Nghe lời
dạy này quý
vị có hiểu không?
Khi dẹp bỏ LÒNG
HAM MUỐN thì chúng
ta lại được
TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ
SỰ. Cho nên dẹp bỏ
LÒNG HAM MUỐN
chúng ta lại được
AN VUI gấp
trăm ngàn lần. Vậy quý vị có bỏ
không?
Nói thế chứ
của cải tài sản đất đai ruộng vườn tiền bạc bỏ
đâu phải dễ, nhất là danh thì lại
càng khó bỏ hơn. Nghe hết khổ thì ai
cũng ham nhưng
buông bỏ hết thì ít
ai làm được. Bởi vậy bỏ cái gì thì dễ chứ bỏ LÒNG THAM,
SÂN, SI, MẠN,
NGHI thì quá khó phải không quý vị?
Đời người khổ
là do NGŨ TRIỀN CÁI và THẤT KIẾT SỬ
chính trong thân
tâm họ, đức Phật dạy rất rõ nhưng
đến giờ này có
mấy ai bỏ sạch đâu.
Chỉ có muội
lược
3/10
hay 5/10 mà người
ta cảm thấy
mình đã an vui, nếu bỏ hết thì đã
làm Phật xong rồi. Phải không quý vị?
Biết rõ
chân lý DIỆT
ĐẾ là một trạng
thái giải thoát
trong thân tâm của
mỗi người nên Thầy dùng
pháp NHƯ LÝ TÁC
Ý mà tác
ý ngay TÂM BẤT ĐỘNG,
THANH THẢN,
AN LẠC, VÔ SỰ để giữ gìn và bảo vệ
nó, khiến cho nó
luôn luôn hiện tiền
trong tâm thì LẬU HOẶC
không còn có nghĩa là đau khổ không còn nữa. Như đức Phật đã dạy: “Có
như lý tác
ý lậu hoặc chưa
sinh sẽ không sinh
mà đã sinh thì bị diệt”.
Một người
tu tập cứ bền tâm
bền chí TÁC
Ý khi
có niệm khởi, khi có hôn trầm thì niệm khởi và hôn trầm sẽ bị tiêu
diệt, nó bị tiêu diệt thì chứng đạo ngay
liền tại chỗ đó. Cho nên
tu hành khi biết đúng Chánh pháp
thì tu hành
chứng đạo không còn
khó khăn mệt nhọc
gì cả. Thầy đã dạy
rất rõ thì
quý vị hãy
ôm cho chặt pháp để
chiến thắng giặc sinh tử luân hồi.
Con đường tu
tập của Phật giáo rất rõ có tám lớp tu học mà
ai cũng biết,
đó là BÁT CHÁNH
ĐẠO. BÁT CHÁNH
ĐẠO gồm có:
1- Chánh kiến
2- Chánh tư
duy
3- Chánh ngữ
4- Chánh
nghiệp
5- Chánh mạng
6- Chánh
tinh tấn
7- Chánh niệm
8- Chánh định
Bởi vậy đến với đạo Phật
là đến với sự
thật, đến với sự thật
là đến với
tri kiến thì tri kiến ấy mới đem lại
sự bình an cho loài người.
Bởi sinh
ra làm người
mà bản thân con người có một loại vũ khí tối tân nhất để bảo vệ sự sống
bình an yên
vui và hạnh phúc
của con người. Đó
là tri kiến, tri kiến
của con người
rất là quan trọng. Nếu con người cứ để tri
kiến ấy
nuôi lớn bằng NGŨ TRIỀN CÁI và THẤT
KIẾT SỬ
thì con người phải
chịu vô vàn khổ đau, còn
ngược lại nuôi lớn bằng tri kiến diệt NGŨ TRIỀN CÁI và THẤT
KIẾT SỬ
thì con người sống bình an, yên vui và hạnh phúc.
Ai cũng biết
con người sống bằng tri kiến, nhưng tri kiến
phải được rèn
luyện trong nền đạo đức của Phật giáo
qua tám lớp học như trên đã kể.
Tám lớp học
này phải
do một bậc chứng
đạo giảng dạy
thì sự tu học
mới có kết quả
thiết thực. Khi giảng dạy tất cả tu
sinh có quyền thưa hỏi những gì không biết.
Một vị tu hành chứng đạo sẽ đáp ứng những đòi hỏi của tu sinh đầy đủ, còn ngược
lại người tu chưa chứng đạo sẽ không đáp ứng được. Do
đó đức Phật dạy: “Này
các tỳ kheo! Cái gì là thức ăn
cho Nghe Diệu Pháp? Thân Cận Với Bậc Chân Nhân (Bậc tu chứng đạo),
cần phải trả lời
như vậy”.
Đúng vậy,
chỉ có thân cận với
những người tu chứng thì
con đường tu học mới chứng
đạo. Trong đời
rất khó gặp
những bậc tu
chứng đạo. Đó là một điều khó nhất trên đường tu tập. Tu tập các pháp
không khó nếu
có bậc thiện
hữu tri thức tu chứng.
Bậc tu chứng
tuy ở trước mặt nhưng không đủ duyên cũng không phải dễ gặp, dù có gặp
nhưng phước duyên
không đủ thì lòng tin không có và như vậy gặp cũng như không.
