nhập định thì đâu
dễ gì lường
gạt họ được. Kinh sách Nguyên Thủy của Phật giáo đã
xác định tiêu chuẩn và phương pháp nhập định như thế nào rất rõ ràng, tại sao
các bạn không chịu khó nghiên cứu, để không bị những người háo danh lừa đảo.
Cho nên, đức Phật dạy: “Nếu tu tập có đạo
lý gì thì không được nói ra,
chỉ nói ra khi thấy mình có lỗi lầm để phát lồ sám hối
ăn năn chừa bỏ
không tái phạm lại nữa”. Đó là những điều đức Phật nhắc nhở
chúng ta
hằng ngày. Bởi vậy, kinh Pháp
Cú
dạy:
“Mình ngu
nghĩ mình ngu
Nhờ vậy
thành có trí”.
Đúng vậy, hằng
ngày chúng ta nên xét lại mình thấy có những điều
làm cho mình khổ, làm cho người khác khổ thì hãy mau ngăn
chặn và diệt chúng cho tận
gốc, bằng cách
tư duy quán xét. Và phải luôn luôn xấu hổ khi có một hành động, một
lời nói hay một ý nghĩ làm cho mình khổ, làm cho người khác khổ hay tất cả
chúng sanh khổ thì phải hối hận ăn năn từ bỏ. Người biết tu tập những việc này
là người biết mình ngu tức là người có
trí đấy các bạn ạ!
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Trong cuộc đời tu hành theo Phật giáo chỉ có trầm
tư suy nghĩ tìm cái
ngu của mình để lần
lần khắc phục sửa sai những lỗi lầm. Đấy là người có trí các bạn ạ.
Còn ngược lại,
người ngu mà không biết mình ngu là người rất
ngu. Tất cả
các pháp trên thế gian này đều vô thường, không có vật gì thường
hằng bất biến,
không có vật
gì là mình, là của mình,
thế mà cứ lầm chấp
là mình, là của
mình. Do sự lầm chấp như vậy,
mà lao đầu vào chốn dầu sôi nước bỏng để chịu lấy những sự khổ đau bất tận cũng
giống như loài thiêu thân
lăn mình vào
ánh sáng của ngọn
đèn. Đó là những người
ngu mà không biết mình ngu. Còn biết bao nhiêu sự ngu trong thế gian
này nữa, như người chết
là tan hoại hết không có tàn dư một chút xíu thức
nào cả. Vậy mà, từ trong các tôn giáo cho đến những người có học thức cùng những người không học thức, đều
cho rằng người chết
còn có linh hồn bất
diệt, nên từ đó họ bỏ tiền bạc
tiêu hao về vấn đề
này một cách
nhảm nhí rất
đáng thương. Họ thường cầu
siêu, đốt tiền,
vàng mã
... cho người
chết, họ làm những điều mê tín lạc hậu.
Đó là những
người ngu mà
không biết
mình ngu, thật
là người chí
ngu đáng thương
vậy.
Thưa các bạn! Những
điều chúng tôi vừa
nói trên đây, có lẽ là lời nói quá thẳng thắn, dùng chữ
ngu si quá nặng nề,
khiến cho các bạn tự
ái không vui
lòng. Có phải vậy không các bạn? Xin các bạn vui lòng tha thứ
cho. Nếu không dùng lời nói
thẳng thiếu văn
hóa, kém lịch sự như vậy
thì mọi người cứ nghĩ
mình là người khôn ngoan, thì tệ
nạn mê tín lại còn tệ hại hơn nữa.
Xin các bạn
cứ suy ngẫm lại
thì xét thấy lời nói thẳng của
chúng tôi là một lời
chân thật, đầy lòng yêu thương của chúng tôi gửi đến các bạn, để trên đời này chúng ta không còn là người ngu
nữa. Phải không hỡi các bạn?
HẠNH VÀ MINH
LỜI PHẬT DẠY
Với Minh và
với Hạnh, thành tựu hai
pháp này. Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo đạt đến cứu cánh của cứu cánh:
1/ Cứu cánh
an ổn khỏi khổ ách.
2/ Cứu cánh
Phạm hạnh.
3/ Cứu cánh
mục đích.
Bậc tối
thượng giữa chư
Thiên và loài Người.
(Tăng Chi Bộ
Kinh, tập 4, trang 663)
CHÚ GIẢI:
Xét duyệt
qua đoạn kinh này có ba
cứu cánh:
1/ Cứu cánh
an ổn khỏi khổ
ách là do chánh
tri kiến. Chánh tri kiến là sự hiểu biết mọi vật như thật, do hiểu biết mọi vật
như thật nên mọi khổ ách đều được hóa giải.
Vì vậy, gọi
là cứu
cánh an ổn khỏi khổ
ách tức là
MINH GIẢI THOÁT.
2/ Cứu cánh
Phạm hạnh là do giới luật. Một tu sĩ sống đúng
giới luật, không
hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào
là có giải
thoát ngay liền. Giới ly dục ly ác pháp mà tâm ly dục ly ác
pháp là tâm bất động,
tâm bất động
là tâm không phóng
dật. Do giới
luật mà tâm được giải thoát nên gọi là HẠNH GIẢI
THOÁT, tức là Cứu Cánh Phạm Hạnh.
3/ Cứu cánh
mục đích là tri kiến và giới luật. Giới luật ở
đâu là tri kiến ở đó, tri kiến ở
đâu là giới luật ở
đó, “Tri kiến làm thanh tịnh giới
luật, giới luật
làm thanh tịnh tri kiến”.
Đó là cứu cánh giữa MINH và HẠNH nên gọi
là cứu cánh mục đích.
Trên đây, là
nói về giai đoạn mới bắt đầu vào tu tập giới
luật bằng tri kiến,
còn ở giai đoạn hai và ba thì đoạn kinh này đức Phật
dạy “Minh và Hạnh”. Minh và
Hạnh đạt được là cứu cánh của cứu
cánh. Vậy Minh và
Hạnh là
gì?
Minh là trí tuệ
Tam Minh; Hạnh là đức hạnh
không làm khổ
mình, khổ người
và khổ tất cả
chúng sanh, hay nói cách
khác Hạnh là
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Giới luật.
(Xem thêm nghĩa
Minh Hạnh Túc trang 130).
Cho nên, người
tu theo Phật giáo đầu tiên cần phải đạt được Đức Hạnh của Giới luật. Đức hạnh của
giới luật đó là hạnh ly dục ly ác pháp. Hạnh ly dục ly ác pháp là hạnh bất động tâm. Hạnh bất động tâm là tâm định
tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng.
Từ tâm
này chúng ta mới
có đủ
năng lực nhập Bốn Thánh
Định và thực hiện Tam Minh.
Như trên
đã nói Hạnh tức là Giới luật rất
quan trọng cho
con đường tu tập theo
Phật giáo. Phải không các bạn?
Không có Giới
luật thì thiền định và Tam Minh không
bao giờ có. Vì vậy,
các
bạn nên hiểu Hạnh là
nền tảng đạo đức
của Phật
giáo, còn Minh là kết quả cuối cùng của con đường tu tập giải thoát của
Phật giáo, nên đức Phật bảo: “Này
các Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo đạt đến cứu cánh
của cứu cánh”.
Xin các bạn
tu theo Phật giáo
nên lưu ý điều này: Hạnh mà
không sống đúng thì không làm sao có Minh. Người có Giới hạnh không thể
nào tu tập lạc vào tà pháp ngoại đạo. Thấy ai
sống không đúng giới
hạnh là biết ngay là người ấy tu
tập rơi vào tà pháp ngoại đạo.
Cho nên,
Minh và Hạnh là thước đo sự tu tập của Tăng
Ni và Cư sĩ, là
tiêu chuẩn duyệt xét sự chứng quả của họ. Do đó, những
người tu giả, tu thật chúng ta đều biết rất rõ. Biết rõ để làm gì các
bạn? Nếu người
thật tu, thật
chứng thì chúng ta xin được thân cận; nếu
người tu giả thì từ giã xa lánh.
BẬC HIỀN TRÍ
LỜI PHẬT DẠY
“Nếu gặp bậc
hiền trí Chỉ lỗi và khiển trách Như chỉ
chỗ chôn vàng Hãy kết thân người trí Kết thân với vị ấy
Chỉ có lợi
không hại”.
Kinh Pháp Cú
(VI-
Panditavagga –Phẩm Hiền Trí)
CHÚ GIẢI:
Thưa các bạn!
Trong cuộc đời, gặp được những bậc Hiền
Trí rất khó, bởi vì
những bậc ấy dám
nói thẳng, dám chỉ lỗi,
dám khiển trách những chỗ sai lầm
của cuộc đời cũng như
trong Đạo, để cho mọi
người biết mà cố gắng
sửa sai. Sửa
đời, sửa đạo. Đời và Đạo
chưa bao giờ toàn thiện, toàn mỹ cả, chỉ nhờ vào bàn tay của con người
uốn nắn sửa
sai những lỗi lầm
thì mới
có ngày được toàn thiện toàn mỹ. Việc làm này không phải một người mà phải nhiều
người; nhiều người mà phải sống đoàn kết với nhau thì mới làm được; nhưng không phải
làm nhanh chóng được mà phải nhiều năm tháng, trường kỳ sửa sai và uốn nắn
những lỗi lầm của mình.
Bậc Hiền Trí
chỉ lỗi và khiển trách chúng ta để chúng
ta trở thành
người tốt, người
có đạo đức, thì công
ơn ấy rất nặng.
Phải không hỡi các bạn? Cũng
giống như người
chỉ chỗ chôn của
báu, nhờ đó
mà chúng ta trở thành giàu có. Do sự ích lợi này, nên đức Phật
khuyên
chúng ta:
“Nếu gặp bậc
hiền trí Chỉ lỗi và khiển trách Như chỉ chỗ chôn vàng”.
Đúng vậy, lời chỉ thẳng, nói thẳng là lời
vàng ngọc,
nhưng người đời không mấy ai hiểu biết,
như khi có người chỉ lỗi, khiển trách mình thì sanh tâm thù oán,
ghét hận, tìm cách
nói xấu và còn hãm hại họ. Có đúng vậy không các
bạn?
Đúng vậy,
khi chúng tôi vạch
trần những cái sai
trong các hệ
phái của Phật
giáo Đại
Thừa, Thiền
Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông và Nam Tông thì chúng tôi bị phản ứng ngay liền.
Phản ứng
rất mạnh. Họ không
những không tiếc lời mạt sát, mạ
lị chúng tôi, mà còn mượn kinh sách
Đại Thừa và Thiền Tông chống
đối chúng tôi kịch liệt. Nhưng chúng
tôi vẫn im lặng, vì biết họ đang mang nhiều kiến chấp
sai lầm của Đại Thừa và Thiền Tông.
Chúng tôi nghĩ rằng: cái gì đúng
là đúng, cái gì sai là sai, không thể có
ai bóp méo
nó được. Hiện giờ họ nói
gì cũng được, thời
gian sẽ trả lời với họ.
Chúng tôi không
có thời gian để
luận
bàn, vì còn phải làm biết bao
công việc để chấn
chỉnh lại Phật giáo,
làm cho Phật giáo
có một giáo trình tu
học từ lớp một đến lớp tám,
mà thời gian tuổi đời chúng tôi
còn quá ngắn, chúng tôi có thể kéo
dài thêm tuổi
thọ, nhưng sợ
chúng sanh cứ mãi làm ác thì không đủ phước với chánh pháp của Phật mà
họ chỉ luôn hướng về tà giáo của
ngoại đạo Bà
La Môn Đại Thừa.
Nếu như
thế, dù muốn
dù không buộc
lòng chúng tôi phải
ra đi trước khi hoàn
tất giáo trình.
Do bởi chúng
tôi là những người hiểu thật rõ luật nhân quả hơn ai hết; luật nhân quả linh động
thay đổi từng sát na. Chúng sanh có sống
thiện pháp
thì mới đủ duyên
với chánh pháp, còn ngược lại, sống trong ác pháp thì
không đủ duyên, chánh pháp không ra đời. Ngày xưa, đức Phật cũng
biết rõ luật
nhân quả như
thật, nhưng Ngài không thể bỏ chúng sanh vào Niết Bàn ngay
khi vừa tu chứng.
