6- Xả Giác
Chi
7- Trạch
pháp Giác Chi
Trên đây là
BẢY pháp, pháp thứ bảy của Phật giáo theo lời dạy của đức Phật còn ghi lại
trong kinh sách Nguyên Thủy.
Khi chúng ta tu tập tác ý tâm BẤT ĐỘNG mà chỉ còn có
một tâm BẤT ĐỘNG
từ giờ này đến giờ khác mà không có một niệm nào xen vào chỗ tâm BẤT ĐỘNG là
chúng ta
đã đạt được
NIỆM GIÁC CHI. NIỆM
GIÁC CHI tức
là tâm BẤT ĐỘNG
trên TỨ NIỆM XỨ (trên thân quán thân).
Lúc nào
chúng ta cũng
thấy siêng năng trong
trạng thái thân
tâm BẤT ĐỘNG trên TỨ NIỆM XỨ
thì đó là TINH TẤN GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái TINH TẤN GIÁC
CHI xuất hiện
tâm BẤT ĐỘNG, AN LẠC, NHẸ NHÀNG
thì đó
là KHINH AN GIÁC
CHI xuất hiện.
Trên trạng thái KHINH AN, GIÁC CHI có một niềm vui
hoan hỷ thì đó
là HỶ GIÁC
CHI xuất hiện. Trên trạng
thái HỶ GIÁC
CHI kéo dài từ ngày này sang ngày khác mà không mất trạng thái
này là ĐỊNH
GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái ĐỊNH GIÁC
CHI này kéo
dài mãi suốt bảy ngày đêm, không có một
niệm nào xen vô xen ra thì đó là XẢ GIÁC
CHI. Khi XẢ GIÁC CHI xuất hiện thì
tâm ly dục ly ác
pháp hoàn toàn, lúc bấy giờ tâm không còn ngũ triền cái
và bảy kiết sử nữa. Khi NGŨ TRIỀN CÁI và
THẤT KIẾT SỬ bị diệt trừ tận gốc
thì TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện. Khi TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện
thì tâm chúng ta đầy đủ TỨ NHƯ Ý TÚC.
Bài pháp thứ tám
1- Định Như
Ý Túc
2- Tinh Tấn Như Ý
Túc
3- Tuệ Như Ý
Túc
4- Dục Như Ý
Túc
Trên
đây là
BỐN pháp, pháp
môn này là pháp
môn thứ tám của Phật
giáo
theo lời dạy của đức Phật còn
ghi lại trong kinh Nguyên Thủy.
Tổng cộng lại tất cả các
pháp tu tập của đạo Phật chúng ta có đúng là BA MƯƠI BẢY PHÁP MÔN, ngoài ba mươi bảy
pháp môn này, để thực hiện trọn đủ trong chương trình BÁT
CHÁNH ĐẠO thì
không còn pháp môn nào khác nữa,
xin quý vị lưu ý đừng để giáo pháp ngoại đạo lừa đảo.
Đạo Phật chỉ có ba mươi bảy môn tu tập này
mà thôi nó
không còn một
pháp môn nào khác nữa. Nếu
còn có pháp
môn nào ngoài ba mươi bảy pháp pháp môn này thì đó là pháp môn của ngoại đạo.
Bởi vậy Phật
giáo có pháp
môn riêng của Phật giáo
mà ngoại đạo
không bao giờ có những pháp môn ấy,
cho nên ngoại đạo không thể nào mạo nhận
pháp môn của mình
là pháp môn của Phật giáo được. Kinh sách Đại Thừa và kinh sách Thiền
Tông muốn mạo nhận những kinh sách này là của Phật thuyết nhưng không làm sao
được nên Đại Thừa và
Thiền Tông mới
nghĩ ra phương cách gạt
tín đồ bằng cách dựng
lên những trang thiền sử
có 33 vị Tổ sư
thiền
Ấn Độ và
Trung Quốc. Kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông làm trái ngược lại với lời di chúc
của đức Phật trước khi nhập Niết Bàn:
“Này các
thầy tỳ kheo, sau khi
Ta nhập diệt các
thầy tỳ kheo
hãy lấy GIỚI LUẬT và Giáo Pháp (TỨ NIỆM XỨ) của Ta
làm thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc,
không nương tựa
một điều gì khác,
đừng lấy ai làm
thầy cả”. Kinh sách
phát triển làm
sao gạt được khi
kinh sách nguyên thủy còn ghi lại
lời di chúc đó. Ba mươi bảy pháp môn của Phật còn kia thì bộ mặt dối trá bị lật
tẩy quý vị có thấy không?