Bởi người xưa
nói: “Hữu duyên thiên
lý nan tương
ngộ, vô duyên
đối diện bất tương phùng”. Đó là một bằng chứng như hiện giờ ai cũng gặp
Thầy nhưng có mấy ai đủ lòng tin tu tập
chứng đạo như Thầy không?
Cho nên tìm một
người tu chứng đạo là phải đủ nhân duyên, nếu không đủ duyên
thì khó
mà gặp người
tu chứng. Vì thế quý vị tha
thiết tu hành và tu tập hết sức mình thì đó
là quý vị tạo duyên
gặp người tu chứng,
nếu không suốt đời
quý vị khó gặp
lắm dù
có gặp cũng
chỉ như gặp một
người bình thường chứ
không được truyền
trao kinh nghiệm tu tập. Dù những bậc tu chứngï có truyền
trao nhưng quý vị nghe rồi
cũng bỏ ngoài tai.
Căn cứ theo
những lời Phật dạy trên đây Thầy sẽ chỉ dạy BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO để quý vị hiểu
rõ phải tu tập
pháp môn nào trước pháp môn nào sau.
1/ Người tu
sĩ muốn được
Nghe
Chân
Pháp Của
Phật thì phải
THÂN CẬN BẬC TU CHỨNG
ĐẠO, đã làm chủ
sinh,
già, bệnh,
chết. Đó là pháp thứ nhất, quý vị cần phải nhớ kỹ lời dạy này.
2/ Người tu
sĩ muốn có Lòng
Tin thì phải được
NGHE CHÂN PHÁP CỦA PHẬT.
Đó là pháp
thứ hai cần phải ghi nhớ. Nếu quên đó là một sự sai lầm hết sức trong đường tu tập
theo Phật giáo.
3/ Người
tu sĩ muốn đạt được
pháp môn Như Lý Tác Ý thì phải có LÒNG TIN. Đó là pháp thứ ba cần phải
ghi nhớ.
4/ Người tu
sĩ muốn đạt được Chánh
Niệm Tỉnh Giác
thì phải tu tập NHƯ LÝ TÁC Ý. Đó là pháp thứ tư cần phải ghi
nhớ.
5/ Người
tu sĩ muốn
Chế Ngự Được
Các Căn
thì phải tu tập CHÁNH
NIỆM TỈNH GIÁC. Đó là pháp thứ năm cần phải ghi nhớ.
6/ Người
tu sĩ muốn
đạt được Ba
Thiện Hạnh
thì phải tu tập CHẾ NGỰ CÁC CĂN (Độc Cư). Đó là pháp thứ sáu
cần phải ghi nhớ.
7/ Người tu
sĩ muốn đạt được Tứ Niệm
Xứ thì phải tu tập BA THIỆN
HẠNH. Ba
Thiện Hạnh tức
là ý hành thiện, khẩu hành
thiện, thân
hành thiện (Tứ Chánh Cần). Đó là pháp thứ
bảy cần phải ghi nhớ.
8/ Người
tu sĩ muốn đạt được
Bảy Năng Lực Giác Chi
thì phải tu tập TỨ NIỆM XỨ. Đó
là pháp thứ
tám cần phải ghi nhớ.
9/ Người
tu sĩ muốn đạt được
Tam
Minh để làm chủ sinh tử và chấm dứt
luân hồi thì phải
có đủ Bảy
Năng Lực Giác Chi.
Bảy năng lực
giác chi xuất
hiện khi tâm bất động
trên Tứ
Niệm Xứ. Tâm chưa bất động trên Tứ niệm Xứ thì
không bao giờ có Bảy năng
Lực Giác Chi xuất hiện. Đó là pháp thứ chín cần phải ghi
nhớ.
Ba muai bdy
phd'm trC? dq,o
Trên đây
là ba mươi bảy
pháp tu
tập để
làm chủ sinh,
già, bệnh, chết rất thực
tế và cụ thể. Cho nên
trong thời đức Phật có
nhiều Vương Tử con các nhà quý tộc bỏ gia đình, nhà cửa đi tu theo Phật
như:
1- Nhóm
Anuruddha (A Na Luật Đà)
2- Nhóm
Nandiya
3- Nhóm
Kimbila
4- Nhóm
Bhagu
5- Nhóm
Kundadhana
6- Nhóm
Revata
7- Nhóm
Ananda
Và còn nhiều
nhóm con nhà quý tộc khác nữa. Vì các
nhóm Vương Tử này muốn xuất gia
tu theo Phật, nên đức Phật bảo: “Này các Vương
Tử, các ông vì lòng tin Ta đã xuất
gia làm chủ sinh tử, nên các ông mới từ
bỏ gia
đình, sống không gia đình. Như vậy
các ông có hoan hỷ sống trong Phạm hạnh
này không?”.
Ba lần hỏi
như vậy, nhưng các nhóm Vương Tử không có nhóm nào dám trả lời. Đức Phật mới
suy nghĩ Ta phải hỏi từng nhóm một chứ họ
không đại diện chung cho các nhóm trả lời,
vì thế, đức Phật gọi
tên từng nhóm một mà hỏi:
“Này Anuruddha, các Vương Tử có
hoan hỷ trong Phạm hạnh này không?”.