Ngày nay, chúng tôi
cũng vậy, phải
làm hết sức
mình, vì lòng yêu
thương không nỡ bỏ chúng
sanh lăn lộn trong
sóng gió ba
đào của biển
nhân quả. Chúng tôi biết rất
rõ điều chúng
tôi đang làm là một tiếng chuông
cảnh tỉnh sự sống trên hành tinh này.
Thưa các bạn! Chúng
tôi vạch ra những cái sai của Phật giáo là để chúng ta cùng nhau chung lưng đấu cật để chỉnh sửa lại cho Phật giáo được tốt đẹp hơn.
Từ lâu,
các bạn như những người
mù đi trong đêm tối; chúng
tôi hiện giờ
là những người cầm đuốc soi đường để cho các
bạn đi. Các bạn có biết chăng?
Bộ sách
Văn Hóa Phật
giáo gồm: Đường Về
Xứ Phật, Giới Đức Làm
Người, Mười Giới Đức
Thánh Sa Di, Những
Lời Phật dạy, Đạo
đức Làm Người,
Giới Đức Thánh
Tăng và Thánh Ni,
v.v.. Đó không
phải là những
bó đuốc soi đường cho các bạn sao? Thế sao có một
số bạn
không biết ơn lại còn nặng lời
cho chúng tôi dẹp sạch
Phật giáo, phỉ
báng, mạt sát Thầy Tổ; trong khi
đó các thầy Đại Thừa và Thiền Tông phạm
giới, phá giới, bẻ vụn giới tan
nát, khiến cho Phật
giáo suy đồi, lụn bại,
thế mà các bạn không có một tiếng nói để chặn đứng những hành động diệt Phật
giáo này.
Thưa các bạn! Phật
giáo phát triển
chạy theo cho hợp thời đại theo kiểu này (Đại Thừa), thì thử hỏi từ xưa cho đến
nay, sự phát
triển này đã mang lợi ích thiết thực gì cho con người hay chỉ
đưa con người
sống trong cảnh
ảo tưởng, mơ hồ, trừu tượng, biến con người sống trong mê tín, lạc hậu,
v.v.. tiền mất, tật mang, tổn hao công sức, làm việc nhảm nhí, phi đạo đức. Các
bạn có biết chăng?
Những vị Tổ,
Sư, Thầy nào đã có ý đồ chủ mưu diệt Phật
giáo bị chúng
tôi vạch mặt chỉ
tên để cho các bạn biết, thì có bạn lại có những lời lẽ cay độc và còn dùng luật nhân quả hù dọa
chúng tôi: “Đọa địa ngục, mang lông đội sừng”.
Chúng tôi đang cố gắng dựng lại những cái gì của Phật giáo đã bị dìm mất
và ném bỏ những cái gì không
phải của Phật
giáo. Trong khi các bạn
đang sắp chết
chìm trong dòng nước giáo pháp kiến giải, tưởng giải của
Bà La
Môn, Đại Thừa, Thiền
Tông, Mật Tông,
Tịnh Độ Tông và cả
Nam Tông nữa,
chúng tôi đem lợi ích cho các bạn mà
chỉ thấy toàn
là những lời lẽ
phi ơn, phi
nghĩa. Như vậy
có đúng không các bạn? Trái lại ở
đây thì đức Phật
khuyên:
“Hãy kết
thân người trí
Kết thân với
vị ấy
Chỉ có lợi
không hại”.
Thưa các bạn!
Các bạn nghĩ sao với những lời dạy này? Riêng chúng tôi, dám ăn, dám nói thì
dám chịu về những lời nói của chúng tôi, miễn
là chúng tôi
làm sáng tỏ lại Phật
giáo, làm cho Phật giáo tốt hơn,
đem lại lợi ích an vui hạnh phúc
cho cuộc sống của mọi người thì đó là niềm
hân hoan, vui sướng của chúng tôi, chứ
chúng tôi không
màng danh, lợi
và ơn nghĩa của các bạn, mong các
bạn hiểu cho.
TÂM BẤT ĐỘNG
LỜI PHẬT DẠY
“Như đá tảng
kiên cố Không gió nào lay động Cũng vậy giữa khen chê Người trí không dao động”.
Kinh Pháp Cú
CHÚ GIẢI:
Người tu
theo Đạo Phật, mục đích đạt được là phải giữ
gìn tâm bất động trước
các pháp và các cảm thọ.
Cho nên, trong
kinh Pháp Cú dạy:
“Như đá tảng
kiên cố
Không gió
nào lay động”.
Đúng vậy,
khi tu tập tâm
kiên cố như tảng đá
thì tám gió
thổi không động
(Bát phong xuy bất động). Muốn được tâm
bất động như vậy thì phải
biết pháp môn nào
tu tập sẽ
được
tâm bất
động, còn ngược lại
thì sẽ không đạt được.
Trong Phật giáo duy nhất chỉ có Giới luật là giúp
cho hành giả tu tập tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Trong giới luật
có những pháp môn
tu tập để
tâm được thanh tịnh gọi là
giới hành. Giới
hành còn có
tên là Tứ Chánh
Cần. Trong Tứ
Chánh Cần gồm có
bốn loại định:
1- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác
2- Định Sáng Suốt
3- Định Niệm Hơi Thở
4- Định Vô Lậu.
Nếu một người
tu hành thật kỹ bốn loại định này thì giới luật sống rất
nghiêm chỉnh, không hề vi
phạm một
lỗi nhỏ nhặt
nào. Giới luật thanh
tịnh tức là
tâm thanh tịnh;
tâm thanh tịnh tức là tâm bất động
như trong kinh Trường Bộ dạy:
“Giới luật làm
thanh tịnh trí tuệ, trí tuệ làm thanh tịnh giới luật”.
Như chúng ta
đã biết tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ là mục đích giải thoát của
Phật giáo. Vì thế, trong kinh Pháp Cú cũng dạy: “Cũng vậy giữa khen chê. Người
trí không dao động”. Tâm
không dao động là
mục đích
tu hành của
chúng ta, chúng
ta đã hoàn tất con đường giải
thoát.
Xem thế,
chúng ta mới thấy Phật giáo lấy đạo đức nhân bản –
nhân quả của
con người làm hàng đầu tu tập trong các pháp.
Tóm lại, bốn câu kệ này
nói rõ mục đích
tu chứng của Phật giáo cần phải đạt cho bằng được. Mặc
dù với bất cứ một
giá nào, ta
cũng phải giành phần
chiến thắng về
mình thì mới xứng đáng
là đệ tử của đức Phật, mới
đem lợi ích cho mình, cho người
và nhất là làm sáng tỏ lại Phật giáo
không bị những
lớp giáo lý của
các Tổ trù dập Đạo Phật từ lâu.
Bởi vì, chỉ cần có
một người tu chứng
quả A La Hán thì sẽ là một bằng chứng để chấn chỉnh lại Phật giáo. Nhưng ai tin
người này?
Thưa các bạn! Nếu muốn cho mọi
người tin thì phải thể hiện
thần thông, nhưng
thể hiện thần thông thì đức Phật không chấp nhận và cho đó là ngoại đạo
dùng thần thông lừa đảo người. Vả lại, mục đích của Đạo Phật là chỗ tu chứng
bất động tâm,
chứ không phải
thần thông. Vì thế,
đem thần thông
ra bảo chứng cho Phật giáo là
không đúng.
Vì muốn
hiểu biết điều này
(chứng quả A La Hán) nên vua Ba Tư Nặc hỏi đức Phật:
- Bạch
Thế Tôn! Những
vị khất sĩ đi
ngang qua đây muốn biết vị nào chứng quả A
La Hán thì phải làm sao?
Đức Phật trả
lời:
- Nên ở
gần bên họ từ một ngày đến bảy ngày, từ một tháng đến bảy tháng thì sẽ rõ.
Như vậy, lời
dạy này các bạn có hiểu ý của đức Phật không? Đó là đức Phật dạy các bạn muốn biết
người nào chứng quả A La
Hán thì nên quan sát
họ trước mặt
cũng như sau lưng có sống đúng những Đức Thánh giới hạnh
không? Nếu sống đúng là chứng quả A La Hán mà sống không đúng thì chưa chứng quả,
còn đang hướng đến quả A
La Hán. Chỗ giới đức thanh tịnh, đó chính
là tâm bất động trước các pháp
và các cảm thọ. Người
nào tâm bất động
thì đó là một vị Thánh đệ tử của Phật.
Cho nên,
bài kệ trên
đây xác định mục đích
tu chứng của Phật giáo rất đơn giản, tu tập
không có gì
khó khăn mệt nhọc, chỉ cần
biết các
pháp đều do
qui luật nhân
quả tác dụng, chứ chẳng có gì là
chân thật cả, cho nên khen chê đều cũng
như nhau chẳng có gì mừng
vui, chẳng
có gì buồn rầu. Phật giáo chỉ có bấy nhiêu đó thôi. Phải không các bạn?
“Như đá tảng
kiên cố Không gió nào lay động Cũng vậy giữa khen chê Người trí không dao động”.
NIẾT BÀN
LỜI PHẬT DẠY
“Hãy cầu vui
Niết Bàn Bỏ dục không nhiễm uế Kẻ trí tự rửa sạch
Mọi cấu uế nội
tâm”.
Pháp Cú Kinh
CHÚ GIẢI:
Tất cả các
pháp trên thế gian đều vô thường, mà
pháp vô thường là pháp
khổ. Pháp khổ từ dục
sinh ra. Dục là uế nhiễm,
bất tịnh. Do đó, chúng ta cần phải
bỏ tất cả dục; dục hết
là tâm bất động;
dục hết là hết khổ, là tâm an
vui.
Trên thế
gian không có
pháp nào mang đến cho chúng ta chân hạnh phúc trọn vẹn,
chỉ vì điên đảo mà chúng ta chạy theo các pháp vô thường tìm hạnh phúc trong
đó, cũng giống như chúng ta tìm lông
rùa, sừng thỏ,
có nghĩa là
tìm hạnh phúc
trong các pháp
vô thường thì không bao giờ có được.
Vì thế, đức Phật dạy: “Hãy cầu
vui Niết Bàn”. Vậy Niết
Bàn là cảnh
giới gì đây? Sao đức
Phật lại bảo
chúng ta hãy cầu vui Niết
Bàn?
Thưa các bạn!
Niết Bàn không phải là một cảnh giới, cũng không phải là một thế giới siêu
hình, cũng không phải cõi Thiên Đàng, Cực
Lạc hay bất cứ một cõi Trời nào, cũng không phải bản thể vũ trụ, Phật Tánh.
Niết Bàn là
một trạng thái tâm hết tham, sân,
si. Cho nên,
trong bốn chân
lý của Đạo Phật gọi nó là “Diệt Đế”. Diệt Đế là một
trạng thái tâm không
còn dục, không
còn ác pháp; tâm
bất động trước
các pháp và
các cảm thọ; tâm
thanh thản an, lạc và
vô sự. Trong
tâm bất động như vậy, nó
có một niềm
vui an lạc mà không có dục.
Vì nó mang
cho mọi người một chân hạnh phúc như vậy nên đức Phật dạy: “Hãy cầu vui Niết Bàn”. Nhưng muốn cầu vui Niết Bàn
thì phải làm sao?
Thưa các bạn!
Muốn cầu vui Niết Bàn thì đây là một
con đường mà mọi
người đều phải
bước đi bằng trí óc
và đôi chân của mình,
chứ không có người nào đi thay cho mình được. Đó là con đường Bát Chánh Đạo. Con đường
Bát Chánh Đạo chia ra làm ba cấp tu tập:
- Cấp I thuộc
về Giới Luật.
- Cấp II thuộc
về Thiền Định.
- Cấp III
thuộc về Trí Tuệ.
Mỗi cấp đều có
pháp học và
pháp hành. Sau khi học và
hành đúng, có
nghĩa là phải trải
qua ba cấp và tám lớp học,
thì tâm người ấy mới vô lậu hoàn
toàn, chứng quả A La Hán. Sự tu học của Phật giáo cũng giống như chương trình học
thức ngoài đời gồm có ba cấp:
1- Tiểu học
2- Trung học
3- Đại học
Mỗi cấp đều có nhiều lớp học, cuối
năm học mỗi lớp đều có thi chuyển lớp. Cuối mỗi cấp đều có thi
chuyển cấp hay
thi tốt nghiệp của cấp
đó. Ví như:
Tiểu học có bằng Tiểu học;
Trung học có bằng Trung học; Đại học có
bằng Đại học. Trong các cấp tu hành của Phật giáo cũng vậy:
- Cấp I Giới
Luật. Khi học hết cấp này
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
trọn vẹn
thì được “cấp bằng” Nhập Lưu
(Tu Đà Hoàn), còn
chưa học hết cấp
thì tùy ở sự hiểu biết, tu tập và giữ gìn giới luật được
nhiều hay ít, ít thì Hướng Lưu; nhiều thì Dự Lưu.
