THIỀN THỨ TƯ
LỜI PHẬT DẠY
“Không thở
ra thở vào Tâm trú vào chánh định Không tham
ái tịch tịnh Với tâm an bất động
Như đèn sáng chợt tắt
Tâm giải
thoát Niết Bàn”.
(Tương Ưng
Kinh)
CHÚ GIẢI:
Thiền Thứ Tư
của Đạo Phật là một thứ thiền rất mầu nhiệm và tuyệt vời, nó tịnh chỉ được hơi
thở, như câu kệ thứ nhất dạy: “Không thở ra thở vào”, nó làm chủ sự sống chết một
cách tự
tại, muốn thở
là thở, muốn
không thở là không thở.
Đọc bài kệ trên đức Phật
đã xác định rõ ràng chứ không như các
nhà Đại Thừa đã cố ý
dìm mất loại
thiền này bằng cách suy luận cho nó là thiền phàm phu, thiền Nhị Thừa và thiền
ngoại đạo. Thật
là đau lòng
phải không các
bạn?
Đây, các bạn hãy lắng nghe
chánh định của Đạo Phật rất
tuyệt vời, khi hành giả nhập
định thì:
“Không thở
ra, thở vào
Tâm trú vào
chánh định”
Thưa các bạn!
Thiền định của Đông Độ và Đại Thừa có nhập được như
vậy không? Nếu nhập
không được như vậy
sao gọi là tự tại
trong sinh tử được? Sao gọi
là thu thần
nhập Niết bàn?
Muốn nhập
chánh định để
làm chủ sự sống
chết được như vậy
thì tâm không còn tham
ái; tâm không
còn tham ái thì
tâm mới tịch tịnh
như câu kệ
này: “Không tham ái tịch
tịnh”.
Vậy tham ái
là gì? Tham là ham muốn; ái là yêu
thích. Con người vốn
sinh ra đã bị đau
khổ là
vì tâm tham
ái. Khi tâm tham
ái diệt thì khổ đau và luân hồi
chấm dứt.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Nếu tâm
không tham ái thì tâm được tịch tịnh. Tâm được tịch tịnh thì tâm mới an trú.
Tâm có
an trú thì tâm mới bất động
trước các pháp, như câu kệ này dạy:
“Với tâm an bất động”.
Khi tâm đã
an trú bất động thì lúc bây giờ chúng
ta muốn chết lúc
nào cũng dễ
dàng không có khó khăn, không có mệt nhọc: “Như đèn sáng chợt tắt”.
Tu tập nhập định
được như
vậy, các bạn có thấy hạnh phúc không?
Lúc bây giờ, chúng
ta chỉ cần
lìa trạng thái Tứ Thiền
bằng lệnh của bảy Năng Lực
Giác Chi
thì ngay tức khắc
ta vào Niết
Bàn như câu kệ
đã dạy: “Tâm
giải thoát Niết bàn”.
Tóm lại, bài kệ
trên đây chỉ cho chúng ta biết pháp môn và cách thức tự tại
nhập Niết bàn, chứ nó không phải là bài pháp để
các bạn tu tập nhập Tứ Thiền
suông. Các bạn nên
lưu ý. Có người đã dùng bài kệ này để
tu tập nhập Tứ Thiền là không đúng pháp.
Thưa các bạn!
Nếu các bạn muốn nhập Tứ Thiền thì
các bạn
hãy trở về
tu tập giới
luật qua các giới hành như sau: Tứ
Chánh Cần, Tứ
Niệm Xứ,
Thân hành Niệm, v.v.. chứ các bạn đừng ở
trên bài kệ này tu tập, bằng không thì các bạn đã tu tập sai pháp rồi
các bạn ạ!
KHÔNG SỞ HỮU
LỜI PHẬT DẠY
“Ai quá, hiện,
vị lai Không một sở hữu gì Không sở hữu, không nắm Ta gọi Bà La Môn”.
(Kinh Pháp
Cú Phẩm Bà La Môn)
CHÚ GIẢI:
Bốn câu kệ
trên đây để xác định một vị tu sĩ Phật giáo đúng Thánh hạnh mà ngày xưa đức
Phật thường xem
mình như một
Bà La Môn nghiêm trì giới luật
không hề sai phạm.
Câu kệ thứ nhất dạy: “Ai
quá, hiện, vị
lai”. Có
nghĩa là người tu sĩ nào trong ba thời
gian quá
khứ, vị lai và
hiện tại sống
không có của cải
tài sản, sống
không gia đình,
không nhà cửa, đời sống
luôn luôn thiểu
dục tri túc, chỉ có ba y một bát,
tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng
như hư không. Đó
là Phạm
hạnh của
người tu sĩ Phật giáo.
Người sống đúng Phạm hạnh như vậy mới được gọi
là Bà La Môn.
Vì thế,
câu kệ thứ
hai đã xác định
điều này: “Không một sở hữu gì”. Cho nên, người tu
sĩ không có của cải
tài sản, không
có gia đình, không có nhà cửa thì
không có sự ràng buộc, không bị dính mắc. Do không bị tài sản, của cải ràng buộc,
dính mắc thì đó là giải thoát các bạn ạ! Giải thoát phần thô về vật chất. Nếu
phần vật
chất đã lìa xa
thì phần nội tâm
quét cũng không còn
khó khăn. Hai phần này
gom lại là tâm
đã ly dục ly ác
pháp. Tâm ly dục ly ác pháp là tâm không phóng dật. Tâm
không phóng dật là tâm bất động trước
các pháp và các cảm thọ.
Cho nên, câu
kệ thứ ba dạy: “Không sở hữu, không nắm”. Người tu sĩ tu tập mà đạt được tâm bất động
như vậy thì đức
Phật mới gọi là Bà La
Môn. Một vị tu sĩ
Bà La Môn mà được đức Phật chấp nhận là phải có những tiêu chuẩn hẳn
hoi như trên
đã nói. Các bạn có nhận xét điều này không?
Bởi vậy
trong thời đại này, nhìn các tu sĩ Phật giáo
trong các hệ
phái khác nhau
thì chúng ta biết
rõ Phật giáo
đã bị chia
chẻ tan
nát. Chia chẻ
từ hình thức ăn mặc cho đến tinh thần
giáo pháp, nhất là Đại Thừa Phật giáo tự vỗ
ngực xưng mình có 84
ngàn pháp môn.