Ông A
NA LUẬT thay mặt nhóm của mình mà trả lời Phật: “Bạch
Thế Tôn, thật sự chúng con hoan
hỷ sống trong Phạm hạnh”.
Khi nghe Anuruddha trả lời như vậy
đức Phật ca ngợi ý chí tìm cầu sự giải thoát: “Lành thay, lành thay, này nhóm
Anuruddha, các Vương Tử thật xứng đáng là
những Thiện gia
nam tử, vì lòng tin
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình, sống trong Phạm hạnh này, các
ông có hoan
hỷ sống trong Phạm hạnh này không?
Trong khi các
Vương Tử với tuổi
trẻ tốt
đẹp, trong tuổi thanh xuân, với tóc
đen nhánh, có thể hưởng
thụ các
dục lạc, cớ sao lại
xuất gia từ bỏ gia
đình, sống
không gia đình?”
Các Vương
Tử tuổi còn
thanh niên nên đức Phật cẩn thận
nhắc đi, nhắc lại vì một lý do gì,
có phải
vì mệnh lệnh của vua hay vì mệnh lệnh của kẻ trộm
cướp hay vì nợ nần
hay vì sợ
hãi hay vì mất nghề nghiệp sinh sống? Muốn biết
rõ những điều này, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật hỏi:
“Này nhóm
Anuruddha, các Vương Tử không vì
mệnh lệnh của vua mà xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình.
- Hay
vì mệnh lệnh
của kẻ ăn trộm
mà xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình.
- Hay vì nợ nần mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
- Hay vì sợ hãi
mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
- Hay vì
mất
nghề sinh sống
mà xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình.
Các Vương
Tử nhóm Anuruddha trả lời:
“Thưa không phải
vậy, bạch Thế Tôn”.
Nghe các
Vương Tử thuộc nhóm Anuruddha trả lời
như vậy nên đức Phật hỏi tiếp:
“Hay các
Vương Tử có những tư tưởng như sau: “Vì bị sinh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ,
não áp bức, chi phối nên các Vương
Tử nhóm Anuruddha, chỉ mong có thể thấy được sự chấm
dứt toàn bộ khổ uẩn này mà đặt
trọn lòng tin xuất gia,
từ bỏ gia đình, sống không gia
đình, có phải vậy không?
Các Vương
Tử nhóm Anuruddha trả lời: “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”.
Đoạn kinh
trên đây đức Phật dạy rất
rõ: “Chỉ vì SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT mà
các Vương Tử con
vua cháu
chúa bỏ đi tu chấp nhận sống
không gia đình, không nhà cửa”. Các
Vương Tử đều là những người giàu sang phú quý thế mà họ hiểu được Phật pháp, sẵn
sàng buông bỏ tất cả không hề tiếc hối một điều gì. Đối với đời
sống của
các Vương Tử
thì đời sống
của chúng ta làm
sao bằng các Vương Tử này
đâu, thế mà chúng ta lại bỏ không được.
Sinh, già,
bệnh, chết sẽ không
chờ chúng ta đâu, một khi nó
đã đến thì
không còn cách nào
thương lượng, điều
đình được. Cho nên ngay từ phút
này phải lo cứu mình ra khỏi biển sinh tử.
Giặc sinh tử
đang cai trị đất nước của chúng ta. Chúng
ta đang là những người dân bị nô lệ, nếu chúng ta chấp nhận
làm người dân nô lệ thì đời đời kiếp kiếp không bao giờ làm chủ sinh
già bệnh chết.
Nếu
chúng ta không đứng lên đòi quyền
làm chủ sinh,
già, bệnh, chết thì muôn
đời ngàn kiếp của chúng
ta chỉ là người dân nô lệ làm tay sai cho giặc sinh
tử mà thôi.
Khi nổi
lên chống giặc
sinh tử chúng ta phải có chiến thuật, chiếc lược đấu tranh thì mới
mong thắng giặc. Nếu trong tay không có bản đồ chiến thuật, chiến lược thì
chúng ta có nổi lên chống giặc sinh tử thì cũng chỉ hy sinh vô ích mà thôi.
Cho nên
trước khi muốn
đánh giặc sinh tử
thì chúng ta
nên theo một
chiến thuật, chiến lược của một người đã chiến thắng giặc sinh tử, nhờ
đó nó là một kinh nghiệm sống hay
nói một cách
khác là chúng ta có bản đồ chiến
lược chiến thuật.
Muốn có bản
đồ tu Phật thì chúng ta hãy lắng nghe đức
Phật dạy: “Và xuất gia như vậy,
này các Vương Tử nhóm Anuruddha,
các người Thiện
gia nam tử cần phải làm gì?”.
Trước
khi thuyết pháp đức Phật thường hay đặt ra
câu hỏi để
khiến mọi người chú ý lời dạy của
Ngài nhiều hơn.
Cho nên
khi xuất gia
đi theo Phật giáo
tu hành chỉ
có từ bỏ
gia đình, sống không gia đình là đủ hay còn phải tu tập
những pháp môn nào nữa?