Quý vị cũng
biết kinh sách phát triển Đại Thừa và
kinh sách Tối
Thượng Thừa của Thiền
Tông Trung Hoa cố
ý mạo nhận là Phật thuyết, nên xếp kinh A Hàm những
lời đức Phật dạy vào hàng Tiểu Thừa để lừa đảo
mọi người. Nhưng khi đọc kinh
Nikaya nguyên gốc của Phật mới biết Đại Thừa và Tối Thượng Thừa
là kinh sách của Phật giáo
Trung Quốc chịu ảnh
Khổng giáo và Lão
giáo rất nặng, cho nên
kinh sách phát triển và kinh sách Tối Thượng Thừa không
còn là Phật giáo nguyên thủy.
Kinh sách
phát triển và
kinh sách Tối Thượng Thừa
tu hành không
bao giờ làm chủ
SINH, GIÀ, BỆNH,
CHẾT. Cho nên kinh sách này không
bao giờ dám đá động đến việc
tu tập làm chủ sinh tử và chấm dứt luân hồi.
Bài pháp thứ chín
Do đâu chúng tôi căn cứ mà biết
Ba Mươi Bảy
Pháp Môn này là của đức Phật Thích Ca
Mâu Ni thuyết giảng?
Do từ các kinh sách Nguyên Thủy,
xin quý vị hãy nghiên cứu tạng kinh
Nikaya do HT Minh Châu
dịch từ tiếng
PALI sang Việt
ngữ. Nhất là chúng tôi căn cứ vào bài pháp “THỨC ĂN” trong
kinh Nikaya để
giải nghĩa rõ ràng. Vậy chúng
ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các tỳ kheo! Cái gì
là thức ăn cho
Minh Giải Thoát
(Tam Minh)? Bảy Giác
Chi, cần phải
trả lời như vậy”.
Minh Giải
thoát tức là Ba Minh:
1- Túc Mạng
Minh
2- Thiên
Nhãn Minh
3- Lậu Tận
Minh
Túc Mạng Minh là
một trí tuệ siêu việt
của Phật giáo.
Ai tu hành
có được trí tuệ
này thì nhìn về quá khứ biết
rõ nhiều đời nhiều kiếp của
mình và của những người
khác. Biết
kiếp trước chúng ta sinh ở nước nào,
làng nào, xã nào, huyện nào, tỉnh nào,
tên gì họ gì, nghèo giàu đều biết rất rõ, nhờ trí tuệ này mới biết người chết
đây sinh kia chứ không có linh hồn đi đầu thai xuống địa ngục hay lên thiên
đàng hay sống theo con cháu bốn mươi
chín ngày để
làm tuần, làm tự
rồi mới tái
sanhï kiếp khác.
Đó là sự tưởng tượng của các tôn giáo còn lạc hậu
mê
tín.
Thiên Nhãn
Minh là một
trí tuệ thứ hai, nó
quan sát không gian
vũ trụ không chỗ nào là không thấy. Không có một vật gì trong không gian vũ trụ mà nó bỏ sót dù vật ấy rất nhỏ như hạt vi trần. Xưa
đức Phật dùng Thiên Nhãn
Minh nhìn vào một ly
nước và
tuyên bố rằng
trong ly nước có vô
lượng trùng. Thời
gian đó ít ai
tin nhưng thời đại khoa học
có kính
hiển vi và thiên văn
kính họ bảo rằng đức Phật nói
không
sai.
Lậu Tận
Minh là một trí tuệ
thứ ba thấu suốt mọi vật, mọi
pháp trên thế
gian này không có
pháp nào thường
còn toàn là vô
thường, không có
pháp nào là
ta, là của ta, là
bản ngã của
ta chỉ là
theo các duyên
hợp mà thành
ra vạn vật, vạn pháp rồi
cũng theo các
duyên tan mà vạn vật, vạn
pháp hoại diệt, chứ không có một đấng Vạn Năng nào sinh thành và cũng không
có một đấng Sa Tăng nào diệt vạn vật.
Cho nên, không
ai làm khổ mình và mình cũng không
làm khổ ai, chỉ có
12 duyên tan hợp mà khổ đau trùng trùng diễn tiếp khổ
này đến khổ
khác. Do trí tuệ Lậu Tận Minh mà đức Phật thấy con người sống
trong lậu hoặc nên chịu đau khổ vô vàn.
Người tu
hành muốn có được ba trí
tuệ này thì
phải thực hiện
TÂM BẤT ĐỘNG trên Tứ Niệm Xứ bảy ngày đêm. Khi sống được bảy ngày
đêm TÂM BẤT ĐỘNG thì
Bảy Năng Lực
Giác Chi lần lượt xuất hiện.