- Cấp II Tứ
Thánh Định. Tu học hết cấp này trọn vẹn thì mới được “cấp bằng” Bất Lai, còn
chưa trọn vẹn thì chỉ có “chứng chỉ” Thất
Lai (Tư Đà Hàm)
cao hơn một chút nữa
thì có “chứng chỉ” Nhất Lai (A Na Hàm).
- Cấp III
Trí Tuệ Tam Minh. Tu học hết cấp này
thì tâm vô lậu
hoàn toàn được “cấp bằng” Niết Bàn (A La Hán).
“Cấp bằng”
cao nhất trong Đạo Phật là Niết Bàn. Vì thế, đức Phật dạy: “Hãy cầu vui Niết
Bàn”. Xem thế, chúng ta thấy rất rõ con đường
tu theo Phật
giáo, tu tới
đâu có kết quả
tới đó.
Kết quả là sự giải
thoát đúng như thật
trong đời sống hằng
ngày của chúng
ta. Tu ít kết quả ít, tu
nhiều kết quả nhiều, nhưng
phải tu tập đúng pháp, đúng cách, cũng giống như chương trình học
ngoài đời vậy,
học tới đâu biết tới đó, học ít biết ít, học nhiều biết
nhiều.
Muốn đạt được
Niết Bàn theo như lời Phật
dạy:
“Bỏ dục
không nhiễm uế
Kẻ trí tự rửa
sạch
Mọi cấu uế nội
tâm”
Thưa các bạn!
Đọc ba câu kệ trên đây, chúng ta xét thấy pháp môn tu hành của Đạo Phật rất
đơn giản và
cũng không khó hiểu.
Phải không các bạn? Nhưng làm được việc
này là một kỳ công. Vậy bỏ dục không
nhiễm uế phải làm sao?
Muốn bỏ dục
không nhiễm uế, hay tự rửa sạch mọi cấu uế nội tâm
thì các bạn cần phải
tu tập Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Thân Hành
Niệm, tức là hằng ngày
phải ngăn ác diệt ác pháp, ly dục ly bất thiện pháp. Đó
là những phương pháp rửa sạch mọi cấu uế ở
nội tâm. Tuy lời nói
trong kinh Pháp Cú đơn
giản nhưng tu hành phải tận lực, nếu không tận lực tu tập
thì khó đạt được kết
quả như ý mong
ước.
Điều mà
các bạn cần
nên lưu ý: đó
là tu tập Tứ Chánh Cần, Tứ Niệâm
Xứ, Thân Hành Niệm, các bạn
không thiện xảo
là bị ức chế
tâm. Và ức chế tâm là các bạn không xả tâm. Không xả
tâm thì dục không
bao giờ hết. Cho nên phải lưu ý và quan tâm khi hành pháp.
KHI NÀO NGỒI KIẾT GIÀ TU TẬP
LỜI PHẬT DẠY
“Vị ấy thành
tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ
trì các căn này, thành tựu
Thánh chánh niệm tỉnh giác này.
Lựa một
trú xứ thanh
vắng, như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha
ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm.
Sau khi ăn xong và đi
khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết
già, lưng thẳng tại chỗ nói
trên, và an
trú chánh niệm trước mặt.
Vị ấy từ bỏ dục tham
ở đời, sống với
tâm thoát ly dục
tham, gọt rửa tâm hết dục tham.
Vị ấy từ bỏ sân hận,
vị ấy
sống với tâm không sân hận, lòng
từ mẫn thương xót tất cả
chúng sanh hữu tình, gọt rửa tâm hết sân hận.
Vị ấy từ bỏ
hôn trầm thùy miên, sống thoát ly
hôn trầm thùy miên,
với tâm tưởng hướng về
ánh sáng chánh niệm tỉnh giác,
gọt rửa tâm hết
hôn trầm thùy miên.
Vị ấy từ bỏ trạo cử, hối
quá, sống không trạo cử, nội tâm trầm
lặng, gọt rửa tâm hết trạo cử, hối quá.
Vị ấy từ bỏ nghi
ngờ, sống thoát khỏi nghi ngờ,
không phân vân,
lưỡng lự, gọt rửa tâm
hết nghi ngờ đối với
thiện pháp”.
(Kinh
Trung Bộ, tập 2, trang 24)
CHÚ GIẢI:
Đọc hết đoạn
kinh này, chúng ta thấy sự tu tập được chia
ra làm hai
giai đoạn. Giai đoạn tu thứ nhất,
chia làm ba pháp tu tập:
1- Thánh giới
uẩn
2- Thánh hộ
trì các căn
3- Thánh
chánh niệm tỉnh giác
Trong ba
pháp này tu tập như thế nào? Trước
tiên, chúng ta phải
tu
tập Thánh giới uẩn. Vậy Thánh giới uẩn là gì?
Thánh giới uẩn
là giới luật. Vì phải tu tập Thánh giới uẩn, do đó đức Phật khuyên bảo: “Phải hành trì học giới
và hạnh sống
các vị Tỳ Kheo”. Ở lời dạy này
chúng ta nên lưu ý: “Hành trì học giới và hạnh sống”.
Hành trì học giới nghĩa là gì? Là một hành giả tu theo Phật giáo
thì phải thông hiểu
giới luật. Muốn thông hiểu giới luật thì phải học giới
luật. Đây là bài kinh giới xin các bạn
nên học cho thuộc để biết hành trì cho đúng. Trong mỗi giới luật đều chia làm bốn phần:
1- Giới cấm
2- Giới hạnh
3- Giới đức
4- Giới hành
Giới cấm nghĩa là gì? Giới cấm là một điều luật bắt buộc mỗi tín đồ
không được vi phạm,
nếu ai vi phạm
thì không được chấp nhận là tín
đồ Phật
giáo nữa. Giới cấm giống như
pháp luật trong
một nước, mà mỗi công dân
trong nước đó phải chấp
hành, tuân thủ,
không được vi phạm, nếu ai vi
phạm thì sẽ bị toà án kết tội, nặng nhẹ
tùy theo bộ luật đã qui định.
Giới hạnh
là gì? Giới hạnh là những hành động không
vi phạm giới luật, là những
hành động cao quý không
làm khổ mình,
khổ người và khổ tất cả chúng sanh, là những hành động ôn tồn nhã nhặn, khiêm hạ, từ tốn, dịu dàng,
an ủi, xoa dịu những vết thương của mọi
người và
tất cả chúng
sanh, là những
hành động không làm
trái với lương
tâm của mình,
v.v..
Giới đức là
gì? Giới đức là
đức từ, đức bi,
đức hỷ, đức xả, đức
nhẫn nhục, đức
tùy thuận, đức bằng lòng, đức hiếu sinh,
đức buông xả, đức ly tham, đức ly
dục, v.v..
Trong bài kinh giới này gồm có nhiều giới
cấm:
- Giới thứ
nhất: Cấm sát sanh có nghĩa là
không được
giết hại chúng
sanh, từ con người cho đến những loài vật nhỏ bé, nói
chung là không được giết hại con vật
nào cả. Giết hại
một con vật chết thì không thể nào tránh khỏi quả báo bị giết hại trở lại. Ví dụ:
một người ăn thịt chúng sanh,
bị ghép vào
hai tội. Tội thứ
nhất là tội
giết mạng sống; tội thứ hai là tội chiếm hữu mạng sống. Căn cứ theo luật nhân
quả thì người ăn thịt chúng sanh sẽ bị giết hại và bị ăn thịt trở lại.
Nếu liệt kê
tất cả các giới ra đây
thì trở thành bộ kinh giới, nên xin các bạn vui lòng nghiên cứu Mười Giới
Đức Thánh Sa Di, Một Trăm Hai Mươi
Giới Đức Thánh
Tăng, Ni thì sẽ rõ,
còn ở đây
chúng tôi chỉ
nêu lên một số
giới tượng trưng để sau này các bạn
nghiên cứu bộ giới mới hiểu biết đầy đủ hơn.
1- Không tham lam trộm cắp.
2- Không dâm dục.
3- Không nói láo.
4- Không nói hai chiều.
5- Không nói lời hung ác.
6- Không nói lời phù phiếm.
7- Không làm hại hạt giống.
8- Không làm hại cây cỏ.
9- Ăn ngày một bữa.
10- Không ăn
uống phi thời.
11- Không ăn
ban đêm.
12- Không đi
xem múa hát.
13- Không
trang sức vòng hoa hương liệu.
14- Không nằm
giường cao rộng lớn.
15- Không nhận
vàng bạc tiền của cải.
16- Không nhận
các hạt giống.
17- Không nhận
thịt.
18- Không nhận
đàn bà con gái.
19- Không nhận
nô tỳ trai hay gái.
20- Không nhận
cừu dê.
21- Không nhận
gia cầm, heo.
22- Không nhận
bò voi ngựa.
23- Không nhận
ruộng vườn đất đai.
24- Không
làm môi giới.
25- Không
buôn bán.
26- Không
gian lận bằng cân đo, tiền bạc.
27- Không ăn
hối lộ.
28-
Không làm tổn
thương cho chúng sanh.
29- Ít muốn,
biết đủ.
Giới
hành là gì? Giới
hành là những pháp môn thực hành để tâm ly dục ly ác pháp, để sống không làm khổ mình khổ người và khổ
cả hai, để tâm
thanh thản an lạc
và vô sự, để
tâm không phóng dật, để tâm vô lậu, để tâm có đủ Tứ Như Ý Túc, để tâm có đủ Tam
Minh.
Các giới
hành gồm có: Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ
Vô Lượng Tâm, Tứ
Chánh Cần, Tứ Niệm
Xứ, Tứ
Như Ý Túc,
Thất Giác Chi,
Ngũ Căn, Ngũ Lực. Như
vậy tất cả
pháp trên đây được
gọi là 37 phẩm trợ đạo.
Trên đây là
Thánh giới uẩn, một người tu hành để
tìm cầu sự giải thoát mà không thành tựu
Thánh giới uẩn
này thì con đường
giải thoát không bao giờ
tìm thấy được. Cho nên, đức Phật dạy: “Vị ấy thành tựu Thánh giới
uẩn này”. Thành tựu Thánh giới uẩn là
thành tựu phần một
trong giai đoạn tu
tập thứ nhất mà
người tu sĩ cần phải
nhiếp phục tâm
mình và giữ gìn trọn vẹn những Thánh giới này.
Về phần thứ
hai trong giai đoạn một là phần Thánh hộ trì các căn mà các bạn đã được học và
tu tập trong tập II và tập III Những Lời Gốc Phật Dạy. Vậy phần này chúng tôi
không cần giảng dạy trở lại. Nhưng các bạn
phải nhớ lời dạy của Phật:
“Thành tựu Thánh
hộ trì các căn
này”. Muốn tu tập
làm chủ sanh tử
luân hồi mà không thành tựu Thánh hộ trì các
căn này thì
chẳng bao giờ nếm được mùi vị giải thoát.
Khi đã thành
tựu được phần
thứ hai thì tiếp
tục tu tập phần thứ
ba trong giai
đoạn một. Phần thứ ba này không kém phần quan trọng như hai phần trên. Nếu
không tập chánh niệm tỉnh giác
thì sức tỉnh thức
không có. Sức tỉnh thức không có thì si mê sẽ hiện rõ
qua những trạng thái
thuỳ miên, hôn trầm, hôn tịch, vô ký, ngoan không, v.v.. Bởi vậy
người tu sĩ phải tu tập nhiều
về Chánh niệm tỉnh giác, như
đức Phật đã dạy: “Thành
tựu Thánh chánh niệm
tỉnh giác này”. Chỉ
khi nào thành tựu
Chánh niệm tỉnh
giác tức là
chúng ta không còn ngủ nghỉ phi
thời, không còn hôn trầm
thùy miên tấn
công thì chúng ta mới tu tập xong giai đoạn một. Tu tập như vậy mới
có căn bản, mới có kết quả hiện thực tốt đẹp, mới có niềm
tin sâu về Phật
pháp, mới thấy
Phật pháp không dối người.