Chúng ta
hãy nghe đức
Phật dạy: “Này các
Vương Tử nhóm
Anuruddha, khi từ bỏ gia đình, sống
không gia đình thì tiếp tục
tu tập
ly dục ly bất thiện pháp”.
Theo như lời đức Phật dạy
trên đây khi từ bỏ gia
đình, sống không
gia đình xong thì chúng ta phải tiếp tục tu tập ly dục ly bất thiện
pháp. Vậy cách
thức ly dục ly bất thiện pháp như thế nào?
Ly dục
có nghĩa là lìa tất cả lòng ham muốn của
chúng ta, hễ
trong tâm chúng khởi lên niệm ham muốn nào thì chúng ta
nhất định không
làm theo, không
chạy theo, như vậy gọi là lìa.
Ly bất
thiện pháp có
nghĩa là lìa tất cả các
ác pháp làm khổ mình, khổ người
và khổ tất cả chúng sinh. Người tu theo Phật giáo nhất định thà chết chớ không
làm theo những điều ác.
Cho nên người
tu sĩ Phật giáo
thường tỉnh giác
sáng suốt nhận
ra từng hoàn cảnh, từng đối tượng, từng hành động việc
làm, từng ý niệm khởi
lên, nếu xét thấy
làm khổ mình,
khổ người và khổ
tất cả chúng sinh thì nhất
định không làm và còn tránh xa.
Đó là ly bất thiện pháp.
Muốn ly dục
ly bất thiện pháp
cho có kết quả tốt thì chúng ta
nên sống một mình để phòng hộ sáu căn.
Lúc bây giờ trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm,
ngồi chúng ta đều
lưu ý chú
tâm vào chỗ tâm BẤT ĐỘNG. Khi tâm hoàn toàn ly dục
ly bất thiện pháp
thì tâm BẤT ĐỘNG. Trong tâm BẤT ĐỘNG
có một sự an lạc, nhờ tâm BẤT ĐỘNG an lạc
đó mà các niệm tham, sân, si, mạn, nghi không khởi ra được. Vậy chúng ta hãy lắng
nghe đức
Phật dạy tiếp:
“Này các Vương Tử nhóm Anuruddha, khi ly dục ly bất thiện pháp.
Nếu không chứng
được hỷ lạc hay một trạng
thái khác an tịnh
hơn, thời dục
tham xâm chiếm
tâm và an trú,
sân xâm chiếm
tâm và an
trú, hôn trầm thùy
miên... trạo cử, hối quá.
.. nghi
hoặc... bất lạc...
giải đãi xâm
chiếm tâm và
an trú”.
Quý vị
có nghe lời dạy của đức Phật
tu tập BA MƯƠI BẢY PHÁP VÀO ĐẠO không?
Khi chúng ta
TÁC Ý, đó
là một pháp trong
BA MƯƠI BẢY
PHÁP VÀO ĐẠO để giữ tâm BẤT ĐỘNG,
khi giữ gìn tâm BẤT ĐỘNG thì chúng ta có một sự cảm nhận
an lạc trong
TÂM BẤT ĐỘNG,
nếu chưa có sự an lạc là do chúng ta vận dụng công phu tu tập để không niệm khởi vọng tưởng. Để
không niệm khởi vọng
tưởng đó là một sự tu tập sai, chịu ảnh
hưởng những
giáo pháp của ngoại
đạo như Thiền
Tông, Tịnh Độ Tông và Mật
Tông Tây Tạng v.v... Tu tập phải để
tâm BẤT ĐỘNG tự nhiên thì
mới có an lạc, chính
nhờ sự an lạc đó mà niệm
vọng tham, sân, si, mạn, nghi không khởi lên được, cho nên
tâm BẤT ĐỘNG mới kéo dài từ giờ này đến giờ khác; từ ngày
này sang ngày
khác một cách dễ
dàng.
Do tâm BẤT ĐỘNG từ giờ
này đến giờ khác, từ ngày này
sang ngày khác nên đức Phật mới hỏi các Vương Tử để phá
tâm nghi về tâm BẤT ĐỘNG của Phật:
“Này các Vương Tử
nhóm Anuruddha, các ông có nghĩ về Ta như thế
nào? Các lậu hoặc nào liên hệ đến phiền não sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi,
đưa đến quả khổ dị
thục, hướng đến sanh,
già, bệnh, chết trong tương lai,
các lậu hoặc ấy chưa được Như Lai đoạn trừ. Do vậy Như Lai sau
khi suy tư phân
tích, thọ dụng một
pháp; sau khi
suy tư phân tích
nhẫn thọ một pháp; sau khi suy tư phân tích từ bỏ một
pháp; sau khi suy tư phân tích,
đoạn trừ một
pháp, có đúng như vậy không?”.
Khi đức Phật nêu ra
những nghi ngờ của các Vương Tử nhóm Anuruddha đối với
các lậu hoặc Phật chưa diệt sạch.