Có
84 ngàn
pháp môn, nếu ai
chấp vào pháp môn nào
thì có thể chia
ra làm nhiều hệ
phái khác nữa. Và như
vậy, Phật giáo
còn gì gọi là đoàn kết,
giáo lý của Phật chỉ
là những pháp
môn góp nhặt. Đó
là nói lên sự
suy yếu rất lớn của Phật giáo.
Phật giáo chỉ
có một pháp môn duy nhất, đó là Đạo Đế.
Đạo Đế là một chân lý trong bốn chân lý bất di bất dịch của Đạo Phật, không ai
có thể thay đổi được. Thế mà bây giờ lại
có tám mươi bốn ngàn pháp môn thì các bạn nghĩ sao. Có đúng là pháp môn của Phật
không?
Ngày xưa
tu hành đức
Phật không có tham vọng như các Tổ ngày nay. Ngài tự thấy
mình là một Bà La Môn, một Bà La Môn sống
có đạo đức, không
mê tín, không cúng
bái, cầu siêu, cầu
an, v.v.. không
lừa đảo người,
trước mặt cũng như sau lưng,
chỉ tu hành sống
đúng Phạm hạnh, nhờ
đó Ngài mới
tìm thấy có sự giải thoát rõ ràng, cụ thể. Cho nên, trong
kinh Pháp Cú, Ngài thường nhắc nhở các vị Tỳ Kheo nào sống đúng giới luật thì
người ấy được gọi là Bà La Môn
chân chánh, còn những vị nào
sống không
đúng giới luật, phá giới, phạm giới thì đức Phật gọi là Bà La Môn ngoại đạo.
Trong thời
gian hoằng hóa độ sanh, đức Phật
cũng tự cảm thấy mình
là một Bà La
Môn, nhưng một
Bà La Môn sống trước
mặt cũng như sau lưng mọi người không hề thiếu mười hai Đức Thánh hạnh
này. Đó là:
1- Như Lai
2- A La Hán
3- Ứng Cúng
4- Chánh Biến Tri
5- Minh Hạnh Túc
6- Thiện Thệ
7- Thế Gian Giải
8- Vô Thượng Sĩ
9- Điều Ngự Trượng Phu
10- Thiên
Nhơn Sư
11- Phật.
12- Thế Tôn.
Chúng tôi
xin giải nghĩa của mười hai hiệu
Đức Thánh
này:
1- Như
Lai: Dịch âm tiếng
Phạn Tathàgata có nghĩa
là vì theo
con đường như thật đi tới mà
thành Chánh Giác.
Như Lai cũng có
nghĩa là bậc
tu hành đã
xong, không còn tái sinh
trở lại cuộc đời này nữa tức
là đã làm chủ sinh, tử và chấm dứt
luân hồi.
Như Lai là một
“Đức Thánh Không Đến
Không Đi”.
2- A
La Hán: Dịch
âm tiếng Phạn Arahant. A La
Hán đồng nghĩa
với Ứng Cúng có
nghĩa là giết
giặc phiền não, bất sanh
mãi mãi ở trong Niết bàn, xứng
đáng nhận sự cúng dường của Trời
Người. Tóm lại, bậc A
La Hán đã thoát
khỏi phiền não,
được tự do tự tại, hoàn mỹ về mặt đạo lý, làm chủ được tư
tưởng của mình, biết hết tất cả, có đủ
sáu pháp huyền diệu, không phải
chịu quả báo sống chết lần
thứ hai.
Danh hiệu này Đại Thừa
cho là còn thấp kém chỉ là quả
cao nhất của Tiểu Thừa.
A La
Hán còn gọi
là “Đức Thánh
Vô Lậu”. Đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.
3- Ứng Cúng:
Dịch âm tiếng Phạn Arhat nghĩa là bậc
đã xa lìa mọi điều
ác, xứng
đáng
được hưởng
thọ sự cúng dường của Người, Trời. Bậc đầy đủ phước báu không ai hơn.
Ứng Cúng
là đức hạnh
xa lìa những điều ác xứng
đáng là nơi
phước báu vô lượng
để chúng sanh Trời Người cúng dường, nên gọi là “Đức Thánh Phước Điền”.
4- Chánh Biến Tri: Dịch
âm tiếng
Phạn Samyasambuddha nghĩa là
chánh trí biết rõ mọi
pháp như thật.
Chánh biến tri còn
có nghĩa là trí hiểu
biết chân chánh
không bị tà pháp, tà kiến, tưởng kiến, tà giáo lừa đảo,
trí hiểu biết vượt ra khỏi sự hiểu biết trong khuôn khổ nề nếp phong tục, tập
quán và các hệ tư tưởng của các tôn giáo trên thế gian này.
Chánh Biến
Tri còn gọi là “Thánh Hạnh
Liễu Tri”.
5- Minh Hạnh Túc: Dịch
âm tiếng Phạn Vidyàcaranasampana có
nghĩa là bậc có đầy đủ trí tuệ và đức hạnh.
• Trí Tuệ
gồm đủ có ba:
- Ý thức tuệ.
- Tưởng thức
tuệ.
- Tam minh
tuệ.
• Tam Minh Tuệ gồm có ba:
- Vô thời
gian tuệ.
- Vô không
gian tuệ.
- Vô lậu tuệ.
• Thánh đức
gồm có bốn: Đức từ, Đức bi, Đức hỷ, Đức xả.
• Thánh hạnh
gồm có năm hạnh: Thắng hạnh, Chánh hạnh, Trực hạnh, Diệu hạnh, Tịnh hạnh.
6- Thiện Thệ:
Dịch từ tiếng Phạn Sugata nghĩa là bậc
đã tu tập
hoàn thành con đường Bát
Chánh Đạo, bậc
đã làm xong
các hạnh lành, không còn trở lui về ác pháp
và cuộc đời này nữa.
Thiện Thệ
còn gọi là
“Thánh hạnh tự tại sinh tử”.
7- Thế Gian
Giải: Dịch từ tiếng Phạn Lokavit:
có nghĩa là giải thích
rõ các pháp trong thế gian,
không còn pháp nào mà không giải thích được. Thế gian giải có nghĩa
là bậc thông suốt tất cả các pháp thế gian. Bậâc có thể hiểu rõ
các lý và sự của
loài hữu tình và
vô
tình.