Tu tập xong
giai đoạn thứ nhất, chúng ta mới bắt đầu
tu tập giai
đoạn hai. Bước qua tu tập ở
giai đoạn hai, trước tiên chúng ta nên tìm một nơi
cho xứng hợp với pháp
môn tu tập trong
giai đoạn này. Nơi xứng hợp để tu tập ở giai đoạn hai là nơi như thế
nào, chúng ta hãy
nghe đức Phật
dạy: “Lựa một trú xứ thanh vắng, như
khu rừng, gốc cây,
khe núi, hang đá, bãi tha ma,
lùm cây ngoài trời, đống rơm, v.v..”. Như vậy, rõ ràng Phật dạy chúng ta tìm
nơi vắng
vẻ yên tịnh để tu tập
giai đoạn hai mới có kết quả. Vậy nơi chốn
chúng ta
đã tìm được rồi thì
đây là thuận duyên
còn nếu nghịch
duyên thì chúng ta phải
làm sao?
Thưa các bạn!
Nếu chưa có nơi thanh tịnh vắng lặng để
tu tập ở
giai đoạn hai thì chúng ta nên tu tập trở lại ở giai đoạn một cho thấm nhuần giới luật, đức hạnh hiện bày, cho phòng hộ
sáu căn miên mật hơn
và cho chánh niệm tỉnh giác cao hơn nữa.
Nếu vị trí
thanh tịnh để tu tập chưa có mà vội vàng tu thì tu cũng chẳng có kết quả gì. Vì thế đức Phật dạy: “Lựa một trú xứ
thanh vắng, như khu
rừng, gốc cây, khe
núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm, v.v..”.
Đó là nơi lý tưởng
tu tập ở giai đoạn hai. Là một tu sĩ đệ tử của
đức Phật, khi đức Phật dạy như vậy thì chúng ta hãy tin tưởng
và làm theo cho đúng lời dạy này.
Đọc đoạn kinh
trên chúng ta
quan sát thấy rất rõ đức Phật dạy
tu tập từng giai đoạn một, giai đoạn này
tu xong mới tu tập đến giai đoạn khác.
Sau khi tìm
được vị trí thanh vắng,
yên tịnh, nhưng chúng ta cũng
chưa vội tu, mà hãy theo lời đức Phật dạy là
phải xin cơm ăn
cho no bụng. Khi ăn xong rồi
mới vào vị trí
thanh vắng đó, bắt đầu tu tập. Còn nếu chưa ăn
cơm xong mà vội tu tập thì bụng đói
sẽ khó tu tập. Vì thế, đức Phật dạy: “Sau khi ăn xong và đi khất thực trở
về, vị ấy ngồi kiết
già, lưng thẳng tại chỗ
nói trên, và
an trú chánh niệm
trước mặt”, nghĩa
là đi khất
thực rồi đến một
nơi nào đó
ăn cơm. Sau khi ăn cơm xong
ta nên nghỉ
ngơi một chút
cho tiêu hóa cơm và thực phẩm,
khoảng độ 30
phút hoặc một giờ thì chúng ta mới
đến vị trí thanh vắng để tu tập.
Bài pháp
này đức Phật dạy chúng
ta tu tập rất rõ ràng từng chi tiết.
Bắt đầu khởi sự tu tập thì phải thực
hiện cho bằng được “Thánh giới uẩn”.
Khi giới luật
được nghiêm trì, không còn vi
phạm thì tiếp tục
tu tập “Hộ trì các căn”. Khi hộ trì các căn nghiêm
chỉnh, các căn không còn dính mắc các trần
thì tiếp tục tu
tập cho bằng
được “Chánh Niệm Tỉnh
Giác” để phá sạch
hôn trầm, thùy
miên, vô ký.
Xin các bạn lưu ý ba pháp trên đây và tu tập cho đúng bài bản thì kết
quả giải thoát
không thể lường được. Đó
là một nền tảng tu tập vững chắc bảo đảm sự giải thoát sẽ đến với
các bạn ngay liền, ở trong tầm tay các bạn.
Trong sự tu tập các bạn nên nhớ là phải thiện
xảo, linh động uyển chuyển khéo
léo thay đổi pháp
theo từng tâm niệm của mình.
Cố định pháp, cố định giờ giấc thành ra tu tập ức chế. Đạo
Phật dạy chúng ta chế ngự
thân tâm, chứ
không phải ức chế thân tâm. Chế ngự thân tâm chắc các bạn rõ chứ!
Sau khi
thành tựu những
pháp này rồi, mới bắt đầu tìm nơi thanh vắng yên tịnh
tức là nhập thất tu
hành ở giai
đoạn thứ hai. Ở
giai đoạn thứ hai “Sau
khi ăn xong
và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết già, lưng
thẳng tại chỗ nói
trên, và an
trú chánh niệm trước mặt”. Ở giai
đoạn này có ba việc
cần
làm:
1/ Ăn cơm xong tức
là giờ trưa
(giờ ngọ), khoảng 12 giờ
và nghỉ trưa
30 phút, tắm giặt
30 phút nữa
tức là 1 giờ. Đúng 1 giờ bắt đầu tu tập. Vậy vào giờ này tu tập cái gì? Theo
như lời
Phật dạy:
“Vị ấy ngồi
kiết già, lưng thẳng tại chỗ
nói trên” nghĩa là chúng ta phải tập luyện ngồi tréo chân kiết già và giữ lưng
thẳng cho được, tại nơi thanh
vắng yên tịnh
đã chọn trước.
Thưa các bạn! Đây
là giai đoạn thứ
hai của sự tu tập, các bạn nên nhớ kỹ: thứ nhất là tập ngồi
kiết già, lưng thẳng.
Đó cũng là một
phương pháp tu tập để giữ gìn
thân bất động trong tư thế tỉnh thức. Ở giai đoạn tu tập này, các bạn nên khép chặt thân bạn trong tư
thế ngồi kiết già thì mới dễ nhiếp tâm an trú trong chánh niệm tỉnh giác. Nếu
các bạn quá dễ dãi không khép chặt
thân trong tư thế ngồi
kiết già này thì các bạn khó mà an trú tâm.
Cần phải tập ngồi vững vàng từ 5 phút
đến 30 phút. Trong
khi vừa tập ngồi
kiết già vừa nhiếp
tâm an trú
chánh niệm trước
mặt mình, như đức
Phật đã dạy:
“Và an trú chánh
niệm trước mặt”.
Như vậy, chánh niệm trước mặt là niệm gì? Có phải là
niệm hơi thở vô, hơi thở ra không?
Thưa các bạn! Không
phải niệm hơi thở
vô, hơi thở ra mà là niệm từ bỏ tâm dục tham ở đời, sống
thoát ly dục tham,
gọt rửa tâm hết
dục tham
các bạn ạ!
Các bạn có tin
lời chúng
tôi nói
này không? Nếu
không tin thì các bạn hãy
nghe đức Phật
dạy: “Vị ấy từ bỏ dục
tham ở đời,
sống với tâm
thoát ly dục tham, gọt rửa tâm
hết dục tham”. Như
vậy rõ ràng đức Phật dạy chúng ta đặt chánh niệm tỉnh thức
là niệm từ bỏ, thoát
ly, gọt rửa dục
tham. Niệm tu tập như vậy không
giống như kinh sách Đại Thừa và
Thiền Tông chút nào. Phải không các bạn?
Các bạn nên
lưu ý ở chỗ chánh niệm đặt trước mặt mà đức
Phật đã
dạy đó là “niệm
từ bỏ dục tham, niệm thoát ly dục
tham, niệm gọt rửa hết dục tham”. Ba niệm này là ba pháp được đặt trước
mặt bạn quán xét để bạn từ
bỏ, thoát ly
và gọt rửa
tâm dục tham của
bạn. Khi tâm tham dục hết là bạn được giải thoát.
Con đường tu
hành theo Phật giáo thật là đơn giản chỉ có tìm
chỗ thanh vắng,
ngồi kiết già, lưng
thẳng, an trú
chánh niệm từ bỏ,
chánh niệm thoát
ly và chánh
niệm gọt rửa tâm
dục tham của bạn. Chỉ
có bấy nhiêu
đấy thôi mà quý bạn sẽ thấy một cuộc đời
giải thoát, một bầu trời an lạc hạnh phúc tuyệt vời mà
người thế tục
không thể nào ngờ được, không thể nào hưởng được.
Ôi! Được
sinh làm người là khó, gặp được chánh Phật pháp
còn khó hơn.
Thế mà được làm người, được gặp chánh Phật pháp,
chúng ta lại không tu tập thì quá
uổng phí một đời
người. Phải không hỡi các bạn? Chúng tôi phải thành thật tiếc thay cho các bạn
đấy!!! Các bạn có biết không?
Chúng tôi cũng từ pháp
này tu tập sáu tháng làm chủ
sinh, già, bệnh, chết.
Khi các bạn
tu tập đã từ bỏ,
thoát ly và gọt rửa tâm dục tham của bạn xong thì các
bạn lại tiếp tục đặt những
niệm khác như: từ bỏ tâm sân hận, sống với tâm không sân hận, gọt
rửa tâm hết sân hận và luôn luôn khởi lòng từ mẫn thương
xót tất cả
chúng sanh loài hữu
tình. Có tu tập
như vậy mới đúng
theo lời đức Phật
đã dạy: “Vị ấy từ bỏ sân hận, vị ấy
sống với
tâm không sân hận,
vị ấy
sống lòng từ mẫn thương xót tất cả
chúng sanh hữu tình, vị ấy, gọt rửa tâm hết sân hận”.
Khi các bạn
tu tập từ bỏ tâm
sân hận, sống với tâm không sân hận,
gọt rửa tâm hết sân hận và sống với lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng
sanh loài hữu
tình xong thì các bạn lại tiếp tục tu tập quét sạch hôn trầm thùy miên, theo như lời đức Phật đã dạy: “Vị ấy từ
bỏ hôn trầm thùy miên, sống
thoát ly hôn
trầm
thùy miên, với tâm tưởng hướng
về ánh sáng chánh niệm
tỉnh giác, gọt rửa
tâm hết
hôn trầm thùy miên”. Các
bạn cứ theo lời dạy
này mà đặt niệm hôn trầm thùy miên
trước mặt mà
tác ý tu tập thì sẽ
không còn thùy miên và hôn trầm nữa.
Tất cả
các bạn về
tu viện Chơn
Như tu tập, hầu hết các bạn đều bị hôn trầm thùy miên tấn công dữ dội, cuối cùng các bạn đều là những người
lính chiến bại ở mặt trận này. Các bạn có biết tại
sao các bạn thất
trận không? Các bạn thất trận là
vì các bạn không theo lời Phật dạy tu tập đúng cách xả tâm.
Khi tu tập
phá dẹp hôn trầm
thùy miên đã không còn nữa thì các bạn tiếp tục tu tập từ
bỏ trạo
cử, hối quá
theo như lời đức Phật
đã dạy: “Vị ấy từ bỏ trạo cử, hối
quá, sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng,
gọt rửa tâm hết trạo
cử, hối quá”.
Cứ theo lời dạy
này mà
đặt niệm trạo cử, hối
quá dùng pháp như lý tác ý mà quét cho sạch trạo cử hối
quá.
Khi tu tập
phá dẹp trạo cử, hối quá đã
không còn nữa thì các bạn tiếp tục tu tập từ bỏ nghi ngờ theo như lời đức Phật
đã dạy: “Vị ấy từ bỏ
nghi ngờ, sống
thoát khỏi nghi ngờ,
không phân
vân, lưỡng lự, gọt rửa tâm hết
nghi ngờ đối
với thiện pháp”.
Trên đây
là phương pháp
tu tập để dẹp
sạch và
đoạn dứt năm triền
cái. Khi dứt sạch năm
triền cái thì các
bạn đã chứng
đạo quả giải thoát không còn
nghi ngờ gì nữa. Các bạn hãy nên
theo thứ lớp tuần tự các pháp trên đây mà
tu tập cho kỹ
lưỡng, đừng tu tập vội
vàng; không tu tập
thì thôi mà đã
tu tập thì phải
tu tập cho có chất lượng, cho có căn bản, chứ đừng tu tập lấy có, vừa uổng
công sức vừa phí uổng cuộc đời; mang
tiếng đi tu
mà chẳng làm chủ
sanh, già, bệnh,
chết và không
chấm dứt tái sanh luân hồi thì rất nhục nhã, cũng giống
như các thầy Đại Thừa và Thiền Tông vậy.
nhập định thì đâu
dễ gì lường
gạt họ được. Kinh sách Nguyên Thủy của Phật giáo đã
xác định tiêu chuẩn và phương pháp nhập định như thế nào rất rõ ràng, tại sao
các bạn không chịu khó nghiên cứu, để không bị những người háo danh lừa đảo.