Chúng ta hãy
lắng nghe các Vương Tử nhóm Anuruddha trả lời: “Bạch Thế Tôn, chúng con không
có nghĩ như vậy về Thế
Tôn: “các lậu hoặc
nào liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi,
đưa đến quá khổ dị thục
hướng đến sanh, già, bệnh, chết
trong tương lai các lậu hoặc ấy chưa
được Như Lai đoạn trừ.
Do vậy Như
Lai sau khi suy tư
phân tích thọ dụng một
pháp, sau khi suy
tư phân tích
nhẫn thọ một pháp, sau
khi suy tư
phân tích từ bỏ
một pháp, sau
khi suy tư
phân tích đoạn trừ
một pháp”. Bạch
thế tôn chúng con nghĩ về thế tôn như sau: “các lậu hoặc
nào liên hệ đến phiền
não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ
hãi, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến
sanh già chết trong tương
lai, các lậu hoặc ấy
đã được Như
Lai đoạn trừ. Do vậy
Như Lai sau khi suy tư phân tích nhẫn thọ một
pháp, sau khi suy tư phân tích
từ bỏ một pháp,
sau khi suy
tư phân tích đoạn
trừ một pháp” ”.
Khi nghe
các Vương Tử
nhóm Anuruddha không còn
nghi ngờ lậu hoặc
của đức
Phật, nên đức Phật biết
chắc đó lòng tin không gì
lay chuyển, nên đức Phật ca ngợi
lòng tin ấy và vạch rõ
cho các Vương Tử
nhóm Anuruddha hiểu sâu
hơn con đường tu tập của
Phật giáo: “Lành thay!
Lành thay! này các Vương
Tử nhóm Anuruddha! Các lậu hoặc liên hệ đến phiền
não, sanh khởi
hậu hữu, đáng sợ hãi
đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, bệnh, chết
trong tương lai đã được
Như Lai đoạn trừ, cắt
tận gốc rễ,
làm cho như
thân cây Ta-la không thể
sanh lại, không
thể sanh khởi trong tương
lai. Ví như
này các Vương Tử
nhóm Anuruddha, cây Ta-la đầu đã bị chặt đứt, không thể lớn
lên nữa, cũng vậy này các Vương Tử nhóm Anuruddha, các lậu hoặc liên hệ đến phiền
não ..( như trêân).. không thể sanh khởi trong tương
lai. Do vậy Như Lai sau
khi suy tư phân
tích thọ dụng
một pháp, sau khi suy tư
phân tích từ bỏ một
pháp sau khi
suy tư phân tích đoạn
trừ một pháp”.
Khi tu tập
sống trong tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC thì tâm tham,
sân, si, mạn, nghi đã bị diệt trừ
như cây Ta-la
bị chặt đứt ngọn
không thể sống lại được.
Một sự xác định
rất rõ ràng mà
chính kim khẩu đức Phật nói ra.
Khi tu tập đạt được tâm BẤT ĐỘNG THANH THẢN, AN LẠC,
VÔ SỰ thì có một trí tuệ
hiểu biết rất đặc biệt
mà người thế gian không thể nào ngờ được. Cho nên trước
khi nói
ra điều này đức Phật
dè dặt sợ người
thế gian không
hiểu cho mình lường gạt
họ: “Này các Vương
Tử nhóm Anuruddha, các ông nghĩ
thế nào? Do thấy mục đích đặc
biệt nào, Như
Lai giải thích sự tái
sanh của các đệ tử đã từ trần, đã mệnh chung
nói rằng: “Vị này tái sanh ở chỗ
này, vị này tái sanh ở chỗ kia”.
Các Vương Tử
nhóm Anuruddha có lòng tin không?”.
Khi nghe
đức Phật hỏi
như vậy các
Vương Tử
nhóm Anuruddha khẳng
định trả
lời: “Bạch
Thế Tôn đối với
chúng con, các pháp dựa Thế Tôn
làm căn bản, hướng đến Thế
Tôn làm lãnh
đạo, nương tựa Thế
Tôn làm y cứ.
Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn thuyết giảng cho
ý nghĩa này.
Sau khi được nghe Thế Tôn, các tỳ kheo sẽ y giáo thọ
trì”.
Sau khi nghe các
Vương Tử nhóm Anuruddha tin tưởng
vào đức Phật không có chút lòng nghi ngờ gì cả nên đức Phật dạy tiếp: “Này
các Vương Tử
nhóm Anuruddha, Như Lai không vì
mục đích lường gạt quần chúng, không vì mục
đích nịnh hót
quần chúng, không vì mục đích
lợi lộc trọng vọng, danh xưng,
quyền lợi vật
chất, không vì với ý nghĩa: “Như vậy quần chúng sẽ biết ta”,
mà Như
Lai giải thích
sự tái sanh
các vị đệ tử đã từ trần đã
mệnh chung nói rằng:
“Vị này tái sanh ở
chỗ này hoặc vị này tái sanh ở chỗ
kia”. Và này các Vương Tử nhóm
Anuruddha, có những thiện gia nam tử có
tin tưởng với
tín thọ cao thượng,
với hoan hỷ
cao
thượng, sau
khi được nghe như vậy, sẽ chú tâm
nghe như thật.
Như vậy này các
Vương Tử nhóm
Anuruddha, là hạnh phúc, là
an lạc lâu đời cho các vị
ấy” .