Thế Gian
Giải còn gọi
là “Thánh hạnh giải thông suốt các pháp thế gian”.
8- Vô Thượng
Sĩ: Dịch từ tiếng Phạn Anu Hara: có nghĩa
là bậc cao hơn
hết trong các hàng chúng sanh. Một con người làm chủ tột
đỉnh giải thoát, không còn có sự giải thoát nào cao hơn nữa.
Vô thượng
sĩ còn gọi
là “Thánh hạnh giải thoát cao nhất”.
9- Điều Ngự
Trượng Phu: Dịch từ tiếng Phạn
Purusa-danya-sàrathi: có nghĩa
là bậc điều khiển được mình và tất cả chúng sanh tức là bậc
đã làm chủ được
mình và
tất cả các pháp,
nói một cách dễ hiểu
hơn là bậc tâm đã
bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Điều Ngự Trượng
Phu còn gọi là “Thánh hạnh nhiếp phục
các pháp và
các cảm thọ”.
10- Thiên Nhân
Sư: Dịch theo
tiếng Phạn Sàtàde-vanàsyànàm: nghĩa là bậc Thầy của Trời,
Người. Dạy cho Trời,
Người những gì nên làm và những gì không nên làm.
Thiên Nhân
Sư còn gọi là “Đức Thánh
Thầy Trời,
Người”.
11- Phật: Dịch âm
chữ Buddha có
nghĩa là bậc giải thoát hoàn toàn, bậc Giác Ngộ.
Phật còn gọi
là “Đức Thánh Giác Ngộ”.
12- Thế
Tôn: Dịch âm tiếng
Phạn Bhagavat có nghĩa là bậc cao hơn hết trong cõi Trời, Người,
được tất cả Trời,
Người đều tôn kính
trọng.
Thế Tôn
còn gọi là
“Đức Thánh tôn kính”.
Mười hai đức hạnh tối cao trên đây nếu người tu sĩ nào làm
được thì đức Phật gọi người ấy là Bà La Môn.
Tóm lại, bài
kệ trên
đây đã xác định một người Bà
La Môn đúng
tiêu chuẩn của Phật
giáo là
không có một vật sở hữu nào cả suốt trong
ba thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai thì mới đúng nghĩa:
“Ai quá, hiện,
vị lai Không một sở hữu gì Không sở hữu, không nắm Ta gọi Bà La Môn”.
Đúng vậy,
lúc nào cũng
nhớ giữ gìn giới
luật nghiêm
chỉnh và hạnh tri túc thì mới xứng đáng là Bà La Môn của Phật giáo.
Đọc bài kệ
này
chúng ta mới biết Phật giáo là do người sau lập thành tôn giáo
lấy tên là Phật giáo, còn riêng đức Phật thì không có ý đó. Tại sao vậy?
Bởi Đạo Phật là đạo đức của con
người trên hành tinh này,
nó là chân
lý của loài người,
nên không thể
xây dựng nó thành
tôn giáo được, vì tôn giáo sẽ bị hạn cuộc trong một số người
rất ít, chứ không
được phổ cập rộng
rãi khắp mọi người, mọi nơi. Và khi
thành lập ra tôn giáo là sẽ chia
chẻ con người, mà
chia chẻ con người thì không
còn là đạo đức. Hình thức
chia chẻ là
vì quyền lợi riêng
tư cho cá nhân hay tập thể nhỏ.
Cho nên, các Tổ không hiểu điều
này, vì quyền lợi riêng
tư mà các Tổ
đã làm
một việc rất
sai lầm, biến
chân lý và đạo
đức của loài
người thành chân
lý và đạo đức riêng tư của tôn giáo. Một bằng chứng
rất hùng hồn, từ những tham vọng ấy,
các Tổ đã chia nát Phật giáo ra nhiều hệ phái, làm
cho Phật giáo suy yếu và mất gốc. Từ Phật giáo của chung của nhân loại đã trở
thành của riêng và còn của riêng
nhiều vị Tổ nữa. Thật
là đau lòng, phải không hỡi các bạn?
Riêng đức Phật chỉ thấy mình
là một Bà
La Môn và cố
gắng làm tốt hơn cho Bà La Môn
Giáo, chứ
không có mục
đích thành lập
tôn giáo riêng tư, chỉ vì người sau không
hiểu ý Phật nên dựa vào 12
danh hiệu của
Ngài mà đặt tên cho tôn
giáo. Từ
đó mới có tên là Phật giáo.
BẬC CHIẾN THẮNG
LỜI PHẬT DẠY
“Bậc trâu
chúa, thù thắng.
Bậc anh hùng, đại sĩ.
Bậc chiến thắng,
không nhiễm. Bậc tẩy sạch, giác ngộ.
Ta gọi Bà La
Môn”.
Kinh Pháp Cú
CHÚ GIẢI:
Người tu
hành theo Phật
giáo phải như con trâu chúa,
lúc nào cũng
phải đứng lên trên Trời, Người, nên câu kệ thứ nhất
trong bài này đức Phật
dạy: “Bậc trâu
chúa, thù thắng”. Đúng vậy, Người
tu sĩ Phật
giáo phải là người
anh hùng, kiên gan, bền
chí như đất trời không
hề lùi bước
trước gian nan,
khó khăn nào cả.
Nên câu thứ
hai đức Phật dạy
người tu sĩ theo
Phật giáo xem
cái chết nhẹ
như
lông hồng phải
chứng tỏ mình:
“Bậc anh
hùng, đại
sĩ”. Thế mà thời nay nhìn
lại tu sĩ Phật
giáo phá giới, phạm
giới, bẻ vụn giới thì còn gì là bậc trâu chúa, bậc thù thắng, bậc
anh hùng đại
sĩ. Phải không
các bạn? Toàn
là những bậc ăn bám vào tín đồ giống
như loài ký sinh trùng (trùng trong lông sư tử).
Người tu sĩ
Phật giáo phải luôn luôn là người chiến thắng
giặc ăn, giặc
ngủ, giặc hội họp, giặc tham, giặc sân, giặc si... Muốn
chiến thắng được như vậy thì giới luật là khuôn phép để chúng
ta khép mình,
sống đúng Thánh hạnh,
để tôi luyện
mình trở thành
những thanh thép hữu
ích cho mình, cho người,
cho đời, cho xã hội,
cho quê hương đất nước, cho thế giới, cho cả sự sống trên hành tinh
này.