Cho nên, đức Phật dạy: “Nếu tu tập có đạo
lý gì thì không được nói ra,
chỉ nói ra khi thấy mình có lỗi lầm để phát lồ sám hối
ăn năn chừa bỏ
không tái phạm lại nữa”. Đó là những điều đức Phật nhắc nhở
chúng ta
hằng ngày. Bởi vậy, kinh Pháp
Cú
dạy:
“Mình ngu
nghĩ mình ngu
Nhờ vậy
thành có trí”.
Đúng vậy, hằng
ngày chúng ta nên xét lại mình thấy có những điều
làm cho mình khổ, làm cho người khác khổ thì hãy mau ngăn
chặn và diệt chúng cho tận
gốc, bằng cách
tư duy quán xét. Và phải luôn luôn xấu hổ khi có một hành động, một
lời nói hay một ý nghĩ làm cho mình khổ, làm cho người khác khổ hay tất cả
chúng sanh khổ thì phải hối hận ăn năn từ bỏ. Người biết tu tập những việc này
là người biết mình ngu tức là người có
trí đấy các bạn ạ!
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Trong cuộc đời tu hành theo Phật giáo chỉ có trầm
tư suy nghĩ tìm cái
ngu của mình để lần
lần khắc phục sửa sai những lỗi lầm. Đấy là người có trí các bạn ạ.
Còn ngược lại,
người ngu mà không biết mình ngu là người rất
ngu. Tất cả
các pháp trên thế gian này đều vô thường, không có vật gì thường
hằng bất biến,
không có vật
gì là mình, là của mình,
thế mà cứ lầm chấp
là mình, là của
mình. Do sự lầm chấp như vậy,
mà lao đầu vào chốn dầu sôi nước bỏng để chịu lấy những sự khổ đau bất tận cũng
giống như loài thiêu thân
lăn mình vào
ánh sáng của ngọn
đèn. Đó là những người
ngu mà không biết mình ngu. Còn biết bao nhiêu sự ngu trong thế gian
này nữa, như người chết
là tan hoại hết không có tàn dư một chút xíu thức
nào cả. Vậy mà, từ trong các tôn giáo cho đến những người có học thức cùng những người không học thức, đều
cho rằng người chết
còn có linh hồn bất
diệt, nên từ đó họ bỏ tiền bạc
tiêu hao về vấn đề
này một cách
nhảm nhí rất
đáng thương. Họ thường cầu
siêu, đốt tiền,
vàng mã
... cho người
chết, họ làm những điều mê tín lạc hậu.
Đó là những
người ngu mà
không biết
mình ngu, thật
là người chí
ngu đáng thương
vậy.
Thưa các bạn! Những
điều chúng tôi vừa
nói trên đây, có lẽ là lời nói quá thẳng thắn, dùng chữ
ngu si quá nặng nề,
khiến cho các bạn tự
ái không vui
lòng. Có phải vậy không các bạn? Xin các bạn vui lòng tha thứ
cho. Nếu không dùng lời nói
thẳng thiếu văn
hóa, kém lịch sự như vậy
thì mọi người cứ nghĩ
mình là người khôn ngoan, thì tệ
nạn mê tín lại còn tệ hại hơn nữa.
Xin các bạn
cứ suy ngẫm lại
thì xét thấy lời nói thẳng của
chúng tôi là một lời
chân thật, đầy lòng yêu thương của chúng tôi gửi đến các bạn, để trên đời này chúng ta không còn là người ngu
nữa. Phải không hỡi các bạn?
HẠNH VÀ MINH
LỜI PHẬT DẠY
Với Minh và
với Hạnh, thành tựu hai
pháp này. Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo đạt đến cứu cánh của cứu cánh:
1/ Cứu cánh
an ổn khỏi khổ ách.
2/ Cứu cánh
Phạm hạnh.
3/ Cứu cánh
mục đích.
Bậc tối
thượng giữa chư
Thiên và loài Người.
(Tăng Chi Bộ
Kinh, tập 4, trang 663)
CHÚ GIẢI:
Xét duyệt
qua đoạn kinh này có ba
cứu cánh:
1/ Cứu cánh
an ổn khỏi khổ
ách là do chánh
tri kiến. Chánh tri kiến là sự hiểu biết mọi vật như thật, do hiểu biết mọi vật
như thật nên mọi khổ ách đều được hóa giải.
Vì vậy, gọi
là cứu
cánh an ổn khỏi khổ
ách tức là
MINH GIẢI THOÁT.
2/ Cứu cánh
Phạm hạnh là do giới luật. Một tu sĩ sống đúng
giới luật, không
hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào
là có giải
thoát ngay liền. Giới ly dục ly ác pháp mà tâm ly dục ly ác
pháp là tâm bất động,
tâm bất động
là tâm không phóng
dật. Do giới
luật mà tâm được giải thoát nên gọi là HẠNH GIẢI
THOÁT, tức là Cứu Cánh Phạm Hạnh.
3/ Cứu cánh
mục đích là tri kiến và giới luật. Giới luật ở
đâu là tri kiến ở đó, tri kiến ở
đâu là giới luật ở
đó, “Tri kiến làm thanh tịnh giới
luật, giới luật
làm thanh tịnh tri kiến”.
Đó là cứu cánh giữa MINH và HẠNH nên gọi
là cứu cánh mục đích.
Trên đây, là
nói về giai đoạn mới bắt đầu vào tu tập giới
luật bằng tri kiến,
còn ở giai đoạn hai và ba thì đoạn kinh này đức Phật
dạy “Minh và Hạnh”. Minh và
Hạnh đạt được là cứu cánh của cứu
cánh. Vậy Minh và
Hạnh là
gì?
Minh là trí tuệ
Tam Minh; Hạnh là đức hạnh
không làm khổ
mình, khổ người
và khổ tất cả
chúng sanh, hay nói cách
khác Hạnh là
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Giới luật.
(Xem thêm nghĩa
Minh Hạnh Túc trang 130).
Cho nên, người
tu theo Phật giáo đầu tiên cần phải đạt được Đức Hạnh của Giới luật. Đức hạnh của
giới luật đó là hạnh ly dục ly ác pháp. Hạnh ly dục ly ác pháp là hạnh bất động tâm. Hạnh bất động tâm là tâm định
tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng.
Từ tâm
này chúng ta mới
có đủ
năng lực nhập Bốn Thánh
Định và thực hiện Tam Minh.
Như trên
đã nói Hạnh tức là Giới luật rất
quan trọng cho
con đường tu tập theo
Phật giáo. Phải không các bạn?
Không có Giới
luật thì thiền định và Tam Minh không
bao giờ có. Vì vậy,
các
bạn nên hiểu Hạnh là
nền tảng đạo đức
của Phật
giáo, còn Minh là kết quả cuối cùng của con đường tu tập giải thoát của
Phật giáo, nên đức Phật bảo: “Này
các Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo đạt đến cứu cánh
của cứu cánh”.
Xin các bạn
tu theo Phật giáo
nên lưu ý điều này: Hạnh mà
không sống đúng thì không làm sao có Minh. Người có Giới hạnh không thể
nào tu tập lạc vào tà pháp ngoại đạo. Thấy ai
sống không đúng giới
hạnh là biết ngay là người ấy tu
tập rơi vào tà pháp ngoại đạo.
Cho nên,
Minh và Hạnh là thước đo sự tu tập của Tăng
Ni và Cư sĩ, là
tiêu chuẩn duyệt xét sự chứng quả của họ. Do đó, những
người tu giả, tu thật chúng ta đều biết rất rõ. Biết rõ để làm gì các
bạn? Nếu người
thật tu, thật
chứng thì chúng ta xin được thân cận; nếu
người tu giả thì từ giã xa lánh.
BẬC HIỀN TRÍ
LỜI PHẬT DẠY
“Nếu gặp bậc
hiền trí Chỉ lỗi và khiển trách Như chỉ
chỗ chôn vàng Hãy kết thân người trí Kết thân với vị ấy
Chỉ có lợi
không hại”.
Kinh Pháp Cú
(VI-
Panditavagga –Phẩm Hiền Trí)
CHÚ GIẢI:
Thưa các bạn!
Trong cuộc đời, gặp được những bậc Hiền
Trí rất khó, bởi vì
những bậc ấy dám
nói thẳng, dám chỉ lỗi,
dám khiển trách những chỗ sai lầm
của cuộc đời cũng như
trong Đạo, để cho mọi
người biết mà cố gắng
sửa sai. Sửa
đời, sửa đạo. Đời và Đạo
chưa bao giờ toàn thiện, toàn mỹ cả, chỉ nhờ vào bàn tay của con người
uốn nắn sửa
sai những lỗi lầm
thì mới
có ngày được toàn thiện toàn mỹ. Việc làm này không phải một người mà phải nhiều
người; nhiều người mà phải sống đoàn kết với nhau thì mới làm được; nhưng không phải
làm nhanh chóng được mà phải nhiều năm tháng, trường kỳ sửa sai và uốn nắn
những lỗi lầm của mình.
Bậc Hiền Trí
chỉ lỗi và khiển trách chúng ta để chúng
ta trở thành
người tốt, người
có đạo đức, thì công
ơn ấy rất nặng.
Phải không hỡi các bạn? Cũng
giống như người
chỉ chỗ chôn của
báu, nhờ đó
mà chúng ta trở thành giàu có. Do sự ích lợi này, nên đức Phật
khuyên
chúng ta:
“Nếu gặp bậc
hiền trí Chỉ lỗi và khiển trách Như chỉ chỗ chôn vàng”.
Đúng vậy, lời chỉ thẳng, nói thẳng là lời
vàng ngọc,
nhưng người đời không mấy ai hiểu biết,
như khi có người chỉ lỗi, khiển trách mình thì sanh tâm thù oán,
ghét hận, tìm cách
nói xấu và còn hãm hại họ. Có đúng vậy không các
bạn?
Đúng vậy,
khi chúng tôi vạch
trần những cái sai
trong các hệ
phái của Phật
giáo Đại
Thừa, Thiền
Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông và Nam Tông thì chúng tôi bị phản ứng ngay liền.
Phản ứng
rất mạnh. Họ không
những không tiếc lời mạt sát, mạ
lị chúng tôi, mà còn mượn kinh sách
Đại Thừa và Thiền Tông chống
đối chúng tôi kịch liệt. Nhưng chúng
tôi vẫn im lặng, vì biết họ đang mang nhiều kiến chấp
sai lầm của Đại Thừa và Thiền Tông.
Chúng tôi nghĩ rằng: cái gì đúng
là đúng, cái gì sai là sai, không thể có
ai bóp méo
nó được. Hiện giờ họ nói
gì cũng được, thời
gian sẽ trả lời với họ.
Chúng tôi không
có thời gian để
luận
bàn, vì còn phải làm biết bao
công việc để chấn
chỉnh lại Phật giáo,
làm cho Phật giáo
có một giáo trình tu
học từ lớp một đến lớp tám,
mà thời gian tuổi đời chúng tôi
còn quá ngắn, chúng tôi có thể kéo
dài thêm tuổi
thọ, nhưng sợ
chúng sanh cứ mãi làm ác thì không đủ phước với chánh pháp của Phật mà
họ chỉ luôn hướng về tà giáo của
ngoại đạo Bà
La Môn Đại Thừa.
Nếu như
thế, dù muốn
dù không buộc
lòng chúng tôi phải
ra đi trước khi hoàn
tất giáo trình.
Do bởi chúng
tôi là những người hiểu thật rõ luật nhân quả hơn ai hết; luật nhân quả linh động
thay đổi từng sát na. Chúng sanh có sống
thiện pháp
thì mới đủ duyên
với chánh pháp, còn ngược lại, sống trong ác pháp thì
không đủ duyên, chánh pháp không ra đời. Ngày xưa, đức Phật cũng
biết rõ luật
nhân quả như
thật, nhưng Ngài không thể bỏ chúng sanh vào Niết Bàn ngay
khi vừa tu chứng.