1- Niệm Giác
Chi
2- Tinh Tấn Giác Chi
3- Khinh An
Giác Chi
4- Hỷ Giác
Chi
5- Định Giác
Chi
6- Xả Giác
Chi
7- Trạch
pháp Giác Chi
Khi Bảy
Giác Chi xuất
hiện đầy đủ thì
chúng ta có đủ Tứ Thần Túc:
1- Tinh Tấn Như Ý Túc
2- Định Như
Ý Túc
3- Tuệ Như Ý
Túc
4- Dục Như
Ý Túc
Khi có Bốn Như
Ý Túc thì mới nhập được
Tứ Thánh Định,
còn chưa có Bốn
Như ý Túc thì
không bao giờ nhập Tứ Thánh Định được, do đó ai nói nhập thiền định
bảy tám ngày hay sáu bảy tháng là nhập thiền định tưởng.
Cho nên khi
người nào nói về thiền mà nói không đúng lời dạy của Phật là
biết ngay họ là những người
chịu ảnh hưởng pháp thiền của
ngoại đạo, còn không là những người nghiên
cứu kinh sách rồi nói ra thì chúng ta cũng biết ngay họ là những
người sống trong kiến giải tưởng chớ
không biết cách thức nhập thiền định nào cả.
Như đức Phật
dạy khi nào chúng ta tu chứng thì mới
dám dạy người tu, còn chưa chứng thì đừng
dạy, nếu dạy sẽ đưa người ta
vào con đường
thiền tưởng như hiện giờ các sư các thầy từ
Nam Tông đến Bắc
Tông tu chưa xong mà dạy
người tu nên thầy trò tu
thiền mà
vào bệnh viện
trị bệnh, thật
là xấu hổ vô cùng.
Thiền sư dạy
người tu thiền là phải làm chủ bệnh, chớ thiền sư gì mà chết trong bệnh ung
thư như thiền sư ni Ayya Khema. Thiền sư đã
viết 25 tác phẩm
nói về thiền và
Phật giáo, nhưng
cái chết của
thiền sư thì sách của thiền sư không còn giá trị nữa. Vì
thiền còn bệnh tật là thiền ngoại đạo.
Nếu người
nào tu theo đúng pháp của Phật tâm Bất Động trên Tứ Niệm Xứ như trên đã dạy thì nhập từ Sơ
thiền đến Tứ thiền thì
tất cả bệnh đau trên thân đều đuổi
ra khỏi
thân. Và chính
Tứ thiền là
pháp môn làm chủ sự sống
chết, có nghĩa hành giả nhập được Tứ thiền thì tịnh chỉ được hơi thở, nhờ
đó muốn sống
chết hồi nào
thì cũng rất tự tại, chết
là chết ngay
liền. Thiền định như vậy mới thật sự
là thiền định của Phật giáo.
Nhìn lại từ
Đông sang Tây biết bao nhiêu là thiền sư. Ông
thì bị xe đụng chết,
ông thì đi nằm
bệnh viện rồi chết, những bệnh của quý vị thiền
sư đều thuộc về loại
bệnh nan y.
Khi được
làm thiền sư dạy đạo
thì phật tử dâng cúng những thực
phẩm ngon bổ, càng ngon bổ thì càng độc, do đó “thích” ăn ngon bổ
nên không có vị nào
thoát khỏi những bệnh nan y.
Đạo Phật ly
dục ly bất thiện pháp thế mà thiền sư còn thích
ăn ngon bổ vậy xưng là thiền
của Phật giáo
thì thiền của Phật
giáo làm sao có thiền như vậy được.
Tu hành chưa
nhiếp được tâm bao nhiêu mà đi dạy
người khác tu thật là những người đang “háo danh” muốn mình làm
thầy thiên hạ. Thật đáng chê trách.
Muốn làm thầy
dạy người tu tập thì phải có đủ Bảy Năng Lực
Giác Chi, nếu chưa có
thì nên im
hơi, lặng tiếng
để lo tu tập
cứu mình ra khỏi biển
khổ. Đó là điều
duy nhất quý vị nên
làm, đừng nghĩ đến ai cả mà hãy nghĩ đến mình.
Muốn tu tập có Bảy Năng Lực
Giác Chi thì phải tìm hiểu pháp nào tu tập
mà có Bảy Năng Lực Giác Chi,
chớ không phải từ
trên pháp
môn Bảy Giác
Chi tu tập
mà có Bảy Giác
Chi, quý vị
nên nhớ kỹ
bài pháp các “THỨC ĂN”.