Nếu không
tôi luyện mình
như vậy, thì thân
tâm dễ bị
ô nhiễm những
dục lạc thế gian. Phải không các bạn? Bởi vậy, bậc
chiến thắng đệ tử của đức Phật phải là những người không đắm
nhiễm; không đắm
nhiễm tất cả mọi
dục lạc. Nếu chỉ
còn đắm nhiễm một
chút
xíu dục lạc
nhỏ như hạt phù sa sông Hồng1 thì
1 Sông Hồng
là một dòng sông lớn xuất phát từ bên nước
Trung Quốc
chảy ra biển Đông,
ngang qua nước
Việt
cũng chưa phải
là người
chiến thắng giặc sanh tử,
cho nên đức Phật dạy:
“Bậc chiến thắng, không nhiễm”.
Từ không
nhiễm lớn đến
không nhiễm nhỏ, hoàn toàn phải sạch
bóng sự ô nhiễm thì mới được gọi là bậc Giác Ngộ. Vì thế, trong bài kinh Pháp
Cú đã dạy:
“Bậc tẩy sạch,
giác ngộ”
Nếu không
quét sạch giặc tham, sân, si... ngũ triền cái,
thất kiết sử... thì làm
sao có sự thanh bình
trong tâm hồn
mình. Phải không hỡi các bạn?
Qua bài kệ này, muốn được đức Phật chấp nhận mình
là một Bà La
Môn đúng
nghĩa của Bà La
Môn thì phải sống
đầy đủ đức hạnh
không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Dựa
vào lời dạy trên
đây, chúng ta xét
thấy trong thời đức Phật còn tại thế có thể chia ra bốn loại Bà La Môn:
1- Bà La Môn
phạm giới, phá giới, bẻ vụn
giới.
Nam. Tác giả
mượn tên sông Hồng là chỉ cho người Việt
Nam cũng làm
được một việc vĩ đại như người Ấn Độ.
2- Bà La Môn
cúng bái tế tự, cầu siêu, cầu an, làm những điều mê tín, v.v..
3- Bà La Môn
xây dựng thế giới tâm linh, sống trong ảo tưởng, mơ mộng hư ảo; lừa đảo, lường
gạt người để được
ngồi trong mát ăn bát vàng.
4- Bà La Môn
chuyên tu tập luyện thần thông trừ tà, yểm quỷ, bắt ma trị
bệnh bằng phù phép tạo ra một
thế giới siêu hình
huyền ảo khiến cho con người mất hết sức tự chủ, chỉ còn biết tựa nương
vào Thần Thánh, Tiên, Phật hoặc Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.
Những hạng
Ba La Môn này, ngày xưa đức Phật còn tại thế không bao giờ chấp nhận, chỉ có
ngày nay Đại Thừa chấp nhận và vì thế, những người tu sĩ Đại Thừa có một nếp sống
và những việc làm mơ hồ ảo tưởng, mê tín
lạc hậu, bùa chú thần thông pháp thuật cũng giống như những Bà La Môn
ngày xưa đã nói ở trên. Còn đức Phật thì cho những tu sĩ
đó là Ma Ba Tuần đang phá và diệt Phật
giáo.
Qua bài kệ
này, chúng ta thấy rõ ràng đức Phật đã tự
cho mình là Bà La Môn, “Ta gọi Bà La
Môn” theo nghĩa
Bà La Môn phải là những bậc:
1- Bậc trâu chúa, thù thắng.
2- Bậc anh hùng, đại sĩ.
3- Bậc chiến thắng, không nhiễm.
4- Bậc tẩy sạch, giác ngộ.
Nhìn vào tiêu chuẩn bốn bậc Bà La Môn ở trên đây thật khó
cho một người
không có quyết tâm cao,
không có
nhiệt tâm nồng cháy trong việc đi tìm đường giải thoát, đi
tìm đường liễu sinh thoát
tử trở thành
những bậc này. Phải không hỡi các bạn?
BÀ LA MƠN
LỜI PHẬT DẠY
“Ai biết được
đời trước Thấy Thiên giới, đọa xứ Đạt được sanh diệt tận Thắng trí, tự viên
thành Bậc Mâu Ni đạo sĩ
Viên mãn mọi
thành tựu
Ta gọi Bà La
Môn”.
Kinh Pháp Cú
CHÚ GIẢI:
Một lần nữa
đức Phật xác định cho chúng ta thấy một tu sĩ Phật giáo được gọi như thế nào là
một Bà La Môn chân chánh trong những tiêu chuẩn nào?
Đọc bài kệ trên
đây trong kinh Pháp
Cú chúng ta mới thấy rõ một vị
tu sĩ Phật
giáo
được gọi là
Bà La Môn chân chánh thì phải hội đủ những tiêu chuẩn:
1- Biết được đời trước của mình là phải có Tam Minh.
Trong Tam Minh
có Túc Mạng Minh. Có Túc Mạng Minh mới
biết được nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ của mình và của người khác.
Một Bà La Môn chân chánh tu tập phải có Túc Mạng Minh biết được nhiều đời của
mình thì mới được gọi là một Bà La Môn,
bằng không biết thì không
được gọi là
Bà La Môn. Cho nên, câu kệ này dạy: “Ai biết được đời
trước”.
Chúng ta hiện
giờ nhìn lại tu sĩ Phật giáo có vị nào
tu tập biết được nhiều đời nhiều kiếp trong
quá khứ của
mình chưa? Nếu
chưa biết thì chưa được gọi
là Thánh Tăng,
Thánh Ni, chưa được gọi là Bà La
Môn chân
chánh. Phải không các bạn?
2- Một
người được gọi là
Bà La Môn là
phải có trí tuệ nhân quả thấy thiện và ác rất rõ ràng. Người thấy thiện ác rõ
ràng là người có chánh tri kiến. Người có
chánh tri kiến là người ly dục ly
ác pháp. Người
ly dục ly ác pháp là người tâm bất động trước các pháp và
các cảm thọ. Người có tâm bất động là người xứng đáng được gọi là Bà La Môn
chân chánh.