Ngày nay, chúng tôi
cũng vậy, phải
làm hết sức
mình, vì lòng yêu
thương không nỡ bỏ chúng
sanh lăn lộn trong
sóng gió ba
đào của biển
nhân quả. Chúng tôi biết rất
rõ điều chúng
tôi đang làm là một tiếng chuông
cảnh tỉnh sự sống trên hành tinh này.
Thưa các bạn! Chúng
tôi vạch ra những cái sai của Phật giáo là để chúng ta cùng nhau chung lưng đấu cật để chỉnh sửa lại cho Phật giáo được tốt đẹp hơn.
Từ lâu,
các bạn như những người
mù đi trong đêm tối; chúng
tôi hiện giờ
là những người cầm đuốc soi đường để cho các
bạn đi. Các bạn có biết chăng?
Bộ sách
Văn Hóa Phật
giáo gồm: Đường Về
Xứ Phật, Giới Đức Làm
Người, Mười Giới Đức
Thánh Sa Di, Những
Lời Phật dạy, Đạo
đức Làm Người,
Giới Đức Thánh
Tăng và Thánh Ni,
v.v.. Đó không
phải là những
bó đuốc soi đường cho các bạn sao? Thế sao có một
số bạn
không biết ơn lại còn nặng lời
cho chúng tôi dẹp sạch
Phật giáo, phỉ
báng, mạt sát Thầy Tổ; trong khi
đó các thầy Đại Thừa và Thiền Tông phạm
giới, phá giới, bẻ vụn giới tan
nát, khiến cho Phật
giáo suy đồi, lụn bại,
thế mà các bạn không có một tiếng nói để chặn đứng những hành động diệt Phật
giáo này.
Thưa các bạn! Phật
giáo phát triển
chạy theo cho hợp thời đại theo kiểu này (Đại Thừa), thì thử hỏi từ xưa cho đến
nay, sự phát
triển này đã mang lợi ích thiết thực gì cho con người hay chỉ
đưa con người
sống trong cảnh
ảo tưởng, mơ hồ, trừu tượng, biến con người sống trong mê tín, lạc hậu,
v.v.. tiền mất, tật mang, tổn hao công sức, làm việc nhảm nhí, phi đạo đức. Các
bạn có biết chăng?
Những vị Tổ,
Sư, Thầy nào đã có ý đồ chủ mưu diệt Phật
giáo bị chúng
tôi vạch mặt chỉ
tên để cho các bạn biết, thì có bạn lại có những lời lẽ cay độc và còn dùng luật nhân quả hù dọa
chúng tôi: “Đọa địa ngục, mang lông đội sừng”.
Chúng tôi đang cố gắng dựng lại những cái gì của Phật giáo đã bị dìm mất
và ném bỏ những cái gì không
phải của Phật
giáo. Trong khi các bạn
đang sắp chết
chìm trong dòng nước giáo pháp kiến giải, tưởng giải của
Bà La
Môn, Đại Thừa, Thiền
Tông, Mật Tông,
Tịnh Độ Tông và cả
Nam Tông nữa,
chúng tôi đem lợi ích cho các bạn mà
chỉ thấy toàn
là những lời lẽ
phi ơn, phi
nghĩa. Như vậy
có đúng không các bạn? Trái lại ở
đây thì đức Phật
khuyên:
“Hãy kết
thân người trí
Kết thân với
vị ấy
Chỉ có lợi
không hại”.
Thưa các bạn!
Các bạn nghĩ sao với những lời dạy này? Riêng chúng tôi, dám ăn, dám nói thì
dám chịu về những lời nói của chúng tôi, miễn
là chúng tôi
làm sáng tỏ lại Phật
giáo, làm cho Phật giáo tốt hơn,
đem lại lợi ích an vui hạnh phúc
cho cuộc sống của mọi người thì đó là niềm
hân hoan, vui sướng của chúng tôi, chứ
chúng tôi không
màng danh, lợi
và ơn nghĩa của các bạn, mong các
bạn hiểu cho.
TÂM BẤT ĐỘNG
LỜI PHẬT DẠY
“Như đá tảng
kiên cố Không gió nào lay động Cũng vậy giữa khen chê Người trí không dao động”.
Kinh Pháp Cú
CHÚ GIẢI:
Người tu
theo Đạo Phật, mục đích đạt được là phải giữ
gìn tâm bất động trước
các pháp và các cảm thọ.
Cho nên, trong
kinh Pháp Cú dạy:
“Như đá tảng
kiên cố
Không gió
nào lay động”.
Đúng vậy,
khi tu tập tâm
kiên cố như tảng đá
thì tám gió
thổi không động
(Bát phong xuy bất động). Muốn được tâm
bất động như vậy thì phải
biết pháp môn nào
tu tập sẽ
được
tâm bất
động, còn ngược lại
thì sẽ không đạt được.
Trong Phật giáo duy nhất chỉ có Giới luật là giúp
cho hành giả tu tập tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Trong giới luật
có những pháp môn
tu tập để
tâm được thanh tịnh gọi là
giới hành. Giới
hành còn có
tên là Tứ Chánh
Cần. Trong Tứ
Chánh Cần gồm có
bốn loại định:
1- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác
2- Định Sáng Suốt
3- Định Niệm Hơi Thở
4- Định Vô Lậu.
Nếu một người
tu hành thật kỹ bốn loại định này thì giới luật sống rất
nghiêm chỉnh, không hề vi
phạm một
lỗi nhỏ nhặt
nào. Giới luật thanh
tịnh tức là
tâm thanh tịnh;
tâm thanh tịnh tức là tâm bất động
như trong kinh Trường Bộ dạy:
“Giới luật làm
thanh tịnh trí tuệ, trí tuệ làm thanh tịnh giới luật”.
Như chúng ta
đã biết tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ là mục đích giải thoát của
Phật giáo. Vì thế, trong kinh Pháp Cú cũng dạy: “Cũng vậy giữa khen chê. Người
trí không dao động”. Tâm
không dao động là
mục đích
tu hành của
chúng ta, chúng
ta đã hoàn tất con đường giải
thoát.
Xem thế,
chúng ta mới thấy Phật giáo lấy đạo đức nhân bản –
nhân quả của
con người làm hàng đầu tu tập trong các pháp.
Tóm lại, bốn câu kệ này
nói rõ mục đích
tu chứng của Phật giáo cần phải đạt cho bằng được. Mặc
dù với bất cứ một
giá nào, ta
cũng phải giành phần
chiến thắng về
mình thì mới xứng đáng
là đệ tử của đức Phật, mới
đem lợi ích cho mình, cho người
và nhất là làm sáng tỏ lại Phật giáo
không bị những
lớp giáo lý của
các Tổ trù dập Đạo Phật từ lâu.
Bởi vì, chỉ cần có
một người tu chứng
quả A La Hán thì sẽ là một bằng chứng để chấn chỉnh lại Phật giáo. Nhưng ai tin
người này?
Thưa các bạn! Nếu muốn cho mọi
người tin thì phải thể hiện
thần thông, nhưng
thể hiện thần thông thì đức Phật không chấp nhận và cho đó là ngoại đạo
dùng thần thông lừa đảo người. Vả lại, mục đích của Đạo Phật là chỗ tu chứng
bất động tâm,
chứ không phải
thần thông. Vì thế,
đem thần thông
ra bảo chứng cho Phật giáo là
không đúng.
Vì muốn
hiểu biết điều này
(chứng quả A La Hán) nên vua Ba Tư Nặc hỏi đức Phật:
- Bạch
Thế Tôn! Những
vị khất sĩ đi
ngang qua đây muốn biết vị nào chứng quả A
La Hán thì phải làm sao?
Đức Phật trả
lời:
- Nên ở
gần bên họ từ một ngày đến bảy ngày, từ một tháng đến bảy tháng thì sẽ rõ.
Như vậy, lời
dạy này các bạn có hiểu ý của đức Phật không? Đó là đức Phật dạy các bạn muốn biết
người nào chứng quả A La
Hán thì nên quan sát
họ trước mặt
cũng như sau lưng có sống đúng những Đức Thánh giới hạnh
không? Nếu sống đúng là chứng quả A La Hán mà sống không đúng thì chưa chứng quả,
còn đang hướng đến quả A
La Hán. Chỗ giới đức thanh tịnh, đó chính
là tâm bất động trước các pháp
và các cảm thọ. Người
nào tâm bất động
thì đó là một vị Thánh đệ tử của Phật.
Cho nên,
bài kệ trên
đây xác định mục đích
tu chứng của Phật giáo rất đơn giản, tu tập
không có gì
khó khăn mệt nhọc, chỉ cần
biết các
pháp đều do
qui luật nhân
quả tác dụng, chứ chẳng có gì là
chân thật cả, cho nên khen chê đều cũng
như nhau chẳng có gì mừng
vui, chẳng
có gì buồn rầu. Phật giáo chỉ có bấy nhiêu đó thôi. Phải không các bạn?
“Như đá tảng
kiên cố Không gió nào lay động Cũng vậy giữa khen chê Người trí không dao động”.
NIẾT BÀN
LỜI PHẬT DẠY
“Hãy cầu vui
Niết Bàn Bỏ dục không nhiễm uế Kẻ trí tự rửa sạch
Mọi cấu uế nội
tâm”.
Pháp Cú Kinh
CHÚ GIẢI:
Tất cả các
pháp trên thế gian đều vô thường, mà
pháp vô thường là pháp
khổ. Pháp khổ từ dục
sinh ra. Dục là uế nhiễm,
bất tịnh. Do đó, chúng ta cần phải
bỏ tất cả dục; dục hết
là tâm bất động;
dục hết là hết khổ, là tâm an
vui.
Trên thế
gian không có
pháp nào mang đến cho chúng ta chân hạnh phúc trọn vẹn,
chỉ vì điên đảo mà chúng ta chạy theo các pháp vô thường tìm hạnh phúc trong
đó, cũng giống như chúng ta tìm lông
rùa, sừng thỏ,
có nghĩa là
tìm hạnh phúc
trong các pháp
vô thường thì không bao giờ có được.
Vì thế, đức Phật dạy: “Hãy cầu
vui Niết Bàn”. Vậy Niết
Bàn là cảnh
giới gì đây? Sao đức
Phật lại bảo
chúng ta hãy cầu vui Niết
Bàn?
Thưa các bạn!
Niết Bàn không phải là một cảnh giới, cũng không phải là một thế giới siêu
hình, cũng không phải cõi Thiên Đàng, Cực
Lạc hay bất cứ một cõi Trời nào, cũng không phải bản thể vũ trụ, Phật Tánh.
Niết Bàn là
một trạng thái tâm hết tham, sân,
si. Cho nên,
trong bốn chân
lý của Đạo Phật gọi nó là “Diệt Đế”. Diệt Đế là một
trạng thái tâm không
còn dục, không
còn ác pháp; tâm
bất động trước
các pháp và
các cảm thọ; tâm
thanh thản an, lạc và
vô sự. Trong
tâm bất động như vậy, nó
có một niềm
vui an lạc mà không có dục.
Vì nó mang
cho mọi người một chân hạnh phúc như vậy nên đức Phật dạy: “Hãy cầu vui Niết Bàn”. Nhưng muốn cầu vui Niết Bàn
thì phải làm sao?
Thưa các bạn!
Muốn cầu vui Niết Bàn thì đây là một
con đường mà mọi
người đều phải
bước đi bằng trí óc
và đôi chân của mình,
chứ không có người nào đi thay cho mình được. Đó là con đường Bát Chánh Đạo. Con đường
Bát Chánh Đạo chia ra làm ba cấp tu tập:
- Cấp I thuộc
về Giới Luật.
- Cấp II thuộc
về Thiền Định.
- Cấp III
thuộc về Trí Tuệ.
Mỗi cấp đều có
pháp học và
pháp hành. Sau khi học và
hành đúng, có
nghĩa là phải trải
qua ba cấp và tám lớp học,
thì tâm người ấy mới vô lậu hoàn
toàn, chứng quả A La Hán. Sự tu học của Phật giáo cũng giống như chương trình học
thức ngoài đời gồm có ba cấp:
1- Tiểu học
2- Trung học
3- Đại học
Mỗi cấp đều có nhiều lớp học, cuối
năm học mỗi lớp đều có thi chuyển lớp. Cuối mỗi cấp đều có thi
chuyển cấp hay
thi tốt nghiệp của cấp
đó. Ví như:
Tiểu học có bằng Tiểu học;
Trung học có bằng Trung học; Đại học có
bằng Đại học. Trong các cấp tu hành của Phật giáo cũng vậy:
- Cấp I Giới
Luật. Khi học hết cấp này
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
trọn vẹn
thì được “cấp bằng” Nhập Lưu
(Tu Đà Hoàn), còn
chưa học hết cấp
thì tùy ở sự hiểu biết, tu tập và giữ gìn giới luật được
nhiều hay ít, ít thì Hướng Lưu; nhiều thì Dự Lưu.