Nếu quý vị
không biết pháp nào tu
tập có Bảy Năng Lực
Giác Chi thì hãy lắng nghe đức
Phật dạy: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Năng Lực Bảy
Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải trả lời như vậy”.
Theo như lời dạy
trên đây của đức
Phật thì Bốn Niệm Xứ là pháp môn tu hành
sinh ra
Bảy Năng Lực Giác
Chi. Vậy cách thức tu tập Bốn Niệm Xứ như thế nào?
1- Trên thân quán thân.
nào?
2- Trên thọ quán thọ.
3- Trên tâm quán tâm.
4- Trên pháp
quán pháp.
Vậy trên
thân quán thân
như thế
Trên thân
quán thân có nghĩa là
dùng mắt
nhìn thấy, tai lắng nghe,
cảm
nhận xúc chạm và
ý thức quan
sát ngay trên thân,
nếu thân có
đau nhức chỗ nào liền
biết ngay, thân
đi biết thân
đi, thân ngồi biết
thân ngồi, thân nằm biết
thân nằm, thân đứng biết thân đứng v.v...
Bất cứ thân
làm điều gì đều biết, thân ăn biết thân
ăn, thân ngủ biết thân
ngủ, thân quét sân biết quét
sân, thân lặt
rau đều biết thân lặt rau.
Thân ngồi yên biết
thân ngồi yên
và khi thân
ngồi yên bất động
thì biết hơi thở ra
hơi thở vô
trên thân. Tất cả
hành động đều được xem là
trên thân quán thân.
Dù quán hơi thở ra
hơi thở
vô cũng chính
là trên thân
quán
thân.
Tuy nói
trên thân quán
thân nhưng thật sự là đang quán bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp.
Vì biết thân
là biết thọ, biết thọ là biết tâm, biết tâm là biết
pháp, biết pháp
là biết thân.
Cho nên trên TỨ NIỆM XỨ biết chỗ
này thì liền biết
chỗ khác. Bốn chỗ này
như một khối tuy nói bốn nhưng mà một.
Quán thân
trên thân tức là tâm tỉnh thức trên thân, nên thân xảy ra một điều gì
dù lớn lao
hay nhỏ nhặt tâm đều biết rất rõ. Cho
nên nói trên
thân quán thân
chớ kỳ thực là
quán TÂM BẤT ĐỘNG,
nếu tâm TÂM BẤT ĐỘNG suốt bảy
ngày đêm là tu tập chứng đạo, nhưng trong suốt bảy ngày đêm tâm thường
bị hôn trầm thùy
miên vô ký và loạn tưởng thì nên dùng pháp ngăn ác diệt ác để mà diệt các
ác pháp này. Nếu
muốn rõ
pháp tu hành
thì nên lắng
nghe đức Phật dạy: “Này các tỳ
kheo! Cái gì là thức ăn cho Bốn Niệm Xứ? Ba Thiện Hành, cần phải trả lời như vậy”.
Đúng vậy chỉ có lấy thiện diệt ác pháp mới
không bị ức chế tâm. Theo như lời Phật dạy: “Ba thiện hạnh nghĩa là gì?”
Ba thiện hạnh
là ba hành động thiện trong thân của mọi người như:
1- Nói lời
êm dịu, nhẹ nhàng, ôn
tồn nhã nhặn, thường
nói lời ái ngữ khiến cho người nghe không
buồn khổ, không
tức giận được an vui và hạnh phúc. Không được nói lời hung dữ, không được
nạt nộ người khác, không được mắng chửi người khác, không được
nói lời thô tục, tục tĩu,
không được chửi thề,
không được xỉa
xói vào mặt
người khác,
không được đánh
đập người
khác.
2- Làm những
điều thiện tức làm mọi việc không làm
khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
3- Suy nghĩ
những điều thiện tức là
nghĩ ngợi những điều không
làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
Khi thân hành, khẩu hành và ý hành không làm khổ mình,
khổ người và khổ tất cả
chúng sinh thì
tâm sẽ BẤT
ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ.
Cho nên, muốn
tâm được BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ thì TRÊN THÂN QUÁN THÂN
thường xem xét THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH và Ý HÀNH, nếu mỗi
hành động đều đem lại sự bình
an cho mình cho người thì hãy làm, còn không đem lại sự an
vui cho mình cho người
và cho tất cả chúng sinh thì
mình nhất định không làm.