Hiện giờ nhìn
xem những tu sĩ Phật giáo thì chúng ta biết ngay họ chưa ly dục
ly ác pháp vì họ còn
ăn uống và ngủ nghỉ
phi thời, tâm còn ham
vui, thích tài sản, của cải, tiền bạc,
nhà cửa sang đẹp, như
chùa to Phật lớn,
v.v.. Chính họ không thấy những sự ham
muốn đó là dục, là ác pháp. Do như vậy, họ chưa xứng đáng làm Thánh Tăng, Thánh
Ni; chưa xứng đáng làm Thánh
Tăng, Thánh Ni thì làm
sao xứng đáng làm đệ tử của Phật
được. Họ là những người không thấy nhân quả thiện ác thì làm sao được gọi
là Bà La
Môn chân chánh. Cho nên, câu kệ thứ hai đức
Phật đã xác định: “Thấy Thiên giới,
đọa xứ”. Câu này chúng ta phải hiểu nghĩa cho rõ ràng. Vậy Thiên giới và đọa xứ
là gì?
Thiên giới
là cõi Trời; đọa xứ là địa ngục. Ở
đây không phải là cõi Trời mà là Thập thiện, ở đây
không phải là địa
ngục mà
là Thập ác. Thấy
thiên giới, đọa xứ là thấy Thập
thiện, thập ác. Thấy Thập thiện và Thập ác là thấy nhân quả.
Thấy được nhân
quả thì mới được đức Phật chấp nhận là Bà La Môn chân
chánh. Có hiểu nghĩa
như vậy mới hiểu lời đức Phật dạy.
Các bạn có hiểu đúng
nghĩa như vậy không?
Nhưng một vị Bà La Môn chân chánh đâu phải tu tập có bấy nhiêu
pháp thôi, mà còn
phải tu
tập nhiều hơn nữa,
phải làm chủ
sanh tử như câu kệ dưới
đây: “Đạt được sanh
diệt tận”. Vậy, sanh diệt tận nghĩa là gì?
Sanh là đời
sống, sự sống; diệt là chết, sự chết; tận là tận cùng,
cuối cùng, chấm dứt.
Toàn nghĩa câu này là phải đạt cho được
sự tận cùng sống chết của kiếp làm người thì mới được đức Phật chấp nhận
là một Bà La Môn chân chánh, còn chưa tu
tập được như vậy
thì chưa xứng đáng là Tăng là Ni đệ tử của Phật.
Làm một đệ tử của đức Phật
đâu phải dễ. Phải không hỡi các bạn?
Phải đầy đủ thắng trí. Vậy thắng trí là
gì? Thắng trí là
một trí tuệ chiến thắng
mọi ác pháp và
các cảm thọ, một
trí tuệ không bao giờ chịu khuất phục trước mọi trở ngại, gian nan hay mọi việc
khó khăn nào, luôn luôn giành phần thắng về mình. Có thắng trí như vậy là có sự chiến thắng vẻ
vang trong trận giặc sanh tử luân hồi. Người có thắng trí mới xứng đáng là đệ tử của đức Phật, mới xứng đáng là
Bà La Môn
chân chánh, nên
câu kệ
dạy:
“Thắng trí,
tự viên thành”.
Người có thắng
trí là người thành tựu đạo giải thoát dễ dàng, đâu cần gì tu tập nữa. Có đúng
như vậy không các bạn?
Hai câu kệ cuối
cùng để tán
thán một người tu sĩ Phật giáo
thành tựu viên mãn đạo giải thoát:
“Bậc Mâu
Ni đạo sĩ
Viên mãn mọi
thành tựu”.
Vậy, Mâu Ni
và viên
mãn nghĩa là gì?
Mâu Ni dịch âm tiếng Phạn là Mouni có nghĩa là
năng nhơn, năng từ, năng
mãn, năng tịch, v.v..
Năng nhơn nghĩa
là lòng thương
người; năng từ là
lòng từ bi;
năng mãn là
tâm tròn đầy đức hạnh; năng tịch là tâm bất động trước
các pháp
và các cảm thọ. Tóm lại, nghĩa
của toàn câu kệ này là bậc đạo
sĩ đầy đủ những
năng lực siêu việt không có một người
nào hơn được “Bậc Mâu Ni đạo sĩ”.
Viên mãn: là
tròn đầy, đầy đủ, không còn thiếu khuyết
một chỗ nào cả. Nghĩa
của câu này là tất cả những pháp
môn tu hành của
Phật giáo đều
đã tu hành
xong: “Viên mãn mọi thành tựu”.
Đọc bài kệ
trên đây chúng ta thấy được những kết quả
vĩ đại của một người
tu theo
Phật
giáo mà đáng được gọi là Bà La Môn đâu
phải dễ như toàn bài kệ:
“Ai biết được
đời trước Thấy Thiên giới, đọa xứ Đạt được sanh diệt tận Thắng trí, tự viên
thành Bậc Mâu Ni đạo sĩ
Viên mãn mọi
thành tựu
Ta gọi Bà La
Môn”.
Được gọi
là Bà La Môn là phải tu tập cho đến nơi đến chốn,
chứ không phải
tu danh, tu lợi theo kiểu Đại Thừa và Thiền Tông. Có
đúng như vậy không các bạn?
CHỌN BẠN
LỜI PHẬT DẠY
“Tìm không
được bạn đường Bằng mình hay hơn mình Thà quyết sống một mình Không làm bạn kẻ
ngu”.
Kinh Pháp Cú
(V-
Balavagga - Phẩm Ngu)
CHÚ GIẢI:
Ca dao Việt Nam có câu:
“Thói thường
gần mực thì đen,
Anh em bạn hữu
ta nên chọn người”
Trong kinh
Pháp Cú Phật dạy:
“Tìm không
được bạn đường Bằng mình hay hơn mình Thà quyết sống một mình Không làm bạn kẻ
ngu”
Đọc câu ca
dao và bốn câu kệ trên đây cho chúng ta thấy rằng, đời cũng như Đạo Phật đều dạy
chúng ta nên chọn Thầy hay, bạn tốt, hoặc chọn bạn bằng mình hay hơn mình.
Nếu Thầy, bạn kém hơn
mình thì chẳng ích lợi
gì cho mình, nhiều khi còn bị đắm nhiễm theo thói hư tật xấu của những
người này. Thầy Tổ phạm giới, phá giới, sống không đúng Phạm hạnh và bạn
bè thiếu đạo đức, do đó
nhất định không nhận họ
làm Thầy Tổ,
không làm bạn với kẻ
ngu.