Khi tu tập tâm BẤT ĐỘNG
đó là sự giải
thoát cho riêng mình nhưng
trong tâm BẤT ĐỘNG nó có một sự
hiểu biết ngoài tri kiến của mình.
Ở đây đức
Phật nói ra những điều này không phải vì khoe khoang,
không phải làm
cho người ta
kính phục mình, không
phải nói ra để được mọi người cúng dường
nhiều vật chất,
không phải nói ra để mọi người biết đến mình. Ở đây nói ra để mọi người hiểu trong tâm BẤT ĐỘNG có nhiều điều
siêu việt mà
không thể lấy
trí thế gian nghĩ bàn.
Chúng ta
hãy lắng nghe
đức Phật dạy: “Ở đây này các
Vương Tử nhóm Anuruddha, các ngươi
có nghe: “Tỳ kheo
với tên như
thế này đã mệnh
chung. Thế Tôn
có tuyên bố về vị
này: “Vị ấy an trú
chánh trí. Vị tôn giả ấy đã
được thấy hay được nghe.
Tôn giả này có giới hạnh
như vậy, tôn giả này
có trí tuệ
như vậy, tôn giả này có an trú như vậy,
tôn giả này có giải thoát như vậy. Tỳ
kheo khi nhớ đến lòng tin, giới hạnh,
đa văn, bố thí
và trí tuệ của vị
kia, an trú tâm trên như thật”.
Khi chúng
ta tu tập chỉ cần diệt trừ được
năm hạ phần
kiết sử. Năm hạ phần kiết sử gồm có:
1- Tham kiết
sử
2- Sân kiết
sử
3- Thân kiến
kiết sử (Mạn kiết sử)
4- Giới thủ
kiến kiết sử
5- Nghi kiến kiết sử
Đúng như lời đức Phật dạy diệt năm hạ phần kiết sử, lúc chết liền được hóa
sinh vào niết bàn không còn tái sinh làm người nữa: “Như vậy
này các
Anuruddha, tỳ kheo có nghe: “Tỳ
kheo với tên như thế này đã mệnh chung.
Thế tôn có
tuyên bố về vị này: “sau khi đoạn
trừ năm hạ phần kiết sử vị ấy được hoá sanh, nhập niết bàn tại chỗ ấy, không còn phải trở
lui ở đời này nữa”.
Khi còn sống giữ gìn được tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN,
AN LẠC, VÔ SỰ
tức là tâm ly dục ly bất thiện pháp. Tâm ly dục
ly bất thiện pháp
là niết bàn.
Cho nên sống với tâm BẤT ĐỘNG,
THANH, THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ
là đã diệt
trừ năm hạ phần
kiết sử thì
chết cũng ở
chỗ BẤT ĐỘNG đó,
nên gọi là nhập niết
bàn. Như lời đức Phật đã dạy ở trên.
Đối với đạo Phật một người
tu
tập làm chủ sinh
già, bệnh, chết mới có
quyền làm thầy
dạy người khác tu tập. Còn khi tu tập
chưa chứng đạo thì
không được phép dạy ai tu tập cả,
vì dạy như vậy sẽ nói sai không đúng pháp. Bởi vậy hiện giờ kinh sách Phật
giáo đều do những người tu chưa chứng đạo viết, nên viết sai không
đúng lời Phật dạy khiến cho người sau không biết đường lối tu tập.
Đức Phật đưa
ra một ví dụ như một người chưa từng biết
lõi cây mà
không chịu thưa hỏi, tự mình đi vào rừng tìm lõi cây rồi chặt mang về một số cành
lá nhưng trong trí cứ
đinh ninh rằng
mình đem lõi cây về
nhà. Có một người hiểu biết lõi cây mới bảo rằng đây không phải lõi cây mà đây
chỉ là cành lá của cây nó không dùng được: “Này Bà-la-môn, ví
như một người
muốn được lõi cây, tìm cầu lõi
cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một
cây lớn, đứng thẳng, có lõi
cây, người bỏ
qua lõi cây, bỏ
qua giác cây, bỏ qua vỏ trong,
bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi
và tưởng rằng
đó là lõi
cây. Một người có mắt thấy
vậy bèn nói: “Thật sự người này không biết lõi cây,
không biết giác
cây, không biết
vỏ
trong, không
biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người
này muốn được lõi
cây, tìm cầu lõi
cây. Trong khi đi
tìm lõi cây, trước
một cây lớn, đứng thẳng
có lõi cây, người
này bỏ qua lõi
cây, bỏ qua giác
cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ
qua vỏ ngoài, chặt
cành lá lấy
chúng mang đi, tưởng rằng
đó là lõi
cây. Và người này
không đạt mục đích
mà lõi cây có
thể thành tựu”.
Đạo Phật tu
hành không phải khó nhưng khó ở chỗ người
dạy tu chưa chứng đạo vì
tu chưa chứng
đạo nên dạy
tu sai pháp. Người tu chưa chứng
đạo cũng giống người chưa biết lõi cây mà đi tìm lõi cây thì làm sao tìm được.
Những ví dụ trên đây của đức Phật dạy quá thực tế, rõ ràng và cụ thể, không còn chỗ nào nghi ngờ.