Tuy trên
thân quán thân
như vậy chưa đủ sức diệt các ác
pháp, vì sáu ác pháp bên ngoài thường theo sáu căn mà vào thân tâm làm
cho thân tâm bất an,
như vậy
6- Xả Giác
Chi
7- Trạch
pháp Giác Chi
Trên đây là
BẢY pháp, pháp thứ bảy của Phật giáo theo lời dạy của đức Phật còn ghi lại
trong kinh sách Nguyên Thủy.
Khi chúng ta tu tập tác ý tâm BẤT ĐỘNG mà chỉ còn có
một tâm BẤT ĐỘNG
từ giờ này đến giờ khác mà không có một niệm nào xen vào chỗ tâm BẤT ĐỘNG là
chúng ta
đã đạt được
NIỆM GIÁC CHI. NIỆM
GIÁC CHI tức
là tâm BẤT ĐỘNG
trên TỨ NIỆM XỨ (trên thân quán thân).
Lúc nào
chúng ta cũng
thấy siêng năng trong
trạng thái thân
tâm BẤT ĐỘNG trên TỨ NIỆM XỨ
thì đó là TINH TẤN GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái TINH TẤN GIÁC
CHI xuất hiện
tâm BẤT ĐỘNG, AN LẠC, NHẸ NHÀNG
thì đó
là KHINH AN GIÁC
CHI xuất hiện.
Trên trạng thái KHINH AN, GIÁC CHI có một niềm vui
hoan hỷ thì đó
là HỶ GIÁC
CHI xuất hiện. Trên trạng
thái HỶ GIÁC
CHI kéo dài từ ngày này sang ngày khác mà không mất trạng thái
này là ĐỊNH
GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái ĐỊNH GIÁC
CHI này kéo
dài mãi suốt bảy ngày đêm, không có một
niệm nào xen vô xen ra thì đó là XẢ GIÁC
CHI. Khi XẢ GIÁC CHI xuất hiện thì
tâm ly dục ly ác
pháp hoàn toàn, lúc bấy giờ tâm không còn ngũ triền cái
và bảy kiết sử nữa. Khi NGŨ TRIỀN CÁI và
THẤT KIẾT SỬ bị diệt trừ tận gốc
thì TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện. Khi TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện
thì tâm chúng ta đầy đủ TỨ NHƯ Ý TÚC.
Bài pháp thứ tám
1- Định Như
Ý Túc
2- Tinh Tấn Như Ý
Túc
3- Tuệ Như Ý
Túc
4- Dục Như Ý
Túc
Trên
đây là
BỐN pháp, pháp
môn này là pháp
môn thứ tám của Phật
giáo
theo lời dạy của đức Phật còn
ghi lại trong kinh Nguyên Thủy.
Tổng cộng lại tất cả các
pháp tu tập của đạo Phật chúng ta có đúng là BA MƯƠI BẢY PHÁP MÔN, ngoài ba mươi bảy
pháp môn này, để thực hiện trọn đủ trong chương trình BÁT
CHÁNH ĐẠO thì
không còn pháp môn nào khác nữa,
xin quý vị lưu ý đừng để giáo pháp ngoại đạo lừa đảo.
Đạo Phật chỉ có ba mươi bảy môn tu tập này
mà thôi nó
không còn một
pháp môn nào khác nữa. Nếu
còn có pháp
môn nào ngoài ba mươi bảy pháp pháp môn này thì đó là pháp môn của ngoại đạo.
Bởi vậy Phật
giáo có pháp môn riêng của
Phật giáo mà ngoại đạo
không bao giờ có những pháp môn ấy,
cho nên ngoại đạo không thể nào mạo nhận
pháp môn của mình
là pháp môn của Phật giáo được. Kinh sách Đại Thừa và kinh sách Thiền
Tông muốn mạo nhận những kinh sách này là của Phật thuyết nhưng không làm sao
được nên Đại Thừa và
Thiền Tông mới
nghĩ ra phương cách gạt
tín đồ bằng cách dựng
lên những trang thiền sử
có 33 vị Tổ sư
thiền
Ấn Độ và
Trung Quốc. Kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông làm trái ngược lại với lời di chúc
của đức Phật trước khi nhập Niết Bàn:
“Này các
thầy tỳ kheo, sau khi
Ta nhập diệt các
thầy tỳ kheo
hãy lấy GIỚI LUẬT và Giáo Pháp (TỨ NIỆM XỨ) của Ta
làm thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc,
không nương tựa
một điều gì khác,
đừng lấy ai làm
thầy cả”. Kinh sách
phát triển làm
sao gạt được khi
kinh sách nguyên thủy còn ghi lại
lời di chúc đó. Ba mươi bảy pháp môn của Phật còn kia thì bộ mặt dối trá bị lật
tẩy quý vị có thấy không?