Những câu kệ này đức Phật dạy chúng ta nên chọn một người
bạn giỏi hơn
mình, đó cũng là một vị Thầy của
mình, để
mình sẽ học hỏi được nhiều điều
hay, điều tốt, còn chọn một người bạn dở hơn
thì mình có học hỏi được gì đâu,
đôi khi lại bị
ô nhiễm tính xấu như
gian tham, trộm cướp, nói láo, giết người, v.v..
Vào đạo tu học
cũng nên chọn một vị Thầy giới luật nghiêm túc, đức hạnh đầy đủ. Vì thế, đức Phật
thường dạy: “Này
các Tỳ Kheo, ở
đây, có
kẻ phàm phu ít
nghe, không được thấy các bậc Thánh,
không được thân cận các bậc Thánh, không thuần thục
pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được
thấy các bậc Chơn
nhơn, không được
nghe các bậc
Chơn nhơn, không được thân cận các bậc Chơn nhơn,
không thuần thục pháp
các bậc Chơn nhơn,
không tu tập pháp
các bậc Chơn nhơn”. Đoạn kinh
trên đây, đức Phật khuyên chúng ta nên chọn những bậc Thánh, bậc Chơn Nhơn đạo hạnh như vậy để thân cận mới được lợi ích cho mình cho người khác.
Bởi vì,
chúng ta thiếu
sự cân nhắc kỹ
lưỡng khi chọn Thầy, tìm bạn, nên
sự lầm lẫn của chúng ta đã phải trả một giá quá đắt
cho cuộc đời tìm đạo tu hành.
Vào đạo với
lòng tin Phật, tin Thầy Tổ. Nhưng Phật đã mất đi rồi không còn gần gũi khuyên
nhắc chúng ta nữa, chỉ còn Thầy Tổ mà thôi.
Nhưng Thầy Tổ sống
phạm giới phá giới, Thánh hạnh Thầy Tổ không còn thì biết
tin và nương tựa vào
ai nữa đây?
Nhìn gương hạnh sống của Thầy Tổ hiện giờ
mà lòng chúng
ta đau xót tận cùng vì giới luật đức hạnh của Phật dạy còn
đây mà Thầy Tổ thì ném
bỏ vào sọt rác.
Ôi, đau xót vô
cùng! Còn biết
nương tựa vào đâu nữa?
Thật là bất
hạnh cho mỗi chúng ta biết chừng nào! Thầy hay khó gặp, bạn tốt khó tìm.
THIỀN ĐỊNH
LỜI PHẬT DẠY
“Này Sandha, hãy
tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục, chớ có Thiền
định của
con ngựa chưa thuần thục”.
(Tăng Chi Bộ
Kinh, tập 4, trang 655)
CHÚ GIẢI:
Người tu thiền
định cần phải lưu ý lời khuyên dạy trên đây của đức Phật: “Hãy tu Thiền với sự
Thiền định của
con ngựa thuần thục,
chớ có Thiền định
của con ngựa chưa thuần thục”.
Hầu hết, người
tu thiền định thời nay không quan tâm đến vấn đề này, nên muốn tu thiền định là
đi học thiền, tu thiền, chứ họ đâu biết rằng
tu thiền định như vậy
là sai, tu như vậy
không bao giờ nhập
được thiền định. Tại sao vậy?
Vì thân tâm
họ chưa thuần thục, còn đắm nhiễm dục và
ác pháp, tức là chưa ly dục
ly ác pháp có nghĩa là giới luật chưa
nghiêm túc. Bởi vậy, đức Phật
dạy: “Hãy tu Thiền với
sự Thiền định của con ngựa thuần thục”.
Thưa các bạn!
Con ngựa thuần thục và con ngựa chưa thuần thục nghĩa như thế nào?
Con ngựa thuần
thục là chỉ cho tâm đã ly dục ly ác
pháp, tâm đã
lìa tham, sân,
si, mạn, nghi. Khi tâm đã ly dục
ly ác pháp thì lúc bây giờ chúng
ta mới tu tập Thiền định. Cho nên, đức Phật dạy: “Hãy tu Thiền
với sự Thiền định
của con ngựa thuần
thục”. Thân tâm đã thuần thục trong giới luật thì tâm định
tỉnh, nhu nhuyễn dễ sử dụng. Lúc bấy giờ, chúng ta mới bắt đầu tu tập Thiền Định.
Tu như vậy mới đúng như lời Phật dạy. Phải không các bạn?
Cho nên, nền tảng
thiền định của Đạo Phật
là giới luật
mà giới luật thì phải
nghiêm chỉnh; giới luật có nghiêm chỉnh thì tâm mới ly dục ly ác pháp
hoàn toàn.
Do lời dạy trên
đây của đức
Phật mà chúng ta
xét thấy những
người tu theo
thiền định của Phật giáo thời nay đều tu sai pháp, vì giới luật
chưa nghiêm chỉnh,
hạnh ly ăn, ly
ngủ, hạnh sống
độc cư chưa trọn vẹn mà đòi nhập thiền định thì làm
sao nhập được. Các bạn chỉ tu tập
thiền tưởng, chứ chánh định chánh thiền thì không thể tu tập như vậy được.
Đoạn kinh trên
đây cho chúng ta thấy tu sĩ
Phật giáo hiện
giờ chưa có ai nhập Chánh định được, chỉ nhập vào Tà định của ngoại
đạo mà thôi. Giới luật không tu tập, mà lại còn phá giới, phạm giới,
tu như vậy
cho phù hợp với thời đại thì chỉ có các nhà Sư Đại Thừa
và kinh sách Đại Thừa
dạy, chứ kinh
sách Nguyên Thủy thì không có dạy
như vậy.
Xét qua lời dạy trên, thì thấy
giáo lý Đại Thừa xem nhẹ giới luật, hướng dẫn tu sĩ
đi đến con đường sai lệch:
cúng bái, cầu
siêu cầu an, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, bắt ấn,
ngồi thiền ức chế tâm, v.v..
Thưa các bạn!
Chúng ta là những tu sĩ
và cư sĩ Phật giáo sao lại không sáng suốt phân biệt pháp môn nào của Phật,
pháp môn nào của ngoại đạo, của
các Tổ, để
tu hành tránh
khỏi lầm lạc. Và như
vậy, vô
tình chúng ta lại cố ý tiếp
tay diệt sạch
Phật giáo theo
mưu đồ của Bà La Môn. Phải không
hỡi các bạn?