- Cấp II Tứ
Thánh Định. Tu học hết cấp này trọn vẹn thì mới được “cấp bằng” Bất Lai, còn
chưa trọn vẹn thì chỉ có “chứng chỉ” Thất
Lai (Tư Đà Hàm)
cao hơn một chút nữa
thì có “chứng chỉ” Nhất Lai (A Na Hàm).
- Cấp III
Trí Tuệ Tam Minh. Tu học hết cấp này
thì tâm vô lậu
hoàn toàn được “cấp bằng” Niết Bàn (A La Hán).
“Cấp bằng”
cao nhất trong Đạo Phật là Niết Bàn. Vì thế, đức Phật dạy: “Hãy cầu vui Niết
Bàn”. Xem thế, chúng ta thấy rất rõ con đường
tu theo Phật
giáo, tu tới
đâu có kết quả
tới đó.
Kết quả là sự giải
thoát đúng như thật
trong đời sống hằng
ngày của chúng
ta. Tu ít kết quả ít, tu
nhiều kết quả nhiều, nhưng
phải tu tập đúng pháp, đúng cách, cũng giống như chương trình học
ngoài đời vậy,
học tới đâu biết tới đó, học ít biết ít, học nhiều biết
nhiều.
Muốn đạt được
Niết Bàn theo như lời Phật
dạy:
“Bỏ dục
không nhiễm uế
Kẻ trí tự rửa
sạch
Mọi cấu uế nội
tâm”
Thưa các bạn!
Đọc ba câu kệ trên đây, chúng ta xét thấy pháp môn tu hành của Đạo Phật rất
đơn giản và
cũng không khó hiểu.
Phải không các bạn? Nhưng làm được việc
này là một kỳ công. Vậy bỏ dục không
nhiễm uế phải làm sao?
Muốn bỏ dục
không nhiễm uế, hay tự rửa sạch mọi cấu uế nội tâm
thì các bạn cần phải
tu tập Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Thân Hành
Niệm, tức là hằng ngày
phải ngăn ác diệt ác pháp, ly dục ly bất thiện pháp. Đó
là những phương pháp rửa sạch mọi cấu uế ở
nội tâm. Tuy lời nói
trong kinh Pháp Cú đơn
giản nhưng tu hành phải tận lực, nếu không tận lực tu tập
thì khó đạt được kết
quả như ý mong
ước.
Điều mà
các bạn cần
nên lưu ý: đó
là tu tập Tứ Chánh Cần, Tứ Niệâm
Xứ, Thân Hành Niệm, các bạn
không thiện xảo
là bị ức chế
tâm. Và ức chế tâm là các bạn không xả tâm. Không xả
tâm thì dục không
bao giờ hết. Cho nên phải lưu ý và quan tâm khi hành pháp.
KHI NÀO NGỒI KIẾT GIÀ TU TẬP
LỜI PHẬT DẠY
“Vị ấy thành
tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ
trì các căn này, thành tựu
Thánh chánh niệm tỉnh giác này.
Lựa một
trú xứ thanh
vắng, như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha
ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm.
Sau khi ăn xong và đi
khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết
già, lưng thẳng tại chỗ nói
trên, và an
trú chánh niệm trước mặt.
Vị ấy từ bỏ dục tham
ở đời, sống với
tâm thoát ly dục
tham, gọt rửa tâm hết dục tham.
Vị ấy từ bỏ sân hận,
vị ấy
sống với tâm không sân hận, lòng
từ mẫn thương xót tất cả
chúng sanh hữu tình, gọt rửa tâm hết sân hận.
Vị ấy từ bỏ
hôn trầm thùy miên, sống thoát ly
hôn trầm thùy miên,
với tâm tưởng hướng về
ánh sáng chánh niệm tỉnh giác,
gọt rửa tâm hết
hôn trầm thùy miên.
Vị ấy từ bỏ trạo cử, hối
quá, sống không trạo cử, nội tâm trầm
lặng, gọt rửa tâm hết trạo cử, hối quá.
Vị ấy từ bỏ nghi
ngờ, sống thoát khỏi nghi ngờ,
không phân vân,
lưỡng lự, gọt rửa tâm
hết nghi ngờ đối với
thiện pháp”.
(Kinh
Trung Bộ, tập 2, trang 24)
CHÚ GIẢI:
Đọc hết đoạn
kinh này, chúng ta thấy sự tu tập được chia
ra làm hai
giai đoạn. Giai đoạn tu thứ nhất,
chia làm ba pháp tu tập:
1- Thánh giới
uẩn
2- Thánh hộ
trì các căn
3- Thánh
chánh niệm tỉnh giác
Trong ba
pháp này tu tập như thế nào? Trước
tiên, chúng ta phải
tu
tập Thánh giới uẩn. Vậy Thánh giới uẩn là gì?
Thánh giới uẩn
là giới luật. Vì phải tu tập Thánh giới uẩn, do đó đức Phật khuyên bảo: “Phải hành trì học giới
và hạnh sống
các vị Tỳ Kheo”. Ở lời dạy này
chúng ta nên lưu ý: “Hành trì học giới và hạnh sống”.
Hành trì học giới nghĩa là gì? Là một hành giả tu theo Phật giáo
thì phải thông hiểu
giới luật. Muốn thông hiểu giới luật thì phải học giới
luật. Đây là bài kinh giới xin các bạn
nên học cho thuộc để biết hành trì cho đúng. Trong mỗi giới luật đều chia làm bốn phần:
1- Giới cấm
2- Giới hạnh
3- Giới đức
4- Giới hành
Giới cấm nghĩa là gì? Giới cấm là một điều luật bắt buộc mỗi tín đồ
không được vi phạm,
nếu ai vi phạm
thì không được chấp nhận là tín
đồ Phật
giáo nữa. Giới cấm giống như
pháp luật trong
một nước, mà mỗi công dân
trong nước đó phải chấp
hành, tuân thủ,
không được vi phạm, nếu ai vi
phạm thì sẽ bị toà án kết tội, nặng nhẹ
tùy theo bộ luật đã qui định.
Giới hạnh
là gì? Giới hạnh là những hành động không
vi phạm giới luật, là những
hành động cao quý không
làm khổ mình,
khổ người và khổ tất cả chúng sanh, là những hành động ôn tồn nhã nhặn, khiêm hạ, từ tốn, dịu dàng,
an ủi, xoa dịu những vết thương của mọi
người và
tất cả chúng
sanh, là những
hành động không làm
trái với lương
tâm của mình,
v.v..
Giới đức là
gì? Giới đức là
đức từ, đức bi,
đức hỷ, đức xả, đức
nhẫn nhục, đức
tùy thuận, đức bằng lòng, đức hiếu sinh,
đức buông xả, đức ly tham, đức ly
dục, v.v..
Trong bài kinh giới này gồm có nhiều giới
cấm:
- Giới thứ
nhất: Cấm sát sanh có nghĩa là
không được
giết hại chúng
sanh, từ con người cho đến những loài vật nhỏ bé, nói
chung là không được giết hại con vật
nào cả. Giết hại
một con vật chết thì không thể nào tránh khỏi quả báo bị giết hại trở lại. Ví dụ:
một người ăn thịt chúng sanh,
bị ghép vào
hai tội. Tội thứ
nhất là tội
giết mạng sống; tội thứ hai là tội chiếm hữu mạng sống. Căn cứ theo luật nhân
quả thì người ăn thịt chúng sanh sẽ bị giết hại và bị ăn thịt trở lại.
Nếu liệt kê
tất cả các giới ra đây
thì trở thành bộ kinh giới, nên xin các bạn vui lòng nghiên cứu Mười Giới
Đức Thánh Sa Di, Một Trăm Hai Mươi
Giới Đức Thánh
Tăng, Ni thì sẽ rõ,
còn ở đây
chúng tôi chỉ
nêu lên một số
giới tượng trưng để sau này các bạn
nghiên cứu bộ giới mới hiểu biết đầy đủ hơn.
1- Không tham lam trộm cắp.
2- Không dâm dục.
3- Không nói láo.
4- Không nói hai chiều.
5- Không nói lời hung ác.
6- Không nói lời phù phiếm.
7- Không làm hại hạt giống.
8- Không làm hại cây cỏ.
9- Ăn ngày một bữa.
10- Không ăn
uống phi thời.
11- Không ăn
ban đêm.
12- Không đi
xem múa hát.
13- Không
trang sức vòng hoa hương liệu.
14- Không nằm
giường cao rộng lớn.
15- Không nhận
vàng bạc tiền của cải.
16- Không nhận
các hạt giống.
17- Không nhận
thịt.
18- Không nhận
đàn bà con gái.
19- Không nhận
nô tỳ trai hay gái.
20- Không nhận
cừu dê.
21- Không nhận
gia cầm, heo.
22- Không nhận
bò voi ngựa.
23- Không nhận
ruộng vườn đất đai.
24- Không
làm môi giới.
25- Không
buôn bán.
26- Không
gian lận bằng cân đo, tiền bạc.
27- Không ăn
hối lộ.
28-
Không làm tổn
thương cho chúng sanh.
29- Ít muốn,
biết đủ.
Giới
hành là gì? Giới
hành là những pháp môn thực hành để tâm ly dục ly ác pháp, để sống không làm khổ mình khổ người và khổ
cả hai, để tâm
thanh thản an lạc
và vô sự, để
tâm không phóng dật, để tâm vô lậu, để tâm có đủ Tứ Như Ý Túc, để tâm có đủ Tam
Minh.
Các giới
hành gồm có: Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ
Vô Lượng Tâm, Tứ
Chánh Cần, Tứ Niệm
Xứ, Tứ
Như Ý Túc,
Thất Giác Chi,
Ngũ Căn, Ngũ Lực. Như
vậy tất cả
pháp trên đây được
gọi là 37 phẩm trợ đạo.
Trên đây là
Thánh giới uẩn, một người tu hành để
tìm cầu sự giải thoát mà không thành tựu
Thánh giới uẩn
này thì con đường
giải thoát không bao giờ
tìm thấy được. Cho nên, đức Phật dạy: “Vị ấy thành tựu Thánh giới
uẩn này”. Thành tựu Thánh giới uẩn là
thành tựu phần một
trong giai đoạn tu
tập thứ nhất mà
người tu sĩ cần phải
nhiếp phục tâm
mình và giữ gìn trọn vẹn những Thánh giới này.
Về phần thứ
hai trong giai đoạn một là phần Thánh hộ trì các căn mà các bạn đã được học và
tu tập trong tập II và tập III Những Lời Gốc Phật Dạy. Vậy phần này chúng tôi
không cần giảng dạy trở lại. Nhưng các bạn
phải nhớ lời dạy của Phật:
“Thành tựu Thánh
hộ trì các căn
này”. Muốn tu tập
làm chủ sanh tử
luân hồi mà không thành tựu Thánh hộ trì các
căn này thì
chẳng bao giờ nếm được mùi vị giải thoát.
Khi đã thành
tựu được phần
thứ hai thì tiếp
tục tu tập phần thứ
ba trong giai
đoạn một. Phần thứ ba này không kém phần quan trọng như hai phần trên. Nếu
không tập chánh niệm tỉnh giác
thì sức tỉnh thức
không có. Sức tỉnh thức không có thì si mê sẽ hiện rõ
qua những trạng thái
thuỳ miên, hôn trầm, hôn tịch, vô ký, ngoan không, v.v.. Bởi vậy
người tu sĩ phải tu tập nhiều
về Chánh niệm tỉnh giác, như
đức Phật đã dạy: “Thành
tựu Thánh chánh niệm
tỉnh giác này”. Chỉ
khi nào thành tựu
Chánh niệm tỉnh
giác tức là
chúng ta không còn ngủ nghỉ phi
thời, không còn hôn trầm
thùy miên tấn
công thì chúng ta mới tu tập xong giai đoạn một. Tu tập như vậy mới
có căn bản, mới có kết quả hiện thực tốt đẹp, mới có niềm
tin sâu về Phật
pháp, mới thấy
Phật pháp không dối người.