Quý vị cũng
biết kinh sách phát triển Đại Thừa và
kinh sách Tối
Thượng Thừa của Thiền
Tông Trung Hoa cố
ý mạo nhận là Phật thuyết, nên xếp kinh A Hàm những
lời đức Phật dạy vào hàng Tiểu Thừa để lừa đảo
mọi người. Nhưng khi đọc kinh
Nikaya nguyên gốc của Phật mới biết Đại Thừa và Tối Thượng Thừa
là kinh sách của Phật giáo
Trung Quốc chịu ảnh
Khổng giáo và Lão
giáo rất nặng, cho nên
kinh sách phát triển và kinh sách Tối Thượng Thừa không
còn là Phật giáo nguyên thủy.
Kinh sách
phát triển và
kinh sách Tối Thượng Thừa
tu hành không
bao giờ làm chủ
SINH, GIÀ, BỆNH,
CHẾT. Cho nên kinh sách này không
bao giờ dám đá động đến việc
tu tập làm chủ sinh tử và chấm dứt luân hồi.
Bài pháp thứ chín
Do đâu chúng tôi căn cứ mà biết
Ba Mươi Bảy
Pháp Môn này là của đức Phật Thích Ca
Mâu Ni thuyết giảng?
Do từ các kinh sách Nguyên Thủy,
xin quý vị hãy nghiên cứu tạng kinh
Nikaya do HT Minh Châu
dịch từ tiếng
PALI sang Việt
ngữ. Nhất là chúng tôi căn cứ vào bài pháp “THỨC ĂN” trong
kinh Nikaya để
giải nghĩa rõ ràng. Vậy chúng
ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các tỳ kheo! Cái gì
là thức ăn cho Minh Giải Thoát
(Tam Minh)? Bảy Giác
Chi, cần phải
trả lời như vậy”.
Minh Giải
thoát tức là Ba Minh:
1- Túc Mạng
Minh
2- Thiên
Nhãn Minh
3- Lậu Tận
Minh
Túc Mạng Minh là
một trí tuệ siêu việt
của Phật giáo.
Ai tu hành
có được trí tuệ
này thì nhìn về quá khứ biết
rõ nhiều đời nhiều kiếp của
mình và của những người
khác. Biết
kiếp trước chúng ta sinh ở nước nào,
làng nào, xã nào, huyện nào, tỉnh nào,
tên gì họ gì, nghèo giàu đều biết rất rõ, nhờ trí tuệ này mới biết người chết
đây sinh kia chứ không có linh hồn đi đầu thai xuống địa ngục hay lên thiên
đàng hay sống theo con cháu bốn mươi
chín ngày để
làm tuần, làm tự
rồi mới tái
sanhï kiếp khác.
Đó là sự tưởng tượng của các tôn giáo còn lạc hậu
mê
tín.
Thiên Nhãn
Minh là một
trí tuệ thứ hai, nó
quan sát không gian
vũ trụ không chỗ nào là không thấy. Không có một vật gì trong không gian vũ trụ mà nó bỏ sót dù vật ấy rất nhỏ như hạt vi trần. Xưa
đức Phật dùng Thiên Nhãn
Minh nhìn vào một ly
nước và
tuyên bố rằng
trong ly nước có vô
lượng trùng. Thời
gian đó ít ai
tin nhưng thời đại khoa học
có kính
hiển vi và thiên văn
kính họ bảo rằng đức Phật nói
không
sai.
Lậu Tận
Minh là một trí tuệ
thứ ba thấu suốt mọi vật, mọi
pháp trên thế
gian này không có
pháp nào thường
còn toàn là vô
thường, không có
pháp nào là
ta, là của ta, là
bản ngã của
ta chỉ là
theo các duyên
hợp mà thành
ra vạn vật, vạn pháp rồi
cũng theo các
duyên tan mà vạn vật, vạn
pháp hoại diệt, chứ không có một đấng Vạn Năng nào sinh thành và cũng không
có một đấng Sa Tăng nào diệt vạn vật.
Cho nên, không
ai làm khổ mình và mình cũng không
làm khổ ai, chỉ có
12 duyên tan hợp mà khổ đau trùng trùng diễn tiếp khổ
này đến khổ
khác. Do trí tuệ Lậu Tận Minh mà đức Phật thấy con người sống
trong lậu hoặc nên chịu đau khổ vô vàn.
Người tu
hành muốn có được ba trí
tuệ này thì
phải thực hiện
TÂM BẤT ĐỘNG trên Tứ Niệm Xứ bảy ngày đêm. Khi sống được bảy ngày
đêm TÂM BẤT ĐỘNG thì
Bảy Năng Lực
Giác Chi lần lượt xuất hiện.