Nhìn thấy
các bạn tu
theo kinh sách Đại
Thừa,
chúng tôi dựa theo lời dạy
Nguyên Thủy
của Phật
trên đây mà khẳng định rằng:
Các bạn tu tập như vậy là sai, chỉ uổng công, chẳng bao giờ nhập
được Chánh định, làm chủ
sanh, già, bệnh, chết
và chấm dứt
luân hồi. Các bạn
tin hay không tin là
quyền ở các bạn, nhưng điều chúng tôi quyết chắc là
các bạn sáng suốt nhận định
rõ ràng
những gì các bạn tận mắt thấy, tai nghe và những gì chúng tôi nói.
Đó là những điều chứng
thực để các bạn tin
hay không tin.
Thiền định của con ngựa
chưa thuần thục nghĩa là gì? Con
ngựa chưa thuần thục có nghĩa thân tâm của các bạn còn tham, sân, si, mạn,
nghi, còn chưa ly
dục ly ác pháp.
Khi tâm còn tham, sân,
si, mạn, nghi,
chưa ly dục
ly ác pháp thì đừng
có tu thiền
định, vì có tu thiền định cũng chỉ mất công
phí sức chẳng
bao giờ nhập được định, bởi
vì nền tảng tu thiền định của
Đạo Phật là Giới luật.
Có nền tảng
giới luật thì tu thiền
định mới bảo đảm.
Tâm phải thanh tịnh ly dục ly ác
pháp thì mới nên tu tập thiền định. Cho
nên, các
bạn về tu viện
Chơn Như mà không dọn mình cho
trong sạch thì về đây tu hành cũng chẳng ích lợi gì.
Hạnh ăn, hạnh ngủ, hạnh độc
cư chưa tròn mà về đây tu tập là
tu tập cái gì? Thưa các
bạn! Các bạn
còn tham mê ăn, tham mê ngủ, còn
thích sống nói
chuyện mà các bạn
về đây tu tập
thì chỉ uổng công
và vô ích. Ở đây, không
có dạy tu ăn,
tu ngủ, tu
nói chuyện các bạn ạ!
Các bạn cứ
nghĩ rằng cúng dường tiền bạc nhiều
là để tu viện Chơn
Như phục vụ về ăn uống cho các bạn, đó là các bạn đã nghĩ sai. Dù các bạn có
cúng
dường bao nhiêu tiền
thì tu viện cũng vẫn giữ lập trường giúp các bạn ăn uống đơn giản vừa đủ sống
để ly dục ly ác pháp, chứ không phải phục vụ các bạn ăn uống
như trong khách sạn, nhà hàng.
Khi các bạn
về đây tu hành mà còn mang theo thực phẩm để ăn uống, không
thực hiện đời sống bình đẳng về
ăn uống trong
tu viện, thì chúng tôi
nói rằng các bạn chỉ
tu cho có hình thức
chơi, chứ kỳ thực chẳng
có kết quả lợi ích gì cho các bạn.
Tu mà còn
tham đắm ăn uống, ngủ
nghỉ; tu mà còn
thích hội họp
nói chuyện khoe khoang
sự tu tập của mình với mọi người.
Vậy thì nền tảng ly dục ly bất
thiện pháp là ở chỗ nào? Xin
các bạn chỉ cho.
Các bạn chỉ sống
trong tưởng, nói thiền
định tưởng, chứ kỳ thực các bạn chưa có
nếm được mùi vị ly dục ly ác pháp.
Đây, các bạn
hãy nghe tiếp lời dạy của đức Phật để mà suy ngẫm con đường tu hành của
mình: “Này Sandha, ở
đây có hạng
người tâm chưa được thuần thục,
khi đi đến ngôi rừng hay khi
đi đến gốc
cây, hay khi đến ngôi
nhà trống, trú với
tâm bị dục tham ám
ảnh, bị dục tham
chi phối, không như thật rõ
biết sự xuất
ly khỏi dục tham
đã khởi lên. Người ấy
tàng trữ dục tham trong
tâm (ức chế), rồi Thiền tư, Thiền
lự, Thiền liên tục, Thiền quán, trú
với tâm bị sân ám ảnh, bị sân
chi phối ... trú với tâm bị hôn trầm thùy
miên ám ảnh, bị hôn
trầm thùy miên chi phối ... trú
với tâm bị trạo hối ám ảnh, bị trạo hối chi phối ... trú
với tâm
bị nghi hoặc
ám ảnh ...
trú với tâm bị nghi hoặc chi phối, không như thật biết
ra khỏi nghi hoặc
đã khởi lên. Người ấy
tàng trữ nghi
hoặc vào trong
(ức chế), rồi Thiền tư,
Thiền lự, Thiền liên
tục, Thiền quán. Người ấy Thiền tư
y chỉ vào đất, Thiền tư
y chỉ vào nước, ... vào
gió, ... vào Không vô biên xứ, ... vào Thức vô biên
xứ, ... vào
Vô sở hữu xứ, ... vào
Phi tưởng phi phi tưởng
xứ, ... vào đời này, ... vào đời sau.
Phàm điều gì được
thấy, được nghe, được cảm
giác, được thức tri, được đạt đến,
được tầm cầu đến, được ý
suy tư, đều y chỉ vào đấy người ấy thiền tư.
Như vậy này Sandha là
người tu Thiền tư
không thuần thục (không kết quả)”.
Đọc đoạn
kinh này các bạn tự quan sát sự tu tập của
mình là sẽ biết ngay
liền sai hay đúng.
Thường các bạn
trình pháp đều chứng tỏ mình tu rất tốt, nhưng
gặp chuyện thì biết ngay
liền các bạn chưa xả
tâm. Chưa xả tâm mà
có thiền định gì mà
thưa hỏi. Phải
không hỡi các bạn?
Để thấy sự tu
hành của chúng
ta sai như thế
nào, vậy chúng
ta hãy quán
xét lại đoạn kinh trên cho kỹ.
Chúng ta nên
xét câu thứ nhất: “Này Sandha, ở đây
có hạng người
tâm chưa được thuần thục”.
Vậy, tâm chưa thuần
thục là thuần thục cái gì?