Một người
mới nghe được
pháp xả tâm ly dục ly ác pháp bằng
pháp như lý tác ý giữ tâm BẤT ĐỘNG,
THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ
là tuyệt vời về
nhà tập thử thấy có kết quả xả được
tâm dục và các ác pháp chút ít liền gặp ai cũng đem pháp này ra dạy đạo làm như
mình đã chứng đạo. Đó
là một điều
sai hết sức. Mình
tu chưa xong mà đi dạy đạo là một việc làm cấm kỵ nhất trong Phật giáo.
Đạo Phật là
đạo vô ngã thế mà đi dạy đạo lúc tu
hành chưa xong thì chỉ có
nuôi ngã làm cho ngã lớn hơn thì
đó là đi ngược lại đạo Phật. Cũng
giống như các sư
thầy Đại Thừa dạy người cúng dường
tam bảo sẽ được phước báu lớn. Đây cũng
giống như người chặt lấy cành lá mà tưởng là lõi cây. Thật là vô minh mà không biết.
Lần thứ hai
đức Phật lại nhắc nhở muốn tu hành chứng đạo thì chỉ có người tu chứng đạo mới dẫn đắt đi đến chứng
đạo, còn những người
chưa chứng đạo mà hướng dẫn
tu chứng đạo thì cũng giống
như người không biết lõi cây mà vào rừng chặt một miếng vỏ cây ngoài
mang về và bảo đó là lõi cây. Người hiểu biết lõi cây bảo rằng
đó chỉ là vỏ ngoài
cây chớ không
phải lõi cây. Chúng
ta hãy lắng
nghe đức Phật
dạy: “Này Bà-la-môn, ví
như một người muốn được lõi
cây, tìm cầu
lõi cây. Trong khi
đi tìm lõi
cây, trước một
cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi
cây, bỏ qua
giác cây, bỏ
qua vỏ
trong, chặt vỏ
ngoài, lấy chúng
mang đi, tưởng rằng
đó là lõi
cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: “Thật sự người
này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ
ngoài, không biết cành
lá. Người này muốn được lõi
cây, tìm cầu
lõi cây. Trước một cây lớn, đứng
thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua
lõi cây, bỏ
qua giác cây, bỏ
qua vỏ trong,
chặt võ ngoài, lấy chúng
mang đi, tưởng
rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu”.
Qua lời dạy
trên đây của đức Phật chúng ta có thể
nhậân xét và biết rõ
các sư thầy dạy người tu tập để làm chủ sinh, già, bệnh, chết mà
chính các sư thầy
cũng chưa làm chủ sinh, già, bệnh,
chết. Vì vậy các sư thầy biết pháp gì làm chủ sinh, già, bệnh, chết mà dạy người
tu.
Nhìn những
tu sĩ Phật
giáo hiện giờ chỉ lấy cái học bằng tiến sĩ này bằng tiến
sĩ khác rồi dạy tín đồ tu tập. Các ông sư thầy tiến sĩ
này cũng giống
như những người
đi
tìm lõi cây
mà chẳng biết
lõi cây, chặt lấy
vỏ cây trong mà cho đó là lõi cây.
Trong kinh
sách Phật dạy mọi
người phải cân nhắc khi muốn làm thầy dạy người tu thì phải tu chứng đạo có nghĩa là làm chủ được bốn sự khổ
đau của kiếp người
sinh, già, bệnh, chết.
Người không
hiểu biết lõi cây chặt lấy vỏ trong cây tưởng là
lõi cây mang về bảo với
mọi người là lõi
cây. Việc làm
đó cũng giống như
các sư thầy Đại Thừa tu
hành chưa chứng đạo lên tòa thuyết pháp dạy tín đồ lạy sám hối hồng danh chư Phật để tiêu tai
giải nạn và được nhiều công đức nhờ chư Phật gia hộ hoặc dạy niệm Phật
cầu vãng sinh để
khi chết được
sinh về cõi cực lạc Tây
Phương. Dạy đạo
như vậy làm
sao người tu hành làm chủ được sinh, già, bệnh,
chết.
Một người
không biết lõi
cây, bỏ lõi, bỏ cành
lá, bỏ vỏ ngoài, bỏ vỏ trong của cây mà chỉ lấy giác
cây cho đó là
lõi cây, hành động
vậy làm sao làm
chủ sinh, già, bệnh,
chết được.
Chúng ta
hãy lắng nghe
đức Phật dạy: “Này Bà-la-môn, ví
như một người muốn được lõi
cây, tìm cầu
lõi cây. Trong khi
đi tìm lõi
cây, trước một
cây lớn đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, chặt lấy giác cây, mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này
không đạt được mục đích mà lõi cây có thể
thành tựu”.
Một lần nữa
đức Phật dạy: Người không biết lõi cây mà đi tìm lõi cây cũng giống như người
chưa biết pháp tu mà nghe người ta dạy tu thì
liền tu không cần tư duy suy nghĩ cho chín chắn nên đã tu sai pháp, vì thế mà tu không chứng đạo uổng
công sức và phí một đời tu tập.