1- Niệm Giác
Chi
2- Tinh Tấn Giác Chi
3- Khinh An
Giác Chi
4- Hỷ Giác
Chi
5- Định Giác
Chi
6- Xả Giác
Chi
7- Trạch
pháp Giác Chi
Khi Bảy
Giác Chi xuất
hiện đầy đủ thì
chúng ta có đủ Tứ Thần Túc:
1- Tinh Tấn Như Ý Túc
2- Định Như
Ý Túc
3- Tuệ Như Ý
Túc
4- Dục Như
Ý Túc
Khi có Bốn Như
Ý Túc thì mới nhập được
Tứ Thánh Định,
còn chưa có Bốn
Như ý Túc thì
không bao giờ nhập Tứ Thánh Định được, do đó ai nói nhập thiền định
bảy tám ngày hay sáu bảy tháng là nhập thiền định tưởng.
Cho nên khi
người nào nói về thiền mà nói không đúng lời dạy của Phật là
biết ngay họ là những người
chịu ảnh hưởng pháp thiền của
ngoại đạo, còn không là những người nghiên
cứu kinh sách rồi nói ra thì chúng ta cũng biết ngay họ là những
người sống trong kiến giải tưởng chớ
không biết cách thức nhập thiền định nào cả.
Như đức Phật
dạy khi nào chúng ta tu chứng thì mới
dám dạy người tu, còn chưa chứng thì đừng
dạy, nếu dạy sẽ đưa người ta
vào con đường
thiền tưởng như hiện giờ các sư các thầy từ
Nam Tông đến Bắc
Tông tu chưa xong mà dạy
người tu nên thầy trò tu
thiền mà
vào bệnh viện
trị bệnh, thật
là xấu hổ vô cùng.
Thiền sư dạy
người tu thiền là phải làm chủ bệnh, chớ thiền sư gì mà chết trong bệnh ung
thư như thiền sư ni Ayya Khema. Thiền sư đã
viết 25 tác phẩm
nói về thiền và
Phật giáo, nhưng
cái chết của
thiền sư thì sách của thiền sư không còn giá trị nữa. Vì
thiền còn bệnh tật là thiền ngoại đạo.
Nếu người
nào tu theo đúng pháp của Phật tâm Bất Động trên Tứ Niệm Xứ như trên đã dạy thì nhập từ Sơ
thiền đến Tứ thiền thì
tất cả bệnh đau trên thân đều đuổi
ra khỏi
thân. Và chính
Tứ thiền là
pháp môn làm chủ sự sống
chết, có nghĩa hành giả nhập được Tứ thiền thì tịnh chỉ được hơi thở, nhờ
đó muốn sống
chết hồi nào
thì cũng rất tự tại, chết
là chết ngay
liền. Thiền định như vậy mới thật sự là thiền định của Phật giáo.
Nhìn lại từ
Đông sang Tây biết bao nhiêu là thiền sư. Ông
thì bị xe đụng chết,
ông thì đi nằm
bệnh viện rồi chết, những bệnh của quý vị thiền
sư đều thuộc về loại
bệnh nan y.
Khi được
làm thiền sư dạy đạo
thì phật tử dâng cúng những thực
phẩm ngon bổ, càng ngon bổ thì càng độc, do đó “thích” ăn ngon bổ
nên không có vị nào
thoát khỏi những bệnh nan y.
Đạo Phật ly
dục ly bất thiện pháp thế mà thiền sư còn thích
ăn ngon bổ vậy xưng là thiền
của Phật giáo
thì thiền của Phật
giáo làm sao có thiền như vậy được.
Tu hành chưa
nhiếp được tâm bao nhiêu mà đi dạy
người khác tu thật là những người đang “háo danh” muốn mình làm
thầy thiên hạ. Thật đáng chê trách.
Muốn làm thầy
dạy người tu tập thì phải có đủ Bảy Năng Lực
Giác Chi, nếu chưa có
thì nên im
hơi, lặng tiếng
để lo tu tập
cứu mình ra khỏi biển
khổ. Đó là điều
duy nhất quý vị nên
làm, đừng nghĩ đến ai cả mà hãy nghĩ đến mình.
Muốn tu tập có Bảy Năng Lực
Giác Chi thì phải tìm hiểu pháp nào tu tập
mà có Bảy Năng Lực Giác Chi,
chớ không phải từ
trên pháp
môn Bảy Giác
Chi tu tập
mà có Bảy Giác
Chi, quý vị
nên nhớ kỹ
bài pháp các “THỨC ĂN”.