Ở đây đức Phật muốn nói giới luật chưa nghiêm
chỉnh, tâm chưa ly dục ly ác pháp.
Chúng ta
xét đến câu thứ hai:
“Khi đi đến khu rừng
hay khi
đi đến gốc
cây, hay khi đến ngôi
nhà trống”. Vậy, khu rừng, gốc
cây, ngôi nhà trống là nghĩa gì?
Ở đây có nghĩa là chọn lấy một nơi thanh vắng để sống
độc cư, một mình trong
cảnh cô
đơn.
Chúng ta
quán xét đến câu thứ ba: “Trú với
tâm bị dục tham
ám ảnh, bị dục
tham chi phối”. Vậy, dục tham
ám ảnh, dục
tham chi phối nghĩa là gì?
Dục tham là
lòng ham muốn; ám ảnh là hiện ra lởn vởn
trong trí day dứt không
yên; chi phối là
tác dụng điều khiển. Nghĩa chung của câu tham dục ám ảnh là lòng tham muốn
hiện ra lởn vởn
trong trí day dứt không
yên, nghĩa câu tham
dục chi phối
là lòng tham muốn tác dụng điều khiển, sai khiến.
Nghĩa chung của
đoạn này là khi ngồi
lại một mình nơi
thanh vắng thì lòng
tham muốn khởi lên day dứt, tác động
điều khiển sai khiến chúng ta làm theo ý muốn của tâm, làm cho ta mất tự chủ. Người
đời không biết tu
hành nên dễ bị
tâm tham dục
sai khiến, khiến cho cuộc đời vốn khổ đau lại càng khổ đau
hơn.
Chúng ta
quán xét đến
câu thứ tư: “Không
như thật rõ biết sự xuất
ly khỏi dục tham đã khởi lên.
Người ấy tàng
trữ dục tham trong tâm (ức chế)”. Vậy xuất ly và tàng trữ nghĩa là gì?
Xuất ly là
lìa ra, bỏ ra; tàng trữ là giữ lại, nén lại. Ý nghĩa của câu này là không biết
cách xuất ly dục
tham, nên dục
tham thường khởi lên chỉ còn có giữ gìn trong tâm nên gọi
là nén tâm. Do đó, dù
có tu thiền
định gì đi nữa thì vẫn
bị sân, hôn trầm thùy
miên, trạo cử, trạo
hối và
các loại tưởng
định khởi lên như
trong đoạn kinh này dạy: “Rồi Thiền tư, Thiền
lự, Thiền liên tục, Thiền quán, trú
với tâm bị sân ám ảnh, bị sân
chi phối ... trú với tâm bị hôn trầm thùy
miên ám ảnh, bị hôn
trầm thụy miên chi phối ... trú
với tâm bị trạo hối ám ảnh, bị trạo hối chi phối ...
trú với tâm bị
nghi hoặc ám ảnh ...
trú với tâm bị nghi hoặc chi phối, không như thật biết
ra khỏi nghi hoặc
đã khởi lên. Người ấy
tàng trữ nghi
hoặc vào trong
(ức chế), rồi Thiền tư,
Thiền lự, Thiền liên
tục, Thiền quán. Người ấy Thiền tư
y chỉ vào đất, Thiền tư
y chỉ vào nước, ... vào
gió, ... vào Không vô biên xứ, ... vào Thức vô biên
xứ, ... vào
Vô sở hữu xứ, ... vào
Phi tưởng phi phi tưởng
xứ, ... vào đời này, ... vào đời sau.
Phàm điều gì được
thấy, được nghe, được cảm
giác, được thức tri, được đạt đến,
được tầm cầu đến, được ý
suy tư, đều y chỉ vào đấy người ấy thiền tư.
Như vậy này Sandha là
người tu Thiền tư
không thuần thục (không kết quả)”.
Theo lời dạy
trong kinh này: Khi giới luật không nghiêm chỉnh thì dù có tu tập cách gì cũng
không có kết quả.
TRÍ NGU
LỜI PHẬT DẠY
“Người ngu
nghĩ mình ngu
Nhờ vậy
thành có trí Người ngu tưởng có trí Thật xứng gọi chí ngu”.
Kinh Pháp Cú
CHÚ GIẢI:
Con người ở đời thường hay thấy cái sai của người
khác, ít khi thấy cái
sai của mình. Đó là những người ngu.
Người ngu thường
hay nói xấu người khác và hay khoe khoang cái hay (ngu) của mình. Ở tu
viện Chơn Như
có một số người về
đây tu tập, tu hành chưa tới đâu
mà vội hội họp nói chuyện khoe khoang mình
tu được thế này, thế khác, thậm chí có người còn khoe khoang mình nhập
Tam Thiền, Tứ Thiền ... Rồi khoe khoang mình
có đến 6, 7 cái Giác Chi ... Nếu có 6, 7 cái
Giác Chi,
thế sao đến bây giờ chưa nhập
được Sơ Thiền? Ăn, ngủ, độc cư còn chưa giữ trọn vẹn,… hễ
có chuyện gì không
vừa ý là tức giận rồi xách gói ra đi... Vừa rồi có một người
tu tập ở đây 3, 4 năm sống không đúng Phạm hạnh bị tu viện mời ra khỏi. Khi trở về thăm
tu viện tuyên bố đã nhập được từ
Sơ Thiền đến Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng
Xứ, nhưng xét
qua giới luật là người
sống phi Phạm hạnh, phá giới,
phạm giới, đi đâu
cũng có vợ con
đi theo
hộ tống thế mà bốn thiền hữu sắc
và bốn định vô sắc đều nhập được cả. Như
vậy các bạn có tin không?
Xét qua giới
luật thì biết ngay người ấy nhập định được
hay không rất dễ dàng.
Mọi người cứ nghĩ rằng thiền định của Đạo Phật không có tiêu chuẩn để
xét duyệt hay sao? Dám tuyên bố một
cách bừa bãi
như vậy? Tưởng chưa có ai nhập các định này sao? Đừng
khinh rẻ mọi người thái quá. Nói như vậy, người ta không biết
mình nói láo
sao? Khi mình chưa nhập định được, nói như vậy là làm mất uy tín các bạn ạ!
Nói như vậy là tự giết mình.
Những người
mê mờ dám
khoe khoang một điều mình
chưa làm được với những
người chưa biết, chưa tu, chứ những
người đã biết đã
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!