyện này toàn là tưởng tri của các nhà văn khéo tưởng tượng  dựng  lên  mà  viết  ra. Các  nhà  làm  tôn


giáo không thông suốt nên tin rằng những nhân  vật  này  có  thật.  Vì  thế  mới  đem  các nhân  vật  hư cấu  trong  các  bộ  truyện  này  vẽ ra hình  tượng,  hay  tạc  ra cốt  tượng  rồi  đặt lên bàn thờ, nơi trang trọng nhất trong các đền  thờ.  Do vô  minh  không  biết  nên  các  tín đồ của các tôn giáo bỏ tiền ra xây chùa, tháp, miếu, niệm Phật đường, thánh thất, nhà thờ, v.v... một số tiền không phải nhỏ. Trong khi đất  nước  đang  xóa  đói  giảm  nghèo  mà  được số tiền ấy thì nhân dân làm sao đói, làm sao nghèo. Phải không thưa quý vị?

Đành rằng tinh thần tôn giáo là một điều cần  thiết  như cơm ăn  áo  mặc,  nhưng  phải  là tinh thần  có  đạo  đức,  có  văn  hóa,  chớ  không lẽ  tinh thần  lạc  hậu  mê  tín, quỳ  lạy  cầu  xin những nhân vật hư cấu như vậy ban phước lành, thì thật là ngu ngốc vô cùng.

Trong  thời  đại  được  gọi  là  tôn  giáo  văn minh,  nhưng  chúng  tôi  thấy  không  có  văn minh chút nào cả, vì trong các nơi thờ tự của các tôn giáo còn giữ nguyên những hình ảnh nhân vật hư cấu giàu tưởng tượng.

12  nhân  duyên  đã  làm  sáng  tỏ  thế  giới siêu hình là thế giới tưởng, khiến con người không  còn  sống  trong  mê  tín mù  quáng,  lạc hậu  nữa.  Mười  hai  nhân  duyên  cũng  làm  cho


chúng ta thông suốt vũ trụ là một thế giới duyên hợp, nên không còn ai dối gạt được chúng ta nữa.

SÁU  XỨ  là  sáu  nơi  thường  tiếp  xúc  với
SÁU TRẦN. Sáu xứ là gì?

Sáu xứ là MẮT, TAI, MŨI, MIỆNG, THÂN, Ý.  Mắt,  tai,  mũi,  miệng,  thân,  ý  là  chỉ  cho một con người. Một con người là phải có đủ mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý. Cho nên nói sáu  xứ  tức  là  nói  con người,  trong một  con người có ba cái biết:

1- Ý  thức.

2- Tưởng thức.

3- Thức thức.

- Ý thức là cái biết của mọi người đang sử dụng trong cuộc sống hằng ngày.

- Tưởng  thức  là  cái  biết  trong  giấc  mộng; là cái biết của các nhà ngoại cảm; là cái biết của  những  người  lên  đồng  nhập  xác;  là  cái biết của những phù thủy.

- Thức thức là cái biết của những người đã tu chứng đạo (tuệ Tam Minh).

Muốn  biết  rõ  sáu  xứ,  chúng  ta  hãy  lắng nghe đức Phật dạy:  “Từ duyên của Sáu Xứ


là gì? Danh Sắc là câu trả lời”.

Danh sắc là thân và tưởng thức của chúng ta. Bởi thân ngũ uẩn có năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. SẮC là thân, THỌ là các cảm thọ của thân và tâm, TƯỞNG là tưởng thức,  HÀNH  là  các  hoạt  động  của  thân,  tâm và  tưởng,  THỨC  là  cái  biết  của  thân,  tâm người đã tu chứng đạo.

Như vậy, bây giờ quý vị đã hiểu rõ danh sắc.  DANH  SẮC  chỉ  là  THÂN  TÂM  của  chúng ta mà thôi.

DANH là TƯỞNG THỨC và SẮC là SÁU THỨC. Vậy, danh  sắc gồm có bảy cái biết:

1- Nhãn thức.

2- Nhĩ thức.

3- Tỷ thức.

4- Thiệt thức.

5- Thân thức.

6- Ý  thức.

7- Tưởng thức.

Cho nên nói danh sắc tức là nói bảy cái thức. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Danh Sắc là gì? Thức



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!