Nếu quý vị
không biết pháp nào tu
tập có Bảy Năng Lực
Giác Chi thì hãy lắng nghe đức
Phật dạy: “Này các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Năng Lực Bảy
Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải trả lời như vậy”.
Theo như lời dạy
trên đây của đức
Phật thì Bốn Niệm Xứ là pháp môn tu hành
sinh ra
Bảy Năng Lực Giác
Chi. Vậy cách thức tu tập Bốn Niệm Xứ như thế nào?
1- Trên thân quán thân.
nào?
2- Trên thọ quán thọ.
3- Trên tâm quán tâm.
4- Trên pháp
quán pháp.
Vậy trên
thân quán thân
như thế
Trên thân
quán thân có nghĩa là
dùng mắt
nhìn thấy, tai lắng nghe,
cảm
nhận xúc chạm và
ý thức quan
sát ngay trên thân,
nếu thân có
đau nhức chỗ nào liền
biết ngay, thân
đi biết thân
đi, thân ngồi biết
thân ngồi, thân nằm biết
thân nằm, thân đứng biết thân đứng v.v...
Bất cứ thân
làm điều gì đều biết, thân ăn biết thân
ăn, thân ngủ biết thân
ngủ, thân quét sân biết quét
sân, thân lặt
rau đều biết thân lặt rau.
Thân ngồi yên biết
thân ngồi yên
và khi thân
ngồi yên bất động
thì biết hơi thở ra
hơi thở vô
trên thân. Tất cả
hành động đều được xem là
trên thân quán thân.
Dù quán hơi thở ra
hơi thở
vô cũng chính
là trên thân
quán
thân.
Tuy nói
trên thân quán
thân nhưng thật sự là đang quán bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp.
Vì biết thân
là biết thọ, biết thọ là biết tâm, biết tâm là biết
pháp, biết pháp
là biết thân.
Cho nên trên TỨ NIỆM XỨ biết chỗ
này thì liền biết
chỗ khác. Bốn chỗ này
như một khối tuy nói bốn nhưng mà một.
Quán thân
trên thân tức là tâm tỉnh thức trên thân, nên thân xảy ra một điều gì
dù lớn lao
hay nhỏ nhặt tâm đều biết rất rõ. Cho
nên nói trên
thân quán thân
chớ kỳ thực là
quán TÂM BẤT ĐỘNG,
nếu tâm TÂM BẤT ĐỘNG suốt bảy
ngày đêm là tu tập chứng đạo, nhưng trong suốt bảy ngày đêm tâm thường
bị hôn trầm thùy
miên vô ký và loạn tưởng thì nên dùng pháp ngăn ác diệt ác để mà diệt các
ác pháp này. Nếu
muốn rõ
pháp tu hành
thì nên lắng
nghe đức Phật dạy: “Này các tỳ
kheo! Cái gì là thức ăn cho Bốn Niệm Xứ? Ba Thiện Hành, cần phải trả lời như vậy”.
Đúng vậy chỉ có lấy thiện diệt ác pháp mới
không bị ức chế tâm. Theo như lời Phật dạy: “Ba thiện hạnh nghĩa là gì?”
Ba thiện hạnh
là ba hành động thiện trong thân của mọi người như:
1- Nói lời
êm dịu, nhẹ nhàng, ôn
tồn nhã nhặn, thường
nói lời ái ngữ khiến cho người nghe không
buồn khổ, không
tức giận được an vui và hạnh phúc. Không được nói lời hung dữ, không được
nạt nộ người khác, không được mắng chửi người khác, không được
nói lời thô tục, tục tĩu,
không được chửi thề,
không được xỉa
xói vào mặt
người khác,
không được đánh
đập người
khác.
2- Làm những
điều thiện tức làm mọi việc không làm
khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
3- Suy nghĩ
những điều thiện tức là
nghĩ ngợi những điều không
làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
Khi thân hành, khẩu hành và ý hành không làm khổ mình,
khổ người và khổ tất cả
chúng sinh thì
tâm sẽ BẤT
ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ.
Cho nên, muốn
tâm được BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ thì TRÊN THÂN QUÁN THÂN
thường xem xét THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH và Ý HÀNH, nếu mỗi
hành động đều đem lại sự bình
an cho mình cho người thì hãy làm, còn không đem lại sự an
vui cho mình cho người
và cho tất cả chúng sinh thì
mình nhất định không làm.
Tuy trên
thân quán thân
như vậy chưa đủ sức diệt các ác
pháp, vì sáu ác pháp bên ngoài thường theo sáu căn mà vào thân tâm làm
cho thân tâm bất an,
như vậy
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!