Tu tập xong
giai đoạn thứ nhất, chúng ta mới bắt đầu
tu tập giai
đoạn hai. Bước qua tu tập ở
giai đoạn hai, trước tiên chúng ta nên tìm một nơi
cho xứng hợp với pháp
môn tu tập trong
giai đoạn này. Nơi xứng hợp để tu tập ở giai đoạn hai là nơi như thế
nào, chúng ta hãy
nghe đức Phật
dạy: “Lựa một trú xứ thanh vắng, như
khu rừng, gốc cây,
khe núi, hang đá, bãi tha ma,
lùm cây ngoài trời, đống rơm, v.v..”. Như vậy, rõ ràng Phật dạy chúng ta tìm
nơi vắng
vẻ yên tịnh để tu tập
giai đoạn hai mới có kết quả. Vậy nơi chốn
chúng ta
đã tìm được rồi thì
đây là thuận duyên
còn nếu nghịch
duyên thì chúng ta phải
làm sao?
Thưa các bạn!
Nếu chưa có nơi thanh tịnh vắng lặng để
tu tập ở
giai đoạn hai thì chúng ta nên tu tập trở lại ở giai đoạn một cho thấm nhuần giới luật, đức hạnh hiện bày, cho phòng hộ
sáu căn miên mật hơn
và cho chánh niệm tỉnh giác cao hơn nữa.
Nếu vị trí
thanh tịnh để tu tập chưa có mà vội vàng tu thì tu cũng chẳng có kết quả gì. Vì thế đức Phật dạy: “Lựa một trú xứ
thanh vắng, như khu
rừng, gốc cây, khe
núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm, v.v..”.
Đó là nơi lý tưởng
tu tập ở giai đoạn hai. Là một tu sĩ đệ tử của
đức Phật, khi đức Phật dạy như vậy thì chúng ta hãy tin tưởng
và làm theo cho đúng lời dạy này.
Đọc đoạn kinh
trên chúng ta
quan sát thấy rất rõ đức Phật dạy
tu tập từng giai đoạn một, giai đoạn này
tu xong mới tu tập đến giai đoạn khác.
Sau khi tìm
được vị trí thanh vắng,
yên tịnh, nhưng chúng ta cũng
chưa vội tu, mà hãy theo lời đức Phật dạy là
phải xin cơm ăn
cho no bụng. Khi ăn xong rồi
mới vào vị trí
thanh vắng đó, bắt đầu tu tập. Còn nếu chưa ăn
cơm xong mà vội tu tập thì bụng đói
sẽ khó tu tập. Vì thế, đức Phật dạy: “Sau khi ăn xong và đi khất thực trở
về, vị ấy ngồi kiết
già, lưng thẳng tại chỗ
nói trên, và
an trú chánh niệm
trước mặt”, nghĩa
là đi khất
thực rồi đến một
nơi nào đó
ăn cơm. Sau khi ăn cơm xong
ta nên nghỉ
ngơi một chút
cho tiêu hóa cơm và thực phẩm,
khoảng độ 30
phút hoặc một giờ thì chúng ta mới
đến vị trí thanh vắng để tu tập.
Bài pháp
này đức Phật dạy chúng
ta tu tập rất rõ ràng từng chi tiết.
Bắt đầu khởi sự tu tập thì phải thực
hiện cho bằng được “Thánh giới uẩn”.
Khi giới luật
được nghiêm trì, không còn vi
phạm thì tiếp tục
tu tập “Hộ trì các căn”. Khi hộ trì các căn nghiêm
chỉnh, các căn không còn dính mắc các trần
thì tiếp tục tu
tập cho bằng
được “Chánh Niệm Tỉnh
Giác” để phá sạch
hôn trầm, thùy
miên, vô ký.
Xin các bạn lưu ý ba pháp trên đây và tu tập cho đúng bài bản thì kết
quả giải thoát
không thể lường được. Đó
là một nền tảng tu tập vững chắc bảo đảm sự giải thoát sẽ đến với
các bạn ngay liền, ở trong tầm tay các bạn.
Trong sự tu tập các bạn nên nhớ là phải thiện
xảo, linh động uyển chuyển khéo
léo thay đổi pháp
theo từng tâm niệm của mình.
Cố định pháp, cố định giờ giấc thành ra tu tập ức chế. Đạo
Phật dạy chúng ta chế ngự
thân tâm, chứ
không phải ức chế thân tâm. Chế ngự thân tâm chắc các bạn rõ chứ!
Sau khi
thành tựu những
pháp này rồi, mới bắt đầu tìm nơi thanh vắng yên tịnh
tức là nhập thất tu
hành ở giai
đoạn thứ hai. Ở
giai đoạn thứ hai “Sau
khi ăn xong
và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết già, lưng
thẳng tại chỗ nói
trên, và an
trú chánh niệm trước mặt”. Ở giai
đoạn này có ba việc
cần
làm:
1/ Ăn cơm xong tức
là giờ trưa
(giờ ngọ), khoảng 12 giờ
và nghỉ trưa
30 phút, tắm giặt
30 phút nữa
tức là 1 giờ. Đúng 1 giờ bắt đầu tu tập. Vậy vào giờ này tu tập cái gì? Theo
như lời
Phật dạy:
“Vị ấy ngồi
kiết già, lưng thẳng tại chỗ
nói trên” nghĩa là chúng ta phải tập luyện ngồi tréo chân kiết già và giữ lưng
thẳng cho được, tại nơi thanh
vắng yên tịnh
đã chọn trước.
Thưa các bạn! Đây
là giai đoạn thứ
hai của sự tu tập, các bạn nên nhớ kỹ: thứ nhất là tập ngồi
kiết già, lưng thẳng.
Đó cũng là một
phương pháp tu tập để giữ gìn
thân bất động trong tư thế tỉnh thức. Ở giai đoạn tu tập này, các bạn nên khép chặt thân bạn trong tư
thế ngồi kiết già thì mới dễ nhiếp tâm an trú trong chánh niệm tỉnh giác. Nếu
các bạn quá dễ dãi không khép chặt
thân trong tư thế ngồi
kiết già này thì các bạn khó mà an trú tâm.
Cần phải tập ngồi vững vàng từ 5 phút
đến 30 phút. Trong
khi vừa tập ngồi
kiết già vừa nhiếp
tâm an trú
chánh niệm trước
mặt mình, như đức
Phật đã dạy:
“Và an trú chánh
niệm trước mặt”.
Như vậy, chánh niệm trước mặt là niệm gì? Có phải là
niệm hơi thở vô, hơi thở ra không?
Thưa các bạn! Không
phải niệm hơi thở
vô, hơi thở ra mà là niệm từ bỏ tâm dục tham ở đời, sống
thoát ly dục tham,
gọt rửa tâm hết
dục tham
các bạn ạ!
Các bạn có tin
lời chúng
tôi nói
này không? Nếu
không tin thì các bạn hãy
nghe đức Phật
dạy: “Vị ấy từ bỏ dục
tham ở đời,
sống với tâm
thoát ly dục tham, gọt rửa tâm
hết dục tham”. Như
vậy rõ ràng đức Phật dạy chúng ta đặt chánh niệm tỉnh thức
là niệm từ bỏ, thoát
ly, gọt rửa dục
tham. Niệm tu tập như vậy không
giống như kinh sách Đại Thừa và
Thiền Tông chút nào. Phải không các bạn?
Các bạn nên
lưu ý ở chỗ chánh niệm đặt trước mặt mà đức
Phật đã
dạy đó là “niệm
từ bỏ dục tham, niệm thoát ly dục
tham, niệm gọt rửa hết dục tham”. Ba niệm này là ba pháp được đặt trước
mặt bạn quán xét để bạn từ
bỏ, thoát ly
và gọt rửa
tâm dục tham của
bạn. Khi tâm tham dục hết là bạn được giải thoát.
Con đường tu
hành theo Phật giáo thật là đơn giản chỉ có tìm
chỗ thanh vắng,
ngồi kiết già, lưng
thẳng, an trú
chánh niệm từ bỏ,
chánh niệm thoát
ly và chánh
niệm gọt rửa tâm
dục tham của bạn. Chỉ
có bấy nhiêu
đấy thôi mà quý bạn sẽ thấy một cuộc đời
giải thoát, một bầu trời an lạc hạnh phúc tuyệt vời mà
người thế tục
không thể nào ngờ được, không thể nào hưởng được.
Ôi! Được
sinh làm người là khó, gặp được chánh Phật pháp
còn khó hơn.
Thế mà được làm người, được gặp chánh Phật pháp,
chúng ta lại không tu tập thì quá
uổng phí một đời
người. Phải không hỡi các bạn? Chúng tôi phải thành thật tiếc thay cho các bạn
đấy!!! Các bạn có biết không?
Chúng tôi cũng từ pháp
này tu tập sáu tháng làm chủ
sinh, già, bệnh, chết.
Khi các bạn
tu tập đã từ bỏ,
thoát ly và gọt rửa tâm dục tham của bạn xong thì các
bạn lại tiếp tục đặt những
niệm khác như: từ bỏ tâm sân hận, sống với tâm không sân hận, gọt
rửa tâm hết sân hận và luôn luôn khởi lòng từ mẫn thương
xót tất cả
chúng sanh loài hữu
tình. Có tu tập
như vậy mới đúng
theo lời đức Phật
đã dạy: “Vị ấy từ bỏ sân hận, vị ấy
sống với
tâm không sân hận,
vị ấy
sống lòng từ mẫn thương xót tất cả
chúng sanh hữu tình, vị ấy, gọt rửa tâm hết sân hận”.
Khi các bạn
tu tập từ bỏ tâm
sân hận, sống với tâm không sân hận,
gọt rửa tâm hết sân hận và sống với lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng
sanh loài hữu
tình xong thì các bạn lại tiếp tục tu tập quét sạch hôn trầm thùy miên, theo như lời đức Phật đã dạy: “Vị ấy từ
bỏ hôn trầm thùy miên, sống
thoát ly hôn
trầm
thùy miên, với tâm tưởng hướng
về ánh sáng chánh niệm
tỉnh giác, gọt rửa
tâm hết
hôn trầm thùy miên”. Các
bạn cứ theo lời dạy
này mà đặt niệm hôn trầm thùy miên
trước mặt mà
tác ý tu tập thì sẽ
không còn thùy miên và hôn trầm nữa.
Tất cả
các bạn về
tu viện Chơn
Như tu tập, hầu hết các bạn đều bị hôn trầm thùy miên tấn công dữ dội, cuối cùng các bạn đều là những người
lính chiến bại ở mặt trận này. Các bạn có biết tại
sao các bạn thất
trận không? Các bạn thất trận là
vì các bạn không theo lời Phật dạy tu tập đúng cách xả tâm.
Khi tu tập
phá dẹp hôn trầm
thùy miên đã không còn nữa thì các bạn tiếp tục tu tập từ
bỏ trạo
cử, hối quá
theo như lời đức Phật
đã dạy: “Vị ấy từ bỏ trạo cử, hối
quá, sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng,
gọt rửa tâm hết trạo
cử, hối quá”.
Cứ theo lời dạy
này mà
đặt niệm trạo cử, hối
quá dùng pháp như lý tác ý mà quét cho sạch trạo cử hối
quá.
Khi tu tập
phá dẹp trạo cử, hối quá đã
không còn nữa thì các bạn tiếp tục tu tập từ bỏ nghi ngờ theo như lời đức Phật
đã dạy: “Vị ấy từ bỏ
nghi ngờ, sống
thoát khỏi nghi ngờ,
không phân
vân, lưỡng lự, gọt rửa tâm hết
nghi ngờ đối
với thiện pháp”.
Trên đây
là phương pháp
tu tập để dẹp
sạch và
đoạn dứt năm triền
cái. Khi dứt sạch năm
triền cái thì các
bạn đã chứng
đạo quả giải thoát không còn
nghi ngờ gì nữa. Các bạn hãy nên
theo thứ lớp tuần tự các pháp trên đây mà
tu tập cho kỹ
lưỡng, đừng tu tập vội
vàng; không tu tập
thì thôi mà đã
tu tập thì phải
tu tập cho có chất lượng, cho có căn bản, chứ đừng tu tập lấy có, vừa uổng
công sức vừa phí uổng cuộc đời; mang
tiếng đi tu
mà chẳng làm chủ
sanh, già, bệnh,
chết và không
chấm dứt tái sanh luân hồi thì rất nhục nhã, cũng giống
như các thầy Đại Thừa và Thiền Tông vậy.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!