Muốn tu chứng đạo
thì nên tìm người tu chứng
đạo. Người tu chứng đạo sẽ dạy như thế nào thì tu như thế nấy thì sẽ chứng
đạo.
Cho nên trong
cuộc đời tu hành phải tìm một
người tu chứng,
nhưng tìm một người tu chứng đạo là khó vô cùng.
Người tu
không chứng đạo cũng giống như người không
biết lõi cây.
Các sư thầy
Đại Thừa và
các Thiền sư Đông Độ không biết phương pháp tu tập làm chủ sinh, già bệnh chết
mà dạy tín đồ
kiến tánh thành Phật hay dạy chẳng
niệm thiện niệm
ác bản lai diện mục hiện
tiền. Biết vọng liền buông Thiền Tông cũng giống như người lấy giác cây
mà cho đó là
lõi cây. Cho nên
đức Phật dạy rất cụ thể: Một người
không biết lõi cây, bỏ lõi, bỏ
cành lá, bỏ vỏ ngoài, bỏ vỏ trong, chỉ lấy giác cây mà cho đó là lõi cây.
Do biết đời
là đau khổ nên mới xuất gia tu hành từ bỏ gia đình,
sống không nhà cửa chỉ ngày ngày đi xin ăn mà thôi, nhờ đó đời sống
không bị ràng buộc bởi bất cứ một điều
gì, nên mới gọi đó là giải thoát Chúng ta hãy lắng nghe lời Phật
dạy: “Cũng vậy, này Bà-la-môn, ở đây,
có người
do lòng tin xuất gia từ bỏ
gia đình sống không gia
đình: “Do ta bị
trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị
chìm đắm trong đau khổ, bị chi
phối bởi đau khổ, rất có thể toàn
bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt”.
Nhưng khi
đã xuất gia làm một tu sĩ thọ giới cụ túc đầy đủ thì được phật tử cung
kính cúng
dường, do cung kính cúng
dường nên lợi dưỡng
nhiều, vì vậy vị
tu sĩ này chìm
đắm trong danh vọng.
Do chìm đắm trong danh vọng
vị này
không còn lo tu
hành gì
cả nên cuộc
đời vẫn bị
trôi lăn trong vòng sáu nẻo luân
hồi khổ đau. Đức Phật biết rõ điều này
nên cảnh giác các vị
tu sĩ
đã xuất gia thọ cụ
túc giới: “Vị ấy
xuất gia
như vậy, được lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng.
Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng
này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này,
vị ấy khen
mình, chê người:
“Ta được lợi dưỡng
như vậy, được
danh vọng như vậy, còn
các tỳ-kheo khác
ít được biết đến, ít có
uy quyền”. Và vị ấy không
phát khởi lòng
ao ước và không cố gắng
tinh tấn để chứng được
các pháp khác cao
thượng hơn, thù thắng
hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động.
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi
cây, tìm cầu
lõi cây. Trong khi
đi tìm lõi
cây, trước một
cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi
cây, bỏ qua
giác cây, bỏ
qua vỏ
trong, bỏ
qua vỏ ngoài, chặt
cành lá, lấy chúng mang
đi, tưởng rằng
đó là lõi cây.
Và người ấy sẽ
không đạt được mục đích mà
lõi cây có thể thành
tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng:
Người này giống như ví dụ ấy”.
Người xuất
gia chỉ mới được sự
cung kính cúng dường
mà đã tự
mãn thì cũng giống như người tìm lõi cây mới chặt được
cành lá mà hân
hoan cho mình đã được
lõi cây thì đó là tự giết
mình trên đường tu tập, vì con đường
tu còn dài,
chừng nào tu tập
làm chủ sinh, già, bệnh, chết xong thì mới không còn tu tập nữa.
“Rồi vị ấy
xuất gia như vậy, được lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng. Vị
ấy không vì lợi
dưỡng, tôn kính,
danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị
ấy không vì lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng này, khen mình,
chê người. Và vị ấy
phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác
cao thượng hơn, thù thắng
hơn những lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở
thành biếng nhác
và thụ động. Vị ấy
thành tựu giới đức.
Vì thành tựu giới
đức này, vị ấy hoan
hỷ, tự mãn.
Vì thành tựu giới
đức này, vị ấy khen mình, chê người: “Ta trì giới, theo thiện
pháp. Các tỳ-kheo khác
phá giới, theo ác
pháp”. Và vị ấy không
phát khởi lòng ao ước
và không cố gắng
tinh tấn để chứng được các pháp
khác cao thượng hơn, thù thắng hơn giới
đức. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng
thẳng, có lõi
cây, người ấy bỏ qua
lõi cây, bỏ qua
giác cây, bỏ
qua vỏ trong, chặt lấy vỏ ngoài, lấy chúng mang đi,
tưởng rằng đó
là lõi cây.
Và người này sẽ
không đạt được mục đích mà lõi
cây có thể thành
tựu. Này Bà-la-môn,
Ta nói rằng, người
này giống như
ví dụ
ấy”.
Người tu sĩ
mới giữ được giới luật nghiêm chỉnh mà đã tự mãn thì cũng giống như người đi tìm lõi cây chỉ lấy vỏ
ngoài cây
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!